MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Mời mọi người cùng nhau đem đạo vào đời, thảo luận chia sẻ học hỏi kinh nghiệm tu tập và áp dụng Phật pháp vào đời sống hằng ngày

Điều hành viên: Thanh Tịnh Lưu Ly, binh

Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

TÔN GIẢ A NAN ĐÀ
ĐA VĂN ĐỆ NHẤT
  • 1. NHÂN DUYÊN XUẤT GIA
Đang lúc tôi cầm bút để tả sự tích một đời của Tôn giả A Nan Đà, bỗng nhiên tôi nhớ lại lời khen tặng của Bồ tát Văn Thù về A Nan:
  • Tướng như thu mãn nguyệt
    Nhãn tợ thanh liên hoa
    Phật pháp như đại hải
    Lưu nhập A Nan tâm.

    Dịch:

    Tướng như trăng thu đầy
    Mắt biếc tợ sen xanh
    Phật pháp rộng như bể
    Đều rót vào tâm A Nan.
Trong số các vị đệ tử của Phật, người có tướng mạo trang nghiêm, trí nhớ thật tuyệt vời, phải kể đến Tôn giả A Nan.

Tôn giả có một cuộc đời thật phi thường, đối với giáo đoàn đương thời và cho đến Phật pháp hôm nay, đều có ảnh hưởng rất sâu xa.

A Nan Đà cũng như La Hầu La, đều là đồng nhân vào đạo. Khi A Nan gia nhập tăng đoàn, không biết vào khoảng mấy tuổi, điều này khó bảo chứng. Nhưng căn cứ vào truyền thuyết, trong nhóm các vương tử A Na Luật, Bạt Đề... đồng xuất gia thì A Nan nhỏ tuổi nhất tham dự trong ấy.

Phụ thân của A Nan là Bạch Phạn Vương, còn Đề Bà Đạt Đa là anh ruột. Sở dĩ A Nan gia nhập tăng đoàn trong tuổi đồng niên, vì đó là điều trông mong của đức Phật. Khi đức Phật trở về quê thuyết pháp, Bạch Phạn Vương sợ A Nan chịu ảnh hưởng về tư tưởng xuất thế của Phật, cho nên sau khi gặp Phật không lâu, nhà vua bèn đưa A Nan sang nước Tỳ Xá Ly, không để có cơ hội thường tiếp xúc với Phật. Khi Phật đi sang nước Tỳ Xá Ly, Bạch Phạn Vương lại đưa A Nan trở về thành Ca Tỳ La.

Nói đến chỗ này thật là duyên bất khả tư nghị, trong số các vương tử, đức Phật hy vọng nhất là A Nan theo ngài xuất gia. Buổi tương kiến đầu tiên vừa thấy A Nan, đức Phật đã thầm nghĩ: "Nếu như A Nan xuất gia, thì tương lai có thể giữ gìn mối đạo khiến Phật pháp lưu truyền vĩnh viễn ở hậu thế". Một nhân vật vĩ đại thì điều quan trọng là chọn người có thể nối tiếp sự nghiệp của mình, xây dựng cho người ấy, đề cử người ấy thêm lên. Phật thành đạo không bao lâu, ngài bèn chọn A Nan, thật là ngài nhìn xa thấy rộng.

Phật biết A Nan đã trở về thành Ca Tỳ La, bèn lập tức quay về và đến ngay cung điện của Bạch Phạn Vương, ngự tại phòng kế cận của phòng A Nan.

A Nan mở cửa ngó qua, thấy đức Phật bèn cung kính đảnh lễ, và lấy quạt quạt cho đức Phật. Qua thái độ này chúng ta có thể thấy rằng tâm hồn thơ bé của A Nan, đã sớm khởi lòng tin tưởng, cung kính đối với đức Phật.

Do đó, khi gặp cơ hội, A Nan bèn cùng với các vương tử Bạt Đề v.v... thí phát xuất gia, gia nhập tăng đoàn.
  • 2. GIÚP CHO NỮ GIỚI XUẤT GIA
A Nan lớn lên trong tăng đoàn, với thiên tánh ôn hòa từ bi, dung mạo truyền cảm, Tôn giả là người được phái nữ bên trong và bên ngoài tăng đoàn tôn kính. Đối với các Tỳ kheo ni, Tôn giả hết lòng lo lắng, với các tín nữ tại gia, Tôn giả thường ban cho họ niềm an ổn, ở một chốn lạnh lùng nghiêm nghị, chỉ dùng toàn lý trí như tăng đoàn thì A Nan với dung mạo dễ mến và tình cảm phong phú, như vầng dương một sớm mùa đông làm ấm áp tâm tình của các cô.

Nếu không có A Nan, ngày nay trong tăng đoàn cho phép hay không cho phép người nữ xuất gia làm Tỳ kheo ni điều ấy thật là khó biết.

Nói về duyên khởi cho nữ giới được hứa khả xuất gia theo chánh pháp, hoàn toàn do công lao của Tôn giả A Nan.

Số là hoàng hậu Kiều Đàm Di, em gái của thánh mẫu Ma Gia, là dưỡng mẫu của Phật. Bà thấy sau khi Phật thành đạo trong vòng năm năm, trong dòng họ Thích có các vương tử Bạt Đề, A Na Luật, A Nan... đầu tiên quy y Phật và xuất gia, vương tôn La Hầu La cũng đã là Sa di, vua Tịnh Phạn đã băng hà, bà nghĩ trước sau muôn phần cảm khái. Do thiện căn bắt đầu nẩy mầm, bà bèn đến xin Phật cho phép được ở trong tăng đoàn xuất gia tu tập.

Bà yêu cầu lần thứ nhất, Phật liền từ chối, bà lại yêu cầu đôi ba phen, cũng không được Phật chấp nhận. Sau Phật sợ bà Kiều Đàm kèo nài phiền phức, bèn dẫn đồ chúng đi sang nước Tỳ Xá Ly, ngụ tại tịnh xá Ma Na Đề Ni.

Bà Kiều Đàm vẫn không nản lòng, bà tập họp năm trăm người nữ dòng họ Thích cùng đồng ý nguyện, cắt bỏ tóc, đi chân đất, rời thành Ca Tỳ La đuổi theo Phật đến Tỳ Xá Ly. Ca Tỳ La cách Tỳ Xá Ly hai ngàn dặm đường, các vị phu nhân như tiểu thư này, từ trước tới giờ quen ở thâm cung, lên xe xuống lầu, không hề động đến móng tay. Hôm nay biến thành các ni cô, ba y một bát, đầu trần chân đất, lội bộ suốt hai mươi ngày đường, dân chúng hai bên đường, phần cảm động, phần hiếu kỳ, họ rủ nhau đi xem chật ních, có người còn dự bị thức ăn đem theo đoàn người cầu pháp. Và rốt cuộc các bà các cô cũng đến được tịnh xá Ma Na Đề Ni.

Lúc ấy trời đã xế chiều, vì không quen đi đường, ai nấy đều thở chẳng ra hơi, hình dung tiều tụy, mệt nhọc, cả đoàn cứ lẩn quẩn trước cửa tịnh xá, chẳng dám bước vào. Thời may A Nan trong tịnh xá đi ra, thấy bà Kiều Đàm và năm trăm người nữ dòng họ Thích, đều mặc y phục Tỳ kheo ni, bụi bậm lấm lem, nước mắt đầm đìa. A Nan vốn giàu tình cảm, đã ngạc nhiên kêu lên:

- Các bà làm gì ở đây?

Bà Kiều Đàm đáp:

- Chúng tôi vì muốn cầu đạo, cắt ái từ thân, bỏ nhà đến đây cầu xin được thế độ, nếu như lần này Phật không cho phép, chúng tôi nguyện liều chết tại đây chớ không chịu về.

A Nan nghe bà Kiều Đàn nói cảm động rơi nước mắt, bèn an ủi:

- Các vị hãy yên tâm! Tôi thấy tình cảnh các vị như thế này trong lòng hết sức áy náy. Các vị hãy chờ ở đây một lát, tôi sẽ vào xin đức Thế Tôn dùm cho.

Thầy A Nan trẻ tuổi lại đa cảm, vội vả trở vào tịnh xá, đem hết nguyện vọng của bà Kiều Đàm và bọn người thưa lên đức Phật, khẩn cầu Phật thương xót họ, cho phép được xuất gia.

Phật từ chối:

- Ta cũng thương cho họ đấy, nhưng vì sự truyền thừa chánh pháp không thể chấp nhận được. Ông ra bảo họ rằng ta không đồng ý.

A Nan không chịu đi ra, còn nài nỉ với Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu là ai khác thì con có thể từ chối được, nhưng đàng này là bà Kiều Đàm Di, nếu nói thẳng chắc là sẽ có chuyện không hay. Họ đã nói chẳng thà chết chớ không chịu về.

- Này A Nan! Hứa khả cho người nữ xuất gia trong tăng đoàn thiệt chẳng tiện chút nào.

- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ Phật pháp lại phân biệt nam và nữ hay sao?

A Nan cố xin dùm cho phái nữ, nên ở trước Phật ra sức vận động.

- Này A Nan! Pháp của ta thì dù ở cõi người cõi trời đều một vị, ta không lựa riêng nam hay nữ, tất cả đều là chúng sanh đáng thương, ta đều đối xử bình đẳng. Người nữ có thể tin theo pháp của ta như bên nam giới, tu hành như nhau, chứng quả như nhau, chỉ không nhất định họ phải xuất gia. Đây là vấn đề pháp chế, không phải vấn đề nam nữ bình đẳng. Người nữ xuất gia như đám ruộng tốt sanh sản nhiều cỏ dại, không gặt hái được bao nhiêu.

Đức Thế Tôn nhìn xa thấy rộng nên lời nói của ngài hàm chứa ý nghĩa đặc biệt. Đương nhiên nếu chiếu theo tình người thì nên cho phép nữ giới xuất gia, nhưng nếu đứng về mặt pháp lý, thì nam hay nữ cùng tu học chung một trụ xứ, là một việc rất khó giải quyết. Trí tuệ và tình cảm là hai đường đối nghịch nhau. Phật không cho phép người nữ xuất gia chính vì điểm đó. Người nữ rất nặng tình cảm, họ có thể vì tình mà bỏ đạo, thôi tu, đó là điều không thể chấp thuận. Hoặc có thể vì nữ nhân tâm ngã mạn, ham danh nặng hơn nam giới, nên ngài không hứa khả cho xuất gia là muốn dạy cho họ một bài học.

Thấy Phật kiên quyết từ chối đến mấy, A Nan bản tính vốn ôn hòa chưa từng cãi đức Phật một câu, mà phen này cũng rơi lệ sụt sùi đảnh lễ thưa đức Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ ngài nhẫn tâm để họ chết, mà không đưa tay từ bi cứu độ?

Phật thấy rằng trên đời này pháp lý và tình cảm cũng có khi không thể vẹn toàn. Ngài cũng biết rõ mối quan hệ nhân duyên, không thể có một pháp nào trên đời này mà thanh tịnh, thường trú bất biến mãi mái, bất đắc dĩ bảo A Nan:

- Chẳng còn cách nào hơn. Thôi! Ông hãy ra kêu họ vào đây.

Từ mệnh của Phật ban ra, A Nan vui mừng chạy ra báo tin vui. Bà Kiều Đàm và năm trăm người nghe tin cũng mừng rỡ đến rơi nước mắt.

Họ theo nhau vào diện kiến đức Phật, ngài thản nhiên như không quan tâm đến, ôn hòa cho phép họ xuất gia làm Tỳ kheo ni, nhưng yêu cầu phải giữ gìn Bát Kỉnh pháp.

Với sự hỗ trợ của A Nan, rốt cuộc giáo đoàn ni được thành lập, bà Kiều Đàm rất cảm kích đối với ơn của A Nan, bà thành khẩn nói lên sự vui mừng của mình:

- A Nan! Chúng tôi vâng giữ Bát kỉnh pháp cũng như người đẹp mà được mặc y phục mỹ lệ vậy.

Ngày nay trong tăng đoàn cho phép nữ giới xuất gia, đều nhờ sự ủng hộ đầu tiên của A Nan. Do duyên ấy, phái nữ đối với Tôn giả có duyên đặc biệt, Tôn giả là người rất được họ kính ngưỡng.
  • 3. CÂU CHUYỆN VỀ MA ĐĂNG GIÀ
Vẻ đẹp và tuổi trẻ của A Nan, đã gây ra nhiều chuyện phiền phức rối ren. Đó là câu chuyện về Ma Đăng Già.

Hôm ấy, sau mùa an cư, A Nan bưng bát đi vào thành Xá Vệ khất thực. Trên đường đi ngang qua một giếng nước, có một cô gái dòng Thủ Đà La đang lui cui xách nước, A Nan cảm thấy khát, bèn đến bên giếng và nói:

- Cô nương! Xin bố thí cho tôi miếng nước.

Cô gái ngẩng đầu lên, thấy một vị Tỳ kheo trẻ tuổi trang nghiêm, và nhận ra đó là A Nan Đà, cô vội nhìn xuống phục sức của mình và thẹn thùng nói nhỏ:

- Thưa Tôn giả! Tôn không tiếc chi với ngài, nhưng tôi thuộc dòng hạ tiện, làm sao có thể cúng dường cho ngài?

A Nan nói:

- Này cô nương! Tôi là Tỳ kheo không có tâm phân biệt cao thấp sang hèn đâu!

Cô gái bèn vui vẻ đem gáo nước trong trẻo đưa cho A Nan, A Nan uống xong, thốt lời cảm ơn và lặng lẽ tiếp tục đi.

Mối tình đầu chớm nở trong lòng cô thiếu nữ, cô không ngăn nổi tia nước mắt lưu luyến đưa theo hình ảnh A Nan. Dáng dấp quý phái cao sang của dòng vua ấy, lời lẽ ôn hòa ấy, như một nét mực đậm in trên tâm hồn trong trẻo của cô, vĩnh viễn không thể xóa nhòa, thậm chí cô lại vọng tưởng mơ mộng rằng, giá mà được kết hôn với A Nan, thì hạnh phúc biết mấy mà kể.

Cô gái về nhà, bơ phờ như người mất hồn, không thiết gì ăn uống, làm công chuyện qua loa rồi nằm vật trên giường suy tư miên man. Bà mẹ thấy vậy, gạn hỏi duyên cớ, ban đầu cô không chịu nói, hỏi đôi ba phen, cô mới yêu cầu mẹ mời A Nan về nhà, cô muốn A Nan làm chồng cô. Bà mẹ nghĩ hoài không ra. A Nan đã đi tu làm thầy Tỳ kheo, mà thuộc dòng hoàng tộc làm sao cưới cô được? Nhưng vì lòng thương con gái, dù khó đến đâu cũng tìm cách thực hiện, bà đi thỉnh một đạo bùa của ngoại đạo, đợi A Nan đi khất thực ngang nhà, sẽ dùng chú thuật mê hoặc A Nan.

Ma chú linh nghiệm hay không, điều đó chẳng rõ. Khi A Nan đi ngang qua nhà, nàng đứng trước cửa, nhìn A Nan cười chúm chím và đưa tay vẫy. A Nan mê mẫn bước vào trong nhà. Cô gái vừa mừng vừa thẹn lýnh quýnh cả lên, ngay lúc ấy A Nan sực nhớ ra mình là một Tỳ kheo, A Nan liên tưởng đến đức Phật, đồng thời đức Phật dùng oai thần gia hộ cho Tôn giả, trí huệ sáng suốt trở lại, giống như ngài nổi luồng gió đưa A Nan về tịnh xá Kỳ Viên.

Ngày hôm sau A Nan bình tĩnh lại, cũng đi vào thành khất thực, lạ thay cũng có cô gái ấy, nàng mặc áo mới đeo tràng hoa, đứng bên đường như chờ đợi A Nan. Cô vừa thấy Tôn giả, liền lẽo đẽo theo sau một bên, như con thiêu thân bu theo ánh đèn không chịu rời một bước. Trước tình trạng này, A Nan chẳng biết tính sao, phải quay trở về tịnh xá bạch với đức Phật. Đức Thế Tôn bảo A Nan gọi cô ta đến, ngài sẽ đích thân nói chuyện với cô. A Nan vừa ra đến cổng, thấy cô nàng còn đứng đó Tôn giả bèn nói:

- Tại sao cô cứ theo tôi mãi như vậy?

- Thầy thiệt là ngốc mới đi hỏi một câu lẩn thẩn như thế.

- Đức Thế Tôn muốn gặp cô, mời cô theo tôi về tịnh xá!

Nge nói đến đức Phật, cô gái đã lo sợ một phen, nhưng vì muốn đoạt được A Nan, cô lấy hết can đảm đến gặp ngài. Phật thấy cô bèn nói:

- A Nan là người tu, nếu muốn làm vợ A Nan, điều kiện cần yếu trước tiên là phải xuất gia tu đạo một năm, cô có chịu không?

- Phật Đà! Con bằng lòng.

Cô gái không ngờ đức Phật lại từ bi quá đổi, đưa điều kiện hết sức dễ dàng để tác thành cho cô, nên cô chấp nhận một cách mau lẹ.

- Theo phép xuất gia của ta, phải có cha mẹ bằng lòng, cô có thể mời cha mẹ đến chứng minh được không?

Đức Phật không làm khó dễ ai, điều kiện của ngài cũng dễ thôi, cô gái liền về nhà dắt mẹ đến, mẹ cô cũng vui mừng đối trước Phật, để cô gái xuất gia tu hành rồi sau sẽ kết hôn với A Nan.

Cô nàng vì muốn làm vợ A Nan, rất cao hứng mà cạo tóc, mặc áo nhuộm làm Tỳ kheo ni. Cô đem hết nhiệt tâm nghe Phật thuyết pháp, và rất tinh tấn y theo lời chỉ dạy của Phật tu tập, ở trong giáo đoàn Tỳ kheo ni, nàng hòa hợp với các sư tỷ, sư muội sinh hoạt theo Phật pháp.

Biển ái tình si của cô dần dần lắng dịu, xuất gia chưa được nửa năm, cô đã thức tỉnh rằng thái độ của mình trước đây thật đáng hổ thẹn.

Đức Phật thường giảng nói ngũ dục là pháp bất tịnh, là nguồn gốc của mọi khổ đau. Loài thiêu thân ngu si tự ném mình vào lửa để bị thiêu rụi, con tằm vô tri làm kén tự trói mình, nếu như trừ bỏ được ngũ dục, nội tâm mới thanh tịnh, cuộc sống mới an ổn được.

Giờ đây nàng tự biết mình mê đắm A Nan là một ý tưởng bất thiện, bất tịnh, nàng hối hận vô cùng. Một hôm, nàng quỳ dưới chân Phật, khóc sám hối:

- Bạch Thế Tôn! Con đã tỉnh mộng, con không dè lúc trước con ngu si đến mức như vậy. Hôm nay con chứng được thánh quả, được xem như qua mặt A Nan, con rất cảm ơn Thế Tôn. Ngài vì hóa độ bọn chúng sanh ngu muội như con, đã dùng hết phương tiện và nhọc lòng dạy dỗ. Từ nay về sau, con nguyện suốt đời làm Tỳ kheo ni, theo chân đức Thế Tôn làm sứ giả cho chân lý.

Sự giáo hóa khẩn thiết của đức Phật, cuối cùng đã thấm đọng vào tâm hồn mẫn cảm của thiếu nữ, nàng tỉnh ra thấy đời rất thanh lương, thành một bậc Tỳ kheo ni mẫu mực.

Tên nàng đã nổi danh là Ma Đăng Già. Đức Phật giúp cho một cô gái dòng hạ tiện xuất gia, điều ấy đối với giai cấp thâm nghiêm của Ấn Độ, khiến cho nhiều người nghe được phê bình, phản đối, nhưng bậc đại thánh Phật Đà, đã nêu lên chủ trương bình đẳng, như trăm sông chảy về biển, bốn chúng tộc xuất gia đều là Thích tử. Nàng Ma Đăng Già vì yêu mến dung mạo của A Nan mà sau cùng chuyển họa thành phước, giai thoại ấy đã lưu lại trong tăng đoàn, những lời bàn tán đẹp ngàn năm.
  • 4. THUYẾT PHÁP CHO TỲ KHEO NI
Chính vì dáng mạo đẹp đẽ và giàu tình cảm mà không những các cô gái thế tục theo đuổi A Nan, cho đến các Tỳ kheo ni cũng luyến mộ Tôn giả.

A Nan đối với Ni giới thật là tận tình giúp đỡ thêm vào đó có những duyên đặc biệt, nên nữ giới, ngay cả các Tỳ kheo ni đối với Tôn giả cũng đặc biệt cung kính. Có lúc A Nan cùng Đại Ca Diếp trên đường hành hóa, ghé ngang một lan nhã của các Tỳ kheo ni, các cô đều đồng thỉnh A Nan khai thị trước, sau mới mời Đại Ca Diếp. Luận về tuổi tác, hạ lạp, giới hạnh thì Đại Ca Diếp hơn A Nan xa, nhưng các vị Tỳ kheo ni không kể đến chuyện ấy.

Cuộc sống của người xuất gia, về mặt tâm lý, như một bãi chiến trường. Lý trí và tình cảm thường giao tranh với nhau trong lòng người tu. Lý trí thắng thì thành Phật, đắc Tổ, tình cảm thắng thì đương nhiên phàm phu tục tử. Nếu nói rằng, yêu cầu mỗi vị xuất gia đều lạnh lùng như cây khô, xác chết không còn một chút ái tình của người đời, thì chắc là khó được.

Ở Kỳ Viên tịnh xá, có một Tỳ kheo ni trẻ tuổi, thấy phong tư A Nan thanh nhã, độ lượng, cô ôm mộng ngày đêm không quên. Nhưng cổ ngữ Trung Hoa có nói: "Nam nữ thọ thọ bất thân" huống chi đây là chốn tăng đoàn trang nghiêm cách biệt? Cô Tỳ kheo ni ấy tuy thầm thương trộm nhớ A Nan, nhưng không thể đột xuất vào phạm vi giới cấm, trừ những lúc nhìn lén A Nan, ngoài ra không cách gì khác hơn.

Một hôm, Tỳ kheo ni ấy mang bệnh, cô nhờ người thưa với A Nan một lời: "Thưa Tôn giả, hiện giờ con đang bệnh nặng, không còn hy vọng bao nhiêu, xin Tôn giả từ bi đến thăm một phen".

Lời yêu cầu đáng thương ấy khiến A Nan động tâm, sáng sớm hôm sau, Tôn giả đắp y mang bát trước khi đi khất thực thuận tiện ghé thăm. Tỳ kheo ni bệnh y phục không được chỉnh, nằm tại giường thấy A Nan đến gần dùng đôi mắt đa tình nhìn A Nan trân trối. A Nan thấy thái độ lãng mạn của cô, biết được chuyện không tốt, liền quay lưng bỏ đi, không hỏi han gì cả. Cô ni nọ thấy A Nan đến gần, đột nhiên không nói một lời mà quay ra chuyển thân bước đi, nhất định Tôn giả bất mãn hành vi của mình, cô sinh lòng hổ thẹn vội vàng ngồi dậy, đắp y, trải tọa cụ và thỉnh A Nan trở lại, mời ngồi tòa. A Nan liền khai thị:

- Này cô! Không nên dùng vật bất tịnh nuôi thân, không nên dùng kiêu mạn nuôi tâm, không nên chứa chấp tư tưởng tham ái, ý niệm dâm dục. Này cô, khi đau bệnh nên để thân tâm an trụ nơi cảnh giới vô sở cầu, thì mới mau lành bệnh.

Tỳ kheo ni trẻ tuổi lúc này chừng như quên đi thân phận xuất gia của mình, đưa mắt nhìn A Nan một cách tình tứ và nói:

- Chẳng phải tôi không biết đạo lý mà Tôn giả vừa nói, nhưng đối với tôi, không được ăn ngon hay mặc đẹp, tôi cũng chịu nổi, chỉ vì tình cảm của tôi với Tôn giả, tôi đã hết sức chế ngự mà không được. Người ta ai cũng muốn yên thân, yên tâm, ai cũng có một điều mong ước chứ!

- Này cô! Không nên nghĩ như vậy, chúng ta đi xin thức ăn, áo mặc là để giữ gìn thân mạng để tu đạo, tu đạo mới có thể an tâm. Bỏ quên đạo lý chạy theo tìm cầu những dục lạc giả dối cho thân mình là một điều lầm lẫn. Người khách buôn thoa dầu vào bánh xe, là để cho xe dễ chạy, người bệnh ghẻ xức dầu trên mình không phải để trang điểm, cũng không phải vì dục lạc, chỉ với mục đích trị bệnh mà thôi! Chúng ta dưỡng thân an tâm, cần yếu đoạn trừ ý niệm ái dục, lìa tâm ham vui, xa rời tâm hữu lậu, cầu đạo chân thật, đừng để cho các pháp vô thường hư huyễn làm mê hoặc.

Tỳ kheo ni nghe rồi cảm động sâu xa, liền dứt sạch tâm niệm ái dục, chứng được pháp thanh tịnh.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 5. CHIA BÁNH MANG TIẾNG
A Nan vì những chuyện của các cô, thường chuốc vào mình những điều phiền phức, bị người ganh ghét, phê bình, đức Thế Tôn cũng thường bận tâm vì Tôn giả.

Nhưng A Nan không giống như Ca Lưu Đà Di, A Nan không đeo đuổi các cô, trái lại các cô cứ chạy theo A Nan. A Nan đối với họ bằng một tình cảm thuần khiết, không hề có một niệm ái dục, chúng ta xem khai thị của A Nan với cô Tỳ kheo ni trên cũng biết.

Dù cho Tôn giả đối với nữ giới chân chánh thế mấy, mà trong Phật giáo, phàm những việc gì đính dáng đến phái nữ, đều là sự chẳng lấy làm vinh dự lắm. Nam nữ luyến ái nhau, tuy chẳng phải là tội ác lớn nhưng vốn là hành vi bất tịnh.

Một hôm, Phật ngụ tại nước Xá Vệ, có một đàn việt làm rất nhiều bánh in đem cúng dường. Phật dạy A Nan đem bánh phân chia cho các tỳ kheo. A Nan chia xong, còn dư bánh khá nhiều, Phật lại bảo đem chia cho những người nghèo trong vùng.

A Nan vâng lời, nhóm họp hết những người bần khổ đến lãnh bánh. Có cả ngàn người kéo đến, A Nan tính số người với số bánh, thì vừa đủ cho mỗi người một cái.

Khi A Nan đang chia bánh, trong số người lãnh phần, có một thiếu nữ xinh đẹp thuộc nhóm ngoại đạo lõa hình. Khi chia đến cô, thiệt chẳng may, phần bánh lại có hai cái dính chung gỡ không ra. A Nan không biết tính sao, bèn đưa hết cho cô ấy. Đó chỉ là một sự vô tâm. Một phần vì tật đố, một phần vì hiếu kỳ, họ xầm xì với nhau: "Thầy A Nan đẹp trai, đem chia cho cô gái kia hai phần bánh in nồng nàn, chắc hai đàng đã quen biết trước, có tình ý gì rồi đa".

A Nan nghe mấy lời bàn tán, trong lòng không vui. Thiệt miệng người độc địa, chẳng biết phải cư xử ra sao mới vừa? Người tu hành vốn đã chịu nhiều thua thiệt, mà thế gian đinh ninh rằng đã tu thì phải nhẫn nhục, họ lại hay nặng nhẹ cho tổn thương.

Đức Phật thường dạy các đệ tử nên tránh mọi cơ hiểm của thiên hạ. Nhất là về vấn đề nam nữ. Chẳng cần biết ông tu hành chính chắn ra sao, nếu để bị tai tiếng dính dáng tới nữ, thì chắc chắn là cất đầu lên không nổi. Thật ra đối với những người chưa chứng thánh quả mà nói hoàn toàn không mê sắc đẹp, là chuyện không thể có. Nhưng bậc tu hành đối với ái dục nên phòng thủ chắc chắn, đề cao cảnh giác.

A Nan thường nghĩ đến việc bị khổ phiền vì chuyện đàn bà con gái, một hôm Tôn giả ngồi tư duy nơi chỗ vắng, nghĩ thầm: "Người đời đều do ái dục mà sinh, sinh hoạt hàng ngày bị nhận chìm trong ái dục mà không biết chán. Họ vừa thích tìm cầu ái dục cho bản thân, lại thích đàm tiếu chuyện ái dục của người khác, ái dục đem lại nhiều khổ não, tranh đấu cho thiên hạ. Đức Thế Tôn thường quở trách ái dục, thật là có ý sâu xa".

A Nan thuở giờ chưa hề nghĩ đến mấy chuyện này, đến khi vì chia bánh cho cô gái đẹp bị mang tiếng nọ kia, Tôn giả mới thấm thía. Chiều xuống, Tôn giả đứng dậy chỉnh y phục, đến trước Phật, đem hết những cảm tưởng của mình bạch Thế Tôn. Phật nghe xong, bèn kể cho A Nan nghe về một đoạn duyên của Phật trong quá khứ:

- Này A Nan! Ông nói đúng, người đời bị chìm đắm trong biển ái dục không biết nhàm chán. Thời quá khứ, có một ông vua tên Đảnh Sanh, dùng chánh pháp ôn hòa trị dân, không cần dao gậy chi cả mà người hung ác đều phục tùng. Nhưng nhà vua là một người tham dục đắm sắc, khi cai trị thì đi đến đâu cũng nghe nhân dân ca tụng đức độ, nhưng về phần dục lạc lại quá đam mê. Bao nhiêu cung phi mỹ nữ trong nước còn chưa vừa đủ, nhà vua lại tuyển chọn thêm giai nhân của các nước khác. Nhà vua bị vây quanh trong nữ sắc, cung tần ái phi hầu hạ ngày đêm, nhà vua cũng không vừa ý, tính chuyện giết luôn quốc vương nước bạn để đoạt lấy hoàng hậu. Rốt cuộc vì tham dục quá độ, chìm đắm trong bể sắc, triều chính càng ngày càng bê trễ, bị dân nỗi loạn, vương quyền tiêu tan, nhà vua phải chịu những ngày tàn thê thảm.

A Nan! Tham dục không biết dừng thì tai hại đến như thế. Vua Đảnh Sanh đó là tiền thân của của ta".

A Nan nghe Phật khai thị xong, tự nghĩ một người ôn nhu như mình cũng giống như vua Đảnh Sanh, lại càng phải gấp hạ thủ công phu xa lìa ái dục.
  • 6. LÀM THỊ GIẢ PHẬT
A Nan từng được Phật chấm là người có thể nối thạnh Phật pháp, Tôn giả đặc biệt bị nhiều nữ nạn, nên vì muốn A Nan giữ được bản thân chuyên tâm tu đạo, Phật nghĩ đến việc chọn A Nan làm thị giả. Đó là vào khoảng thời gian đức Thế Tôn trên năm mươi tuổi. Ngài trụ tại tịnh xá Trúc Lâm, việc tuyển chọn này xảy ra.

Trước đó, Phật thành đạo không lâu, hầu cận ngài có hai Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Sau lại đến Tỳ kheo Na Ca Ba La (Nigajāla) cũng từng làm thị giả. Có thể nói trong hai mươi năm, đức Thế Tôn không có thị giả thường trực cố định, các Tỳ kheo thay phiên nhau hầu Phật.

Đức Thế Tôn ngày càng già, cần có một thị giả túc trực bên cạnh. Các đệ tử Tỳ kheo bèn triệu tập một buổi họp đề cử một vị thị giả. Phiên họp này, các đệ tử thượng thủ rất đông, trong số đó trước tiên là Kiều Trần Như đứng dậy xin làm thị giả Phật. Tôn giả là một trong năm vị Tỳ kheo đầu tiên trong giáo đoàn, tuổi tác của Tôn giả tuy lớn hơn Phật, đem tấm lòng thành xin suốt đời hầu Thế Tôn. Nhưng đức Phật không hứa khả, ngài nói rằng Tôn giả già nua, chỉ cần tự lo cho mình cũng đủ rồi. Kế đó cũng nhiều vị xin làm thì giả Phật, Phật đều từ chối, bảo các vị lo đi giáo hóa nơi khác. Lúc ấy Tôn giả Mục Kiền Liên biết ý Phật, bèn rủ Xá Lợi Phất đến khuyên A Nan:

- Tỳ kheo A Nan! Ý đức Thế Tôn muốn chọn ông làm thị giả. Giống như tòa lâu đài mở cửa về phía Đông, ánh nắng sẽ chiếu thẳng đến vách phía Tây. Ông còn trẻ, mau mắn, thông minh nhu hòa, chúng tôi mong rằng ông sẽ bằng lòng.

A Nan nghe nói, thấy trách nhiệm quan trọng bèn từ chối. Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên cứ khuyên mãi, Tôn giả mới đưa ra ba điều kiện:
  • - Một, A Nan không mặc y phục thừa của Phật dù cũ hay mới.
    - Hai, nếu có Phật tử thỉnh Phật cúng dường, A Nan không đi trước.
    - Ba, không phải thời đến gặp Phật, A Nan không đến.
Ngoài ra, đều xin theo hầu Phật như ý.

Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất đem ý A Nan bạch lại với Thế Tôn - đối với Phật cũng ra điều kiện. Nhưng đức Phật chẳng những không giận, mà còn hoan hỷ khen A Nan:

- A Nan thật là vị Tỳ kheo có phẩm cách, ông ấy đưa ra các điều kiện trên là để tránh sự tỵ hiềm ganh ghét, đó là sự dự phòng chánh đáng. Tỳ kheo A Nan sợ các thầy phê bình rằng: "Thầy A Nan vì muốn mặc áo đẹp, ăn ngon mới làm thị giả. A Nan vì vật chất mới theo hầu Phật". Ông ấy biết lo xa nên mới yêu cầu như vậy.

Từ khi A Nan làm thị giả Phật - lúc ấy khoảng hai mươi tuổi - trong hai mươi bảy năm theo bên cạnh đức Thế Tôn, Tôn giả luôn vâng theo ý Phật, hành động theo lời dạy của Thế Tôn, thường xuyên túc trực bên ngài, đi các nơi giáo hóa, do duyên ấy mà tất cả biển Phật pháp đều rót vào tâm A Nan.

A Nan mỗi ngày ở bên cạnh đức Phật, sự phiền nhiễu về người nữ giảm dần, và Tôn giả nghiễm nhiên là người trung gian giữa Phật và các Tỳ kheo.

Sống trong tăng đoàn, A Nan thường giữ tánh khiêm tốn, biết tàm quý. Rất nhiều tín chúng nhờ quen biết với A Nan mà đến quy y với Phật. Tuy trước đây bị những rắc rối với phái nữ khiến thiên hạ có những lời phê chẳng hay ho đến khi một phen gánh vác trọng trách, Tôn giả đã tu dưỡng rất thuần thục.
  • 7. TÌNH BẠN TRONG PHẬT PHÁP
Đã là thị giả của Phật, mà lại chưa khai ngộ nhưng trong tăng đoàn vẫn xem A Nan đồng bậc với các vị thượng thủ đáng kính. Kỳ thật vị tâm tánh của Tôn giả ôn hòa khiến cho ai nấy khi tiếp xúc qua đều cảm thấy mát như gió mùa xuân. A Nan đối với người, không hề đưa điều tốt của mình ra, hoặc nói cái dở của người. Luôn luôn ẩn ác dương thiện, tận tâm giúp đỡ mọi người cho họ được dễ dàng. Mỗi khi cùng ngoại đạo luận bàn Phật pháp, cũng chỉ hiển chánh mà không phá tà. Tôn giả chưa từng có ý hại người để lợi mình. Tôn giả như tia nắng xuân ấm áp từ từ làm tan băng giá.

Khi ở tại tịnh xá Trúc Lâm, A Nan đã từng khiến ngoại đạo Câu Già Na, không dám đưa vấn đề đến hỏi khó tăng đoàn; ở vườn Ca Sa La, Tôn giả cũng đã khiến ngoại đạo Chiên Đà cảm động, hoan hỷ phụng hành Phật pháp. A Nan tuy không hề biện luận thao thao với ngoại đạo, nhưng danh tiếng của Tôn giả đối với họ không nói ai cũng biết.

A Nan có duyên với chúng sanh, nên trong số bạn bè tục gia và các thầy Tỳ kheo, rất nhiều người kết giao với Tôn giả. Tôn giả thích nghe người thuyết pháp, cũng thích thuyết pháp cho người nghe. Phật từng nói A Nan chỉ cần nhìn qua diện mạo và thái độ của người cũng đoán biết được tánh tình người ấy. A Nan đối với cư sĩ, như mẹ hiền thương con, còn đối với bậc trưởng lão thượng túc, lại ôn hòa như em út.

A Nan có người bạn cư sĩ tên là Lư Gi ở tại thành Ba Sa. Một hôm, đức Thế Tôn dẫn các đệ tử quang lâm đến đấy, bộ tộc Ma La trong thành rất vui mừng cung nghinh. Họ cùng ước định, người không ra đón Phật bị phạt hai trăm đồng vàng. Lư Gi lại là người không chút lòng tin Phật pháp. Trừ A Nan, ông không hề tôn kính một người xuất gia nào, dù đó là đức Phật.

Nhưng hôm ấy Lư Gi cũng có mặt trong đoàn người cung đón Phật, A Nan thấy bạn, một phen ngạc nhiên. Hỏi ra thì ông ta nói rằng vì sợ phạt hai trăm đồng vàng nên phải ra đón Phật. A Nan nghe xong chẳng vui, nhưng vẫn nhiệt tình tiếp đãi bạn. Sau đó, trong lúc nghỉ ngơi, A Nan đem chuyện của Lư Gi thưa với Phật, Phật rất thông cảm cho y là đáng thương và bảo A Nan tìm cách đưa y đến gặp Phật. Phật khai thị rất nhiều, sau cùng Lư Gi cởi mở tâm tình, phát tâm quy y Tam bảo, giữ ngũ giới.

Về sau, Lư Gi thường mang các thứ y phục, thức ăn, thuốc men, tọa cụ... đến cúng dường Phật, và cảm tình của A Nan với bạn càng thâm thiết, vốn xưa là bạn cũ, bây giờ lại cùng thầy, nên A Nan xem gia đình bạn như gia đình mình.

Một hôm, A Nan cần ít thước vải, bèn đến nhà Lư Gi xin. Hôm ấy, Lư Gi đi vắng, A Nan nghĩ rằng "Đã đến đây, chẳng lẽ về tay không", bèn thực tình nói với vợ con Lư Gi đem vải ra, tùy tiện chọn một tấm mang về. Lư Gi lúc sau nghe vợ con nói lại, bèn vội đến tịnh xá, hỏi A Nan:

- Sao Tôn giả không chọn thứ vải tốt, lấy làm gì thứ vải thô ấy?

- Tôi không cần vải tốt, tôi chỉ chọn vải thô làm khăn tắm, thay thế bạn cúng dường cho các vị thượng tọa đấy thôi.

Cảm tình giữa hai người thân thiết như vậy, đương nhiên có một số người trong tăng đoàn phản đối thái độ tự nhiên ấy, nhưng đức Phật không hề ngăn cấm việc làm của Tôn giả.

A Nan làm thị giả, tuy không giống tinh thần hoạt động tân tiến của Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, mà cũng không giống sự bảo thủ của Đại Ca Diếp. A Nan là người ôn hòa, nên tánh tình rất mực trung dung.

A Nan từng tiếp tay với đức Phật, khuyên bảo thầy tỳ kheo Quật Đà Nhã, thầy vì ái dục nên muốn ra đời - A Nan cổ động thầy tu hành cho đến chứng thánh quả. Tôn giả cũng từng hòa giải những tranh chấp trong tăng đoàn, khiến kẻ ưa gây gổ biết phục thiện; ở tịnh xá Kỳ Viên, A Nan từng đàm luận với Xá Lợi Phất về vấn đề "Diệt đế", "sáu xúc phạm". Ở thành Ba Liên Phất cùng Bạt Dà La đàm đạo các vấn đề khác liên quan đến việc tu hành ở nước Câu Diệm Di, nói các yếu điểm tu đạo cho các Tỳ kheo, tại Đông Viên từng thay Phật nhận lời thỉnh của các Tỳ kheo đi trước thuyết pháp, khen ngợi lòng hiếu của Mục Kiền Liên, tuyên dương sự thuyết pháp của Phú Lâu Na. Trong và ngoài giáo đoàn, Tôn giả đối với mọi người đầy pháp tình hữu nghị, đủ để biểu lộ hết tư cách và nhiệm vụ của một đại đệ tử.
  • 8. ÔNG ANH ĐÁNG GIẬN
Người mà A Nan giận nhất trong đời, phải kể là ông anh Đề Bà Đạt Đa.

Đề Bà Đạt Đa cũng là một trong bảy vị vương tử đầu tiên xuất gia theo Phật. Có lẽ vì ham vui mà đi theo chớ không phải phát tâm chân chánh, nên sau khi xuất gia ông không an tâm tu hành, hay khoe điều kỳ lạ để lòe người và muốn đắc thần thông.

Tuy là anh em ruột, nhưng A Nan và Đề Bà Đạt Đa tánh tình khác xa. Đề Bà Đạt Đa vốn nhiều dã tâm mà không an phận. Đức Phật thường khuyên ông nên hoàn tục làm cư sĩ ủng hộ Phật pháp, không nên ở trong tăng đoàn tạo tội, nhưng ông không nghe.

Ông yêu cầu Phật dạy pháp môn về thần thông, nhưng Phật bảo ông trước phải tu tập cho thân tâm an tịnh không nên ham cầu phép lạ, vì thần thông và phép lạ không đủ tiêu biểu cho đức hạnh. Sau khi Phật từ chối, ông rất tức giận, lại đến nài nỉ Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, các vị biết tánh ông hung ác cũng đều từ chối, chỉ dạy cho ông tu quán đạo lý khổ, không, vô thường, vô ngã.

Do đó, Đề Bà Đạt Đa ôm lòng phản nghịch. Ông nghĩ rằng nếu không tiêu diệt đức Phật thì không thể tự do tung hoành. Và thề từ nay về sau không đội trời chung với Phật.

Một hôm, A Nan cùng đức Phật đi ngang qua núi Kỳ Xà Quật, gặp lúc Đề Bà Đạt Đa đi dạo trên đỉnh núi. Vừa thấy Phật, ông biết đây là cơ hội ngàn năm, bèn vần một tảng đá to nhằm ngay đức Thế Tôn lăn xuống. Thấy có em mình là A Nan theo Phật, Đề Bà Đạt Đa cũng chẳng kể tình ruột thịt, xô tiếp luôn tảng đá. Bên dưới đức Thế Tôn vẫn đứng yên, còn A Nan phải nhảy tránh ra xa. Tảng đã rớt bên chân Phật. Một lúc sau, A Nan mới hoàn hồn hỏi thăm Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ngài không việc gì chớ? Chuyện này chắc lại do Đề Bà Đạt Đa gây ra, con thật không giữ nổi bình tĩnh. Thế Tôn gặp cảnh nguy hiểm quá.

Đức Phật an nhiên đáp:

- A Nan! Dùng bạo lực để âm mưu hại Phật, đều không thể được. Trước kia Đề bà Đạt Đa sai người giết lén ta, rồi thả voi say, bây giờ lại xô đá rớt đè, nhưng ông đừng lo, người nào tạo nghiệp ấy sẽ chịu hậu quả. Ta không thấy ta gặp nguy hiểm mà ta thấy ông bị một phen hoảng sợ, ông xem ông vừa làm gì đấy?

Đạo lực của A Nan làm sao sánh bằng Phật. Tôn giả hỗ thẹn, cười và thưa:

- Con vừa mới hoảng kinh nhảy lên, đã bị Thế Tôn bắt gặp.

Phật cũng cười, vỗ nhẹ A Nan rồi hai thầy trò tiếp tục đi.

Cách đó không lâu, A Nan theo Phật du hóa, trên đường đi bỗng gặp Đề Bà Đạt Đa dẫn nhiều người đi ngược chiều sắp đến. Đức Phật bèn vội tránh sang đường khác, đi trên một đường mòn. Tuy bản tánh ôn hòa, A Nan cũng không dằn được bực tức, bèn thưa:

- Bạch Thế Tôn! Sao Phật đi né tránh Đề Bà Đạt Đa? Ông ấy là đệ tử Phật, chẳng lẽ ngài lại sợ ông ấy sao?

Phật biết A Nan bất bình, bèn an ủi:

- A Nan! Ta chẳng phải sợ gì ông ấy, nhưng ta không muốn gặp mặt. Cần gì phải tiếp xúc với người ngu? Như đánh nhằm chó điên, ắt là bị cắn bậy. Với người đầy ác tâm như ông ấy, không gặp mặt, không phải tốt hơn sao?

Thầy nhường lối cho trò, đó là chuyện xảy ra thông thường cho những hạng đệ tử như Đề Bà Đạt Đa hiện nay.

A Nan nghe Phật dạy, tuy vẫn còn bực mình nhưng không nói thêm nữa.

Một lần khác, Đề Bà Đạt Đa đến quấy rối đạo tràng của đức Phật. Phật đang tịnh tọa trong thất, y bèn đứng ở giảng đường la lối:

- Các thầy, ai tin theo ta thì đến đây!

Mặc cho y nói gì thì nói, các Tỳ kheo không thèm đếm xỉa đến, Đề Bà Đạt Đa quay sang A Nan:

- A Nan! Mi là em ta, mi dám không nghe lời của ta hả!

Một người ôn hòa nhã nhặn như A Nan, mà lúc đó cũng không nhịn được, đáp thẳng thừng:

- Hôm nay may cho anh lắm đó, nếu có mặt hai Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở đây, chắn chắn không để cho anh thao túng như vầy. Đức Thế Tôn tịnh tọa, xin anh đừng làm ồn, anh hung ác quá đổi, nghĩ đến lúc sau này anh gặp quả báo dữ, tôi thật buồn cho anh.

Đề Bà Đạt Đa nổi giận, muốn động thủ đánh A Nan, nhưng thấy A Nan chưa bao giờ nổi sung như vậy, bèn không dám nhấc tay, chỉ làm thinh bỏ đi.

Ít lâu sau, ác báo của Đề Bà Đạt Đa hiện tiền, phải chết một cách thê thảm. Trong lòng A Nan nghĩ đến một ông anh như Đề Bà Dạt Đa, thật khó quên.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 9. LỜI DỰ ĐOÁN CỦA PHẬT
A Nan khi làm thị giả Phật trong hai mươi bảy năm, thật đắc lực. Mỗi khi có các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni và các tín đồ tại gia đến tham bái Phật, Tôn giả đều sắp đặt thời gian thích hợp. Các Tỳ kheo ở xa đến viếng Phật, khi chưa được gặp Phật, cũng rất thích nói chuyện với A Nan. Tất cả mọi người đều tin tưởng thân thiết nơi Tôn giả. Còn các Tỳ kheo ni cũng rất thích nghe A Nan giáo giới. Mỗi khi Tôn giả bảo:

- Các chị em! Nên tuân giữ giới luật cẩn thận!

Ai nấy đều hoan hỷ tiếp thọ.

Các tín đồ nam nữ tại gia cũng rất thích nghe A Nan thuyết pháp. Tôn giả thường dạy họ tôn kính Tam Bảo, giữ năm giới, phụng dưỡng song thân, cúng dường tăng chúng. Họ thích A Nan giảng dạy mà không thích A Nan làm thinh. Tôn giả còn là người chưa ngộ đạo, mà đã có đầy đủ những đức tốt như thế.

Theo hầu bên Phật đi giáo hóa khắp nơi, thấm thoát A Nan đã năm mươi tuổi.

Một hôm, Phật ở tại giảng đường nơi thành Xá Vệ của vua Ba Tư Nặc. A Nan đứng hầu, trên mặt lộ vẻ buồn lo. Phật hỏi vì sao ra như vậy. A Nan mới thưa rằng trong một đêm, Tôn giả nằm mộng thấy bảy việc kỳ lạ cổ quái khiến trong lòng hoang mang lo sợ. Phật liền hỏi:

- Ông nằm mộng thấy bảy việc gì?

- Bạch Thế Tôn! Giấc mộng thứ nhất, con thấy ở nước sông to biển cả, đều bị lửa đốt cháy, ánh lửa đốt lên thấu trời xanh.

Đức Phật nghe nói chỉ mỉm cười nhân hậu và giải thích:

- Này A Nan! Bậc thánh vốn không nói chuyện mộng mị. Nhưng mộng của ông quả thật kỳ quái. Nước sông ngòi biển cả bị lửa thiêu trọn, đó là tượng trưng cho các Tỳ kheo trong tăng đoàn tương lai, ác nghịch mạnh, tâm lành ít ỏi, chấp giữ vào sự cúng dường rồi lại sinh ra gây gổ. Như vậy nước trong lặng mát mẻ lại biến thành biển lửa. Giấc mộng thứ hai của ông ra sao?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy mặt trời sắp lặn, thế giới Ta Bà tối đen, trên bầu trời không có lấy một ngôi sao.

Đức Phật đã tám mươi tuổi, lúc ấy rất cảm khái, giải thích:

- Này A Nan! Không bao lâu ta sẽ vào Niết Bàn, các đại đệ tử cũng Niết Bàn, điều ấy biểu thị rằng con mắt của nhân thiên sắp tiêu diệt. Con giấc mộng thứ ba?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy các vị Tỳ kheo không theo lời Phật dạy mà cũng đắp cà sa, chúng xuất gia rớt dưới hầm, còn hàng tại gia thì đi trên cầu.

Phật thốt nhiên thở dài:

- A Nan! Điều ấy ám chỉ Tỳ kheo đời sau, mở đại hội giảng kinh chỉ nói ngoài miệng, chẳng phụng hành, lại tật đố hại nhau, không sợ quả, rốt cuộc bị đọa lạc; hàng cư sĩ tại gia thừa cơ lên đài cao, khinh chê tăng bảo, họ xâm chiếm chùa chiền, phỉ báng Tỳ kheo, hủy hoại tháp miếu. Con điềm mộng thứ tư?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy Tỳ kheo pháp y không đủ, bị mắc kẹt trong đám gai.

Phật lại cảm xúc nói:

- A Nan! Điều ấy nói rằng các Tỳ kheo sau này, bỏ pháp y không mặc, xả giới luật ưa thế tục, nuôi nấng vợ con, đó thật là bất hạnh cho Phật pháp! Mộng thứ năm ra sao?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy trong rừng rậm um tùm, có thật nhiều heo rừng đào bới gốc rễ các đại thọ chiên đàn.

Phật lộ vẻ buồn lo nói:

- Ôi! Điều ấy nói lên các Tỳ kheo sau này chỉ thích tính toán sinh kế, buôn bán Như Lai, tụng kinh làm nghề nuôi thân. Mộng thứ sáu?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy voi lớn bỏ rơi voi con, sư tử là chúa loài thú chết, hoa thơm rơi trên đầu, cầm thú kinh sợ bỏ chạy, chẳng bao lâu trong thân sư tử sanh trùng bọ, trở lại cắn rỉa thịt sư tử.

Phật chỉ còn biết lắc đầu nói:

- Voi lớn bỏ voi con, đó là báo hiệu các vị trưởng lão đời sau tự lo lợi riêng, không nâng đỡ lớp thanh niên hậu bối. Trùng trong thân sư tử ăn thịt sư tử, đó là ám chỉ không phải ngoại đạo phá hủy Phật pháp, mà chính là hàng đệ tử xuất gia, tại gia tự phá hoại giáo pháp của ta. Còn giấc mộng thứ bảy của ông ra sao?

- Con thấy đầu con cao ngang đỉnh núi Tu Di.

Phật trầm ngâm hồi lâu rồi nói:

- A Nan! Sau ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết Bàn, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, trời người, dân chúng đều nhờ ông kết tập kinh điển.

Bảy điều mộng của A Nan, qua sự giải thích của đức Phật, đã dự đoán sự suy đồi của Phật giáo về sau, và sự đổi thay thời đại.

"Như trùng trong thân sư tử, lại ăn thịt sư tử, đó là điều chê cười của hàng tăng tục hiện nay. Chỉ thị ấy đối với chúng ta là một sự đau đớn khốc liệt thấu xương".

Chúng ta có thể phỏng đoán, vào những năm đức Phật về già, vì các điềm mộng của A Nan, mà giải thích một cách cảm khái như vậy, tâm tình thật trầm trọng. Hỗ thẹn cho chúng ta sinh nhằm thời mạt pháp, phải làm thế nào cho đức Thế Tôn hoan hỷ, để cho lời dự đoán kia không thành sự thật.
  • 10. BÊN GIƯỜNG NIẾT BÀN DI GIÁO
Đức Thế Tôn thành đạo đã bốn mươi chín năm, đã đến lúc nhập Niết Bàn. Ngài tuyên bố sẽ nhập diệt ở nơi rừng Ta La Song Thọ, thành Câu Thi Na, cách Ca Tỳ La khoảng ba mươi dặm.

Như mặt trời sắp lặn lóe lên tia sáng cuối cùng, trước khi Niết Bàn từ kim thân đức Thế Tôn phóng ra ánh hào quang đặc biệt khác thường. A Nan theo hầu bên ngài nhận được chiêu cảm ấy, và do sức huân tu bên cạnh bậc đạo sư, đức huệ của Tôn giả ngày càng thành thục.

Đức Thế Tôn nằm kiết tường trên sàng tọa do A Nan trải sẵn, đầu quay về hướng Bắc, lúc ấy mặt trời đã chìm ở cõi Tây, bóng tối mông lung phủ đầy, cây Ta La không phải kỳ trổ hoa mà vẫn nở, không cần gió đưa mà từng phiến hoa lác đác rơi quanh thân đức Thế Tôn, A Nan quỳ bên gối Phật, nhẹ nhàng thưa hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Về sau đối với phụ nữ, chúng con phải có thái độ như thế nào? Xin Thế Tôn nói lại một lần nữa cho con rõ!

- A Nan! Ngươi muốn xa lìa phiền não, đạt đến chứng ngộ không thể bận tâm vì nữ. Nhất là ông, tuy bây giờ đã lớn tuổi rồi đó, nhưng ông tiếp xúc với họ vẫn tốt hơn. Nếu bắt buộc phải tiếp xúc nên xem người già như mẹ, người lớn như chị, người nhỏ như em! Này A Nan! Ông phải nhớ kỹ lời ta đấy.

Đức Thế Tôn trả lời vấn đề ấy xong, lại dạy rõ về cách thức trà tỳ, xây tháp, mỗi mỗi dặn dò A Nan vốn tình cảm yếu đuối, nghe những lời Phật dạy, nghĩ đến đây là lời dạy bảo sau cùng của đấng Đạo sư, mũi lòng rơi lệ. Tôn giả không dám quỳ bên Phật, vội lùi ra sau rừng cây khóc lóc một mình.

A Nan nghĩ đến lúc Thế Tôn vào Niết Bàn, các đệ tử khác đều khai ngộ, chỉ còn ta, sau này sẽ nương vào ai để đạt đạo đây? Nghĩ đến từ nay về sau không còn ân sư để hầu hạ, Tôn giả càng buồn đứt ruột.

Đức Phật không thấy A Nan đứng bên cạnh, sai người ra kêu Tôn giả vào. Ngài lại dạy tiếp:

- A Nan! Ông không nên buồn rầu! Có hội họp phải có biệt ly, có hưng thạnh thì có lúc suy diệt, ta chẳng từng nói với ông đó ư? Thế gian là vô thường, có sinh ắt có tử, cỗ xe đã hư nát rồi mà còn tìm cách sửa chữa lại để xài, đó không phải là kế lâu dài. Sắc thân hữu vi phải bại hoại; đứng về pháp tánh thì ta luôn luôn chiếu cố đến ông. Ông theo ta làm thị giả rất lâu, ân cần nhẫn nại, ông đối với ta không hề thiếu sót, ta đem công đức ấy đền đáp cho ông. Ông nên dụng tâm tinh tấn tu tập chẳng bao lâu sẽ đoạn dứt phiền não, chứng thánh quả!

Đức Thế Tôn nói đến đó A Nan lại cảm xúc khóc không ra tiếng. Đức Thế Tôn nhìn quanh đại chúng nói không ra tiếng:

- Này các Tỳ kheo: A Nan làm thị giả ta rất trung thành, theo bên ta bao nhiêu năm, một mực ôn hòa tử tế, nghe kinh pháp không quên sót, tương lai sau này công đức ông ấy sẽ rạng rỡ trên thế gian.

A Nan tay bưng mặt, lại đi ra chỗ khác. Lúc ấy nhằm trăng tròn tháng hai, ánh trăng trong vắt trải khắp rừng Ta La. Tâm tưởng của Thế Tôn tịnh nhiên cao vọi thấu suốt hết tất cả hội chúng. Nét mặt lúc đó ai cũng khóc lóc bi thương, dù rằng bậc Thánh đi nữa cũng không ra khỏi tình người.

Đại chúng cứ khóc hoài chẳng chịu nín, chẳng biết nước mắt dùng làm gì trong lúc này? Đúng hơn là phải đưa vấn đề làm sao để cho Phật pháp tồn tại lâu dài ra thưa hỏi Thế Tôn. Mọi người thương lượng với nhau, rồi tìm A Nan, cử Tôn giả đến hỏi Phật mấy vấn đề:
  • Thứ nhất, Thế Tôn nhập Niết Bàn rồi ai làm thầy?
    Thứ hai, sau khi Phật nhập Niết Bàn, an trụ như thế nào?
    Thứ ba, làm sao hàng phục kẻ ác?
    Thứ tư, khi kết tập kinh điển làm sao mọi người có thể tin?
Đức Thế Tôn an nhiên như thường lệ, từ bi vui vẻ trả lời:

- Này A Nan! Các ông nên nhớ kỹ, các ông nên y theo giới luật làm thầy, an trụ trong tứ Niệm Xứ, gặp người hung ác hãy ẩn lánh đi, đầu kinh nên để "Tôi nghe như thế này" khiến người tin được. Các ông nên làm đúng như pháp, pháp là nơi thường trụ của pháp thân ta.

Thế Tôn nói xong, mọi người nghe rồi lại cảm động, lại thương tâm!

Thế Tôn nhập Niết Bàn ngay khi ấy.

Đệ tử các nơi nghe tin, đều tập họp kéo về. A Nan nghĩ đến lúc đức Thế Tôn còn tại thế, hàng nữ ít có người được thấy Phật, tham bái. Lúc này Tôn giả bèn ưu tiên cho các Tỳ kheo ni và các tín nữ đến đảnh lễ di hài Thế Tôn trước. Tôn giả luôn luôn thông cảm với người nữ!
  • 11. THAM DỰ CUỘC ĐẠI HỘI KẾT TẬP
Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn rồi, A Nan như con thơ mất mẹ, dự lễ trà tỳ viên mãn, A Nan một mình trở về tịnh xá tưởng niệm ân sư. Tôn giả bèn đóng cửa thất tịnh tọa, mỗi ngày chỉ uống một ít sửa, không nói một lời, như thế suốt ba ngày.

Ba ngày sau Tôn giả lên đường về thành Vương Xá phương Nam, vì đã gần ngày kết tập kinh điển. Tuy A Nan chưa được khai ngộ, nhưng Tôn giả không thể không vì pháp quên mình, và trước hết báo đền pháp thân huệ mạng của đức Thế Tôn.

Trên đường đi một phen ngang qua nước Tỳ Xá Ly, có thầy Tỳ kheo vẫn thường theo bên Tôn giả từ trước đến nay, bỗng tản lạc đi đâu. Tôn giả về đến thành Vương Xá, bị Đại Ca Diếp quở trách một phen, cũng lặng thinh chịu tội.

Lúc Tôn giả về đến thôn Kim Cang, nước Tỳ Xá Ly, khoảng một tháng sau đức Thế Tôn nhập Niết Bàn. A Nan là một cao đồ thường trực bên cạnh Phật, nên những tín chúng ngưỡng mộ Thế Tôn, nghe tin tự nhiên kéo đến bên Tôn giả, mỗi ngày họ tụ tập ở tịnh xá, yêu cầu A Nan thuyết pháp cả ngày lẫn đêm, A Nan không thể không từ chối phải chiều ý mọi người, phương tiện khai thị cho họ.

Trong tịnh xá, cũng có một thầy Tỳ kheo tên Bạt Xà Phất, vì tín chúng tụ tập, đi lại nói năng ồn ào, những tiếng động lao xao cứ lọt vào tai thầy khiền thầy không thể ngồi yên tham thiền. Thầy lại là một Tỳ kheo đã chứng quả, do đó thầy lại thầm trách A Nan tự thân không chịu cầu khai ngộ, mà cứ thuyết pháp cho thiên hạ. Đến nỗi bực quá thầy bèn làm thơ nói mát A Nan.

A Nan bị đả kích, không dám cãi gượng, Tôn giả biết thân mình là một hàng hữu học chưa ngộ đạo. Kỳ hạn an cư ở thành Vương Xá đã gần kề, trách nhiệm đọc tụng kinh điển trách nhiệm về ai, Tôn giả cũng có thể đoán được điều ấy. Trong lúc cực kỳ hệ trọng này mà phí công giảng thuyết đầu lưỡi, có ích lợi gì? Bẩm tánh A Nan vốn ôn hòa nhường nhịn, nên Tôn giả thôi thuyết pháp cho tín đồ, dự bị lên đường trở về Nam. Chẳng phải Tôn giả không biết trình độ tu chứng của mình, nhưng Tôn giả hay chiều theo ý mọi người. Phen này phần bị cư sĩ khích lệ thuyết pháp, phần thì chiều họ mà mắc lỗi, bị bạn đạo chê cười châm biếm, lời trách cứ của Bạt Xà Phất như mũi tên nhọn đâm ngay tim A Nan, từ đó Tôn giả phát nguyện đem tâm hướng ngoại quay trở về bên trong, mong sớm khai ngộ.

Khi A Nan về đến thành Vương Xá, vừa đúng một ngày nữa là đại hội kết tập bắt đầu. Lúc ấy Tôn giả Đại Ca Diếp được cử làm chủ tọa, tuyển chọn năm trăm vị Tỳ kheo tham dự đại hội, các vị ấy đều là bậc A la hán, cho nên không kể Tôn giả, vì A Nan chưa đạt được quả vị.

Đương nhiên là Đại Ca Diếp cũng thừa nhận sở trường của A Nan, bao nhiêu lời thuyết pháp của Thế Tôn, A Nan đều ghi nhớ chẳng sót, nhưng chỉ sợ một điều quan trọng là, nếu như để cho một người chưa dứt hết phiền não như A Nan tham dự đại hội, thì đối với đức Phật đã nhập diệt và chúng sanh đời sau, chẳng biết sẽ có những lỗi lầm như thế nào.

A Nan tuy chưa được khai ngộ nhưng lại được cảm tình của mọi người rất nhiều, ai ai cũng ủng hộ Tôn giả, cho nên khi nghe mọi người đề cử A Nan, Đại Ca Diếp bèn nói:

- A Nan chưa chứng thánh quả, tôi cũng biết ông ấy là sư tử, nhưng hiện tại chỉ có sư tử ở trong bầy dã can mà thôi.

A Na Luật cũng đồng ý nhận xét đó, điều này thật là một sự bất ngờ cho A Nan. Vì A Na Luật cũng là anh em chú bác với A Nan. Nhưng A Nan có bản tánh quật cường, càng bị ném xuống thấp thì càng vọt lên cao. Những lời đả kích là duyên tốt cho A Nan. A Nan chẳng hề nản lòng, và như một hoa mai mùa đông phải chịu một cơn gió tuyết lạnh lùng mới tỏa hương đặc biệt. Chiều hôm ấy, Tôn giả nỗ lực tu tập, vừa nửa đêm thì khai ngộ chứng quả. Ngày hôm sau, A Nan hiện đại thần thông, không đợi cửa động mở mà bay vào đại hội.

Lúc ấy phong tư của Tôn giả như mặt trăng tỏ rạng vừa ra khỏi đám mây, như ánh thái dương chiếu trên những cánh hoa sen tươi đẹp. Các vị đại Tỳ kheo đều kinh ngạc nhìn Tôn giả biểu lộ sự tán thán. Dưới sự chỉ đạo của Đại Ca Diếp, và sự đề cử của toàn thể đại hội, Tôn giả lên tòa sư tử bắt đầu tụng:

"Tôi nghe như vầy, một thuở, đức Phật ở tại một nơi nọ...". Tôn giả đem trí nhớ của mình tụng lại những thời thuyết pháp của đức Thế Tôn, lưu loát như nước chảy. Các đại Tỳ kheo trong hội một lần nữa tiếp thọ lời dạy của Phật, ai nấy đều cảm động. Tôn giả Kiều Trần Như già nua, xúc động đến nỗi xỉu tại tòa.

Những kinh điển đầu tiên như Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhứt A Hàm và các kinh Thí Dụ, Pháp Cú đều được kết tập trong kỳ đại hội thứ nhất này, do chính Tôn giả A Nan tụng lại.
  • 12. NHẬP NIẾT BÀN
Sau khi Phật nhập Niết Bàn, trưởng lão Đại Ca Diếp kế thừa y bát, hai mươi năm sau, Tôn giả đã hơn một trăm tuổi bèn vào núi Kê Túc nhập Niết Bàn. Sắp ra đi, Tôn giả đem gia nghiệp Phật pháp dặn dò trao lại A Nan, lúc ấy cũng gần tám mươi tuổi. Tôn giả kế thừa dòng pháp, cũng là điều tự nhiên như hoa đến kỳ kết quả, và đó cũng là niềm hy vọng của đức Thế Tôn.

Như thế, Phật pháp trong thời vua A Xà Thế ủng hộ, đã mở mang bình thường. Từ lúc Đại Ca Diếp nhập diệt về sau, hàng đệ tử thân cận đức Thế Tôn chỉ còn lại A Nan, lãnh đạo giáo đoàn cũng A Nan, tuổi tác mỗi năm mỗi cao. Đến năm Tôn giả một trăm hai mươi tuổi, một hôm nọ trên đường đi, nghe một thầy Tỳ kheo trẻ tụng kệ rằng:
  • Nếu người sống trăm tuổi
    Không thấy thùy lão hạc
    Chẳng bằng sống một ngày
    Mà thấy được hạc ấy.
A Nan nghe qua, thấy bài kệ bị tụng sai lầm một cách tệ hại, thật là râu ông nọ cắm càm bà kia. Tôn giả bèn lập tức cải chánh. Bài kệ phải tụng như thế này:
  • Nếu người sống trăm tuổi
    Không hiểu pháp sanh diệt
    Chẳng bằng sống một ngày
    Mà được hiểu rõ ràng.
Thầy Tỳ kheo kia nghe A Nan dạy xong, trở về thưa lại với sư phụ, chẳng dè sư phụ của thầy nổi sùng, nói rằng:

- Ông đừng nghe A Nan nói bậy, năm nay A Nan đã già cả, lú lẩn rồi. Ta dạy ông không sai đâu.

Thầy Tỳ kheo trở lại đem lời sư phụ nói lại với A Nan. Tôn giả định đi tìm ông ta để hỏi tại sao lại nói những lời ngu si như vậy? Nhưng suy đi nghĩ lại, con người đã thốt ra lời ấy có nói chưa chắc chịu nghe, nên thôi. Một vị trưởng lão ôn hòa như A Nan, thống lãnh giáo đoàn đương thời, nắm trong tay giáo quyền tối thượng, nhưng vẫn áp dụng lối xử sự nhún nhường.

Tuy vậy, một bậc trưởng lão Thánh tăng đã một trăm hai mươi tuổi, đối với việc đời không còn chút lưu luyến, sau khi gặp chuyện trên lại càng chán ngán thế gian. Tôn giả nghĩ: "Cái cõi đời này thật hết ý kiến. Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn chưa bao lâu, mà có người hiểu sai Phật pháp như vậy, sau này trong giáo đoàn lại có những điều tà kiến nói sao cho xiết. Ta vì Phật tụng lại giáo pháp mà mọi người chấp chặt vào kiến chấp của họ, không chịu theo đúng pháp mà làm, ta còn ở lại nơi đây để làm gì?"

Nghĩ ngợi như vậy, Tôn giả tự nhiên nhớ đến đức Phật, rồi liên tưởng đến các vị đại đệ tử Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên v.v... Tôn giả lại suy tư triền miên: "Ôi! Những vị ấy, như chim bay theo gió, một lúc vào Niết Bàn, trong bao nhiêu vị Thánh chỉ còn lại mình ta, như rừng cây bị đốn sạch, chỉ còn sót lại một cây cổ thụ không đủ che mưa đỡ gió. Cõi thế gian này thật trống rỗng, ta cũng nhập Niết Bàn thôi!"

Suy nghĩ xong, Tôn giả bèn quyết định, đem Phật pháp trao phó lại cho Thương Na Hòa Tu, ôm bát hướng về sông Hằng mà đi, vì lúc ấy vua A Xà Thế nước Ma Kiệt Đà đang khai chiến với Tỳ Xá Ly. Tôn giả dự tính, nếu nhập diệt ở nước Ma Kiệt Đà thì di thể không được chia cho nước Tỳ Xá Ly; như đến Tỳ Xá Ly nhập diệt, họ cũng không chia phần cho Ma Kiệt Đà, nên Tôn giả bèn chọn sông Hằng là biên giới giữa hai nước, sẽ ở trên không trung mà nhập Niết Bàn.

Vua A Xà Thế nghe tin A Nan sắp nhập Niết Bàn, cơ hồ muốn té xỉu, nhà vua tức tốc mang binh mã đuổi theo, chạy đến bên bờ sông Hằng, thì Tôn giả đã lên thuyền ra giữa sông, nhà vua bèn quỳ mọp sát đất mà lớn tiếng kêu:

- Đức Phật tối thắng tự tại! Xin ngài từ bi, Tôn giả đã ban an lành cho chúng con! Tôn giả là đèn sáng của ba cõi! Xin ngài hãy quay trở lại.

Bờ sông bên kia, dân chúng Tỳ Xá Ly cũng tụ tập bên bờ, kêu réo như A Xà Thế. A Nan bèn ở trong thuyền nói lớn:

- Ta đã suy xét, chính vì sự oán hận giữa hai nước các ông, mới đặc biệt đến khoảng giữa sông Hằng mà nhập diệt, cầu mong cho các ông được hòa bình, thân thiện.

Tôn giả nói xong, bèn ngồi giữa hư không nhập hỏa quang tam muội, tấn nhập Niết Bàn, khiến di thể rơi xuống hai bên, cho hai nước xây tháp cúng dường. Một tháp được xây ở giảng đường Đại Lâm phía Bắc nước Tỳ Xá Ly, một tháp xây ở cạnh tịnh xá Trúc Lâm thành Vương Xá. Do nhân duyên nhập diệt của Tôn giả, hai nước bèn cởi mở oán thù, không gây chiến với nhau cứu được muôn ngàn tài sản và mạng sống nhân dân. Sự hy sinh của Tôn giả thật cao quý lớn lao vô cùng.

Tôn giả A Nan nhập diệt rồi, công lao của ngài đối với đức Phật, sự cống hiến đối với Phật pháp, tư cách ôn hòa từ mẫn, khiêm tốn nhân nhượng của một bậc Thánh, mỗi độ gió xuân về, lại khiến mọi người hoài niệm.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

TÔN GIẢ A NA LUẬT
THIÊN NHÃN ĐỆ NHẤT
  • 1. TUỔI ĐỒNG NIÊN VÔ TƯ
Trong kinh A Di Đà phần giới thiệu chúng hội vân tập, có nêu tên mười sáu vị A la hán, trong đó có A Nậu Lâu Đà là một, và đó cũng chính là Tôn giả A Na Luật.

A Na Luật sanh trong dòng dõi vua chúa, vốn là em con chú của Phật. Sau ngày Tịnh Phạn Vương băng hà, đại tướng Ma Ha Nam lên nối ngôi, là anh ruột của A Na Luật.

Tuổi thơ của A Na Luật, vốn là một đứa trẻ thiên tư hoạt bát, rất thông minh mẫn tiệp, đối với âm nhạc, kỹ thuật dường như có tài đặc biệt, năm bảy, tám tuổi thường ca hát trước đông người, làm những điệu bộ khôi hài khiến ai nấy đều bật cười, đó là một chú bé được mọi người yêu mến.

Vào độ tuổi ấy, A Na Luật chỉ ăn no rồi đùa giỡn, chơi chán lại đòi ăn, xuân cũng như hạ, ngày tháng trôi qua trong chốn vương cung vô tư lự.

Năm lên bảy, cậu bé A Na Luật thường chơi đánh bạc ăn bánh, hễ đánh thua thì phải chung vài cái bánh, mỗi ngày A Na Luật thua chừng năm sáu lần, mỗi lần thua chạy kiếm mẫu thân đòi bánh, mẫu thân cũng chìu theo luôn.

Một hôm, A Na Luật đã thua ba lần, ba lần bị mất bánh cho người, đến lần thứ tư cũng theo mẫu thân đòi bánh nữa, mẫu thân bảo:

- Hết trơn bánh rồi!

Nhưng A Na Luật chưa từng biết ý nghĩa của câu "đã hết" hoặc "không có" là gì, cứ theo mẫu thân nheo nhéo đòi cho được "bánh không có", mẫu thân vốn muốn trêu cậu, cầm một cái hộp không đưa cho, để ngỏ ý cho biết hôm nay nhà không còn cái bánh nào.

Nhưng lạ thay, do phước phần của cậu bé, khi mẫu thân đem hộp không đến, thì trong hộp lại tự nhiên đầy bánh, A Na Luật vui mừng, vì được một hộp đầy nhóc cái "bánh không có".

Từ đó về sau, mẫu thân không dám xem cậu như mọi chú bé tầm thường, qua câu chuyện hộp bánh không mà thành hộp bánh đầy, nhất định lai lịch của A Na Luật rất phi phàm, về sau sẽ được phước báu lớn.

Tuy A Na Luật thông minh vì được sinh dưỡng trong sự nuông chiều, trưởng thànhh trong cung điện nên cho đến khi mười lăm tuổi, không hề biết đến cuộc sống ở bên ngoài bốn bức tường hoàng gia. Có lần A Na Luật cùng Bạt Đề, Kiếp Tân Na dạo chơi, cả ba bàn tán về vấn đề "hột gạo từ đâu mà có". Kiếp Tân Na nói trước:

- Gạo lấy từ trong nước vo gạo, tôi thấy lần nọ đám cung nữ vo gạo vớt lên.

Bạt Đề khoát tay, Kiếp Tân Na nói không đúng rồi, cậu lại bảo:

- Gạo lấy từ trong nồi cơm, tôi thấy cung nữ bới cơm trong nồi mà.

A Na Luật nghe hai bạn nói, không đồng ý, cậu làm ra vẻ biết chuyện hơn, quả quyết:

- Gạo là do bát vàng sanh ra, mỗi lần ăn hết cơm, tôi lại thấy cung nữ xới từ bát vàng đem đến.

Qua câu nói của ba vương tử chúng ta có thể thấy nhận thức về xã hội của mấy ông hoàng con thật ấu trĩ.

Các tiểu vương tử này đối với xã hội bên ngoài mờ mịt chẳng biết gì, nhưng cơm áo vật chất hưởng thọ tột đỉnh hào hoa của nhân gian, cơm dâng đến miệng, nước mời tận tay, họ đã trải qua một thời tuổi trẻ vô tư.

Các hoàng tử đã mười mấy tuổi đầu vì sao lại đối với những chuyện thông thường mà hiểu biết lại cạn cợt như thế? Nguyên là từ khi Thái Tử dạo chơi bốn cửa thành, cảm thấy sự kinh sợ của sanh, lão, bệnh, tử đã phát nguyện xuất gia học đạo, từ đó hoàng cung đã quy định không cho phép các vương tôn vương tử ấu niên ra khỏi cung vi. Sống trong tháp ngà thì dù người thông minh trí huệ cũng chẳng hiểu biết được chuyện thế gian.
  • 2. NHIỆT TÂM XUẤT GIA
Đến tuổi thành, A Na Luật là một thanh niên tướng mạo đường đường, không còn là cậu bé ngây thơ nữa, chàng dần dần hiểu được cuộc đời, nhận mặt kiếp nhân sinh, nhằm lúc ấy đức Phật thành đạo trở về Ca Tỳ La thuyết pháp giáo hóa. Sức cảm hóa của Thế Tôn rất mạnh, chẳng bao lâu trong hoàng tộc nhiều người quy y Phật, xuống tóc xuất gia. Trước tiên là Nan Đà, người sẽ là vua trong tương lai, theo Phật làm Sa môn, kế đến La Hầu La làm Sa di, điều ấy khiến các vương tử thanh niên chấn động, A Na Luật cũng nằm trong tình hình ấy, lập chí xuất gia theo Phật.

A Na Luật tìm đến anh là Ma Ha Nam và nói:

- Ca ca! Đức Phật trở về hoàng cung khiến cho mấy ngày gần đây, dòng họ Thích chúng ta nhiều người cũng xuất gia làm Sa môn, đem cam lồ pháp vũ của Phật truyền đi tứ phương, đó là một cuộc sống đầy ý nghĩa. Nan Đà đã bỏ cô vợ đẹp là Tôn Đà Lỵ, gia nhập Tăng đoàn, La Hầu La nhỏ tuổi như vậy cũng xuất gia học đạo. Hai anh em ta nếu không có một người xuất gia thật khó coi. Ca ca à! Ý anh thế nào?

Đại tướng Ma Ha Nam anh dũng đã lập nhiều chiến công với quốc gia, nghe em nói bèn trả lời:

- Tiểu đệ! Lời nói của em giống ý anh, hai anh em mình nhất định phải có một người xuất gia mới đáng mặt, anh định bàn với em, từ nay em hãy lo hiếu dưỡng cha mẹ, để anh theo Phật làm Sa môn.

A Na Luật lắc đầu không chịu:

- Ca ca! Anh không thể xuất gia được, nước nhà rất cần anh, tuy em cũng biết võ công nhưng sánh với anh thật thua xa. Xin anh hãy để em xuất gia, tính em thích hợp với lối sống tịch tịnh của tăng đoàn, em không ưa chỗ ồn ào, mà cũng rất nhàm chán ngũ dục của hoàng cung.

Ma Ha Nam đành phải nhượng bộ trước lập luận của em. Nhưng Phật Đà quy định, muốn xuất gia phải có sự ưng thuận của cha mẹ. A Na Luật chỉ còn cách năn nỉ xin với vương phụ vương mẫu, cầu khẩn bằng lòng cho mình được gia nhập tăng đoàn làm Tỳ kheo.

Lòng cha mẹ thương con tha thiết, làm sao đồng ý trước yêu cầu đó, A Na Luật nói cách mấy cũng không được, đôi ba phen năn nỉ, đôi ba phen bị từ chối.

Sau cùng vì chí nguyện xuất gia kiên cố, A Na Luật tính bề tuyệt thực cho đến chết, song thân chàng không còn cách nào khác hơn, bèn phủ dụ:

- Nếu như con muốn xuất gia, con hãy thương lượng với vương tử Bạt Đề, nếu Bạt Đề xuất gia thì chúng ta cho con đi xuất gia với chàng, nếu như Bạt Đề không chịu thì con đừng đòi hỏi trông mong nữa.

Thuyết phục Bạt Đề xuất gia không phải chuyện dễ. Ai cũng biết sau khi đức Phật, La Hầu La xuất gia, vua Tịnh Phạn lập Bạt Đề làm thái tử, chàng sẽ thừa kế vua Tịnh Phạn làm quốc chủ Ca Tỳ La Vệ, xuất gia sao được? Nhưng A Na Luật nghe vương phụ nói xong, chẳng hề thối chí, chàng cao hứng đi tìm Bạt Đề, đem ý định xuất gia theo Phật ra nói và rủ Bạt Đề cùng xuất gia với mình. A Na Luật chăm chú đợi Bạt Đề trả lời.

Đối với việc từ bỏ dục lạc, vinh hoa phú quý của cuộc đời để làm thầy Sa môn học đạo, vương tử Bạt Đề cảm thấy rất khó, nhưng đối với chỗ thân tình như A Na Luật, thiệt chối từ thẳng thì chẳng tiện chút nào, vương tử suy nghĩ giây lâu, miễn cưỡng nói:

- A Na Luật, xuất gia làm Tỳ kheo chẳng còn được lưu luyến dục lạc thế gian, tôi và em đều còn trẻ làm sao đủ sức chịu nổi? Em hãy đợi vài năm, chúng ta vui hưởng hết những thú vui vương giả, bảy năm sau tôi sẽ xuất gia với em.

Rõ ràng Bạt Đề khéo từ chối, nhưng A Na Luật đôi ba phen nói rõ niềm vui của cuộc đời xuất gia, nên từ bảy năm Bạt Đề lại hẹn một năm, từ một năm còn lại một tháng, từ một tháng giảm còn bảy ngày. A Na Luật thấy Bạt Đề hẹn còn lại bảy ngày sẽ cùng đi xuất gia, mới hoan hỷ cáo biệt trở về nhà.

Bảy ngày sau, hai vị vương tử cùng với A Nan, Đề Bà, Kiếp Tân Na, Bà Sa, Nan Đề cả thảy bảy người, đồng lén bỏ vương cung ra đi, dẫn theo chàng thợ cạo Ưu Ba Ly, tìm đến những con đường Phật thường đến du hóa. Khi đến mé rừng A, thôn Di Na, các vương tử cởi bỏ y phục, bảo Ưu Ba ly cạo hết râu tóc cho bảy người và khoác cà sa đến ra mắt Phật.

Đức Phật chưa cho gia nhập tăng đoàn ngay, bảo họ đến ở trong một tịnh thất, tịnh tọa một tuần lễ để quên hết thân thế cao sang của mình, rồi sau mới chánh thức cho xuất gia, ra mặt đại chúng.
  • 3. CỰ TUYỆT THIẾU NỮ CẦU HÔN
Sau khi xuất gia, A Na Luật nghe giảng kinh điển, tập quen lối sống đạm bạc, đối với lời dạy của đức Phật rất hoan hỷ phụng hành.

Tuy chưa chứng quả nhưng được động viên bởi niềm vui Phật pháp, và muốn báo ân đức Phật đã cho phép xuất gia, A Na Luật bèn dự định đi hành cước một phen, làm một chuyến giáo hóa phương xa. Đức Thế Tôn rất hoan hỷ và khuyến khích Tôn giả, theo ý ngài, hàng đệ tử cần phải có nhiệt tâm hoằng pháp lợi sanh, trong khi làm việc độ sinh có thể nuôi lớn tín tâm, tín tâm mạnh mới có thể khai ngộ chứng quả.

Thầy tỳ kheo nhỏ tuổi A Na Luật, nghi biểu trang nghiêm, phong tư mỹ mạo, màu da sáng rỡ, mũi như mỏ chim anh vũ, cũng vì tướng hảo đoan chánh ấy nên trên đường hoằng pháp đã một phen bị thiếu nữ đeo đuổi.

Hôm ấy, A Na Luật từ tịnh xá Kỳ Viên đi đến nước Kiều Tát La, trên suốt đường trường không có trú xứ cho Tỳ kheo, thấy không còn cách nào khác hơn là xin ngủ nhờ nhà dân chúng. Trong chốn đồng quê vắng vẻ, làng xóm thưa thớt, A Na Luật ghé lại một ngôi nhà có vẻ rộng rãi, định xin tá túc qua đêm. Thật không ngờ hôm ấy trong nhà đi vắng hết, chỉ có một cô gái trẻ tuổi ở nhà, thầy hết sức do dự, một Tỳ kheo nghỉ đêm tại một ngôi nhà chỉ có một thiếu nữ, chẳng biết nên hay không nên, vì lúc ấy đức Phật chế giới chưa đề cập đến điểm ấy. A Na Luật nhìn ngoài trời thấy một sắc tối đen, mặt trời bị mây phủ kín như sắp mưa to. A Na Luật không biết làm sao, bèn phải ở lại nhà ấy. Thầy vào nhà độ một lúc lại có ông già lỡ đường ghé vào xin tá túc, nhưng cô chủ nhà từ chối quyết liệt, thấy cô đối xử với ông già không chút lễ độ, không có tình người, A Na Luật đã thầm ngạc nhiên.

Thiếu nữ đối với A Na Luật rất ân cần, mời trà mời nước, hỏi gần hỏi xa, A Na Luật chỉ một bề ngồi tịnh tọa, nhất tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, mong cho trời sáng để đi khỏi nơi đây.

Đến nửa đêm, ánh đèn dần dần mở ảo, mông lung, thiếu nữ đến bên giường A Na Luật thốt tình tứ:

- Em biết thầy là một Sa môn, đối với Sa môn mà có ý nghĩ này nọ là không phải, nhưng từ khi em gặp thầy thật khó ngăn được tình cảm. Xin thầy hãy tin em, em không phải là hạng gái trắc nết trăng hoa, rất nhiều công tử đến cầu hôn mà em chẳng nhận lời ai. Em thấy thầy dung mạo thanh tân hành vi đoan trang, em không sợ xấu hổ phận gái mà xin tự nguyện dính hôn ước với thầy. Từ nay mời thầy cứ ở lại nhà em, ba má em nhất định rất vui mừng đấy ạ.

A Na Luật vốn dòng dõi vương tôn anh tuấn, đối với chuyện ái tình của các cô thiếu nữ, thầy cũng có chút kinh nghiệm. Vốn từ thời còn ở hoàng gia, cũng có nhiều công nương bao vây xin cầu hôn, tuy nhiên A Na Luật thấy ái tình chẳng vui sướng gì, chàng không bị dục nhiễm mê hoặc. Chỉ có tu đạo, thật là niềm vui an ổn nhất.

Khi lửa ái tình của thiếu nữ bộc phát, khó mà dặt tắt ngay. A Na Luật chỉ còn cách nhắm nghiền mắt không ngó ngàng đến cô gái, để cô ta mắc cở lui ra. Nhưng cô nàng lại có ý bất chánh, tiến tới nắm tay thầy, thầy vẫn ngồi yên như một quả núi đá không nhúc nhích, cô nọ lại dạn dĩ ôm choàng lấy thầy, lúc đó A Na Luật mới trừng mắt nhìn cô ta trách rằng:

- Này cô nương! Cô không mắc cở sao? Nam nữ còn không thể cẩu thả như vậy. Huống chi tôi là người xuất gia, cô lại đối với tôi chẳng có chút lễ độ.

Tình ái của nam nữ trên thế gian là nguồn gốc của bể khổ sanh tử, gây ra đủ thứ phiền não, thị phi, rối rằm. Cô hãy dẹp tắt lửa tình của cô, hãy nhìn kỹ lại lòng mình.

Lời nói nghiêm nghị của A Na Luật khiến thiếu nữ hổ thẹn cúi đầu, sau đó cô xin hối hận, xin A Na Luật tiếp dẫn cho mình quy y Phật, làm Ưu bà di.

Tình nam nữ là tập quán của người đời, nhưng người tu phải vượt khỏi tính người mới tiếp thọ được tính Phật. Từ đó về sau A Na Luật không dám ngủ lại ban đêm ở nhà dân gian.
  • 4. LOÀI SÒ ỐC HAM NGỦ
Đạo tâm của A Na Luật rất kiên cố, tuy gặp sắc đẹp mà cũng không xao động, tâm địa của thầy quang minh ai cũng biết. Nhưng, có một phen vì thùy miên, thầy bị đức Phật quở trách nặng nề.

Trong một buổi giảng kinh của Thế Tôn, A Na Luật bị con ma hôn trầm bì quyện ám ảnh nên không cưỡng được, thầy ngủ gục tại tòa, đức Phật ở xa thấy vậy bèn nói:
  • Dốt thay kẻ mê ngủ
    Thu mình trong vỏ sò
    Một giấc ngủ ngàn năm
    Không nghe danh hiệu Phật.
Người kế bên bèn xô nhẹ A Na Luật, thầy hoảng kinh thức dậy, đức Thế Tôn hỏi thầy:

- A Na Luật! Ông đi xuất gia vì sợ phép nước, hay vì sợ đạo tặc?

A Na Luật vội đứng lên cung kính thưa:

- Thưa không phải!

- Vậy vì lý do gì mà ông xuất gia?

- Thưa Thế Tôn! Vì con nhàm chán sanh, lão, bệnh, tử, muốn giải thoát ưu bi khổ não.

- Mọi người đều khen ông không vì nữ sắc mà phạm giới, chắc ông tự mãn điều ấy lắm, ông xem, trong khi ta thuyết pháp mà ông ngủ ngon như vậy.

A Na Luật nghe Phật quở, liền quỳ xuống chắp tay thưa:

- Bạch Thế Tôn! Xin từ bi lượng thứ cho sự ngu si giải đãi của con, từ nay về sau cho đến lúc chết con không ngủ lại nữa!

Đối với đệ tử biết nhận lỗi lầm, đức Phật rất hoan hỷ. Và từ khi A Na Luật phát nguyện, đức Phật lại cổ động an ủi thầy, khuyên thầy nên gắng dụng công, việc tu hành cố nhiên không thể quá buông lơi, nhưng cũng không thể quá gấp rút. Từ đó về sau, A Na Luật dụng công miên mật từ sáng tới tối, từ đêm đến ngày không ngừng nghỉ.

Tu hành như thế không ngủ một lúc, hoặc một ngày, hai ngày thì chẳng sao, nhưng lâu ngày chầy tháng, sức người tuy có thể miễn cưỡng duy trì, nhưng thân tứ đại sẽ mang bệnh không kham. Quả thật ít lâu sau, vì không ngủ nghê gì cả, A Na Luật bị sưng húp hai mắt, nhức nhối khó chịu.

Đức Phật biết thầy tinh cần dụng công đến sưng mắt, ngài rất lo lắng. Một hôm đức Phật cho gọi A Na Luật vào từ hòa bảo thầy:

- A Na Luật! Ta nói với ông tu hành mà bất cập thì không xong, mà thái quá cũng không được.

- Con đã từng phát nguyện trước đức Thế Tôn, con không thể làm trái lời nguyện.

- Ông đừng quan tâm đến vấn đề phát nguyện, con mắt mới quan trọng.

Tuy đức Phật từ bi nói vậy, nhưng A Na Luật vẫn không chịu ngủ, Đức Phật lại tìm phương tiện nói:

- Này A Na Luật! Tất cả chúng sanh phải có thức ăn mới sống, lỗ tai dùng âm thanh làm thức ăn, lỗ mũi dùng hương mùi làm thức ăn, lưỡi dùng vị nếm làm thức ăn, thân dùng xúc chạm làm thức ăn, con mắt cũng dùng ngủ nghỉ làm thức ăn; ông không ngủ không được, con mắt sẽ thiếu như cầu, mà ngay cả Niết Bàn cũng cần đến thức ăn huống chi con mắt.

- Bạch Thế Tôn! Niết Bàn ăn những gì?

- Niết Bàn dùng pháp không phóng dật làm thức ăn. Không phóng dật mới đến được cảnh giới vô vi, cảnh giới vô vi cần dùng thiền duyệt pháp hỷ làm thức ăn.

- Bạch Thế Tôn! Con không ngủ cũng chẳng hại gì, xin ngài cứ yên tâm!

Lòng từ bi của Phật, A Na Luật rất cảm kích, nhưng thầy không muốn làm trái lời nguyện. Thầy thức mãi đến lúc đôi mắt sưng đỏ, đức Thế Tôn bèn mời ngự y Kỳ Bà đến trị bệnh cho thầy. Kỳ Bà khám bệnh xong bảo ông A Na Luật chỉ cần ngủ trở lại mắt sẽ lành ngay. Nhưng A Na Luật vẫn kiên quyết không ngủ.

Chẳng bao lâu hai mắt thầy mù hẳn.

Từ câu chuyện trên, chúng ta thấy sự quyết tâm tu đạo của Tôn giả A Na Luật, dù biết rằng mắt sẽ mù mà vẫn không rút lui tâm nguyện, không trái lời hứa của mình. Đức Phật chỉ nói một câu mà Tôn giả đã phụng hành như thế đủ biết lòng cung kính của Tôn giả đối với Phật như thế nào.
  • 5. ĐỨC PHẬT ĐÍCH THÂN VÁ Y
A Na Luật bị mù khiến cuộc sống của thầy có nhiều điều bất tiện, như đối với việc khất thực, vá y thật khó khăn.

Trong tăng chúng có nhiều vị khỏe mạnh, vì thân tình nên mỗi khi đi khất thực về thường đem cơm dư chia sớt cho các Tỳ kheo bịnh, cho nên đối với việc ăn uống, A Na Luật chẳng bận tâm lắm, nhưng con mắt không thấy đường làm sao may vá; cho đến khi chúng rách quá không biết làm sao, gặp lúc A Nan đi ngang chỗ thầy, A Nan thấy vậy mới nói:

- Này huynh A Na Luật! Ba y của huynh rách hết rồi sao không vá lại, đức Phật có dạy, thầy Tỳ kheo y phục mới hay cũ không cần, nhưng cần phải chú trọng cho tề chỉnh sạch sẽ.

- Thưa huynh A Nan! Tôi đã thử vá mấy cái y, nhưng con mắt tối đen không xỏ chỉ được, nếu như huynh có rảnh đến giúp tôi một phen được chứ?

A Nan rất hoan hỷ đáp ứng, hẹn ngày đến vá giúp ba y.

A Nan về đến tịnh xá Kỳ Viên định tìm thêm vị Tỳ kheo nữa để giúp A Na Luật, nhưng thiên nhĩ của Phật đã nghe hai người đối đáp, khi gặp A Nan, ngài liền hỏi:

- Này A Nan! Sao ông không nói với ta đi vá y giúp A Na Luật?

A Nan nghe Phật hỏi bất ngờ, vội thưa:

- Bạch Thế Tôn! Ngài là bậc tôn quý, những việc vụn vặt của đệ tử, chúng con không dám làm bận rộn Thế Tôn. Con và các Tỳ kheo đều muốn giúp A Na Luật vá y, con đang dự định đi.

- A Nan! Ông đừng nên nói thế ta cũng như các ông, cũng là một phần tử trong tăng đoàn, ta sẽ đi với ông, ông khỏi đi tìm nhiều người làm chi.

Đức Phật nói lời ấy khiến A Nan vô cùng cảm động. Mục Kiền Liên đứng bên cũng cảm kích lòng từ sâu thẳm của đức Phật, các vị đều nguyện theo Phật đến giúp A Na Luật.

Phật đến núi Ba La La, bảo A Na Luật:

- A Na Luật! Ông đem hộp kim chỉ ra đây, ta đến để giúp ông vá y.

Nghe tiếng đức Phật, A Na Luật bất ngờ hoang mang, trong đôi mắt mù bỗng ứa vài giọt lệ, không biết phải nói thế nào đây?

Đức Phật xâu kim, lấy vải trong hộp ra đo cắt, A Nan phụ giúp may luôn. Trong vòng một ngày, đức Phật đã vá xong ba y cho A Na Luật.

Một người là tôn sư, là bậc Thế Tôn viên mãn phước đức, một người là đệ tử, là Tỳ kheo mù lòa, trong tình sư đệ tương quan, thầy từ bi bác ái, trò cung kính đã biểu hiện tình sư đệ của nhà Phật, thân giáo trọng hơn ngôn giáo, đã nêu lên một tấm gương tốt đẹp cho hậu thế chúng ta.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 6. NGUYÊN DO SỰ ĐỌA LẠC CỦA PHỤ NỮ
A Na Luật tuy mù lòa, nhưng tâm rất sáng suốt, chỉ đối với sinh hoạt hàng ngày của người mù lòa thật là gặp nhiều điều bất như ý. Từ khi đức Phật vá ba y giúp Tôn giả, ngài lại càng lân mẫn hơn, đức Phật dạy tôn giả tu tập Kim Cang Chiếu Minh Tam Muội. Chẳng bao lâu A Na Luật chứng được thiên nhãn thông. Tôn giả cảm thấy hân hoan cảm kích không thể tả, đức Phật cũng hoan hỷ, trong tâm cũng thư thái, từ đó ngài mới yên lòng.

Thiên nhãn có thể thấy khắp không phân biệt gần xa, không kể trong ngoài. A Na Luật mất nhục nhãn mà được thiên nhãn như thế, chúng tăng đều ái mộ, kính trọng Tôn giả. Điều đó tất nhiên là do sức từ bi của Phật gia hộ, nhưng cũng do chí nguyện kiên quyết tu hành của Tôn giả mới thành tựu. Từ đó, A Na Luật đối với việc vá y, trì bát không còn lo lắng, chỗ người khác không nhìn thấy, Tôn giả đều thấy rõ. Trong kinh A Di Đà, đã biệt nêu đại danh A Nậu Lâu Đà trong hàng đệ tử, là vì thiên nhãn của Tôn giả có thể thấy được thế giới Cực Lạc phương Tây, dùng thiên nhãn để chứng minh cho hàng chúng sanh sơ học, để sinh lòng tin tưởng vào cõi nước của Phật A Di Đà.

Thiên nhãn của Tôn giả không những chỉ thấy thế giới Cực Lạc, mà có thể nhìn thấy mọi tình hình ở dười địa ngục. Một hôm Tôn giả nhìn thấy rất nhiều phụ nữ bị đọa vào địa ngục, bèn đến hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Hôm nay con thấy rất nhiều phụ nữ bị sa đọa vào địa ngục, theo con thấy phụ nữ rất dễ tín phụng lời Phật dạy, người nữ có nhiều lòng tin hơn nam giới, vì cớ sao họ lại đọa địa ngục nhiều hơn?

- Này A Na Luật! Trong Phật pháp, người nữ dễ tín phụng đó là sự thật, nhưng người nữ dễ tạo tội cũng là sự thật hiển nhiên. Người nữ có ba thứ tâm lớn hơn nam giới:

- Thứ nhất, mỗi sáng sớm mới thức dậy, tâm xan tham của nữ rất nặng, họ mong rằng tất cả tài bảo trên thế giới đều gom vào nhà mình.

- Thứ hai, lúc ban trưa, tâm tật đố của họ tăng lớn mạnh, cảm thấy rằng toàn thể nhân loại đều làm chướng ngại mình.

- Thứ ba, lúc xế chiều tâm dâm dục của họ lẫy lừng, lúc nào cũng mong có người dựa kề bên mình.

A Na Luật! Tâm xan tham, tật đố, dâm dục của nữ nhân rất dễ chiêu cảm họ phạm tội, đó là nguyên nhân khiến họ đọa địa ngục rất nhiều.

Sức thiên nhãn của Tôn giả thấy người phụ nữ đọa địa ngục đã khiến đức Phật thuyết một bài pháp cho hàng tín nữ hôm ấy, khiến các bà, các cô một phen chứng kiến mà tỉnh ngộ.

A Na Luật chứng thánh quả, được thiên nhãn, trở thành bậc thượng thủ trong tăng đoàn. Nhưng đôi khi Tôn giả cũng luận đạo với Xá Lợi Phất, vì vấn đề thiên nhãn thông mà Tôn giả cũng bị Xá Lợi Phất răn dạy một phen. Số là A Na Luật đến hỏi Xá Lợi Phất:

- Thưa Tôn giả! Tôi dùng thiên nhãn thanh tịnh có thể thấy ba ngàn địa thiên thế giới. Tôi được chánh niệm tinh tấn không lay động, hiện tại thân thể tôi khinh an dạo chơi trong trời đất tịch mịch, tâm tôi đã lìa chấp trước, không còn tán loạn. Xin hỏi Tôn giả, đó có phải là ly phiền não đắc giải thoát không?

Xá Lợi Phất là bậc thượng thủ đệ nhất trong tăng đoàn thường thay Phật thuyết pháp, Tôn giả nghe A Na Luật nói rồi liền tỏ bày ý kiến:

- Tôn giả A Na Luật! Vừa rồi ông nói có thiên nhãn thấy suốt ba ngàn địa thiên thế giới, đó là tâm ngã mạn, ông nói có chánh niệm bất động, đó là tâm trạo cử, ông nói tâm ông lìa chấp trước, không còn tán loạn, đó là tâm cuồng vọng; theo sự hiểu biết của tôi, cần phải xa lìa tâm ngã mạn, tâm trạo cử, tâm cuồng vọng, mới là lìa phiền não đắc giải thoát!

Đối với lời dạy của Xá Lợi Phất, A Na Luật chẳng những không giận mà còn rất cảm kích. Tôn giả biết rằng lời nói của Xá Lợi Phất là lời nói của bậc chân chánh thấy đạo. A Na Luật là một người rất khiêm tốn vậy.
  • 7. TRONG RỪNG TỊCH TỊNH
Mùa an cư thứ mười, Phật trụ tại nước Câu Diệm Di, trong chúng đệ tử lúc ấy nổi lên sự chia rẻ mãnh liệt, nhân đó Phật thuật lại câu chuyện vua Trường Thọ nhẫn nhục, để nhắc nhở mọi người chấm dứt sự tranh cãi. Thế Tôn dạy: "Đem oán hận để dẹp oán hận không bao giờ dứt, chỉ có từ bi nhẫn nại mới dập tắt lửa oán thù".

Lời Phật dạy, nhiều người cảm động đã từ bỏ tâm sân hận, nhưng số ít còn ưa gây gổ phi pháp, không chịu nhường nhịn ai hết. Khi ấy đức Phật lại nhớ đến đức nhượng khiêm tốn của A Na Luật, ngài bèn đi bộ một mình đến khu rừng Ba Lợi Da Sa La nước Bạt Kỳ, để thăm A Na Luật đang tu tập tại đó.

Trong rừng Ba Lợi Da Sa La, ngoài A Na Luật còn có Bạt Đề, Kiếp Tân Na, ba vị cùng tu chung một chỗ, cả ba đều là anh em chú bác với nhau, khi còn tại gia rất thân thiện, đến lúc xuất gia cũng thân thiện. Ba vị có một lời minh ước, đồng y chỉ với đức Phật, luôn luôn tuân theo lời chỉ dạy của Thế Tôn mà tu tập.

Trong đó, A Na Luật hiện thời là một vị A la hán chứng thiên nhãn, còn Bạt Đề, Kiếp Tân Na cũng trong năm đầu xuất gia, khai ngộ ngay trong mùa an cư, ba vị thánh giả chung sống một nơi, đồng một sinh hoạt an tịnh hòa nhã, điều ấy không cần nói.

Ba vị đính ước chung, bình thường thì không ai nói chuyện với ai, năm ngày họp mặt luận bàn đạo lý một lần. Trình bày sự tu hành tâm đắc, hay cần sửa đổi sinh hoạt thì nêu ra. Thường ngày các vị đi vào làng khất thực, người nào trở về trước thì trải sàng tòa, châm nước trong lu, sắp đặt bồn nước rửa chân, vải chùi chân để bên lu nước, thọ trai xong, thức ăn còn dư đem để một nơi cao ráo, hoặc rọng trong nước đã lọc sạch côn trùng, người về sau nếu ăn không no sẽ lấy thức ăn đó để ăn tiếp.

Sau khi thu dọn gọn ghẽ, tự mình rửa tay chân, sửa sang tọa cụ và vào trong tịnh thất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng hoặc tọa thiền. Người về tiếp theo, nếu ăn chưa no thì ăn tiếp thức ăn người trước để lại, nếu có lợi dưỡng khác thì cũng để dành như vậy, ăn rồi rửa chén bát, lau khô cất riêng một nơi, quét dọn chỗ ngồi ăn, dẹp cất y bát, rửa tay chân, trải tọa cụ tọa thiền tu tập như người trước. Cho đến xế chiều, người xuất định trước bèn đến lu xem trong lu còn nước hay hết, nếu hết thì xách thêm, một người xách không nổi thì đưa tay ra dấu kêu thêm người giúp. Hai người im lặng khiên nước xong, im lặng trở về phòng. Và cứ như thế, sinh hoạt của các vị trong chốn rừng u tịch đều đặn trôi qua.

Đức Phật không ưa chỗ sân si ồn ào, nhớ nghĩ đến A Na Luật nên đi đến khu rừng hòa bình của ba vị Tôn giả. Ngoài bìa rừng có người canh giữ, ông ta không biết đức Phật; vì bình thường ngài đi giáo hóa các nơi đều có đệ tử đi theo sau. Hôm nay đức Phật đi một mình, nên trong lúc bất ngờ thì ông ta không dè đó là đức Phật quang lâm, bèn cản lại:

- Xin ngài đừng vào đây, trong rừng này có ba vị thánh đang tu tập.

Đức Phật mỉm cười, từ tốn trả lời:

- Ông hãy vào nói với họ có người đến thăm, chắc chắn họ sẽ mừng khi thấy ta.

Người giữ rừng vào trước báo tin, A Na Luật nhìn ra thấy đích thị là Phật đà quang lâm thì rất mừng rỡ. Ba người vội vàng ra nghinh tiếp. A Na Luật đỡ y bát, Bạt Đề trải tòa, Kiếp Tân Na múc nước rửa chân. Đức Thế Tôn được sự đón tiếp thành kính của ba vị đệ tử, ngài rửa chân xong liền an tọa, hỏi thăm về cảnh sinh hoạt và sự tu tập, ba vị thật tình trình bày. Đức Thế Tôn nghe xong hoan hỷ khen ngợi:

- Các ông tu hành hòa hợp như thế, cuộc sống đầy an lạc, không tranh cãi trầm tịch, nhất tâm nhất đức, một thầy một thầy tu, như sữa hòa với nước, trên đời không có cái nào đẹp hơn.

Đức Phật khen xong lại nói thêm về sự tu hành trong kiếp quá khứ để sách tấn ba người. Từ một nơi gây gổ đến một nơi hòa bình như chốn này, đức Phật rất hoan hỷ, đối với sự thăm hỏi bất ngờ của Thế Tôn, A Na Luật thật là vui mừng phấn khởi.
  • 8. CẢM HÓA ĐẠO TẶC
Sau khi chứng thiên nhãn, Tôn giả A Na Luật không phải hoàn toàn trong chốn rừng núi lo tu tập phận mình, trong tâm Tôn giả nghĩ rằng, hôm nay ta được niềm vui này đều nhờ ân đức của Phật, muốn báo đáp ân ấy ta nên hoằng pháp lợi sinh, ta nên đi hóa đạo những nơi chưa có người bố giáo.

A Na Luật bề ngoài có vẻ lạnh lùng, nhưng trong tâm nhiệt tình vô hạn, từ hoàng cung vua chúa, đến phủ đệ của trưởng giả, đều lưu dấu vết giáo hóa của A Na Luật, thôn trang cũng thấy bóng hình Tôn giả.

Xóm Ma Na Đề ở nước Chiêm Bà (Campa) có người đau nặng, nghe Tôn giả A Na Luật thuyết pháp liền dứt hết buồn lo phiền não, tự nhiên mạnh hẳn. Đối với người bệnh, Tôn giả thuyết pháp an ủi thường thường rất có hiệu quả. Tôn giả cũng thích thăm viếng người bệnh luôn.

Từ việc đem lại niềm an vui cho bệnh nhân, đối với việc cảm hóa kẻ hung ác hồi đầu, Trường giả A Na Luật cũng có nhiều biện pháp.

Như trước đã kể, khi A Na Luật ngủ đêm tại một nhà thường dân, đã bị thiếu nữ trong nhà dụ dỗ lôi kéo, từ đó Tôn giả phát nguyện không ghé nhà ai ban đêm. Điều ấy đối với một vị Tỳ kheo đi hóa đạo thật có nhiều việc bất tiện, nhưng A Na Luật đã quen với nếp sống đơn giản, ngày ăn một bữa, dưới cây ngủ một đêm, đó là chuyện thường.

Một hôm, A Na Luật đang du hóa tại một làng quê, chiều tối thì đi ra khu rừng kế cận tọa thiền. Hôm ấy, trên không trăng soi mờ nhạt, mặt đất in bóng cây lưa thưa, một vài ngôi sao băng qua bầu trời, gió thổi lao xao, Tôn giả khép mắt ngồi yên, đợi trời rạng đông.

Đêm càng sâu càng vắng, bóng dáng Tôn giả chìm lẫn trong rừng cây, im phăng phắc. Bỗng từ xa có nhiều tiếng người xì xào bước về phía Tôn giả. Tôn giả khẻ tằng hắng, cả bọn đều dừng lại cách ngài không xa, Tôn giả chú ý xem họ là ai. Té ra đây là một bọn cường đạo vừa đi ăn hàng về, định tụ tập trong rừng này chia chác với nhau. A Na Luật thở dài một tiếng. Bọn cường đạo biết có người, một tên trong bọn lên tiếng:

- Các bạn! Chúng ta bị lộ rồi, thiệt xúi quẩy, phải giết ngay tên ấy mới được.

Cả bọn rút dao ra, cầm lăm lăm trên tay sáng ngời. A Na Luật nói lớn:

- Các ngươi muốn giết ta, hãy đến giết đi, nhưng ta chết rồi, mấy người cũng không toàn mạng!

Bọn cướp nghe nói kinh hãi, đưa mắt nhìn nhau, chẳng biết đối phó ra sao. Tên đầu đảng xem xét hồi lâu mới nói:

- Ông là ai? Lại chen vào phá hoại việc làm của chúng ta đêm nay?

A Na Luật trang nghiêm trả lời:

- Ta là Sa môn đang tịnh tọa tại chỗ này, bảo rằng ta thấy các ngươi làm quấy thì được, còn nói ta phá hoại việc của các người thì không đúng.

- Ông sẽ đi tố cáo chúng ta phải chăng?

- Ta chẳng cần đến quan phủ tố cáo làm gì. Tuy ta không báo cáo các ngươi, quan trên không biết hành động các ngươi, nhưng nhân quả báo ứng chẳng tha các ngươi bao giờ. Ta thương xót cho các ngươi sau này chịu nhiều quả khổ bi thảm, đáng tiếc thay!

Lời nói của Tôn giả đánh thức lương tâm của bọn cướp, chúng liền vứt khí giới, bỏ lòng hung ác, bản chất thuần thiện hiện bày. Bọn họ sám hối sửa đổi, và lãnh thọ lời chỉ dạy của Tôn giả, đều phát nguyện quy y Phật, thay lòng đổi mặt làm người tử tế.

Sáng hôm sau. A Na Luật bảo bọn cuớp đem hết tài sản trả cho dân chúng, những nhà bị mất cướp đều cảm tạ Tôn giả, cũng nguyện quy y Phật, vâng theo lời Phật.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 9. TU HỌC BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC
A Na Luật một bề hoằng pháp, một bề lo tu học. Một hôm, Tôn giả ở lại nước Chi Đề, thôn Sấu Thủy Chử, trong lúc tịnh tọa, Tôn giả bèn suy tư: "Đạo chẳng phải do tham dục mà đạt được, cần phải tri túc mới đạt đến. Đạo không thể tìm cầu ở nơi ồn náo, chỉ ở những nơi vắng vẻ an nhàn mới thấy được đạo. Cầu đạo phải tinh cần, chánh niệm, phải đa văn và trí huệ mới làm xong.

Đang suy nghĩ như vậy, đức Thế Tôn ở tại vườn Lệ Dã nước Bà Kỳ Sấu biết được Tôn giả, bèn đặc biệt ngự đến thôn Sấu Thủy Chử khen A Na Luật đã suy tư chân chánh, khởi niệm chân chánh. Một lần nữa, A Na Luật lại được vinh hạnh tự thân đức Phật quang lâm đến chỗ cư ngụ của mình.

A Na Luật đem vấn đề của mình suy nghĩ ra trình và thỉnh Phật ấn chứng, thỉnh Phật dạy rõ vấn đề. Tôn giả hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Sống trong tăng đoàn lục hòa, không nghĩ đến lợi riêng, quên bản ngã, điều ấy chúng con làm được, đối với chúng sanh phải hết lòng từ ái, điều ấy chúng con cũng đã biết. Nhưng, bạch Thế Tôn! Chúng tại gia rất đông, hàng đệ tử xuất gia đã đi vào xã hội để hoằng pháp lợi sinh cũng rất đông, làm thế nào để họ cũng được giác ngộ, tấn nhập Niết Bàn. Xin đức Phật từ bi khai thị.

Đức Thế Tôn bèn hoan hỷ giảng Bát Đại Nhân Giác:

- A Na Luật, ông hỏi điều ấy rất hay, ông đã nghĩ đến vấn đề cho người tu học Bồ tát đạo, ta sẽ vì ông giảng nói Bát Đại Nhân Giác, hàng đệ tử Phật nên chí thành tụng niệm ngay cả ngày lẫn đêm:

* Điều thứ nhất: Các ông đối với thế gian và nhân sinh nên quán vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, cần rời xa sanh tử, cầu giác ngộ, cần phải quán sát như thế.

* Điều thứ hai: Các ông cần phải biết căn nguyên của khổ, vốn là đối với tham dục thế gian không chịu rời bỏ. Các ông nên ít muốn vô vi, mới được thân tâm tự tại.

* Điều thứ ba: Các ông cần xét kỹ tâm không biết chán đủ của mình, suốt ngày lo tham cầu mà tạo tội, nếu có thể an bần thủ đạo, tri túc thường lạc, lấy trí huệ làm sự nghiệp, như thế cuộc sống mới bình an.

* Điều thứ tư: Các ông không giải đãi trong khi làm việc lành, đối với sự lợi ích cho người không nên thối tâm, tiêu diệt phiền não, hàng phục ma chướng, mới ra khỏi lao ngục của ba cõi.

* Điều thứ năm: Các ông cần phải nhận rõ sanh tử u mê rất đáng sợ, các phải để tâm nghiên cứu các học thuật, nhận rõ đạo lý rồi, nên phát tâm giáo hóa chúng sanh, đem an lạc đến cho họ.

* Điều thứ sáu: Các ông phải biết rằng người nghèo khổ rất nhiều lòng oán hận, Bồ tát phải đem tài vật cứu tế họ, dùng tinh thần an ủi họ, dạy họ không nên ghi nhớ hận thù, không nên oán trách người khác.

* Điều thứ bảy: Các ông trong cuộc đời đừng để cho ngũ dục đánh ngã, không kẻ là xuất gia hay tại gia, cần phải đừng nhiễm đắm thế lạc, cần có nếp sống thanh tịnh cao khiết.

* Điều thứ tám: Các ông đừng làm kẻ ích kỷ, nên phát tâm Đại thừa độ khắp tất cả chúng sanh, nguyện cho chúng sanh thoát khổ, đừng vì riêng mình mà cầu an lạc.

Nhân lời thưa hỏi của Tôn giả A Na Luật, đức Phật đã giảng tám điều cần yếu cho người tu học Bồ tát đạo, rất nhiều người theo đó tu hành, cải thiện sinh hoạt, khiến cho nếp sống trở nên an lạc tự tại.

Ngày hôm khác, A Na Luật nhập định tư duy về lời dạy của Phật trong Bát Đại Nhân Giác, Tôn giả nghĩ: "Pháp môn này là pháp thiểu dục tri túc, chẳng phải pháp không tri túc; là pháp viễn ly, chẳng phải là pháp quần tụ; là pháp tinh tấn chẳng phải pháp giải đãi; là pháp chánh niệm, không phải pháp vọng niệm; là pháp tịch tịnh, không phải là pháp sân nhuế; là pháp trí huệ, không phải là pháp ngu si".

Suy tư của Tôn giả hòa điệu với lời dạy của đức Phật, như một khúc hợp tấu nhịp nhàng về chân lý của vũ trụ, về con đường tu tập hạnh giải thoát.
  • 10. CÂU CHUYỆN TRONG NHỮNG NĂM CUỐI
Tôn giả hoạt động bên ngoài tăng đoàn như thế nào thì trong giáo đoàn đức Thế Tôn cũng đãi ngộ Tôn giả như thế đó, cuộc đời của Tôn giả nhất định có nhiều sự tích huy hoàng, hiện tại chúng ta không có tài liệu để thuật lại, chúng ta chỉ biết rằng Tôn giả cũng như các vị Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên... các đại đệ tử đều như nhau trong tăng đoàn.

A Na Luật diệt độ lúc nào? Ở đâu? Chúng ta không biết rõ. Song chúng ta có thể biết chắc khi đức Thế Tôn nhập Niết Bàn tại thành Câu Thi Na, rừng Ta La Song Thọ, Tôn giả A Na Luật và An Nan đều có mặt bên cạnh.

Lúc ấy nhằm ngày rằm tháng hai, trên đỉnh núi phía Tây trăng tròn vằng vặc, đức Thế Tôn nằm giữa hai cội Ta La, toàn thân phủ sắc trắng, các đệ tử vây quanh bốn bên đều quỳ lớp lớp, đức Phật đã dạy lời tối hậu, đêm tĩnh mịch không có một tiếng thở mạnh. Ngài dặn dò cặn kẽ các đệ tử nên trì giới, tu tâm, giữ gìn khẩu nghiệp, nhẫn nại, thiểu dục, tinh tấn..., những điều này đã ghi lại tường tận trong kinh Di Giáo.

Cuối cùng, như còn lo ngại cho hàng đệ tử về sau, đức Thế Tôn hỏi:

- Này các Tỳ kheo! Đối với pháp ta đã giảng dạy, các ông gắng giữ đừng quên, dù chỉ một phần trong muôn ngàn. Ta như lương y biết bệnh cho thuốc mà lành bệnh hay không, chẳng phải lỗi ở thầy; ta như người dẫn đường tài giỏi, dẫn người đến đường lành, đi cùng không đi chẳng phải lỗi ở người hướng dẫn. Này các Tỳ kheo! Những pháp Tứ đế, Mười hai Nhân duyên ta đã nói ấy, đều là chân lý ta chứng ngộ, là đèn sáng cho thế gian, là thuyền từ của biển khổ. Người nào hiểu rõ không còn nghi ngờ đối với Tứ đế, Mười hai Nhân duyên là đã vào đạo. Nay ta sắp nhập Niết Bàn, nếu các ông còn có điều nghi ngờ hãy mau ra thưa hỏi, ta sẽ giải thích cho.

Đức Phật đã gần giờ ngài nhập Niết Bàn, nên ngài tha thiết hỏi đi hỏi lại ba lần trong đêm vắng lặng, đại chúng đều lặng thinh không một lời thưa hỏi, đó là vì Phật sắp Niết Bàn nên vỗ về an ủi các đệ tử, và cũng vì các đệ tử đối với pháp Tứ đế, Mười hai Nhân duyên đã biết rõ không còn nghi, đại chúng đều là những đệ tử theo Phật lâu năm đối với pháp căn bản không còn chỗ nào không hiểu. Lúc ấy Tôn giả A Na Luật là người đại diện đủ tư cách trong lúc đức Thế Tôn sắp Niết Bàn, quỳ gối hữu, chắp tay cung kính thay cho đại chúng, bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đệ tử chúng con đều đã hiểu sâu Tứ đế, Mười hai Nhân duyên là chân lý trụ sinh. Trên thế gian này, mặt trời có thể lặn, mặt trăng có thể nóng, tuyết sơn có thể biến thành biển cả, đại địa có thể thành gò đất, nhưng giáo pháp Tứ đế, Mười hai nhân duyên của Phật nói không thế khác.

Đức Thế Tôn an tịnh nghe A Na Luật thưa xong, trên gương mặt lộ vẽ hoan hỷ, câu trả lời cuối cùng của A Na Luật đáp ứng được sự lưu tâm của ngài trong bốn mươi chín năm hành cước hóa độ chúng sanh.

Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, trong số năm trăm vị đại A La Hán kết tập kinh điển trong núi Kỳ Xà Quật, nhất định có Tôn giả A Na Luật, nhưng nói đến sự tích của Tôn giả về sau, không thấy lưu truyền thật là một điều đáng tiếc!

Tôn giả A Na Luật có ý chí kiên cường không lay chuyển, một buổi thùy miên mà nghe lời răn dạy, từ đó cho đến khi mù mắt không hề thối tâm, mức tinh tấn của Tôn giả đến như thế thiệt là cao vòi vọi khiến người ta cảm thán không thôi! Mất nhục nhãn mà được thiên nhãn, tu hành và truyền đạo an tường tự tại, thật không hổ là vị thượng thủ trong giáo đoàn.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.
Sửa lần cuối bởi Nguyenthu vào ngày 07/09/20 04:53 với 1 lần sửa.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

TÔN GIẢ LA HẦU LA
MẬT HẠNH ĐỆ NHẤT
  • 1. CẬU BÉ HẠNH PHÚC
Đức Phật của chúng ta, khi còn là Thái Tử của Vương thành Ca Tỳ La, đã kết hôn với công chúa Da Du Đà La thành Cầu Lợi. Vào năm Thái tử và công chúa mười chín tuổi, sanh hạ La Hầu La, thái tử rất vui mừng, nhưng đó không phải là sự vui mừng như tình thường người đời khi sinh con. Vì Thái tử đã nhiều lần xin vua cha đi xuất gia đều không được chấp thuận. Vua Tịnh Phạn có nói: "Trừ phi có được đứa cháu đích tôn thì mới cho phép Thái tử xuất gia". Hiện tại thái tử đã có La Hầu La như ý phụ vương, nguyện vọng xuất gia sẽ đạt được, bảo sao thái tử không vui mừng.

Trong đêm Thái Tử sắp rời hoàng cung, ngày mùng tám tháng hai, lúc ấy La Hầu La mới sanh được bảy ngày. Vương phi Da Du Đà La đang ôm La Hầu La trong tay và nằm ngủ. Thái tử vén rèm nhìn hai người lần cuối và quay lưng, leo lên lưng ngựa, vượt thành ra đi. Từ đó, La Hầu La đã vắng bóng người cha thân yêu của thế gian.

Nhưng, thái tử xuất gia thành Phật, thân phụ đổi thành sư phụ, về sau độ La Hầu La thành chánh quả, đó mới thật là ông cha đệ nhất của thiên hạ.

La Hầu La vắng bóng cha, nhưng được mẹ và ông nội thương yêu, là vương tôn độc nhất vô nhị. Chuỗi ngày vô tư lự trôi qua trong cung, đến khi vừa hiểu biết, trong tâm hồn trẻ thơ của La Hầu La cũng cảm thấy không có cha là một điều đáng buồn. Nhưng bù lại, cậu bé được mẫu thân rất mực cưng chiều, đó là niềm vui duy nhất của La Hầu La, là nguồn an ủi, là người che chở cho cậu. Trong thâm cung vắng vẻ, La Hầu La cũng là nguồn hy vọng của vương phi, hai mẹ con nương nhau cùng sống qua năm tháng.

Có người nói, Da Du Đà La là phận nữ nhi khổ mệnh, La Hầu La là đứa bé đáng thương, nhưng đó là nói theo thường tình thế gian, nỗi khổ tâm, đáng thương của họ chỉ trong thời gian ngắn, hễ có hy sinh lớn tất có thành tựu kết quả lớn. Về sau, nhờ sự hóa độ của đức Phật, Da Du Đà La đã xuất gia và được khai ngộ, La Hầu La xuất gia được chứng quả, đó mới là bậc nữ lưu vinh hạnh nhất, là đứa bé hạnh phúc nhất.

Trước giờ cáo biệt, thái tử cũng định bế đứa con đang ngủ một tý, nhưng sợ làm động Da Du Đà La thức dậy, lại cản trở việc xuất gia. Nên khi nhìn con lần cuối, ngài đã nói: "Hãy đợi đến khi ta thành Phật, sẽ trở lại thăm con!" Đức Phật xem tất cả chúng sanh như La Hầu La, một La Hầu La không quan trọng bằng vô số La Hầu La đang trông đợi tình thương của Phật. Đức Phật đã ban cho chúng sanh bao nhiêu lòng từ bi, thì ở trong hoàn cảnh của La Hầu La, lại càng dễ được hưởng lòng từ bi của Phật. Cho nên chúng ta đừng cho rằng việc La Hầu La vắng bóng phụ thân từ thuở nhỏ là đáng thương. La Hầu La là con của bậc Thánh, được nuôi dưỡng trong tình thương cao rộng như trời đất, mới là cậu bé hạnh phúc nhất đời.
  • 2. CHÚ BÉ KHÔNG BIẾT MẶT CHA
Đức Thế Tôn thành đạo được ba năm, từ nước Ma Kiệt Đà phương Nam về thăm cố hương. Trên từ vua Tịnh Phạn, dưới đến nhân dân dòng họ Thích, đều ra ngoài thành nghinh đón đức Phật, chỉ có Da Du Đà La và La Hầu La không tham dự trong hàng người ấy.

Trong tâm bà Da Du nghĩ thầm: "Khi ngài đi xuất gia, ta đã vì ngài mà chịu hết mọi nỗi khổ. Ngài mặc y phục bạc màu, ta ở trong cung cũng mặc giống ngài; ta nghe ngài tu khổ hạnh ăn mỗi ngày một bữa, ta cũng tập làm theo. Ta đối với ngài như vậy thật hết lòng, nếu ngài còn nghĩ đến ta, tự nhiên sẽ đến cung thăm ta".

Mười năm không gặp Phật, lòng Da Du Đà La cũng như mọi người đều muốn diện kiến ngài, nhưng vì lễ phép, vì tự tôn, bà phải nhẫn nại. Bà ngồi trên lầu cao nhìn ra, sẽ thấy được cảnh mọi người nghinh đón đức Phật.

Cậu bé La Hầu La lên mười, đến nói với mẹ:

- Má à! Ba con đã về! Ông nội biểu con cho má hay.

La Hầu La ngây thơ, lúc ấy nào hiểu được tâm sự của mẫu thân, cậu chỉ thấy má mình hôm nay sao nghiêm nghị quá, nhưng dầu sau cậu cũng là con yêu, nên lại ngây ngô hỏi:

- Nè má! Má coi người ta ở ngoài cung điện nhiều biết bao nhiêu, ba con nhất định cũng ở trong đó, ba con ra sao?

Câu nói từ miệng cậu bé, không biết hình dáng ba mình ra sao, càng khiến Dia Du Đà La thương tâm. Nỗi lòng của người lớn, trẻ con hoàn toàn không thể biết.

Bà Da Du một tay kéo La Hầu La bên mình, chỉ ra cửa, mắt rướm lệ nói:

- Con nhìn xem! Trong số các thầy Sa môn kia, người có vẻ trang nghiêm nhất chính là phụ thân của con.

La Hầu La mở to đôi mắt, nhìn theo tay mẹ.

- Con chẳng nhận được phụ thân đâu, con chỉ biết có ông nội, còn người nữa là mẫu thân yêu quý thôi.

Một giọt nước mắt của bà rơi xuống mái tóc La Hầu La, bà nắm tay con trở lui vào cung.

Xa cách mười năm, hôm nay Da Du Đà La mới thấy lại đức Phật một lần, mười năm không tin tức thoáng qua như giấc mộng. Trong tâm tư của bà, như mặt nước yên tĩnh bị ném trúng một viên đá, những gợn sóng lao xao. Đức Phật biết tâm tưởng của bà, nên cùng Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên vào cung thăm viếng.

Cuộc gặp gỡ giữa một đấng Chánh giác và một vương phi mỹ lệ khiến lắm kẻ lưu ý. Đức Thế Tôn nghiêm trang yên lặng một chút, từ bi, thương xót nhìn Da Du Đà La đang quỳ dưới chân, La Hầu La quỳ bên cạnh Da Du trăm mối ngổn ngang trong lòng, xúc động rơi nước mắt, bà cũng biết giữa đức Phật và bà có một sự ngăn cách không thể vượt qua. Đợi cho Da Du Đà La bình tĩnh lại, đức Thế Tôn mới chậm rãi nói với bà:

- Để cho nàng chịu nhiều đau khổ, tuy đó là sự thiếu sót của ta, nhưng ta đã vì tất cả chúng sanh mà ra đi, hôm nay ta đạt được bổn nguyện của ta trong nhiều kiếp, nàng hãy hoan hỷ cùng ta.

Đức Phật nói xong, lại nhìn sang La Hầu La, từ hòa vỗ về cậu:

- Thật mau quá. Con đã lớn như thế ư!

Đức Phật dường như rất vô tình mà cũng dường như rất tình cảm, thái độ của ngài, lời nói của ngài đã khai thị làm cho Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên nghe xong tưởng chừng như phải khóc một trận mới hả.

La Hầu La, bây giờ chẳng biết phải gọi phụ thân như thế nào. Xưng hô là ba ư? Đấy là một bậc Thánh trang nghiêm, tự miệng cậu bé chẳng dám gọi như thế. Xưng hô là Phật đà, chẳng biết trúng hay không. Nhìn bao nhiêu vị Tỳ kheo, Sa môn đi theo đức Phật, trong tâm cậu bé thông minh ấy đã khởi nghĩ: Đức Phật chẳng là phụ thân của một mình ta. Phật là bậc đại từ phụ của tất cả chúng sanh!

Chỉ có mười tuổi, đã chịu nguyện đem phụ thân của mình hiến cho chúng sanh là đấng cha lành, thật là một cậu bé chẳng tầm thường.
  • 3. SA DI ĐẦU TIÊN
Đức Thế Tôn ở tạm trong hoàng cung vài ngày, và phen này, trong cung điện vắng bóng cung nữ, chẳng có yến tiệc rượu chè, chỉ có một ngàn vị Tỳ kheo theo Phật. Cung điện hoàng gia tạm thời trở thành tăng phòng tịnh xá.

Đức Thế Tôn biết các Tỳ kheo sơ học, nếu ở lâu trong vương cung, dễ sinh tâm so sánh với lối sống đạm bạc của tăng đoàn, nên chỉ vài ngày sau, ngài đưa đại chúng về trụ tại rừng Câu Ni Đà ở cách thành Ca Tỳ La không xa.

Tuy ở Câu Ni Đà, nhưng đức Thế Tôn cũng thường về hoàng cung trì bát khất thực, hoặc thuyết pháp. Cậu bé La Hầu La ngây thơ một cách dễ thương, thân mật nói với ngài:

- Phật đà! Con rất thích được ở chung với ngài.

Câu nói ấy đã biểu lộ phụ tử tình thâm, đức Thế Tôn cũng trả lời:

- Rồi cũng có ngày ta cho con sống gần bên ta.

Phật nói câu ấy không lâu, quả nhiên La Hầu La xuất gia theo luôn bên ngài.

Nguyên là vì Da Du Đà La thường xuyên khuyến khích La Hầu La thêm hoạt bát, mặc quần áo đẹp cho và bảo con rằng:

- Con hãy theo phụ thân xin tài sản đi, cha con có những châu báu mà chúng ta chưa được thấy!

Do đó, La Hầu La thường chạy theo đức Phật nói:

- Phật đà! Cho con gia tài.

Một hôm, đang lúc đức Thế Tôn khất thực trở về rừng Ni Câu Đà, ngài đi trước, La Hầu La chạy theo sau, chẳng có ai ngăn cản cậu, cậu cứ lẽo đẽo theo sau Phật, kêu:

- Cho con gia tài đi! Cho con gia tài đi!

Da Du Đà La nhìn thấy đứa con duy nhất đi sau lưng Phật, rất sợ La Hầu La bị đưa xuất gia, bất giác rơi nước mắt.

Đức Phật về rừng, gọi Xá Lợi Phất đến nói:

- Xá Lợi Phát! Cậu bé La Hầu La cứ theo ta xin gia tài, ta không muốn cho y thứ tài sản và hạnh phúc mong manh, ta muốn cho y bảo bối vô giá, này Xá Lợi Phất! Ông hãy cho y xuất gia, làm Sa di đầu tiên của tăng đoàn!

Đức Phật nói xong, gọi Mục Kiền Liên cạo tóc cho cậu, dạy lễ bái Xá Lợi Phất làm thầy, truyền giới Sa Di cho La Hầu La, đó là khởi nguyên của chúng Sa di.

La Hầu La vốn là tất cả hoài bảo của bà Da Du, bây giờ đã gia nhập tăng đoàn, đó cũng là dụng ý của đức Phật. Khi còn là thái tử, hạ sanh La Hầu La, ngài đã rời bỏ ngôi vị ra đi và đắc thành Phật quả, thì vương vị mai sau của nước Ca Tỳ La Vệ, nhất định sẽ về tay La Hầu La. Nhưng chủ trương của đức Phật, để cho một đứa bé con làm chủ bàn dân thiên hạ là chuyện không thể được, cho nên thừa cơ hội, ngài phương tiện cho con xuất gia.

La Hầu La xuất gia là một điều đau buồn cho Da Du, cậu bé là nguồn hy vọng của bà, bà thương quý cậu hơn cả thân mình, thái tử đã ra đi, bây giờ con yêu cũng lìa bỏ, đối với bà thật là trời sầu đất thảm. Chúng ta cũng có thể đồng ý với bà Da Du trách đức Phật nhẫn tâm, để cho bà chịu nhiều đau khổ quá đáng. Nhưng chân lý và tình cảm là hai lối trái ngược nhau rất xa, phải hàng phục được tình cảm yếu đuối của thế nhân, mới khế hợp được với chân lý pháp tánh vậy.
  • 4. TUỔI TRẺ NGHỊCH NGỢM
La Hầu La xuất gia làm Sa di rồi, vương phi Da Du cũng đành chịu không biết làm sao hơn. Vua Tịnh Phạn thông cảm cho nỗi khổ tâm của bà, bèn tìm đến Phật yêu cầu một điểm:

- Bạch Thế Tôn! Mong rằng ngài quy định từ nay về sau, các người trẻ tuổi xuất gia phải được sự đồng ý cho phép của cha mẹ.

Đức Phật hoan hỷ nhận lời.

Da Du Đà La chẳng còn hững thú gì trên cõi đời này, tất cả đều khô héo. Về sau bà Kiều Đàm của Phật là phu nhân Kiều Đàm Di xuất gia làm tỳ kheo ni. Da Du cũng theo đoàn nữ họ Thích đến Tỳ Xá Ly xuất gia. Ban đầu, bà không cảm thấy chút gì an lạc khi sống trong tăng đoàn vắng lặng, nhưng nhờ đức Thế Tôn cảm hóa, chẳng bao lâu bà được khai ngộ, khôi phục lại niềm vui, cũng sinh hoạt bình thường an ổn tự tại trong Phật pháp. Bà rất vui mừng, rất cảm kích đức Thế Tôn. Đức Phật cũng hoan hỷ, đến lúc ấy ngài mới hết trách nhiệm đối với bà.

Chú Sa di La Hầu La còn quá nhỏ, không thể bắt buộc tu hành giống như người lớn được. Ít lâu sau, khi tăng đoàn có chế độ Sa di, Xá Lợi Phất cũng thâu một chú nhỏ là Sa di Quân Đầu, và hai chú bé thường chơi chung với nhau. Lúc vắng người, cả hai cùng bày những trò chơi trẻ con để đùa nghịch.

Một cậu bé trên mười tuổi, mỗi ngày sống trong tăng đoàn nghiêm túc, nếu như đó là ý nguyện của chú bé thì không nói chi, như nếu vì hoàn cảnh ép buộc, thì tâm lý sẽ có nhiều thay đổi. La Hầu La xuất gia sống trong tăng đoàn không thấy vui vẻ gì, nhưng ngoài mặt không để lộ vẻ gì bực bội. Một thiếu niên khoảng trên mười lăm tuổi, đối với sự chỉ dạy của người lớn tự nhiên là vâng theo, nhưng dưới khoảng tuổi ấy, theo bản năng tự nhiên của cậu, sẽ có những bất mãn, những tư tưởng phản kháng lại. Khi La Hầu La được mười bảy, mười tám tuổi tánh tình rất ôn hòa, nhiệt tâm trong công tác, nhưng vào những năm ban sơ tuổi nhỏ, La Hầu La cũng như bao trẻ con khác, ưa dối gạt người.

Lúc ấy, La Hầu La ở rừng Ôn Tuyền ngoài thành Vương Xá, có nhiều quan đại thần, trưởng giả, cư sĩ đến hỏi thăm Thế Tôn hiện ở đâu, cậu thường tìm cách nói gạt để trêu ghẹo mọi người. Nếu đức Phật đang ở Tịnh Xá Trúc Lâm thì La Hầu La lại nói ngài ở núi Kỳ Xà Quật. Đức Phật ở tại núi Kỳ Xà Quật thì cậu nói gạt rằng Phật ở tịnh xá Trúc Lâm. Hai nơi ấy cách nhau khoảng hai dặm, khiến thiên hạ cứ đi tới đi lui mệt nhừ, mà rốt cuộc không gặp được Phật. Khi họ thất vọng quay về, La Hầu La còn cười nhạo:

- Các ông không gặp được Phật sao?

- Đại đức! Ngài còn cười nhạo bọn tôi nữa ư?

- Ai trêu chọc các ông? Tôi lo cho các ông thôi chứ?

Cậu bé La Hầu La nghịch ngợm, không bao giờ nhận lỗi của mình.

Con nhà giàu có, thế lực thì hay ỷ lại vào tiền của, địa vị của cha mẹ ưa làm chuyện bậy bạ. La Hầu La vốn là cháu vua Tịnh Phạn, con Phật, tuy xuất gia trong tăng đoàn bình đẳng nhưng vẫn là con nít, lại được nhiều người sủng ái, nên theo ý tôi, cậu bé có tập khí kiêu mạn, cũng là tâm lý chung.

La Hầu La gạt mọi người một lần, hai lần, thiên hạ còn bị lầm, nhưng sau vài lần mọi người đều biết, và tiếng đồn La Hầu La nói dối, chọc ghẹo mọi người đến tai Phật. Đức Thế Tôn không vui chút nào, một hôm ngài đích thân đến rừng Ôn Tuyền, răn dạy La Hầu La một phen.
  • 5. LỜI RĂN CỦA PHẬT
Hôm ấy, đức Thế Tôn đến chỗ ở của La Hầu La, với dáng hết sức oai nghiêm. La Hầu La không ngờ vội chỉnh y ra đón Phật. Đợi cho Thế Tôn an tọa, cậu đem nước đến cho Phật rửa chân. Đức Phật không nói một lời rửa chân xong, bèn chỉ nước dơ trong chậu hỏi La Hầu La:

- Này La Hầu La! Thứ nước do bẩn này có thể đem uống được không?

- Bạch Thế Tôn! Nước rửa chân rất dơ, không thể uống được.

- Ông cũng giống như thứ nước đó! - Đức Thế Tôn quở: Nước vốn trong sạch, rửa chân xong bèn trở nên cáu bẩn, giống như ông là vương tôn, lìa bỏ mọi thứ vinh hoa phú quý tạm bợ của thế gian, xuất gia làm Sa môn, tuy chưa thọ giới tỳ kheo, nhưng ông đã thọ mười giới Sa di. Ông không tinh tấn tu tập, không để tâm thanh tịnh, không giữ miệng cẩn thận lời nói, dối gạt chọc ghẹo người, cấu uế của tam độc đầy dẫy trong tâm ông, giống như nước sạch bị dơ bẩn một thứ.

Chưa bao giờ Thế Tôn nghiêm nghị như vậy, La Hầu La cúi đầu chẳng dám ngó Phật, đức Phật bảo đem nước đổ đi, cậu bé mới nhúc nhích. Đợi La Hầu La đổ hết nước xong, Phật lại hỏi:

- La Hầu La! Ông đem cái chậu này đựng cơm được không?

- Bạch Thế Tôn! Chậu đựng nước rửa chân không thêm đem đựng cơm, vì chậu đã dơ, đầy cáu ghét không thể đựng nước uống được!

- Ông cũng giống cái chậu đó, tuy làm Sa môn thanh tịnh mà không tu giới, định, huệ; thân, khẩu, ý không thanh tịnh, chứa đầy cấu uế không chân thật, thức ăn đạo lý làm sao nhét vào tâm ông.

Phật nói xong lấy chân đá nhẹ cái chậu mấy vòng, La Hầy La thấy thế hoảng sợ. Phật lại nói:

- La Hầu La! Ông sợ cái chậu này bị đá bể phải không?

- Bạch Thế Tôn! Không ạ. Chậu rửa chân là đồ vật xấu, có bể cũng không sao.

- La Hầu La! Ông không tiếc cái chậu này, giống như mọi người không thương mến ông. Ông xuất gia làm Sa môn, không giữ oai nghi, nói dối đùa ghẹo, ai mà thương ông cho được. Không ai quý tiếc gì ông, cho đến lúc ông chết mà ông không hối cãi, lại càng chìm trong mê mờ.

La Hầu La sợ toát mồ hôi, xấu hổ muốn độn thổ, phát nguyện từ nay về sau cố gắng sửa đổi tâm tánh.

Đức Phật răn dạy xong, lại nói thêm một ví dụ cho La Hầu La nghe:

- Đời quá khứ, có một quốc gia nọ nuôi hai con voi lớn dũng mãnh thiện chiến. Mỗi khi nhà vua cử binh ra trận, lại trang bị áo giáp cho chúng. Ngà voi mang giáo nhọn, bên tai dắt kiếm bén, bốn chân đều có dao sáng ngời, sau đuôi lại cột thêm gậy sắt. Tuy mang nhiều vũ khí như thế, nhưng mỗi khi giao chiến chúng đều cuốn vòi dấu kín, vì đó là chỗ nhược nếu để trúng tên liền chết ngay, vì muốn giữ mạng sống nên phải giữ kỹ chiếc vòi.

La Hầu La, ông cũng phải như voi kia giữ kỹ chiếc vòi, cẩn thận giữ gìn lời nói, mỗi khi mở miệng nói đùa như voi bị thương, huệ mạng của ông sẽ mất, không được mọi người thương mến, không được người trí ưa thích, đến khi lâm chung sẽ bị rơi vào ba đường khổ.

Đức Thế Tôn dùng hết tình hết ý, khẩn thiết, nghiêm trang răn dạy, mỗi lời mỗi câu đều in sâu vào tâm La Hầu La, chú bé phát nguyện từ này sẽ sửa đổi.

Như hạt lúa chúng ta tuy xây thành hạt gạo, nhưng còn dính bụi cám, phải vo chà sạch sẽ thì gạo trắng mới ra gạo trắng, La Hầu La tuy có bản tính tốt ngoan ngoãn, nhưn g phải có pháp thủy của đức Thế Tôn tẩy rửa một phen mới trở nên thanh tịnh vô nhiễm được.

Từ đó La Hầu La trở thành một người khác.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 6. SA DI CÓ THỂ Ở CHUNG VỚI TỲ KHEO
Khi đức Thế Tôn ở tại vườn Cù Sư La, La Hầu La cũng ở trong đó với Sa di Quân Hầu, cũng theo sư phụ Xá Lợi Phật hầu Phật nghe pháp.

Mỗi ngày, La hầu La dậy sớm quét dọn trong ngoài sạch sẽ rồi mới tu tập theo lời Phật dạy. Một khu vườn rộng lớn, quét cho sạch hết phải tốn biết bao thì giờ. Hôm nọ, La Hầu La quét dọn xong bèn đi nghe Phật thuyết pháp, đến chiều mới trở về phòng. Lúc ấy phòng của La Hầu La bị thầy tỳ kheo quản lý để cho một vị tỳ kheo khác ở, những y bát tọa cụ của La hầu La đều bị bỏ ở ngoài, khách thì an nhiên ở trong phòng.

Phật đã quy định mỗi người một phòng, phòng của mình bị người khác chiếm, biết làm sao? Hơn nữa La Hầu La còn là Sa di, trong tăng đoàn Sa di phải kính trọng tỳ kheo, và Phật cũng dạy phải nhẫn nại, nên La Hầu La không dám đến hỏi thầy kia sao lại ở phòng mình. La Hầu La đứng ngơ ngơ ngoài cửa thật là tiến thoái lưỡng nan. Lúc ấy mây đen kéo đầy trời, báo hiệu sắp mưa to, La Hầu La không biết núp vào chỗ nào, bèn chui vào nhà xí, tuy có hôi hám thật, nhưng chỉ còn cách ngồi ở trong đó thôi. Lúc ấy mới thật thắm thía nỗi quạnh quẽ của tình cảnh không nhà, La Hầu La đoan tọa trong nhà xí, nỗ lực nhớ lời Phật dạy, bất cứ trong hoàn cảnh khốn khổ nào, bất cứ gặp những chuyện phiền phức gì, đều không nên khởi tâm oán hận. Sức tu của La Hầu La quả thật tiến bộ rất nhiều.

Bên ngoài mưa tuôn xối xả, nước chảy tràn xuống những chỗ trũng, có một con rắn đen ở trong hang bên cạnh, bị ngập nước bèn bò ra ngoài, dần dần bò vào nhà xí. Rắn độc miền nhiệt đới rất nguy hiểm, mà La Hầu La không hề để ý, lúc ấy sinh mạng của chú Sa di như chỉ mành treo chuông.

Đức Phật đang ở trong thất, hốt nhiên nhớ đến La Hầu La, ngài dùng thiên nhãn thấy được sự nguy hiểm gần kề, bèn ra nhà xí, đằng hắng một tiếng, bên trong cũng có tiếng đằng hắng, Phật bèn hỏi:

- Ai ở trong đó?

- Dạ! La Hầu La!

- Ra mau! Ta bảo ông đi ra!

La Hầu La không ngờ đức Phật kêu mình, vội bước ra, bất giác quỳ bên chân Phật, nước mắt đoanh tròng. La Hầu La còn nhỏ, tình cảm không khỏi yếu ớt.

Phật bèn hỏi vì sao La Hầu La lại ngồi ở trong nhà xí. La Hầu La thuật lại mọi việc. Phật bèn dạy La Hầu La hãy vào trong phòng ngài. La Hầu La vui mừng, như từ địa ngục mà bước lên thiên đường.

Trẻ con tuổi nhỏ, cắt ái từ thân, vào trong tăng doàn cần phải được các tỳ kheo chiếu cố đến. Vì duyên đó, đức Phật bèn quy định cho các Sa di, có thể ngủ chung phòng với tỳ kheo hai đêm. Tình thương của đức Phật, chỗ vi tế nhất đều lưu ý đến.

Xưa nay, sư phụ thâu đệ tử phải có trách nhiệm dạy dỗ. Thầy của La Hầu La là Xá Lợi Phất, thường bận giúp Phật giáo hóa bên ngoài, ít khi có dịp ngó ngàng đến La Hầu La. Nhưng từ khi sự kiện ấy xảy ra, Xá Lợi Phất thường gọi La Hầu La đến ở một phòng với Tôn giả.
  • 7. ĐỨC NHẪN NHỤC
Từ khi được đức Phật chỉ dạy, và lại thường được ở bên cạnh sư phụ Xá Lợi Phất, nhận được sự hướng dẫn của thầy, La Hầu La tu tiến rất nhanh.

Khi đức Phật giảng kinh, Xá Lợi Phất đều dẫn La Hầu La đi nghe, khi Xá Lợi Phất tịnh tọa, La Hầu La cũng tịnh tọa một bên; khi thuyết pháp giáo hóa, Xá Lợi Phất cũng dắt theo bên mình, dạy cho La Hầu Là những kinh nghiệm vì pháp, vì mọi người. Mỗi ngày khất thực xong, La Hầu La lại theo Xá Lợi Phất, trong tăng đoàn Tôn giả được xem như đức Phật thứ hai, thật là ân sư tôn quý của La Hầu La.

Một hôm, La Hầu La đi theo Xá Lợi Phất khất thực tại thành Vương Xá, trên đường đi gặp một tên lưu manh, hắn lấy cát ném vào bát Xá Lợi Phất, và lấy gậy đánh lên đầu La Hầu La.

La Hầu La bị thương, máu nhỏ giọt xuống y, tên lưu manh thấy vậy chẳng những không biết nhận lỗi, còn chửi:

- Mấy lão trọc, chỉ biết đi xin ăn, cứ xưng là từ bi nhẫn nhục, ta đánh lỗ đầu mày, thử xem làm gì được ta.

La Hầu La lúc ấy mười tám tuổi, đã lộ ra vẻ tức giận căm gan, nhưng Xá Lợi Phất an ủi:

- La Hầu La! Nếu thật là đệ tử Phật, cần phải có tinh thần nhẫn nhục, trong tâm không chứa niềm sân hận, phải đem lòng từ bi thương xót chúng sanh, đức Phật thường dạy chúng ta, lúc vinh dự đừng sanh lòng cao ngạo, khi bị làm nhục cũng đừng oán hận. Này La Hầu La! Nếu điều phục tâm giận tức, giữ chắc sự nhẫn nại, trên thế gian này không có gì sánh bằng người có sức nhẫn nại!

La Hầu La nghe Xá Lợi Phất khai thị, lẳng lặng đến bên ao nước, mặt nước soi bóng dáng, La Hầu La lấy tay khoát nước rửa sạch vết thương, xé một chút vải băng lại. Xá Lợi Phất theo dõi tình hình, trong lòng vừa an ổn lại thương tình.

La Hầu La nhẫn nại, an nhiên theo Xá Lợi Phất, khất thực xong, trên đường trở về mới nói với thầy:

- Con nghĩ đến vết thương trên đầu, lúc ấy khó mà bỏ qua, nhưng trên thế gian này sao lắm kẻ hung ác, đến đâu cũng gặp toàn những việc đáng chán. Con không giận đời, chỉ nghĩ đến cái cõi đời này nhiều người không biết điều. Đức Phật dạy ta nên có lòng đại từ đại bi với họ, để mặc hạng người cuồng bạo nhục mạ chúng ta. Sa môn tỳ kheo giữ hạnh nhẫn, chứa đức cao, mà người cuồng ngu trở lại khinh chê, lại đi kính trọng mấy kẻ hung dữ độc ác. Đức Phật dạy chân lý từ bi, họ trở lại cho là hôi như xác chết, như trời mưa cam lồ mà loài chó hoang chỉ ưa đồ dơ bẩn, ưa ở nơi hôi hám. Những chân lý Phật dạy, những lời nói từ bi của ngài mà đem nói với những hạng người hung dữ, không có một chút căn lành ấy, chẳng có hiệu quả gì.

Đây là lần đầu tiên, La Hầu La đem việc tu hành và ý nghĩ của mình bày tỏ với sư phụ. Xá Lợi Phất nghe xong rất hoan hỷ, đem những lời của La Hầu La về bạch lại với đức Phật. Phật cũng rất an lòng, khen La Hầu La ngày nay rất ngoan, đối với người hung ác nên có thái độ như thế, và cách nhìn đời cũng biết như vậy. Phật lại dạy thêm:

- Người không biết nhẫn, sẽ không tiếp thọ được Phật pháp, giận đời oán người là điều trái với pháp, xa chư tăng, thường luân hồi trong đường ác. Hạnh nhẫn nhục mới là hạnh an ổn, mới có thể tiêu trừ tai nạn. Người trí huệ thấy được quả sâu xa, khắc phục tâm sân hận, thường hành nhẫn nại. Tinh thần của Phật pháp, chân nghĩa của Phật pháp không giống lối nhìn của người đời. Những gì thế gian cho là cao quý thì Phật pháp cho hạ tiện, Phật pháp cho là tốt thì người đời không chịu làm theo. Trung không ưa nịnh, tà chẳng thích chánh, ác không thích đi chung với thiện. Người tham dục thì ghét người vô dục. Trong tình cảnh ấy, người tu hành chỉ có việc nhẫn nại. Nhẫn nại là duyên trợ đạo tốt nhất, có thể khiến người tu mau chứng thánh quả. Nhẫn như thuyền bè trên sông biển có thể vượt qua mọi sóng gió. Nhẫn là thuốc lành trị bệnh cứu mạng người trong cơn nguy, tu thành chánh giác, vượt qua ba cõi, được trời người kính ngưỡng, là vì tâm ta đủ sức an ổn, phải biết rằng đức nhẫn rất quý vậy.

Do duyên La Hầu La bị côn đồ vô cớ hành hung lỗ đầu, mà trong lúc tuổi trẻ máu nóng có thể nhẫn nhịn như một ông thánh khiến sư phụ rất an tâm, đức Phật cũng mừng thầm và dẫn khởi đến đoạn thuyết pháp trên. Xá Lợi Phất nghe xong vô cùng cảm động, La Hầu La càng rơi lệ, lại càng cảm kích hơn.
  • 8. LỊCH TRÌNH CHỨNG NGỘ
La Hầu La đối với chuyện bị chiếm phòng tự nguyện nhượng bộ, trên đường đi bị kẻ khác đánh trọng thương đều có thể nhẫn được, tu dưỡng cẩn mật như vậy, chỉ còn một đoạn nữa là khai ngộ.

La Hầu La thông minh khéo léo, tinh tấn tu hành khi còn Sa di ưa chọc ghẹo thiên hạ, hôm nay đã trở thành một thầy Sa môn nghi biểu trang nghiêm, vào năm hai mươi tuổi, đức Phật hứa khả cho thọ giới tỳ kheo.

Tuy còn trẻ nhưng La Hầu La đạo mạo như người lão thành, những cuộc nhóm họp đông đảo trong sinh hoạt của tăng đoàn, thầy ít khi tham dự, chỉ im lặng dụng công tu tập.

Thiệt chẳng biết La Hầu La dụng công thế nào mà chưa được khai ngộ. Nguyên nhân chính là vì thầy chưa quên được cái vinh dự lớn của mình. Dù sao, thầy cũng là con yêu của đức Phật, là cháu cưng của vua Tịnh Phạn, trừ những bậc thượng thủ ra, các tỳ kheo khác đều kính trọng thầy, ái mộ thầy, khen ngợi thầy. Được nghe luôn nhưng lời khen tặng, các thầy tu trẻ dễ động tâm, mấy ngôn từ hoa mỹ ấy đáng sợ như ác ma, khiến cho La Hầu La dụng công tinh tấn đến đâu, cũng chưa đạt quả vị.

Thậm chí có thầy tỳ kheo đã hỏi Phật về chuyện khai ngộ của La Hầu La:

- Bạch Thế Tôn! Tỳ kheo La Hầu La nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu hành, không phạm một lỗi nhỏ, vì muốn cầu khai ngộ, thầy đã tận tình buông sạch, vậy mà sao thầy vẫn chưa trừ hết phiền não, giải thoát hoàn toàn?

Đức Thế Tôn trả lời dứt khoát:

- Giữ giới tịnh tâm, giữ thân đoan chánh, nhất định có thể dứt sạch ô nhiễm, nhất định dần dần chứng quả.

Đối với việc La Hầu La chưa khai ngộ, đức Phật không mấy bận lòng. Ngài vẫn đầy tin tưởng, đợi ngày ấy sẽ đến.

Mấy phen dường như được khai ngộ mà vẫn chưa khai ngộ, La Hầu La đem chỗ tâm đắc của mình bạch với Phật. Phật dạy La Hầu La từ đây về sau nên thường cùng bạn bè đàm luận về đạo lý ngũ uẩn hòa hợp, và tự mình nên tư duy về vô thường, vô ngã, nhân quả, nhân duyên...

Một ngày nọ, vào sáng sớm, đức Phật cùng với La Hầu La cùng đi ra khỏi tịnh xá Kỳ Viên, vào thành Xá Vệ khất thực, trên đường đi, Phật quay lại bảo La hầu La:

- La Hầu La! Ông hãy quán sát sắc vô thường, thọ, tưởng, hành,thức cũng vô thường, ông xem thân tâm của mọi người và tất cả sự vật trên thế gian đều nên khởi quán vô thường, không nên chấp trước.

La Hầu La nghe vài câu dạy đơn giản như thế liền cáo biệt Phật, ngưng việc khất thực, trở về tịnh xá, ngồi kiết già một lòng suy nghĩ về ý nghĩa thâm thúy của lời Phật dạy đó. Tôn giả lại dùng từ bi quán trừ tâm sân hận, dùng bất tịnh quán trừ tâm tham dục, dùng sổ tức quán trừ tâm tán loạn, dùng trí huệ đối trị ngu si. Tôn giả vào sâu trong thiền định và cơ duyên đã chín mùi, Tôn giả ngộ đạo ngay hôm ấy.

Đức Thế Tôn khất thực trở về đến chỗ La Hầu La đang tọa thiền, lại chỉ dạy thêm:

- Nên dùng lòng từ bi để đối xử với người và sự việc, tâm lượng rỗng rang có thể dung nạp tất cả chúng sanh, mới có thể diệt ác, đếm hơi thở quán tâm, có thể đạt được giải thoát.

La Hầu La từ tòa đứng dậy, đảnh lễ Phật thưa:

- Bạch Thế Tôn! Phiền não con đã hết, con đã thấy rõ tâm mình.

Đức Phật rất hoan hỷ, còn hơn sự hoan hỷ của La hầu La. Ngài khen ngợi:

- Ta biết rất rõ điều ông vừa nói.

Trong các đệ tử ta, tỳ kheo La Hầu La là Mật hạnh đệ nhất.

Gọi là mật hạnh, nghĩa là trong ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh La Hầu La đều biết hết, đều có thể làm hết.

Nghĩ đến hồi ban đầu, La Hầu La theo Phật xin gia tài, hiện tại Tôn giả chứng ngộ là đã được Phật trao cho pháp tài vô tận. Nghĩ đến thuở nhỏ tuổi gia nhập tăng đoàn, làm bận lòng đức Phật bao nhiêu, hiện tại Tôn giả đã lìa xa mọi dục lạc trên thế gian, đạt được niềm vui chân chánh của pháp mầu. Thật là vinh hạnh cho Tôn giả.
  • 9. CHẾ ĐỘ HIẾN CÚNG TỊNH XÁ
Sau khi La Hầu La ngộ đạo, địa vị trong giáo đoàn càng được đề cao, nhất là hàng tín chúng tại gia, có biệt nhãn đối với Tôn giả. Một điều không thể phủ nhận, trong hàng tỳ kheo, La Hầu La được cúng dường nhiều nhất.

Vấn đề cúng dường nếu nồng hậu, vật chất đầy đủ sẽ làm chướng ngại việc tu đạo. Nhưng La Hầu La đã chứng thành thánh quả, những thứ bên ngoài không hệ lụy được, hễ vừa có dư một vật gì, Tôn giả đều đem cho người khác.

Một hôm, Phật đang thuyết pháp tại một thôn trong nước Ca Tỳ La, có một trưởng gia tin Phật và quy y. Ông trưởng giả này có duyên với La Hầu La, hay là vì quan niệm về địa phương, La Hầu La cũng là người Ca Tỳ La như ông, nên ông phát tâm hộ pháp cho Tôn giả, tất cả những thứ cần dùng, ông đều cung cấp đầy đủ.

Về sau, ông đặc biệt cất một tịnh xá riêng cho La Hầu La, Tôn giả cũng an trụ ở đó. Lúc ấy các tỳ kheo đi hành cước rất đông, nên tịnh xá của La hầu La luôn luôn có khách tăng ghé lại. Nhà ông trưởng giả cứ nghĩ là tịnh xá của mình bố thí, lại hay can thiệp vào việc chùa. La Hầu La thưa chuyện đức Phật, xin thỉnh ý phải làm sao? Phật dạy:

- La Hầu La ! Trong pháp ta, việc của tăng đồ thì hàng tín đồ tại gia cũng không thể quản lý. Tín chúng phát tâm cúng dường tịnh xá, không phải vì đó mà tự do can dự thao túng. Ông nên bảo với ông trưởng giả ấy, hỏi ông ta cúng dường tịnh xá với mục đích gì? Nếu thật là bố thí cho tăng già, vật đã bố thí không còn là của mình nữa. Như nếu ông ta muốn quản lý, nói cho ông ấy biết tịnh xá không phải là khách sạn. Tịnh xá do tăng trụ trì, phần cư sĩ hộ pháp thì được, quản lý thì không được.

La Hầu La đem lời đức Phật nói lại với ông trưởng giả. Thiệt là, người không hiểu rành Phật pháp, bị quyền thế ám ảnh, hoặc quá nhiệt tình mà chấp nhặt, bảo ông ta đừng xen vào chuyện tịnh xá, ông không thể hoàn toàn xả bỏ được. Từ đó tình cảm giữa La Hầu La và ông bị sứt mẻ, lúc trước ông kính trọng Tôn giả, bây giờ lại bực bội gai mắt.

Một hôm, La Hầu La có chút việc đi đến thành Xá Vệ, đúng lúc ấy trưởng giả đến thăm tịnh xá, thấy không có ai, vắng bóng Tôn giả. Thừa cơ hội ấy, ông bèn đem tịnh xá cúng dường cho thầy tỳ kheo khác. Khi La Hầu La xong việc trở về, thì tịnh xá đã thuộc về người khác, Tôn giả bèn trở lại tịnh xá Kỳ Hoàn, đức Phật bèn hỏi vì sao trở về cấp tốc như vậy. La Hầu La trình bày mọi việc, đức Phật nghe xong chẳng bằng lòng thái độ của ông trưởng giả nọ, ngài cảm khái cho những người không hiểu sâu Phật pháp mà bảo họ phải làm đúng Phật pháp thật là khó thay!

Phật liền triệu tập các tỳ kheo:

- Vật nào đã bố thí cho người khác mà thí chủ lại đem tặng lại cho các ông, các ông không được tiếp nhận.

Đó không phải là đức Phật thiên vị La Hầu La, mà vì pháp tắc trong giáo đoàn, để tránh những rắc rối về sau. Đáng buồn cho lời dạy của ngài, Phật giáo ngày nay xảy ra tranh chấp về tài sản, đều do những nguyên nhân ấy.

Khi La Hầu La còn là Sa di, phòng thất bị người chiếm đoạt, bèn vào nhà xí tránh gió mưa, không vì chỗ ở mà tranh chấp với người. Bây giờ một vị tỳ kheo ngộ đạo, được tặng cho tịnh xá, rồi tịnh xá ấy lại bị đem cho người khác, trong tâm lượng khoáng đạt của bậc thánh ấy không hề có niệm bất bình. Đến khi đức Phật quy định chế độ cúng dường tịnh xá, chúng ta lại có dịp nhắc đến chuyện xưa.
  • 10. NHẬP DIỆT
Những nhân vật oanh liệt trong tăng đoàn thuở ấy là Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, A Nan v.v... Còn La Hầu La thì không. Một người nghiêm túc trong mật hạnh trì giới chỉ im lặng tu tập, im lặng không tranh đua với thế gian. Hoặc là, vì La Hầu La quan hệ đến đức Thế Tôn, nên ngài đặc biệt hạn chế Tôn giả. Chúng ta cũng biết La Hầu La có tư cách nhu thuận, bản chất kiên cường, nhưng chúng ta thấy trong sinh hoạt của một vịtỳ kheo, Tôn giả không phải là một người sôi nổi.

Cho nên trong kinh sử không thấy ghi lại những sự tích thuyết pháp, hay nghị luận với ngoại đạo. Đúng như lời đức Thế Tôn nói, Tôn giả là một người nghiêm túc trong tế hạnh, trong giới luật, là một vị mật hạnh đệ nhất!

La Hầu La nhập diệt khi nào, cũng như năm tháng đản sanh của Tôn giả, có hai truyền thuyết. Có thuyết nói, thái tử Tất Đạt Đa năm mười chín tuổi hạ sanh La Hầu La. Có thuyết lại nói đến năm hai mươi lăm tuổi mới sinh La Hầu La. Về năm nhập diệt cũng có hai thuyết, một thuyết nói Tôn giả nhập Niết bàn trước Phật vài năm, thuyết khác nói, khi đức Phật nhập Niết Bàn, Tôn giả còn quỳ bên giường.

Ấn Độ là một nước không mấy chú trọng về lịch sử, còn Trung Hoa cũng không ích nhà phiên dịch phóng đại và tưởng tượng huyền hoặc. Những sự tích cuộc đời đức Thế Tôn và các vị thánh đệ tử được ghi chép trong kinh điển, thật cũng có ít nhiều xắt xén.

Căn cứ theo ký sử có thể khảo cứu qua kinh điển, thì tỳ kheo Da Du Đà La, mẫu thân của La Hầu La nhập diệt vào năm bảy mươi tám tuổi và La Hầu La nhập diệt được kể là sớm hơn.

Vào một buổi chiều, Da Du Đà La đã suy tư đến rất nhiều sự việc, bà nghĩ Kiều Đàm Di, Liên Hoa Sắc đều đã nhập Niết Bàn, La Hầu La cũng nhập Niết bàn. Ta sinh đồng một năm với đức Phật, năm nay đã bảy mươi tám tuổi, nghe nói đức Phật sẽ nhập Niết bàn vào năm tám mươi tuổi. Nghĩ đến chuyện ta nhập diệt đồng một lúc với ngài, tuy hiện tại đối với đức Phật chỉ có pháp tình mà không có tình riêng là khác, nhưng chuyện ấy là một điều bất kính, chi bằng ta nhập diệt sớm là tốt hơn.

Da Du Đà La được đức Phật hứa khả, hướng về Phật đảnh lễ cảm tạ, bèn hiện thần thông bay lên hư không mà đi, và đêm hôm đó bà ở trong phòng, nhập định vào Niết bàn.

Căn cứ vào ký sự nhập diệt của Da Du Đà La thì La Hầu La đã nhập diệt trước cả bà và đức Phật, và theo đó, tính tuổi của Tôn giả không quá sáu mươi, đại khái Tôn giả chỉ sống trên năm mươi năm là cùng.

Đương nhiên, đối với một vị thánh thì xem cái chết, dù sớm hay muộn cũng là chuyện thường. Bỏ sắc thân hư huyễn giả dối này, đem sinh mạng an trụ trong lý thể pháp tánh, chuyện ấy không có gì là buồn, trái lại đó là một hạnh phúc.

La Hầu La vào năm hai mươi tuổi đã khai ngộ chứng quả, cái mục đích tối hậu của đời người đã được thì khi nhập diệt nhất định là an nhiên mỉm cười mà ra đi.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

TÔN GIẢ TU BỒ ĐỀ
GIẢI KHÔNG ĐỆ NHẤT
  • 1. ĐIỀM LÀNH KHÔNG SINH
Lời dạy của đức Phật thật đa dạng và linh hoạt như khối sóng không có bờ mé. Trong Phật pháp lấy Đại thừa làm trung tâm điểm và trong pháp Đại thừa lại dùng Bát Nhã làm trung tâm. Bát Nhã là gì? Lời giải thích hay nhất cho danh từ ấy, là trí huệ hiểu biết về tánh Không.

Chữ Không rất huyền diệu khó hiểu. Nói "Có" chẳng trúng "Có", nói "Không" chẳng nhằm "Không", chẳng thể dùng ngôn thuyết, cũng chẳng thể dùng tâm tư để thấu hiểu đạo lý đó. Dưới tòa đức Phật, trong số một ngàn hai trăm năm mươi vị đại A la hán, thì Tôn giả Tu Bồ đề được xưng tụng là người Giải Không Đệ Nhất.

Nói về Tu Bồ Đề, chúng ta có thể nhìn ngay từ điềm lành thuở sơ sinh của Tôn giả, mới biết đó là một nhân vật phi phàm đặc biệt. Ngài vừa chào đời, tất cả tài bảo, dụng cụ trong nhà Tu Bồ đề bỗng nhiên biến mất, không thấy một cái nào. Người trong nhà lo sợ, vội cho mời thầy tướng đến xem. Tướng sư xem xong quả quyết:

- Đây là một hỷ sự, trong nhà sinh quý tử, tiền bạc trong nhà đều trống ngay khi cậu bé chào đời, đó là tượng trưng cho người Giải Không Đệ Nhất! Chúng ta nên đặt tên cho cậu bé là Không Sinh! Điều này rất là đại cát lợi, tương lai chú bé sẽ không bị danh văn lợi dưỡng thế gian ràng buộc, gọi chú bé là Thiện Cát cũng tốt.

Lời nói của vị thầy tướng số làm an lòng mọi người, từ đó mọi người gọi tên cậu bé là Không Sinh hay Thiện Cát. Ba ngày sau, tài bảo và vật dụng trong nhà mới trở lại như trước. Tôn giả Giải Không Đệ Nhất, mới sanh bày điềm, là một chuyện hy hữu xưa nay ít có.
  • 2. NHÀ TỪ THIỆN NHỎ BỐ THÍ
Thuở ấu niên, khi chưa quy y Phật, Tu Bồ Đề xem các pháp thế gian và đối xử với mọi người chẳng giống ai.

Tuy sanh trưởng trong gia đình giàu có, cha mẹ rất cưng chiều, nhưng từ nhỏ Tu Bồ Đề đã không nô lệ vào tiền tài báu vật. Cha mẹ cho đồng nào, cậu thường đem cho người nghèo túng. Đi đường mà gặp kẻ hành khất áo không kín thân, cậu liền cởi áo ngoài cho luôn, chỉ mặc áo ngắn quần cụt về nhà.

Cha mẹ không tiếc một vài đồng, nhưng với việc làm của cậu con yêu, thường không bằng lòng, kêu lại dạy dỗ:

- Không Sinh! Con làm như vậy không được, tiền bạc có sẵn không kể lý do gì mà đem cho người, quần áo mặc trên người cũng cởi đem cho, để trần thân thể thiệt khó coi!

Tu Bồ Đề ôn hòa, cung kính thưa với song thân:

- Con chẳng biết vì sao trong tâm con lại nghĩ rằng tất cả trên thế gian này rất quan hệ với con, thân thể mọi người cũng như thân con. Khi sanh ra đã chẳng có áo quần thì trần trụi sao lại không tốt? Đem của mình cho người, người và con sao lại không giống như nhau?

Nghe Tu Bồ Đề nói, cha mẹ cũng chẳng vui chút nào:

- Con chỉ là con nít, mà thiệt kỳ cục, có tiền không biết xài, quần áo chẳng thiết, nói lý lẽ gì đâu chẳng sợ người ta chê cười. Từ nay về sau nếu không sửa đổi, thì cha mẹ sẽ nhốt trong nhà, không cho ra ngoài nữa.

Vậy mà Tu Bồ Đề chẳng sửa đổi tánh ưa bố thí làm lành, cha mẹ bèn giữ luôn trong nhà, điều đó lại là một điều hạnh phúc cho Tu Bồ Đề, mỗi ngày cậu tìm đọc và nghiền ngẫm trong sách vở về triết học và tôn giáo của Ấn Độ đương thời, do đó với vấn đề nhân sinh có một sự hiểu biết rành rẽ, cậu thường tự hào nói với cha mẹ:

- Tất cả sum la vạn tượng trên vũ trụ đều hiện rõ trong tâm con, tâm con như hư không rỗng rang chẳng có chút gì. Nếu như trên thế gian này không có bậc thánh đại tri đại giác, thì ai có đủ tư cách để bàn luận với con về tâm cảnh của người giải thoát, ai cũng không rõ được thế giới trong tâm con.

Lời nói tự đắc của chàng thanh niên Tu Bồ Đề, cha mẹ nghe qua, lại liên tưởng đến việc kỳ lạ khi chàng mới sanh, thiệt là người khác thường lời nói cũng kỳ lạ, trong lòng song thân cũng thầm nghĩ con mình thiệt lạ đời.
  • 3. QUY Y VỚI PHẬT
Một hôm, đức Phật đến quê hương của Tu Bồ Đề giáo hóa, dân làng xôn xao truyền miệng rằng Phật đà là bậc nhất thiết trí, trên thế gian không ai sánh bằng.

Mọi lời bàn tán đến tai Tu Bồ Đề, hơn nữa cha mẹ chàng cũng theo dân làng quy y với đức Thế Tôn. Gia đình chàng chỉ có một truyền thống tín ngưỡng Bà La Môn giáo, tại sao hôm nay cha mẹ chàng lại theo mọi người dễ dàng cải giáo? Lần này đến Tu Bồ Đề thấy cha mẹ mình kỳ quái.

Một hôm, phụ thân chàng nói:

- Không Sinh! Con thường tự cho mình rất có trí huệ, đã thông chân lý nhân sinh, nhưng sánh với đức Phật con thua xa. Đức Phật chẳng những có đại trí huệ, mà cũng đại từ bi, đại thần thông, từ khi ngài quang lâm đến làng ta, người trong làng đến quy y ngài. Cha định thỉnh đức Thế Tôn về nhà cúng dường, đối trước mặt ngài con nên bỏ tâm cuồng ngạo đi nhé.

Trong tâm Tu Bồ Đề không phục chút nào, chàng nói:

- Đối với con mắt mọi người, Phật đà là bậc nhất thiết trí. Nhưng đối với con, ông ấy cũng chỉ là một người bình thường.

Tuy nói vậy, nhưng rốt cuộc Phật đà là người như thế nào? Tại sao lại có sức cảm động lớn lao đến thế? Khi bình tĩnh lại, Tu Bồ Đề đã tự thắc mắc rất nhiều và chàng không muốn đợi đức Phật đến nhà thọ trai mới tương kiến, chàng nghĩ, nếu như đức Phật bận rộn việc gì mà không đến thì sao? Cho nên chiều hôm ấy, chàng lén đi trước xem đức Phật đà ra thế nào.

Chiều tối gió mát hiu hiu, trăng thượng tuần lơ lững trên không, muôn sao nhấp nháy như cười nhạo tánh hiếu kỳ của Tu Bồ Đề. Một mình chàng đến nơi, gặp lúc đức Phật đang ngồi trên tòa cao thuyết pháp, bốn bên sáng lòa, trước mặt là hàng vạn thính chúng quỳ rạp. Ô kìa! Thân Phật dường như phóng hào quang!

"Người ấy không giống người thường, tướng mạo viên mãn, trang nghiêm", thân tướng của Phật đã vượt quá tầm tưởng tượng của Tu Bồ Đề.

Giữa khung cảnh yên tĩnh chỉ có tiếng thuyết pháp của Phật, ngàn vạn thính chúng chẳng dám thở mạnh. Phật dạy:

- Thế gian này chẳng nên đấu tranh với nhau, xưa nay vốn không phân biệt nhân ngã, mọi người đều là một thể. Tất cả các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra, chẳng có vật nào có thể độc lập mà tồn tại. Mình và vạn vật đã nương nhau để sống còn, thì việc ban bố lòng thương và ân huệ cho chúng sanh, mới xem giống như vì người, nhưng thật ra đối với chính mình đều có lợi ích lớn.

Pháp âm của Phật rất từ hòa, đạo lý ngài nói đó khiến Tu Bồ Đề cảm động. Chàng lẫn vào trong thính chúng, len lén chắp tay bái Phật.

Phật thuyết pháp xong, trở về tịnh thất an nghỉ. Tu Bồ Đề cứ đứng đó bồn chồn trước cửa thất, nghĩ muốn vào gặp Thế Tôn nhưng lại không dám.

Đức Phật biết ý chàng, bèn gọi vào:

- Anh là ai? Hãy vào trong này nói chuyện với ta!

- Con, Tu Bồ Đề, rất mong được đức Phật thâu nhận con làm đồ đệ xuất gia!

- À! Anh là Tu Bồ Đề, ta từng nghe nói anh là người thông minh nhất trong thôn. Rất tốt, người thông minh chân chánh mới có thể chân chánh tin hiểu và vâng theo Phật pháp. Cha mẹ anh biết không?

- Con nghĩ rằng cha mẹ con nếu biết chắc chắn rất vui mừng cho con được hân hạnh gặp Phật đà làm vị lão sư.

Đức Thế Tôn gật đầu hoan hỷ, từ đó Tu Bồ Đề khoác áo cà sa, thành một đệ tử khác thường trong chúng.
  • 4. XIN NHÀ GIÀU KHÔNG XIN NHÀ NGHÈO
Sau khi xuất gia, Tu Bồ Đề sống ba y một bát, mỗi sáng sớm đi vào làng khất thực, chiều đến thì theo Phật nghe pháp, tham thiền.

Chúng Tỳ kheo mỗi ngày đi khất thực, đều tuân theo pháp chế của Phật, thứ tự mà xin, dù đi một mình hay đi với chúng tăng, bất luận nhà nguời cho hay không, đều phải tuần tự qua hết.

Nhưng Tu Bồ Đề, lúc đầu lối sinh hoạt khất thực đã không đồng chúng, mỗi khi rời tịnh xá, Tôn giả đã tách đường đi riêng, Tôn giả vẫn oai nghi, nghiêm chỉnh của người đi một mình, từng bước an tường tìm chỗ mà xin cơm. Các Tỳ kheo ban sơ không lưu tâm đến việc ấy, nhưng lâu ngày mới phát giác ra trong hành động của Tôn giả có vẻ lạ thường, mọi người chú ý mới biết sự việc như thế nào.

Nguyên là, Tu Bồ Đề khất thực hành hóa, thích đến cửa nhà giàu có, Tôn giả thấy nhà cửa nhỏ hẹp, hoặc biết nhà nào kinh tế nghèo cùng thì không ôm bát đứng trước cửa. Chẳng kể đường xa đến đâu, Tôn giả cũng đi tìm nhà phú quý, còn không thì thà để bụng đói chớ không đi khất thực.

Một hôm, trong thành Tỳ Xá Ly, có một vị Tỳ kheo cười mỉm với Tu Bồ Dề trên đường đi và nói:

- Nghèo khó thì ở ngay trước mặt cũng không ai hỏi thăm, giàu sang ở núi sâu cũng có người thân. Trong thành Tỳ Xá Ly này toàn là thương buôn phú hộ, chẳng biết hôm nay Tôn giả chọn được nhà nào chưa?

Tu Bồ Đề nhìn vị Tỳ kheo một cái, rồi mới giải thích:

- Đại đức! Tôi chẳng phải không ưa người nghèo, tôi cũng là một người đích thực bần cùng vậy? Thiệt tôi có phát nghuyện chỉ đến nhà giàu mà xin, không đến nhà nghèo đưa bát, đó là điều khổ tâm của tôi, xin đại đức lượng xét.

- Tôn giả xin nhà giàu không xin nhà nghèo, mỗi ngày dinh dưỡng đầy đủ, không lạ gì mà thân thể khỏe mạnh như thế, ngài xem ngài béo tốt thế kia!

- Đại đức! Xin đừng nói vậy!

Tu Bồ Đề ôn hòa nhỏ nhẹ giải thích nguyên nhân khất thực chọn lựa của mình:

- Tôi đến khất thực nhà giàu, không phải vì tham thức ăn ngon, như quả thực tham ăn tôi đã không xuất gia học đạo. Vì sao tôi không đến nhà nghèo? Vì người cùng khổ, tự họ đã sinh sống khó khăn, đâu có dư dã thức ăn mà cúng dường chúng ta? Nếu khiến họ cố ý phát tâm cũng chỉ là lòng có dư mà sức không đủ. Chúng ta đã không có thức ăn cứu tế họ, đâu lẽ lại thêm gánh nặng cho họ? Trái lại, chúng ta đến xin nhà giàu, họ bố thí chút thức ăn, đối với họ chẳng nhằm gì. Cho nên tôi xin nhà giàu mà không xin nhà nghèo là vì vậy.

Tu Bồ Đề nói rõ quan niệm của mình, vị Tỳ kheo kia mới thôi không nói nữa.

Trong tăng đoàn có người phong độ tương phản với Tu Bồ Đề là Đại Ca Diếp. Tu Bồ Đề xin nhà giàu chẳng xin nhà nghèo, còn Đại Ca Diếp xin nhà nghèo chẳng xin nhà giàu. Tu Bồ Đề không hiểu rõ dụng tâm của Đại Ca Diếp, một buổi chuyện trò rỗi rảnh, mới hỏi:

- Tôn giả Đại Ca Diếp! Thái độ xin ăn nhà nghèo của ngài trái ngược với tôi, tôi vô phép xin ngài cho tôi biết nguyên nhân.

- Tôn giả Tu Bồ Đề! Chúng ta là Sa môn xuất gia, làm việc theo đạo lý, đó là phước điền của nhân gian, chúng ta thọ sự cúng dường của họ, là để cho họ có cơ hội gieo phước điền để trừ nhân nghèo khổ cho tương lai, người giàu đã nhiều phước đức, chúng ta cần gì thêm hoa, thêm gấm?

Tu Bồ Đề nghe xong, chỉ gật đầu, Tôn giả không bắt buộc người phải giống mình, chỉ nói:

- Khất bần, khất phú, đều là vì lợi ích cho chúng sanh, Tôn giả, phương tiện của Phật pháp rất nhiều, chúng ta mỗi người có thể tự làm theo đường lối riêng, kỳ thật đều là giáo pháp của Thế Tôn.

Thái độ khất thực Tu Bồ Đề và Đại Ca Diếp thành hai thái cực đối chọi nhau, lời nói và cung cách của hai vị, sau đức Phật biết được, ngài đều không tán thành cả hai, và từng quở trách tâm hai người không quân bình, đều không hợp với phép khất thực.

Phép khất thực chân chánh, là không lựa chọn nghèo giàu, không chê dơ sạch, oai nghi nghiêm túc thứ lớp hành khất.

Đại Ca Diếp cố chấp hơn, sắc thái khổ hạnh rất mạnh, Tôn giả xưa nay không nguyện xả bỏ khổ hạnh, Tu Bồ Đề tánh rỗng rang, đối với chỉ thị của Phật trăm y trăm thuận, từ đó Tôn giả sửa đổi thái độ khất thực của mình, luôn luôn cảm ân mà tiếp thọ lời chỉ giáo của Như Lai.
  • 5. RƠI LỆ TRÊN HỘI BÁT NHÃ
Tu Bồ Đề ở trong tăng đoàn, nghe pháp tu hành rất nhiệt tâm. Trong mười sáu hội, bốn nơi thuyết pháp Bát Nhã, nếu không như đi giáo hóa ở địa phương mình, ngài chưa từng vắng mặt.

Một hôm Phật ở tịnh xá Kỳ Viên, dự bị thuyết Kim Cương Bát Nhã, trăm ngàn đệ tử trì bát khất thực trong thành trở về đều tuần tự nhiễu quanh đức Phật. Trước tiên, Thế Tôn nhắm mắt tịnh tọa và trong chúng không ai dám hướng về Phật đưa ra vấn đền hỏi han.

Lúc ấy, Tu Bồ Đề hiểu rõ ý Phật, ở trong đại chúng đứng dậy, trịch áo bày vai phải, đảnh lễ Phật rồi, cung kính hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Đệ tử chúng con đều biết Thế Tôn là bậc tối thiện nhiếp hộ chúng con, nhưng đối với hàng thiện nam, thiện nữ phát tâm Bồ Đề, làm thế nào để an trụ. Với những vọng niệm nhiễu loạn như thế, làm thế nào có thể hàng phục? Xin đức Thế Tôn từ bi, vì đại chúng tuyên nói.

Câu hỏi của Tu Bồ Đề, Phật rất hoan hỷ, khen ngợi Tôn giả hiểu rõ căn lý đại chúng, ngài đáp:

- Như muốn an trụ nơi tâm Bồ đề, không bị vọng niệm quấy rối, thì khi bố thí nên hành bố thí vô tướng, khi độ sanh nên hành độ sanh vô ngã, nên y theo đó mà an trụ, y theo đó mà hàng phục.

"Vô tướng bố thí, vô ngã độ sanh" Tu Bồ Đề thậm thâm liễu giải đạo lý và nghĩa thú này. Tôn giả cảm kích pháp âm của Phật, vui mừng rơi nước mắt, quỳ dài trước tòa của Thế Tôn thưa:

- Bạch Phật! Từ khi con làm người đến nay, cái đạo lý sâu xa vi diệu như thế này mới được nghe đến lần đầu. Từ đây con không còn vướng vào chấp pháp chấp ngã. Bốn tướng nhân, ngã, chúng sanh, thọ giả cũng không thể trói buộc con. Lìa tất cả chấp trước mới thấy được lý không, lìa tất cả danh tướng mới thấu đáo nhân sinh. Hôm nay con đã thể hội tâm ý của Phật, như là nhận thức rõ chính con.

Tu Bồ Đề được khai ngộ, từ đó đươc ca tụng là bậc giải không đệ nhất.
  • 6. NGHE TÍCH XƯA TĂNG LÒNG TIN
Đức Thế Tôn tuy biết Tu Bồ Đề đã lìa chấp trước, nhưng vì lòng từ bi, lại thêm một phen mỏi miệng tha thiết nhắc lại sự tích tu hành của mình, để làm tăng thêm lòng tin của Tu Bồ Đề trong sự bố thí vô tướng và độ sanh vô ngã. Đức Phật hồi tưởng lại đời quá khứ và kể rằng:

- Tu Bồ Đề! Trong quá khứ ta từng phen tu hành trong núi sâu, trải qua một đoạn nhân duyên như sau:

Khi ta đang tĩnh tọa dưới cây đại thọ, nhắm mắt nghiền ngẫm những lẽ bí ẩn của vũ trụ, khởi nguyên của nhân sanh, bốn bề gió mát thoảng đưa, hoa cỏ bay mùi hương u nhã, hốt nhiên một trận cười lảnh lót vang lên, ta mở mắt ra nhìn xem, té ra một bầy cô nương yêu kiều diễm lệ đang đứng trước mặt.

Bọn họ mặc y phục cung nữ, châu ngọc óng ánh, khiến người mới nhìn không tưởng là tiên nữ trên trời thì cũng là vương phi chốn nhân gian. Họ nắm tay nhau cười nói đến trước ta, hỏi:

- Ông đạo à! Ở chỗ núi cao rừng rậm này sao dám ngồi tu một mình? Ông không sợ cọp beo hùm sói làm hại sao?

Ta nhìn các cô, ngồi nghiêm chỉnh đáp:

- Thưa các cô nương! Ở nơi núi sâu này mà tu đạo, đích thị có mình tôi, tu hành không nhất định phải có bạn lữ.Người có lòng từ bi thì rắn độc thú dữ không làm tổn hại. Ở chốn thành thị, những thứ tiền vàng và sắc đẹp, cai trị hà khắc uy quyền, cũng là một thứ hổ báo sài lang của rừng núi đấy!

Ta nói vậy, bọn cung nữ kia liền đổi thái độ kiêu mạn, cung thỉnh ta thuyết pháp, ta bèn ngắt một bông hoa nhỏ bên cạnh tiếp tục nói:

- Này các cô! Người đời xưa nay đều ưa tìm cầu khoái lạc, nhưng khoái lạc cũng có thứ chân thật, thứ giả dối, có lâu dài, có ngắn ngủi tạm bợ. Thiệt là mọi người đều bị mê hoặc bởi thứ khoái lạc hư giả và ngắn ngủi. Giống như đóa hoa này tuy đẹp, sức khỏe và hùng mạnh, đều không đủ cho chúng ta nương tựa. Người quý ở chỗ học đạo, mong được thăng hoa sinh mệnh, kéo dài sức sống, đó mới là khẩn yếu!

Lúc ta đang nói, bỗng có một người mặc y phục vương giả, tay cầm gươm báu từ khu rừng cây bước ra, đến bên ta lớn tiếng mắng rằng:

- Mi là ai? Dám cả gan đùa cợt với cung phi của ta?

- Đại vương! Xin phép hỏi quý danh của ngài. Xin đừng hạ nhục người như thế.

Ta thấy y đến với vẻ hung bạo, phải nói như vậy.

Nhà vua hăng hái nói:

- Ngươi ngũ mê phải không? Oai danh của ta chấn động khắp nơi, ngươi há không biết ta là Ca Lợi Vương sao? Hèn gì dám cả gan mê hoặc đám cung phi của ta.

- Đại vương! Xin đừng nói thế, người tu hạnh nhẫn nhục không mắng trả lại nhà vua, ngài tạo khẩu nghiệp ấy tương lai sẽ không tốt đâu!

- Ngươi tu hành nhẫn nhục à? Ta sẽ cắt đứt thân thể ngươi ra từng mãnh, xem người còn nói tu nhẫn nhục không?

- Tu Bồ Đề, lúc ấy Ca Lợi Vương xuống gươm xẻo tai, móc mắt, xẻo mũi, chặt hai tay hai chân ra đứt từng đoạn, mà ta vì muốn độ chúng sanh, nên không có chút gì ân hận, ta theo tinh thần độ sanh vô ngã, dần dần tu tập tích chứa phước huệ, trang nghiêm quả Phật. Tu Bồ Đề! Hành hung người không thể thắng lợi, chỉ có người hành nhẫn nhục mới là người thắng lợi tối hậu.

Tu Bồ Đề nghe qua một đoạn sự tích nhân duyên tu hành của đức Thế Tôn thời quá khứ, rất là cảm động, Tôn giả thể hội được chân lý vô ngã tối cao, và đạt đến huệ không sâu xa.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 7. KHÔNG LÀ GÌ?
Đối với lời chỉ dạy của Phật, Tu Bồ Đề biết rõ sự tương quan nhân duyên trong vũ trụ, tất cả đều do nhân duyên thành lập, cũng do nhân duyên tiêu diệt. Nhân duyên là lời chú giải rõ ràng nhất cho lý Không.

"Không", chẳng phải là "không" của cái chẳng có gì, cũng chẳng trống rỗng không ngơ. Không, chẳng hề lìa quả của sự vật mà có, không, chẳng phải là phá hoại duyên sanh ra các pháp, không, là đầy đủ tính chất cách mạng và tính chất tích cực.

Không, là nghĩa lý của Phật pháp Đại thừa, không, đại biểu cho tinh thần Phật giáo Đại thừa. Chẳng phải đệ tử Phật cố nhiên không thể hiểu rõ được lý Không, lại có một số đệ tử, cũng ít thấu rõ diệu nghĩa của Không. Tu Bồ Đề thường than rằng người hiểu "Không" quá ít.

Một hôm, một ngoại đạo Bà la môn thuộc giới trí thức gặp Tu Bồ Đề trên đường đi, bèn chất vấn:

- Tôn giả Tu Bồ Đề! Nghe nói ngài là người giải không đệ nhất trong hàng đệ tử Phật, tôi xin hỏi, tất cả sự vật trên thế gian đều tồn tại rõ ràng, mà ngài cho là không, giải thích là không, thì làm sao cho trọn vẹn lời giải thích ấy?

Tu Bồ Đề đưa tay chỉ một ngôi nhà và nói:

- Ông xem gian phòng này, do bốn yếu tố đất, nước, gạch, ngói và các duyên hòa hợp mà thành, nếu đem phân tán đất, nước, gạch, ngói, thì tướng trạng cái phòng còn không có, mà tên gọi gian phòng cũng không có nốt. Từ phương diện "tất cả đều hòa hợp" có thể thấy lý "Không". Gian phòng ở trong thôn xóm này, thì thật ngon lành đẹp đẻ, tinh xảo, nếu đem nó so sánh với những phòng ốc của chốn đô thành, thì nó thật là xấu xí, đơn sơ, nhỏ hẹp. Những phòng ốc nguy nga cao lớn của phố thị, mà đem so sánh với hoàng cung của thành Xá Vệ, thì rõ ràng không đủ sức để nói. Từ mặt sự lý tương đối ấy, cũng có thể thấy lý "Không". "Không" chẳng phải phủ định hết thảy, không có bối cảnh của không, không có nội dung của không. Không, đó là diện mục bổn lai của tất cả sự vật.

Bà la môn nghe xong, trầm tư một phen, chắp tay làm lễ Tu Bồ Đề và nói:

- Tôn giả! Ngài chẳng hổ danh là bậc đệ tử giải không đệ nhất của Phật đà, lời chỉ dạy của ngài khiến tôi rất cảm phục, thiệt xấu hổ cho tôi, chẳng đủ tư cách cùng ngài đối luận. Xin chào ngài, chúng ta sẽ gặp sau!

Tu Bồ Đề nghiêm trang gật chào, vẽ một nét trong không trung, biểu thị rằng:

- Đang lúc ông tóc đen thành tóc bạc, đang lúc ông thấy cành lá rụng xuống đất, rồi lại hoa rơi hạt rụng, nẩy mầm, tăng trưởng và nở hoa, kết trái, qua bao nhiêu năm tuần hoàn biến hóa và trở lại nguyên thể của nó. Ngài nhớ kỹ, đó là "Không". Và họ chia tay.
  • 8. NGƯỜI THỨ NHẤT NGHINH ĐÓN PHẬT
Tu Bồ Đề thể chứng lý không, tuyên dương lý không, tất cả oai nghi đứng nằm ngồi của Tôn giả, cũng biểu thị lý không.

Một hôm, bỗng nhiên không thấy bóng đức Phật trong tăng đoàn, tứ chúng đệ tử xôn xao tìm kiếm, đều không biết đức Phật đi đâu. Sau ngài A Na Luật dùng thiên nhãn xem xét mới biết Thế Tôn đã lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho Thánh mẫu Ma Da phu nhân khoảng ba tháng nữa mới trở xuống. A Na Luật báo tin cho đại chúng biết tin ấy, mọi người đều mong mỏi, mỗi một đệ tử đều cảm thấy một ngày không có Phật lâu bằng ba năm.

Ba tháng trôi qua, đức Thế Tôn lại trở về nhân gian, đang khi ngài chưa đến tăng đoàn, các đệ tử biết tin đều tranh nhau đi đón. Lúc ấy Tu Bồ Đề đang vá y trong một hang động tại núi Linh Thứu, nghe truyền tin đức Phật trở về, liền đứng dậy buông áo xuống cũng định đi nghinh tiếp. Ngay lúc đó, trong tâm khởi lên ý nghĩ, Tôn giả lại ngồi xuống chỗ cũ. Tôn giả nghĩ rằng: Ta đi đón Phật để làm gì? Chân thân của Thế Tôn không thể thấy bằng sáu căn, ta mà đi nghinh tiếp ngài chẳng khác nào cho rằng pháp thân ngài do tứ đại hòa hợp, đó là ta không nhận thức được tánh không của đại pháp. Không thấy tánh Không tức là không thấy được pháp thân Phật.

Về pháp thân Phật chính là tánh không của các pháp, không có chủ tạo tác, cũng không bị tạo tác, muốn thấy Phật, trước tiên phải rõ ngũ uẩn, tứ đại là vô thường, biết rõ tất cả sự vật hiện có đều không tịch, biết các pháp sum la vạn tượng là vô ngã. Không ngã, không nhơn, không năng tác, không sở tác. Tất cả các pháp đều rỗng lặng, pháp tánh biến khắp mọi nơi, pháp thân Phật chỗ nào cũng có, ta phụng hành giáo pháp của Phật nhân, đã thể chứng lý không của các pháp, ta nghĩ mình không nên lầm mê trên sự tướng.

Với nhận thức ấy, Tôn giả an nhiên ngồi lại vá áo, không đến nghinh tiếp đức Phật.

Phật trở về, thật là sự vui mừng lớn lao, trong tăng đoàn chỗ nào cũng đầy vẻ hân hoan, mọi người đều muốn bái yết Phật trước người khác. Khi ấy, trong hàng Tỳ kheo ni có bà Liên Hoa Sắc thần thông đệ nhất, là người đón Phật trước nhất, bà vừa đảnh lễ vừa nói:

- Bạch Thế Tôn! Đệ tử là Liên Hoa Sắc, người thứ nhất nghinh đón Thế Tôn, xin Phật nhận cho con bái yết.

Đức Phật mìm cười, chậm rãi nói:

- Liên Hoa Sắc! Ta trở về, nghinh đón ta trước nhất chẳng phải là cô đâu!

Liên Hoa Sắc lấy làm lạ, nhìn hai bên, trưởng lão Đại Ca Diếp đều còn phía sau, Liên Hoa Sắc hoài nghi, thưa hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Đệ tử chẳng dám hỏi, nhưng trước con, ai là người nghinh đón ngài?

Đức Phật lại mỉm cười, nhìn các đệ tử đông đảo kéo đến, trả lời Liên Hoa Sắc, mà cũng như bảo với đại chúng:

- Các ông rất tốt, xa xôi đến mấy cũng đi đón ta, nhưng người gặp ta trước nhất là Tu Bồ Đề. Ông ấy lúc này đang quán sát tánh Không của các Pháp trong hang núi Kỳ Xà Quật, ông ấy mới là người chân chánh nghinh tiếp ta, người thấy pháp mới là người thứ nhất thấy Phật, người đệ nhất nghinh tiếp Phật.

Liên Hoa Sắc và các đệ tử nghe Phật nói, mới biết đối với Phật pháp của Thế Tôn, đối với việc lãnh hội chân lý vũ trụ, mọi người đều không bằng Tu Bồ Đề.

Qua lời khen ngợi đặc biệt của Thế Tôn, Tu Bồ Đề càng nổi danh, càng được đại chúng tôn kính.
  • 9. VỊ A LA HÁN SỐ MỘT TRONG LOÀI NGƯỜI
Lối sống và tâm tư của Tôn giả Tu Bồ Đề rất điềm đạm tự tại, thường ở trong Không tam muội giải thoát.

Làm người trên cõi đời này, dù là một ông thánh đi nữa, cũng lắm phen bị chê cười phỉ báng, cho nên cũng chẳng kể bạn như là một viên ngọc không tỳ vết, xa lìa mọi thứ danh văn lợi dưỡng, vì chúng sanh giúp ích rất nhiều, vậy mà các bạn phàm phu tục tử của thế gian muốn kiếm chuyện, nói xấu bạn thế này thế nọ.

Tu Bồ Đề tu đạo hoằng hóa mỗi ngày làm việc lợi lạc quần sanh. Nhưng nhân tình ấm lạnh, miệng lưỡi lắm lời cũng không buông tha Tôn giả. Song Tôn giả xem những thứ ấy như gió thoảng ngoài tai, chẳng hề động tâm sinh lòng.

Một hôm, trên đường thuyết pháp hoằng hóa, Tôn giả nghe có người phê bình mình, họ nói: "Tu Bồ Đề là cái thứ gì, ông ấy chẳng làm nên tích sự gì, ở trong tăng chúng như một tên ngáo, không có một chút sống coi cho ra hồn".

Lại có các Tỳ kheo nghe như vậy, bất bình dùm cho Tôn giả, họ hỏi Tu Bồ Đề sao không trả lời lại? Tu Bồ Đề an nhiên, hòa nhã mà đáp:

- Thưa các vị! Đa tạ các vị có lòng yêu mến bạn đạo, nhưng xin các vị chớ có khởi lòng bất bình như vậy, biện bạch vô ích là một thứ tranh luận, tranh luận là tâm còn hơn thua, tất trái xa chân lý. Chúng ta là người tu, đối với những lời dèm pha, phỉ báng, cho tới nghịch cảnh, ma nạn, đều phải xem đó là cái duyên tăng thượng để trợ đạo, nhờ đó mà tiêu trừ nghiệp chướng, lại tăng lòng tin mạnh mẽ. Vã lại, trong thế giới của chân lý không có chuyện tranh cãi. Chân lý là không ta không người, không đây không kia, không có cao thấp, không còn thánh phàm. Tôi đã biết lý chân không vô trụ, một tướng bình đẳng, cho nên cái tâm của tôi, như vạn lý tình không, một chút xíu cũng không có, tôi biện bạch với họ để làm chi?

Tu Bồ Đề giải không, tấm lòng và tâm niệm khoáng đạt tự tại như thế, nên các tỳ kheo rất tâm phục tác phong của Tôn giả.

Tu Bồ Đề đối với chúng sanh luôn dùng đức nhẫn nhục, thật là người cao thượng nhất. Tôn giả thường nói, nếu như có chúng sanh nói tôi đứng hoài không tốt, thì tôi liền ngồi suốt ngày, như còn chê tôi ngồi hoài không được, thì tôi sẽ đứng luôn cả ngày. Tôi đối với tất cả pháp không khởi một chút phiền não và không làm phiền một chúng sanh nào.

Tu Bồ Đề tùy thuận thế gian, hành đại nhẫn nhục, đối với bất cứ ai đều không não loạn họ, không tranh cãi với họ, đều là vì Tôn giả thông đạt tánh Không.

Đức Phật biết Tu Bồ Đề tu hành như thế rất hoan hỷ vui lòng, một hôm trên hội Bát Nhã, ngài khen ngợi:

- Tu Bồ Đề trong hàng đệ tử ta, người tu đạt đến trình độ như ông thật hiếm có. Ông đã thể chứng vô tranh tam muội, đó là đệ nhất trong loài người, ta chúc mừng cho ông đó, ông đã là vị A la hán ly dục bậc nhất!

Tu Bồ Đề được Phật khen ngợi, trong tâm rất cảm kích vui mừng, nhưng lại chẳng dám tự đắc. Tôn giả chắp tay đảnh lễ và nói:

- Bạch Thế Tôn! Ngài ban cho đệ tử chúng con những lời từ bi thương mến, khích lệ chúng con, con xin đem hết tâm tư này tỏ sự cảm kích. Bạch Thế Tôn, con là bậc nhất loài người, là A la hán ly dục, nếu con nghĩ như vậy thì chưa dứt hết ngã chấp, rốt cuộc cũng còn chìm trong pháp chấp, có chứng có đắc. Bạch Thế Tôn, con không nghĩ như vậy, cũng không làm như vậy, vì duyên vô sinh vô vi, đức Thế Tôn mới nói với con những lời ái mộ mỹ mãn. Thật ra, chính Tôn giả Xá Lợi Phất, Tôn giả Mục Kiền Liên mới đáng là bậc A la hán ly dục!

Tu Bồ Đề rất khiêm tốn và rất khéo dùng lời, từ đó chúng ta có thể biết Tôn giả là một vị thánh A la hán.
  • 10. AN TỌA TRONG ĐỘNG ĐÁ MƯA HOA RƠI
Tu Bồ Đề là vị A la hán ly dục, không tranh hơn thua với thế gian, không mong gì ở thế gian. Có khi Tôn giả ở trong tăng đoàn tu học cùng với đại chúng, dự nghe lời Phật dạy, có khi tu tập thiền định trong rừng, pháp hỷ càng ngày lại càng cao sâu.

Núi Kỳ Xà Quật là một danh sơn đỉnh non tú lệ, rừng sâu trúc dầy, phong cảnh rất hợp với người tu. Đức Thế Tôn thường ngụ đến đây cũng vì lý do ấy, Tu Bồ Đề rất thích lối sống trong rừng núi, cho nên lúc nào cũng thấy ở Linh Thứu Sơn.

Gặp ngày trời quang mây tạnh, Tôn giả tọa thiền dưới gốc cây, bên sườn núi, hoặc kinh hành quán tưởng. Gặp lúc mưa gió thì vào trong động, hoặc núp dưới cột đá tùy chỗ an thân.

Đối với Tôn giả, núi sâu rừng rậm là một đạo tràng kín đáo tu hành rất tốt, ban ngày chim bay thú chạy bên cạnh, đêm đêm trăng sao trùng dế làm bạn bè. Chốn thiên nhiên phong cảnh vô hạn, Tu Bồ Đề thường nghĩ, người ta vốn từ cõi không mà đến, cũng nên trở lại với thiên nhiên không tịch.

Một hôm, Tu Bồ Đề ngồi thiền trong thạch động, nhập Không tam muội, công hạnh thâm sâu cảm động đến chư thiên hộ pháp, rất nhiều vị trời xuất hiện trên không, rắc thiên hoa bay phơi phới trước Tôn giả, chắp tay khen ngợi Tu Bồ Đề:

- Tôn giả! Làm người có danh vọng tiền của trên thế gian, thiệt chẳng có gì đáng tôn quý. Dầu cho quốc vương, phú hào cũng đều bị trói buộc trong phiền não dục vọng. Tôn giả! Đúng bậc tôn quý trên thế gian thật là người đại tu hành như ngài, hiện nay ngài nhập Không tam muội, ánh sáng oai đức của ngài chiếu suốt thiên cung của chúng tôi. Tu Bồ Đề ở cõi người xứng đáng thọ sự cúng dường của cõi trời. Ngài khéo nói Bát Nhã, lúc nào cũng dạo chơi trong chốn Không tam muội như trời xanh vạn dặm, ngài thoát khỏi phàm tình nhân gian, dù phiền não hắc ám hay Bồ đề trong sáng cũng không thể làm mờ Tôn giả. Ngài cắt đứt dây sắc dục, và bẻ gãy xích vàng pháp chấp. Tôn giả vĩ đại, xin hãy tiếp thọ hoa trời cúng dường, chúng tôi xin lễ Tôn giả để tỏ lòng tôn trọng.

Lời xưng tán của thiên nhân, hoa trời rơi tán loạn kinh động đến Tu Bồ Đề. Tôn giả sau khi xuất định, hỏi thiên nhân:

- Các ông là ai? Vì sao đến đây mưa hoa khen ngợi ra?

Vị thủ lãnh chư thiên chắp tay thưa:

- Tôi là Thiên Đế Thích, mấy vị kia đều là thiên nhân.

- Vì sao các vị ân cần khen ngợi tôi như thế?

- Chúng tôi kính trọng Tôn giả nhập Không tam muội, khéo thuyết Bát nhã.

- Tôi chưa từng nói một chữ Bát Nhã, cớ sao các ông khen ngợi?

- Tôn giả không nói, chúng tôi không nghe. Không nói, không nghe là chơn bát Nhã.

Tu Bồ Đề nghe xong hài lòng mỉm cười, khen chư thiên:

- Trên hội Bát Nhã, đức Phật nói pháp vi diệu thậm thâm, lúc ấy các ông hộ trì đạo đã tín thọ thâm hiểu, đa tạ các ông đem các hoa thơm rãi cúng, nguyện thiên hoa này mùi hương biến mãn cõi trời, cõi người.

Tu Bồ Đề nói xong, chư thiên lại làm lễ một lần nữa rồi từ từ biến mất trong mây.

Chư thiên mưa hoa cúng dường, trừ đức Phật, chỉ có Tôn giả Tu Bồ Đề mới có danh dự đặc biệt ấy.
  • 11. CHƯ THIÊN TẤU NHẠC THĂM BỆNH
Tu Bồ Đề thường trú tại núi Kỳ Xà Quật, một hôm bỗng nhiên tứ đại bất hòa, ma bệnh vấn vít khiến Tôn giả thân tâm cảm thấy mệt mỏi không an.

Là một vị thánh, sức tu hành thâm hậu mà còn bệnh sao? Nhiều người không hiểu được chuyện này. Thật ra sắc thân bị nghiệp báo chiêu cảm là pháp hữu vi đâu tránh khỏi hiện tượng khổ, không, vô thường.

Tu Bồ Đề đã chứng thánh quả, tinh thần của Tôn giả giải thoát, nhưng sắc thân hữu vi còn đó, sắc thân là pháp thế gian, đương nhiên phải chịu luật sanh, lão, bệnh, tử của thế gian.

Khi Tôn giả cảm thấy bệnh trầm trọng, bèn đem tọa cụ trải trên đất và ngồi kiết già, đoan thân chánh ý tư duy:

"Cái bệnh khổ của thân này từ đâu đến? Ta phải làm gì để hết bệnh?" Tu Bồ Đề hỏi một cách thâm sâu như thế, và nghĩ tiếp:

"Nguyên nhân đưa đến bệnh này, hoặc là nghiệp báo quá khứ đến thì phải chịu, hoặc là chướng duyên của đời hiện tại, thuốc men chẳng thể trừ tận gốc, chỉ có tin sâu nhân quả, sám hối tội nghiệp, tu tập thiền quán, từ tâm không khổ để khiến thân không khổ".

Tu Bồ Đề thiền quán và chánh niệm như thế, lập tức cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng tự tại, không còn chút bệnh nào cả.

Ngay lúc ấy, Thiên Đế Thích dẫn theo năm trăm thiên nhân và rất nhiều nhạc thần, từ trên không bay xuống Kỳ Xà Quật. Thiên Đế Thích liền bảo nhạc thần tấu khúc ủy vấn. Nhạc thần vâng lệnh đến trước Tôn giả khảy đờn lưu ly, năm trăm thiên nhân đồng ca rằng:
  • Tôn giả, đức trọng như trời cao thay!
    Tôn giả, tu hành như trường thủy thay!
    Qua khỏi bể sanh tử
    Tiêu dứt lửa hữu vi
    Già bệnh thống khổ đều đoạn trừ.
    Hành nghiệp nếu sám trừ
    Cấu uế được diệt hết
    Nguyện Tôn giả thể ngộ thiền định
    Tôn giả, bệnh khổ liền tiêu trừ!
    Tôn giả, thân người được lành bệnh.
Tấu khúc chấm dứt, tiếng ca vừa ngưng, Thiên Đế Thích mang quyến thuộc đảnh lễ Tôn giả. Tu Bồ Đề từ bi đáp lễ và khen rằng:

- Khúc ca và nhạc điệu của các ông thật là vi diệu hòa ca!

Thiên Đế Thích cung kính hỏi thăm:

- Chúng tôi xin thỉnh vấn Tôn giả, hiện thời bệnh của ngài còn hay hết?

Tôn giả bèn bảo vua trời rằng:

- Các pháp từ duyên sanh ra, các pháp lại theo duyên mà diệt, nhân duyên hòa hợp thì pháp thành, duyên ly tán thì pháp bại hoại tan rã. Các pháp cùng nhau rối loạn các pháp cùng dứt, trong pháp sinh pháp, mỗi pháp tự nó có quả báo duyên. Pháp hắc dùng pháp bạch đối trị, bạch pháp dùng hắc pháp đối trị. Cũng như bệnh tham dục, cần phải quán bất tịnh để đối trị, bệnh sân hận dùng tâm từ bi đối trị, bệnh ngu si dùng trí huệ bát nhã đối trị.

Tất cả trên thế gian đều là không, chẳng có tướng ngã, chẳng có tướng nhân, không có phân biệt nam hay nữ, không có phải trái chẳng đồng, tất cả pháp nghĩ như thế. Các ông thấy kia, gió dông thổi ngã cây đại thọ, hoặc là sương tuyết làm héo nụ hoa, làm cho cây cỏ khô gãy, như khi gặp gió xuân mưa nhẹ, thì tự nhiên khôi phục lại mầm sống. Các pháp rối loạn cũng có khi từ bình định.

Một chút bệnh của thân tôi, đó là khi các pháp rối loạn, có thể dùng pháp thủy cam lồ của đức Phật và pháp thiền quán như gió xuân, bệnh của tôi lại chóng lành mạnh. Đa tạ các vị cực nhọc đến đây, hiện tại thân tôi rất an ổn tự tại.

Trời Đế Thích nghe xong rất hoan hỷ, đảnh lễ Tôn giả và cũng các thiên nhân trở lại cõi trời.

Tu Bồ Đề nhìn theo họ và ngâm:
  • Thế Tôn khai thị chúng ta
    Bệnh khổ, pháp Phật mới hay trị lành
    Chẳng cần đợi bệnh lo tu
    Bình thường cốt yếu văn, tư rồi hành.
    Cơ duyên chứng ngộ sẵn dành
    Sám hối nghiệp chướng mới đành an tâm
    Tin lý nhân quả thậm thâm
    Tích chứa phước huệ để tăng đạo mầu
    Đó là diệu dược trong đời
    Trị lành mọi bệnh, mọi thời khổ đau.

    12. XƯNG MINH LÝ KHÔNG TRÊN HỘI BÁT NHÃ
Tu Bồ Đề huệ không sâu dày, chẳng những có thể khám phá những lời khen chê của thế gian, giải thoát mọi ràng buộc của vật chất, mà có thể dùng trí Bát Nhã và thiền quán để giải trừ bệnh khổ của thân tâm.

Một hôm, trên hội Bát Nhã, đức Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Tu Bồ Đề! Ông rất có biệt tài, thể hợp sâu xa lý Chân Không. Hôm nay các vị Bồ tát nhóm họp nơi đây. ông có thể giải thuyết pháp tương ứng của Bát nhã Ba La Mật cho họ, để giúp cho sở học của các vị ấy thêm đầy đủ, để cùng nhau nỗ lực tinh tấn!

Phật nói như thế, chúng hội đều biết pháp môn Bát Nhã là pháp môn thậm thâm huyền diệu, mọi người đều khởi nghĩ: " Tôn giả Tu Bồ Đề có thể dùng trí huệ biện tài của mình để tuyên thuyết pháp vi diệu như thế chăng? Hay là nương sức oai thần của đức Phật mà nói ra?"

Tu Bồ Đề biết tâm của hội chúng, bèn nói:

- Từ mệnh của Thế Tôn không thể cãi lại, chúng đệ tử khi thuyết giáo, không kể là giáo pháp cạn sâu, như nếu nói được khế lý khế cơ, đều là nhờ oai thần của Phật. Nương sức của ngài mà nói pháp, khuyên người tu học, mới là đạt được bổn thể của các pháp, mới là tương ứng với thật tướng các pháp, mới có thể thông đạt tâm ý của Thế Tôn.

Hôm nay tôi nương oai thần của Phật, tuyên thuyết về lý tương ứng của Bát Nhã Ba La Mật Đa trong sự tu học đạo Bồ tát, đó chẳng phải là sức trí huệ biện tài của tôi".

Lời nói của Tu Bồ Đề rất khiêm cung, Tôn giả nói xong lại đảnh lễ đức Phật, và thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đệ tử vâng lời dạy của ngài, nói về pháp tương ứng giữa Bồ tát và Bát Nhã Ba La Mật Đa, nhưng có pháp nào là Bồ tát ư? Pháp nào gọi là Bát Nhã Ba La Mật ư? Con chẳng thấy có pháp nào tên gọi Bồ tát, cũng chẳng thấy có pháp tên Bát Nhã Ba La Mật. Trên danh xưng của hai pháp ấy, con cũng chẳng biết phân biệt. Con dùng nhận thức này mà nói về sự tương ứng giữa Bồ tát và Bát Nhã Ba La Mật. Bạch Thế Tôn! Cung thỉnh Thế Tôn từ bi khai thị trước, con có thể làm đầy đủ sở học cho các Bồ tát chăng?

Đức Phật hoan hỷ trả lời:

- Này Tu Bồ Đề! Bồ tát chỉ có danh từ Bồ tát, Bát Nhã Ba La Mật cũng chỉ có danh từ Bát Nhã Ba La Mật, danh xưng Bồ tát và Bát Nhã cũng chỉ là danh xưng mà thôi. Điều ấy vốn không sanh chẳng diệt, tuy nhiên, để tiện nói bày mới giả lập danh xưng. Giả danh ấy, không phải ở trong, không phải ở ngoài, cũng không ở khoảng giữa, xưa nay là bất khả đắc. Thí như nói rằng "ngã", cũng chỉ có giả danh, bổn thể của ngã xưa nay vốn chẳng sanh diệt. Các pháp hữu vi như mộng, như tiếng vang, như hình bóng, như huyễn hóa, như bóng nắng, như trăng dưới nước. Do đó, này Tu Bồ Đề! Bồ tát muốn chứng đắc pháp bất sanh, bất diệt, cần phải tu học giả danh và giả pháp của Bồ tát và Bát Nhã Ba La Mật.

Tu Bồ Đề! Bồ tát tu học Bát Nhã Ba La Mật, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thường và vô thường, vui và khổ, ngã cùng vô ngã, không với bất không, hữu tướng với vô tướng, hữu vi với vô vi, cấu và tịnh, sanh cùng với diệt, thiện với ác, hữu lậu và vô lậu, thế gian cùng với xuất thế gian, luân hồi với Niết bàn, đều là không thể chấp trước phân biệt, và tất cả pháp khác đều như thế cả.

- Này Tu Bồ Đề! Vì sao nói như thế? Khi Bồ tát tu học Bát Nhã Ba La Mật, không nên đối với các pháp khởi tưởng phân biệt, nên trụ nơi không, trụ nơi vô phân biệt. Bồ tát tu sáu pháp Ba La Mật và những hạnh khác, cũng không thấy có tên gọi Bồ tát, không có tên gọi Bát Nhã Ba La Mật, Bồ tát chỉ nên cầu nhất thiết trí, biết tất cả là thật tướng các pháp, thật tướng ấy cũng chẳng nhơ chẳng sạch.

Nếu như Bồ tát hay như thế mà tu tập Bát Nhã Ba La Mật, biết danh tướng đều là quyền xảo giả lập, thì đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả các pháp đều chẳng sanh chấp trước, đối với tất cả mọi thứ đều không chấp trước. Vì sao vậy? Vì nếu có chấp trước đều là bất khả đắc.

Tu Bồ Đề! Tu Bát Nhã Ba La Mật như vậy, đối với tất cả pháp không chấp trước, mới hổ trợ hoàn thành công tu Bát Nhã, mới tấn nhập hành giả vào chánh vị, mới có thể trụ ở địa vị bất thối, đầy đủ thần thông, dạo chơi các cõi Phật, hóa độ lợi lạc chúng sanh, trang nghiêm Phật độ, tự mình an trụ nơi cảnh giới tự tại.

Tu Bồ Đề! Sắc là Bồ tát ư? Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là Bồ tát ư? Địa, thủy, hỏa, phong, không, thức là Bồ tát ư? Người ta lìa hết thảy sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, địa, thủy, hỏa, phong, thức là Bồ tát ư?

- Bạch Thế Tôn! Tất cả những thứ kể trên đều chẳng thể gọi là Bồ tát.

- Tu Bồ Đề! Ông nói những thứ ấy không phải là Bồ tát, vì cớ gì? Có thể nói rõ được chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chúng sanh xưa nay, là chẳng thể biết, chẳng thể được, không thể là thứ pháp gì, cho đến Bồ tát đều là như thế. Nói có pháp ấy, nói không có pháp ấy, và nói xa lìa tất cả pháp ấy, đều chẳng thể gọi là Bồ tát.

Đức Phật nghe Tu Bồ Đề trả lời rất vừa ý mà khen rằng:

- Đúng vậy, này Tu Bồ Đề, gọi là Bồ tát, gọi là Bát Nhã Ba La Mật, đều là bất khả đắc. Bồ tát tuy tu tập mà vốn không tu tập, Tu Bồ Dề! Ta hỏi ông, các pháp thọ, tưởng, hành v.v... là nghĩa Bồ tát chăng?

- Bạch Thế Tôn! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v... đều chẳng phải là nghĩa Bồ tát.

Tu Bồ Đề hiểu sâu rõ ràng, đáp lại như thế, đức Thế Tôn hoan hỷ lại hứa khả cho Tôn giả.

- Tu Bồ Đề! Ông nói rất đúng, khi Bồ tát tu tập trí huệ Bát Nhã, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, các pháp hoặc thường hoặc vô thường, hoặc hữu vi hoặc vô vi v.v... đều là bất khả đắc. Bồ tát nên dùng tâm như biển rộng trời không để tu tập Bát Nhã.

- Này Tu Bồ Đề! Ông nói ông không thấy có pháp Bồ tát và tên Bồ tát, pháp cùng với pháp giới v.v... Những pháp tướng ấy đối lập nhau. Vì cớ sao? Lìa hữu vi nói vô vi cũng không đủ, lìa vô vi hữu vi cũng không thể thành lập pháp được. Tu Bồ Đề! Bồ tát tu tập bát Nhã như vậy, không thấy một pháp nào, mới không hối hận về sau. Như lời ông nói, Bồ tát như thế mà tu tập bát Nhã, cũng không được gọi là Bồ tát, đó mới thật là Bồ tát, thật là Bát Nhã Ba La Mật Đa, đó mới là giáo pháp của Bồ tát nói ra.

Trong số ngàn vạn thích chúng tại hội Bát Nhã, vì các đại Bồ tát thuyết giáo, đức Phật và Tôn giả Tu Bồ Đề một vấn, một đáp như thế, vì chân lý "không" sâu xa vi diệu ấy, triết học của Không, chỉ có Tu Bồ Đề mới có thể hiểu sâu, thể chứng và giải rõ. Rốt cuộc, thanh danh Gải Không Đệ Nhất của Tôn giả được tôn kính trong khắp tăng chúng!

Phật pháp rất cao sâu, rất u huyền, rất rộng lớn, chúng ta muốn thật sự hiểu Phật pháp, nên noi gương Tôn giả Tu Bồ Đề!

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

TÔN GIẢ PHÚ LÂU NA
THUYẾT PHÁP ĐỆ NHẤT
  • 1. DANH HIỆU MÃN TỪ TỬ
Làm đệ tử đức Phật Thích Ca Mâu Ni tu đạo lý thoát ly sanh tử cố nhiên là điều khẩn yếu, nhưng việc tuyên dương chân lý, thuyết pháp độ sanh cũng rất cần thiết.

Một người xả bỏ ràng buộc ân ái của gia đình, quy y đức Thế Tôn, có hoài bão suốt đời theo việc tuyên dương chân lý, đối với chúng sanh vĩnh viễn từ bi và nhiệt tình, đó là Tôn giả Phú Lâu Na thuyết pháp đệ nhất.

Đủ sức đảm trách việc tuyên nói giáo lý của đức Phật, thật là một công việc to lớn. Vì nói pháp cốt yếu không những là phải khế lý, mà còn phải khế cơ, Phú Lâu Na trong số ngàn vạn đệ tử, được công nhận là thuyết pháp đệ nhất, không phải không có lý do.

Muốn hiểu rõ Phú Lâu Na, trước tiên chúng ta phải nói đến danh hiệu của Tôn giả. Danh hiệu ấy rất dài và rất nhiều. Ngài vốn được gọi là "Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử". Phú Lâu Na chỉ là tiếng gọi tắt. Danh hiệu ngài dài như thế, chính là biểu hiệu cho Tôn giả khi thuyết pháp cũng trường mãn vô cùng. Hoài bão và lòng từ vô tận như núi cao sông rộng, danh xưng của ngài được dịch là "Mãn Từ Tử" cũng chính là ý đó.

Dung mạo Tôn giả cũng như danh hiệu Mãn Từ Tử, mặt tròn, mắt đầy vẻ từ hòa khoan dung an lành.
  • 2. QUẢ VỊ SAU KHI XUẤT GIA
Gia đình của Tôn giả đầy đủ, tài sản tuy không phải trùm thiên hạ nhưng cũng thuộc hạng giàu có danh tiếng của Ấn Độ, cha mẹ ngài rất thương yêu, nhưng Tôn giả rằng ân ái, tài bảo thế gian rồi cũng phải đến lúc biệt ly mất mát, điều cần yếu nhất của đời người cầu được chân lý pháp tài vĩnh viễn. Do đó, Tôn giả cắt ái từ thân, quy y với Phật, phát nguyện suốt đời xiển dương chân lý Phật Đà.

Xuất gia không bao lâu, Phú Lâu Na đã chứng quả A la hán, đó là một quả vị tối cao trong hàng Thanh văn, phá trừ phiền não, dứt hết sanh tử, vận dụng thần thông, có thể đi các nơi tự tại hoằng hóa.
  • 3. ĐỨC PHẬT THỌ KÝ
Một hôm trong pháp hội, đức Phật nói rất nhiều về bổn sự nhân duyên túc thế, Phú Lâu Na nghe xong rất cảm động, liền từ tòa đứng dậy, chỉnh đốn cà sa trên thân, đến trước Phật đảnh lễ sát đất, chí thành chiêm ngưỡng từ nhan Thế Tôn, ngài nghĩ đối công đức cao vợi của đức Phật, dùng lời để xưng tán không cùng tận, nên dùng hai tay vỗ vào ngực, và chắc rằng Thế Tốn sẽ thấu rõ bổn nguyện thâm ý của mình.

Như là dùng tâm ấn tâm, đức Phật hiểu ý Phú Lâu Na, nói:

- Phú Lâu Na! Ông tinh tấn tu đạo, không buông lung giải đãi, tùy lúc tùy nơi hỗ trợ ta tuyên dương chân lý, thường ở trong bốn chúng, khai thị giáo hóa lợi ích, chúng sanh đều được hoan hỷ, ông ở trong hàng người thuyết pháp là bậc nhất, qua vô lượng a tăng kỳ kiếp sẽ ở tại thế giới này thành Phật, hiệu là Pháp Minh Như Lai.

Đức Phật thọ ký xong, Phú Lâu Na đạt được pháp hỷ, không thể nói hết được sự cảm kích của Tôn giả, Tôn giả lại trang nghiêm cung kính đảnh lễ Phật, đi nhiễu bên hữu ba vòng, trở về tòa ngồi, mắt rơi lệ vì cảm động.

Phú Lâu Na tương lai sẽ thành Phật? Điều ấy khiến chúng tỳ kheo vừa vui mừng vừa kinh ngạc, Phú Lâu Na chỉ là một vị A la hán không phải Bồ tát, làm sao lại được đức Phật đích thân thọ ký?

Đức Phật biết điều ấy, bảo đại chúng:

- Các Tỳ kheo! Các ông có thấy ta vừa thọ ký cho Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử chăng? Vì ông ấy khéo thuyết pháp, tương lai sẽ ở tại quốc độ này thành Phật hiệu là Pháp Minh.

Các ông cũng nên xưng tán Phú Lâu Na, ta thường khen ông ấy là bậc nhất trong hạng người thuyết pháp. Ông ấy thâm nhập biển Phật pháp, hay làm lợi ích cho tất cả người đồng tu học đạo. Trừ đức Phật, không ai có thể biện bác ngôn luận với ông.

Các ông chớ tưởng rằng Phú Lâu Na chỉ giúp ta tuyên thuyết chánh pháp, ông ấy ở thời quá khứ chín mươi ức cõi Phật đều hộ trì trợ tuyên dương Phật pháp, đều được xưng là thuyết pháp đệ nhất.

Các ông nên noi gương Phú Lâu Na!"

Đức Phật thọ ký cho Phú Lâu Na, giá như đem mũ báu bằng trân châu anh lạc đội cho Tôn giả cũng không sánh bằng hân hạnh được thọ ký, từ đó Tôn giả được địa vị là bậc đạo sư trong trời người sau đức Phật.
  • 4. CÕI PHẬT VỊ LAI
Phú Lâu Na tương lai thành Phật, chẳng biết tình hình cõi Phật của Tôn giả thế nào?

Đến khi đủ nhân duyên, ngài Phú Lâu Na thành Phật, chúng ta cũng nên phát nguyện đến cõi nước Phật ấy mà tu hành.

Đức Phật từ bi biết tâm ý đại chúng, không nệ hà gì mà bảo cho chúng ta biết rõ:

- Cõi Phật của Phú Lâu Na, trên cõi đất không có núi sông khe gò, không có sỏi đá gai góc; những lầu các cung điện cao vút tầng mây, địa thượng trải toàn châu báu vàng bạc.

Cõi ấy không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, không có người nữ, không nghe nói về dâm dục, loài người đều do biến hóa sanh, phi hành tự tại, không chấp ngã và ngã sở, cũng chẳng có đao binh, mọi người đều được đầy đủ tiện nghi và nhu cầu.

Cõi Phật của Phú Lâu Na không phân chia chủng tộc, không phân biệt mạnh yếu, không oán thù, không có kẻ nghịch, không có trộm cướp dành dựt, xâm chiếm. Mọi người tôn kính nhau, ca ngơi lẫn nhau!

Lúc ấy không còn gọi là thế giới ta Bà, mà là một cõi thiện tịnh, giống như cõi Cực Lạc phương Tây của Phật A Di Dà.

Lời Phật dạy hoàn toàn chân thật, từ xưa đến nay lời của ngài không hề hư dối. Phú Lâu Na dùng sự nghiệp thuyết pháp để trang nghiêm cõi tịnh của mình, điều ấy là một khích lệ lớn lao và thích hợp đối với người đã vì chúng sanh tuyên hóa chân lý.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 5. NGƯỜI CAN GIÁN TRONG HÀNG TỲ KHEO
Phú Lâu Na đối với việc hoằng pháp rất nhiệt tình, không tham cầu danh văn lợi dưỡng, ngài biết rõ nhân gian như hoa đốm trong hư không, bóng trăng đáy nước, chính là ngài gấp giải quyết cho xong việc sanh tử, quảng độ chúng sanh là việc lớn, là đạo tràng tối hảo.

Phú Lâu Na không ưa người bề ngoài mặc cà xưng xưng đệ tử Phật, mà trên thực tế làm việc gì đều hoàn toàn vì mình, không vì Phật pháp.

Oai đức từ bi của Phật, cảm đến các quốc vương trên toàn Ân Độ, các vua sau này quy y Phật bèn ban sắc lệnh rằng, hễ người nào phạm trọng tội, đáng chết chỉ cần xuất gia làm đệ tử Phật, gia nhập tăng đoàn liền được đại xá. Tuy Phật biết điều ấy sẽ khiến tăng đoàn thanh tịnh thành nơi rắn rồng hỗn tạp, nhưng lòng từ của ngài như biển lớn dung nạp mọi con sông, không nỡ nhìn tội phạm mà không cứu, vì vậy ngài trở lại khen ngợi chính sách nhân từ của các quốc vương.

Và như thế trong tăng đoàn cũng có lắm người bê bối, mượn cửa Phật để tham cầu danh lợi, thậm chí còn làm việc tà vạy mua bán Như Lai.

Phú Lâu Na thấy bọ tỳ kheo trên danh nghĩa ấy, thường bảo thẳng họ rằng:

- Quí vị! Quí vị không nên làm những việc trái với lời dạy của Phật, không nên một mặt khuyên người bố thí mà tự mình ưa chứa cất tiền của vàng bạc, nói với người ngũ dục là nguy ách, là tai hại cho thân tâm, mà tự mình ưa đắm chìm an trụ trong ngũ dục. Chúng ta được gặp bậc thầy là đấng Thế Tôn cứu thế, thật là duyên ngàn đời khó gặp. Phàm làm việc gì, không thể trái lời giáo huấn của Phật, đừng phạm giới điều Phật đã quy định. Điều quan trọng cần yếu là đừng để mọi người vì đó mà mất lòng tin.

Quí vị xuất gia học đạo, đó là đức Phật từ bi cho quí vị cơ hội sám hối diệt tội, mà quí vị không vì sự trong sáng của giáo pháp, không yêu thích tăng đoàn, không nhiệt tình trong việc hoằng pháp lợi sinh, tuy một thời đức Phật từ bi nhiếp thọ quí vị, nhưng về sau đối với tương lai quí vị sẽ không tốt đẹp.

Phật thường dạy, làm người không sợ có lỗi, có lỗi mà biết sửa đó là người đại thiện. Trong tăng đoàn, làm một kẻ lục dục thường tình không can chi, nhưng rất dở tệ là làm người ích kỷ, không đoái hoài đến lời Phật dạy, không màng đến đại chúng, mà tự tung tự tác.

Tôi và quí vị đồng học một thầy, tôi có nói lời gì dù quí vị đánh mắng cũng không sao, chỉ mong Phật pháp hưng long, chúng sanh được độ. Hy vọng rằng từ nay về sau, chúng ta chân chánh pháp tâm tu học Phật pháp, y giáo phụng hành.

Những lời trung thực của Phú Lâu Na đối các tỳ kheo bất chánh, khiến họ rất cảm động.

Đối với người, Phú Lâu Na không ưa bới lông tìm vết, khiến người phiền não, mà chính là muốn trừ bỏ những danh lợi cá nhân, để nỗ lực làm cho giáo pháp được lợi ích, rạng rỡ.

Đức Phật biết Phú Lâu Na thường vì người, nên khen ngợi Tôn giả là người chỉ đạo, người can gián trong hàng tỳ kheo đồng học.
  • 6. MUỐN ĐEM PHẬT PHÁP PHỔ BIẾN TRONG NHÂN GIAN
Phú Lâu Na làm việc rất điềm tĩnh, thận trọng đối với chúng Tăng và việc của đại chúng, Tôn giả suy nghĩ đôi ba phen mới phát biểu ý kiến. Chỉ đối với việc hoằng pháp là luôn luôn nhiệt tình, mỗi khi có cơ hội gieo chủng tử Bồ đề, thì không kể lợi hại đắc thất về cá nhân, luôn luôn tinh tấn đi đầu.

Trong hàng đệ tử Phật, người hỗ trợ Phật thuyết pháp độ sanh rất nhiều, nhưng tự mình không cầu danh lợi, không sợ nguy nan thất bại, thủy chung vì xã hội nhân quần mà bố giáo, rất ít người sánh kịp ngài Phú Lâu Na. Có một số Tỳ kheo, tuy theo Phật học bụng đầy kinh sách, nhưng đối với chúng sanh không đủ bi tâm nhiệt tình, xem nỗi khổ sanh tử của kẻ khác không dính dáng gì đến mình, khép kín thân mình trong tháp ngà. Lại có một số Tỳ kheo không ưa hoằng pháp lợi sanh mà ưa phan duyên ngoài xã hội, không dùng đạo tiếp độ mà dùng tình giao thiệp, nhận thức sai lầm. Phú Lâu Na đối với những hạng người này không đồng ý chút nào.

Một hôm trên đường hoằng hóa, Phú Lâu Na đi ngang vùng rừng núi nước Kiều Tát Di. Nơi này có một số Tỳ kheo đạo học đang ẩn cư tu hành. Phú Lâu Na thấy các vị ấy bèn rất cung kính hỏi thăm:

- Các Đại đức! Tôi nghe nói các vị ẩn cư trong núi rừng, đối với nhân cách thanh cao không giống phàm tình ấy tôi rất kính phục. Nhưng các vị vâng lời Phật dạy làm sứ giả đi các nơi giáo hóa sao không vào làng xóm mà độ chúng sanh?

Các Tỳ kheo thấy Tôn giả đến rất vui mừng nhường tòa và đáp:

- Thưa tôn giả! Chúng tôi cũng đã đi các nơi giáo hóa, nhưng chúng sanh thật khó hóa độ. Đức Phật dạy đem cam lồ pháp thủy ban cho họ, họ trở lại cho đó là một thứ hôi hám khó nghe. Bọn chúng ngu si cang cường, ngoan cố chấp trước, đắm chìm trong ngũ dục, sát sanh tế thần cầu phước, thật là tạo nhân ác đạo. Chúng tôi từ bi đưa tay tế độ mà chúng chẳng thèm ngó ngàng tới. Tôn giả! Đạo lớn của chân lý không phải ai ai cũng theo được, thế giới tràn đầy ánh sáng, chẳng phải ai cũng có thể đến được, bởi do họ đã chối bỏ. Hãy để cho họ chịu khổ hết mức rồi khi nhơn duyên chín muồi sẽ tự nhiên quày đầu.

Phú Lâu Na nghe xong, biết các vị này khi hoằng pháp đã gặp thất bại, gặp ma chướng cản trở, nên đối với chúng sanh thất chí nản lòng, không thể khởi nhiệt tình bố giáo. Tôn giả nói:

- Hành vi tu đạo của các vị tôi rất khâm phục, nhưng ý kiến của các vị về việc hoằng pháp tôi không đồng ý. Nếu Phật pháp dễ truyền, chúng sanh dễ độ chúng ta đã không theo đuổi công tác ấy. Chính vì đời ngũ trược ác thế, việc hoằng pháp lợi sanh rất khó khăn cực nhọc, vì muốn báo đáp ân Phật, chúng ta mới hăng hái theo đuổi sự nghiệp cao quý đó.

Hoằng pháp là gia vụ, lợi sanh là sự nghiệp, chúng ta xuất gia làm đệ tử Phật, không nên xem Tăng đoàn là một nơi tỵ nạn, hoặc là viện dưỡng lão, đã là Tỳ kheo chỉ cần lo phận sự cho tròn còn chuyện thế gian nên dẹp một bên. Phật pháp chưa truyền, chúng sanh chưa độ mà cho là không dính líu đến mình thật là trái lời dạy của Phật. Lòng từ nguyện bi của Ngài chắc chắn không hoan hỷ đối với tác phong ấy.

Chúng sanh khó tiếp nhận Phật pháp là vì chúng rất nghèo cùng khốn khổ, người nghèo chỉ mong xin được vài đồng bạc là quý. Chúng ta đem gia tài Phật pháp cả ức vạn mà cho không họ, bảo sao họ không nghi ngờ lòng tốt của chúng ta? Làm sao họ dám nhận lãnh tài bảo trân quý đó?

Chúng ta mang tấm lòng từ bi vô hạn, mang nhiệt tình sung mãn, để trang nghiêm thân tứ đại vô thường của chúng ta, trang nghiêm tịnh độ của chính mình, đem pháp lạc hoan hỷ ban khắp mọi người, đem ánh sáng Trí tuệ, từ bi, oai đức của Phật đà chia đều tất cả chúng sanh cùng hưởng. Đó là trách nhiệm của hàng xuất gia, không cho phép chúng ta an nhàn trốn tránh, từ chối.

Các vị! Phật pháp tại nước Bạt Đà chưa xương long, mong rằng các vị cùng với tôi đến đó hoằng hóa.

Các Tỳ kheo nghe xong, rất cảm động trước lời chí tình của Phú Lâu Na, các vị đều nguyện theo Tôn giả sang nước Bạt Đà.

Phú Lâu Na thường cổ động phát khởi cho các Tỳ kheo lười nhác, ưa mưu cầu an nhàn, để mong Phật pháp lưu bố khắp nhân gian. Do đó, đức Phật cũng thường khen ngợi giữa đại chúng, Phú Lâu Na là người khích lệ, vận động trong hàng Tỳ kheo.
  • 7. THÁI ĐỘ HOẰNG HÓA
Phú Lâu Na một bát xin cơm ngàn nhà, đi các nơi hoằng hóa, ngàn núi muôn sông, muôn sông ngàn núi cũng đều giữ một mức sinh hoạt, giữ một lối sống đúng như hoạch định. Biết bao người nhờ sự giới thiệu của Tôn giả, đã biết đến đức Phật, đã tiếp thọ được chân lý từ bi.

Khi thì Tôn giả ở nước Ma Kiệt Đà, lúc ở nước Kiều Tát Di La, hôm nay hóa đạo nơi thành Tỳ Xá Ly, ngày mai lại đến thành Ca Thi thuyết pháp. Tôn giả đã vận động nhiều người tin tưởng Phật pháp, quy y với đức Thế Tôn, trong tăng đoàn chẳng ai sánh bằng. Chúng sanh nào ngoan cố, kiên cường nghe Tôn giả thuyết pháp đều bỏ tâm cuồng vọng mà tiếp thọ sự tịnh hóa của Phật pháp. Ngài có sức mạnh nào? Chúng ta chẳng biết. Một hôm, vài tỳ kheo cùng đàm đạo với Phú Lâu Na, đã hỏi:

- Tôn giả! Ngài đi hóa độ nơi nào liền khiến từ một chỗ cỏ rậm hoang vu thành một vùng thánh địa trang nghiêm, lại có nhiều thính giả nhờ ảnh hưởng pháp âm của Ngài mà được an ổn, tĩnh lặng, thành khẩn. Trừ đức Phật, không ai thuyết pháp thành công như Tôn giả. Ngài làm sao được oai đức như thế?

Phú Lâu Na khiêm tốn đáp:

- Tôi cũng chẳng biết tôi có sức gì, tôi chỉ biết một điều đức Phật là vị đạo sư. Trước mỗi lần thuyết pháp tôi luôn luôn hướng về đức Phật cầu nguyện, cầu nguyện từ quang của Thế Tôn che chở nhiếp hộ tôi, hỗ trợ tôi hoàn thành sự nghiệp tịnh hóa nhơn gian. Tôi không cần mọi người biết đến Phú Lâu Na, tôi chỉ mong ai ai cũng biết đức Đại giác Phật đà. Nhỏ bé như tôi đâu có sức gì khiến người cảm động. Cảm động đến người chính là đức Thế Tôn, chính là giáo thị chân lý của Ngài.

Lời nói thành thật của Phú Lâu Na, mọi danh dự đều dành cho đức Phật. Các Tỳ kheo nghe xong ai cũng gật đầu khen phải, lại hỏi tiếp:

- Tôn giả! Nếp sống bố giáo hoằng hóa của ngài rất kham khổ, ngài đã chẳng chịu nghỉ ngơi, cũng chẳng xin thực phẩm bồi dưỡng thân thể, ngoài thời thuyết pháp ngài lại đi kinh hành rồi tĩnh tọa, khổ nhọc đến thế làm sao chịu được lâu dài?

- Đa tạ các vị lưu tâm đến tôi. Chúng ta làm được chút ít cho Phật pháp đã cho là khổ nhọc, như đức Thế Tôn từ nhiều kiếp lâu xa đã tu hành, độ sanh, ngày ăn một hột mè, hột bắp, bố thí đầu, mắt, tủy não, thì chẳng biết nói ra sao đây?

Sau những lúc thuyết pháp cho chúng sanh, tôi liền trở về bên đức Phật nghe lời Phật dạy, nếm mùi vị cam lồ, đó là thức bổ dưỡng tối hảo cho huệ mạng của tôi. Tôi hành cước vân du các nơi, một ngọn cỏ, cội cây đều dường như khiến tôi mỉm cười, ngọn núi con sông đều là niềm an ủi. Ánh sáng của đức Thế Tôn thấm nhuần trên thân tôi, tâm Phật sống trong tâm tôi, tôi chẳng biết khổ nhọc là gì. Các vị, lúc tôi thấy ngàn vạn người quy hướng Phật đà, chắp tay đảnh lễ, tôi bất giác cảm động đến rơi lệ. Tôi cũng hướng về phía Phật chắp tay đảnh lễ. Tôi cầu nguyện đức Phật nhiếp thọ những người ấy, ban cho họ lòng tin và sức mạnh!

Các Tỳ kheo nghe xong đều sanh lòng khâm phục, chắp tay khen ngợi.
  • 8. QUÊ HƯƠNG KHẮP NƠI
Tôn giả Phú Lâu Na đi hành khước như mây bay gió cuốn, không có nơi chốn nhất định. Ban ngày ở đại lộ, đường hẻm, đất trống tùy duyên thuyết pháp, chiều đến thì riêng mình tọa thiền nơi núi non, rừng cây hoặc là bờ suối.

Tôn giả không trụ nơi nào cố định, đến đâu cũng xem là gia hương. Có khi, vì muốn Phật pháp thường trụ, ngài cũng vận động kiến tạo tinh xá, giảng đường, nhưng khi xây cất xong ngài chưa từng xem đó là tài sản tư hữu của mình. Thỉnh một vị tài đức trụ trì và ngài lại lên đường đi nơi khác.

Phú Lâu Na không cất chứa vàng bạc, ngoài ba y bình bát, không đem theo món gì bên mình. Chúng ta không thể căn cứ trên sự biểu thị của vật chất, Phú Lâu Na không cần sự biểu thị ấy, ngài cũng có vô lượng công đức Trí tuệ pháp tài. Biết bao nhiêu chúng sanh nhờ lãnh được pháp tài ấy mà trở nên giàu có một đời, thành tựu được sự nghiệp sinh mệnh hằng cửu.

Phú Lâu Na không hề lưu ý đắn đo về sự ăn mặc. Ngoài ba y hoại sắc, Tôn giả không đắp y gấm vóc sang trọng, bình bát hóa duyên không phân nghèo giàu, không chọn ngon dở, chỉ vừa đủ no là tốt thôi. Tôn giả không nghĩ đến việc chọn thức ăn bổ dưỡng làm gì, đối với ngài thực phẩm bổ dưỡng nhất là cam lồ của đức Phật.

Một hôm, khi Phú Lâu Na hành cước nơi thành Câu Lợi, trên đường gặp một người đồng hương. Người ấy làm lễ Tôn giả và thăm hỏi:

- Tôn giả! Tôi nghe nói ngài mỗi ngày vân du hành cước, bôn ba mọi nơi như thế này, chẳng biết ngài bận rộn chuyện gì? Từ khi ngài xuất gia tôi chưa thấy ngài trở về quê thăm bà con, chúng tôi đều mong nhớ ngài. Ngài xuất gia đã lâu, mà chẳng có một mảnh ruộng vườn trang trại, chẳng có chút gia tài nào, vì đâu ngài nghèo nàn đến vậy? Bao giờ ngài mới trở về nhà?

Phú Lâu Na cũng rất lễ phép đáp:

- Đa tạ! Đa tạ! Hôm nay gặp ông thật cao hứng. Ông hỏi tôi mỗi ngày bận rộn điều gì ư? Tôi xin nói, mỗi ngày tôi bận lo cho chúng sanh lìa khổ được vui. Đến nơi nào cũng là cố hương của tôi, cũng là thân quyến. Hiện tại, tôi là đệ tử đức Đại thánh Phật đà, ruộng vườn huyễn hóa, gia đình tài sản vô thường, tôi chẳng thể nô lệ những thứ ấy, tôi không thích bị mấy thứ hư dối ấy ràng buộc. Tôi thích đi hành khước, hoằng pháp mọi nơi. Tôi làm sứ giả cho chân lý, tôi vì chúng sanh chỉ dẫn con đường đến Chánh giác. Xin ông vì tôi trở về cảm ơn những ai lo lắng cho tôi. Phú Lâu Na này cũng sẽ giúp ích các ông, đến lúc cần về quê tôi sẽ trở về.

- Tôn giả! Xa cách lâu năm tôi không ngờ rằng sau khi theo Phật xuất gia, ngài vẫn còn tích cực như thế, vẫn còn nhiệt tình đầy tràn. Ngài hoàn toàn quên mình mà vì mọi người, tôi thật khâm phục hết sức! Khi ngài trở về cố hương nhất định tôi sẽ rất hoan nghênh. Hoan nghênh ngài đem ánh sáng của đức Phật về cho quê hương chúng ta.

- Đa tạ! Tôi sẽ y nguyện vọng của ông!

Phú Lâu Na nói rồi lại vội vã đi nơi khác gieo hạt giống Bồ đề.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.23 khách