MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Mời mọi người cùng nhau đem đạo vào đời, thảo luận chia sẻ học hỏi kinh nghiệm tu tập và áp dụng Phật pháp vào đời sống hằng ngày

Điều hành viên: Thanh Tịnh Lưu Ly, binh

Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

Hình ảnh
MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT
Thế Giới Phật Giáo
Biên tập Nguyễn Thế Vinh
Nhà xuất Bản Văn Hóa Thông Tin, 2002.

TÔN GIẢ ĐẠI CA DIẾP
ĐẦU ĐÀ ĐỆ NHẤT
  • 1. DƯỚI CÂY SANH VĨ NHÂN
Nếu như hai ngàn năm trăm năm trước, có người giữ gìn nhục thân sống đến hôm nay, thì đó là Tôn giả Đại Ca Diếp, đầu đà đệ nhất trong hàng đệ tử Phật.

Cách đây không lâu, bác sĩ Bá Khắc Sum người Pháp đã được gặp Tôn giả Đại Ca Diếp tại Kê Túc Sơn, Ấn Độ, và đã quy y với ngài. Cuộc đời của vị thánh đầy tánh cách truyền kỳ ấy, hôm nay đem giới thiệu ra đây, thật là một đoạn cố sự mỹ lệ.

Chúng ta hãy trở lại từ lúc Tôn giả vừa chào đời.

Hai ngàn năm trăm năm trước, tại thôn Ma Ha Sa La Đà cách thủ đô Vương Xá nước Ma Kiệt Đà không xa, có một nhà hào phú trưởng giả dòng Bà La Môn tên Ni Câu Lư Đà Kiệt Ba, tiếng đồn tài sản của ông có thể sánh với vua Tần Bà Sa La đương thời.

Tôn giả Đại Ca Diếp đã xuất sanh trong gia đình hào phú ấy.

Nói về lúc đản sanh Tôn giả, có những điềm lành không khác với điềm lành đản sanh Phật Đà là mấy. Ngày mẫu thân trưởng giả lâm bồn, chính là lúc bà đang dạo chơi trong đình viện, bỗng cảm thấy mệt mỏi, bà đến ngồi dưới bóng cây đại thọ Tất Bất La nghỉ ngơi. Lúc ấy chẳng biết thiên y từ đâu bay tới và Đại Ca Diếp cất tiếng khóc chào đời.

Đại Ca Diếp, cha mẹ đặt tên vốn gọi là Tất Bát La Đa Na, lấy ý sinh dưới gốc cây. Đại Ca Diếp tướng hảo đầy đủ không thua kém ba mươi hai tướng của đức Phật. Gia đình đại phú hào chỉ có một quý tử, sự nuôi dưỡng và thương yêu của cha mẹ thật không thể nói hết. Nội số nhũ mẫu đã hết bốn bà, còn số người hầu hạ chăm sóc chơi đùa lại rất nhiều.

Khi Đại Ca Diếp lên tám tuổi, đã được đọc các giới điều Bà la môn, và theo thầy học tập các thứ, từ pháp tế lễ, thi họa, toán thuật, văn học, ngũ minh bốn bộ Phệ Đà, cho đến xem thiên văn, đoán âm dương kiết hung, đất động, nước dâng, âm nhạc ca vũ v.v... do sức thông minh của Ca Diếp, không có môn nào không thấu hiểu triệt để.

Duy có một điều rất lạ, ngay từ lúc nhỏ Ca Diếp đã không giống các trẻ con khác, đối với dục lạc thế gian không ưa, chẳng thích tình âu yếm, chán ghét bất tịnh, thường ưa ở một mình, xa đám đông, ngay cả cha mẹ, xa cách cũng không nhớ đến.
  • 2. NGƯỜI VỢ KHÔNG CHUNG GIƯỜNG
Ngày tháng thoi đưa, Ca Diếp đã trở thành một thanh niên anh tuấn, phong lưu. Song thân chàng rất hài lòng, bèn bảo chàng, một ngày gần đây sẽ chọn một tiểu thơ xinh đẹp để cưới cho chàng. Ca Diếp vội vã từ chối.

- Đó là điều không nên, con chỉ mong muốn duy nhất là được tu đạo, có vợ con hẳn trở ngại trong việc tu lắm.

Đương nhiên là song thân không thể nào đáp ứng yêu cầu đó, khi không còn cách nào từ chối, chàng bỗng nghĩ ra một biện pháp. Chàng liền mời một nhà điêu khắc đến, lấy vàng đúc thành một pho tượng mỹ nữ, sáng rỡ và đem trình song thân.

- Cha mẹ nhất định bảo con cưới vợ, xin chọn cô nào giống y như tượng vàng này, nếu không con sẽ suốt đời không cưới vợ.

Song thân Ca Diếp thấy con yêu cầu điều này, biết là thật rối rắm khó khăn, sau cùng mới theo lời đề nghị của các Bà la môn thường lưu tới trong gia đình, quyết định tìm cho ra một cô nương giống tượng vàng này. Các thầy Bà la môn liền thiết lập một nhà dù thật lớn đặt pho tượng trong đó, thờ cúng như một vị nữ thần, và đi rảo từ làng này sang làng nọ, từ phố này sang phố kia, đến đâu thiên hạ cũng bu theo xem rất đông đảo. Các thầy mới rao lên:

- Các cô thiếu nữ có cầu mong ước nguyện gì hãy đến cúng đường nữ thần! Các cô sẽ được toại nguyện như ý.

Cứ như thế các thầy đi dạo từ thành Vương Xá, qua sông Hằng, lần lần đến Tỳ Xá Ly. Ngoại thành này có một thôn trang tên là Ca La Ty Ca, và trong thôn có một gia đình Bà la môn cũng nổi danh địa phú, họ có một cô con gái tên Diệu Hiền, thiên tư quốc sắc, nổi danh mỹ lệ, thường ở trong khuê phòng ít bước chân ra ngoài.

Hôm ấy nhằm hội hoa đăng, nam thanh nữ tú vui chơi dập dìu. Diệu Hiền được bạn bè hẹn hò, đến chiêm bái pho tượng vàng thần nữ. Diệu Hiền nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn, khi đến lễ nữ thần khiến lu mờ cả tượng vàng. Thầy Bà la môn quản lý một phen thấy rồi rất mừng rỡ bèn theo hỏi thăm gia đình nàng, và đưa song thân Ca Diếp đến nhà song thân Diệu Hiền trình bày ý muốn kết thân. Bên song thân nàng nghe danh tiếng Ca Diếp, nên hoan hỷ hứa gả con gái.

Thủ tục đính hôn hoàn thành, chọn ngày lành tháng tốt để rước dâu, hãy nhìn Diệu Hiền xem, nàng mặc áo gấm, đeo chuỗi ngọc, thật là tiên nữ cũng không đẹp bằng. Nhưng có điều rất lạ, tân nương tuy có sắc đẹp nghiêng thành nghiêng nước, mà gương mặt rất buồn như nặng mang một tâm sự.

Đờn ca xướng hát lễ bái trời đất xong, Đại Ca Diếp và Diệu Hiền được đưa vào tân phòng. Đôi vợ chồng mới, chẳng có một nụ cười, cũng không ai ngó ai, chỉ ngồi nhắm mắt làm thinh, mỗi người một tâm sự trầm mặc. Đêm động phòng hoa chúc thế này, thật là lạ lùng nghiêm trang.

Canh một rồi canh hai, canh ba, canh bốn, canh năm đã dứt, trời gần sáng, mà cả hai không nói một lời nào. Cho đến lúc lâu, ánh sáng xuyên vào phòng, Ca Diếp mới mở lời:

- Xin hỏi nàng có tâm sự gì chăng?

Diệu Hiền chau mày ngồi làm thinh.

- Có điều gì xin nàng cứ nói, chúng ta cùng thương lượng.

Diệu Hiền lại ứa nước mắt, mà cũng chẳng trả lời.

- Thế này là thế nào? Tại sao nàng khóc?

Đại Ca Diếp hỏi với vẻ giận.

Ca Diếp hỏi hai ba phen, Diệu Hiền không dừng được, mới thở dài đáp nhỏ:

- Chàng phá chí nguyện của tôi, tôi xưa nay rất ghét ngũ dục, muốn tu phạm hạnh thanh tịnh, cha mẹ tôi bị mê hoặc bởi sự giàu sang của chàng, khiến nguyện vọng của tôi bị lỡ dở.

Đại Ca Diếp nghe nói rất mừng, chàng liền nói cho Diệu Hiền biết, mình cũng rất ghét ái nhiễm, ưa tu hạnh thanh tịnh, đây thiệt là khéo hợp ý trời, chúng ta có thể làm theo chí nguyện của mình.

Do đó hai người cùng ước định, trong phòng kê hai cái giường, trên danh nghĩa phu thê nhưng không chung giường.
  • 3. MƯỜI HAI NĂM THỦ ƯỚC
Câu chuyện ngủ riêng một giường lọt đến tai cha mẹ Ca Diếp, hai ông bà bèn vào phòng xem xét, thấy hai gường kê hai nơi, thật chẳng hợp lý chút nào, bèn rầy:

- Hai con là vợ chồng mới cưới, mà trong phòng kê riêng hai giường thật chẳng nên, ta sẽ gọi người đến dẹp bớt một cái.

Ca Diếp chẳng dám cãi lời, nhưng càng giữ vững lời hứa, càng kiên quyết lập chí, chàng nói với Diệu Hiền:

- Không lo chuyện này, còn một cái giường thì chúng ta thay phiên nhau ngủ, đầu hôm đến giữa đêm thì nàng ngủ, tôi kinh hành tu niệm trong phòng, đến gần sáng thì nàng thức, tôi ngủ, nàng có thể đi kinh hành hoặc ngồi thiền, Diệu Hiền rất bằng lòng đề nghị đó, nàng nói thêm:

- Chúng ta cần phải mau mau rời khỏi căn nhà nguy hiểm này, chớ còn trong vòng ngũ dục thì nơi nào cũng có nguy cơ ẩn nấp, mê hoặc người trong chốn đọa lạc.

Ca Diếp an ủi:

- Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng phụ mẫu còn tại thế, tôi là con một không thể bỏ đi. Nàng hãy kiên nhẫn, lý tưởng và chí nguyện của chúng ta sẽ có ngày thực hiện.

Hai người tuy sống trong chốn bụi trần mà tâm vui trong đạo nghiệp thanh tịnh, không hề xúc phạm nhau, an ổn qua thời gian.

Có một đêm Diệu Hiền ngủ trên giường, Ca Diếp đi kinh hành trong thất, bỗng có một con rắn độc màu đen bò ngang giường Diệu Hiền, Ca Diếp chú ý nhìn thấy cánh tay Diệu Hiền buông thõng xuống giường các chỗ rắn độc không xa, chàng lo lắng rủi như nàng bị rắn mổ nhằm mới làm sao? Trong lúc mười phần cấp bách, Ca Diếp liền dùng chéo áo quấn quanh cánh tay mình, mới nhè nhẹ dở cánh tay Diệu Hiền lên trên giường. Đang ngủ ngon bỗng bị động, Diệu Hiền giật mình choàng tỉnh, nàng kinh sợ lật đật ngồi dậy, có vẻ vừa giận vừa bực, nàng hỏi Ca Diếp:

- Việc gì xảy ra thế? Có chuyện gì như thế này?

Sau khi nghe Ca Diếp giải thích, nàng mới yên lòng và rất cảm phục chàng.

Cả hai giữ mức sống thanh tịnh như thế trong suốt mười hai năm.
  • 4. XUẤT GIA HỌC ĐẠO

Hội hợp ắt có biệt ly, có sanh ắt có tử, đó là nguyên lý nhất định của thế gian. Song thân Đại Ca Diếp lần lượt qua đời.

Sau đó không lâu, ngày nọ Diệu Hiền sai gia nhân ép dầu mè, trong dầu mè có nhiều con bọ nhỏ lúc nhúc cựa quậy, nàng nghe gia nhân bàn tán với nhau:

- Ép chết bao nhiêu con vật nhỏ bé thế này, không biết sau này chịu quả báo đáng sợ thế nào?

Diệu Hiền nghe xong những lời nói ấy, cảm thấy ghê sợ, lập tức bảo họ ngừng ép dầu, một mình lui vào phòng, đóng cửa lại tịnh tọa tư duy.

Cũng hôm ấy, Đại Ca Diếp đi thăm ruộng, chàng thấy đôi bò kéo nặng nhọc, nông phu làm việc không kể thân, trong ruộng có những loài côn trùng bị đường cày chặt đứt, lớp chết, lớp bị thương quằn quại, thật thảm thương, chàng nhìn cảnh tượng ấy càng chán ngán cho sự sống trên thế gian, chàng nghĩ chỉ vì sự ăn mặc của ta mà bao nhiêu người và bao nhiêu thú vật phải chịu đủ thứ khổ sở như thế sao? Không kể là người nào, kể thức ăn gì, cũng ăn khoảng một vài chén cơm, không kể ngủ cách nào cũng ngủ trong khoảng cái giường sáu tấc. Còn những thứ cần dùng khác chẳng qua là một sự lãng phí. Chỉ vì những thứ lãng phí xa xỉ vô dụng đó, mà làm tổn hại bao nhiêu người và vật, giết hại bao nhiêu sinh linh như thế, thật là một điều quá ư bất công và rất không hợp lý!

Đại Ca Diếp nghĩ như thế, trở về nhà thấy Diệu Hiền với những sự tình ưu não như vậy, thật chẳng vui chút nào. Sau đó hai người tỏ bày tâm sự, cả hai đều thấy nỗi khổ của thế gian, nỗi buồn thảm của kiếp người.

Đại Ca Diếp bèn nói với Diệu Hiền:

- Nói gì thì nói, tôi sẽ bỏ ngôi nhà này để đi xa học đạo, ở nhà thiệt chẳng khác nào ở chốn lao ngục, bao nhiêu thứ ràng buộc, khổ não đủ điều, ở trong gia đình tạo nghiệp không có hồi kết thúc, tôi sẽ ra đi để tìm cho ra chân lý của kiếp người. Tu hành trong chốn rừng núi như là lui tới trong chốn hư không, không có chút trở ngại. Tạm thời tôi đi trước tìm thầy hỏi đạo, nàng ở nhà đợi khi nào tôi gặp bậc thầy hiền minh, tôi sẽ trở về dẫn nàng cùng xuất gia, chúng ta sẽ đem hết tài sản cứu tế cho các người nghèo cùng khổ cơ khổ, và chia cho các gia nhân. Nàng hãy đợi, nhất định tôi sẽ mang tin tốt đẹp trở về.

Diệu Hiền nghe xong, rất kính phục chí nguyện của trượng phu, cùng cảm kích mối quan tâm của chàng. Chuyện xuất gia tu đạo này vốn là nguyện ước từ lâu của hai vợ chồng, vì còn cha mẹ mà phải qua hơn mười năm chờ đợi.

Hôm nay, Đại Ca Diếp đã xuất gia tu hành, trong tâm tình rất hoan hỷ, thật không thể nói hết.
  • 5. LÀM ĐỆ TỬ PHẬT
Lúc ấy Đại Ca Diếp đã ba mươi tuổi, theo truyền thuyết ngày chàng rời nhà tìm đạo cũng chính là ngày đức Phật ngồi dưới cội Bồ đề trên tòa Kim cương vừa thấy sao mai mọc và thành Chánh đẳng Chánh giác.

Đại Ca Diếp đi tìm thầy khắp nơi, nhưng thầy nào cũng không đáp ứng nguyện vọng của chàng. Hai năm sau, trong lúc đang tìm đạo tại nước Uyên Già, có người mách với chàng, đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc Đại giác của thời này, ngài đang thống lãnh những đạo sĩ nổi danh như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp; cả ngàn đồ đệ tại tịnh xá Trúc Lâm. Đại Ca Diếp nghe tin ấy rất mừng bèn hỏi thăm đường đến Trúc Lâm.

Tịnh xá Trúc Lâm, là đạo tràng tối sơ khi đức Phật tổ chức giáo đoàn, cách cửa bắc thành Vương Xá không xa. Khi Đại Ca Diếp đến đây, chàng không trực tiếp thưa hỏi đức Phật, chỉ mỗi ngày theo tín chúng trong thành đến nghe pháp. Chàng nghĩ bụng nếu không phải là Phật thì không tôn bái làm thầy. Theo ý chàng, nếu không gặp Phật, không có tôn sư, chàng cũng có thể tu chứng được quả vị Độc Giác.

Lời thuyết pháp của Phật, đức huệ của Phật dần dần động tâm can Đại Ca Diếp. Một hôm sau khi nghe Phật thuyết pháp xong, chàng trở về thành Vương Xá. Gần đến cổng thành là tháp Đa Tử, cạnh đó có một cây đại thọ cành lá xum xuê, chàng ngạc nhiên thấy đức Phật ngồi tịnh tọa dưới gốc cây. Khi chàng ra về, còn thấy ngài ngồi trên bảo tòa pháp vương ở trong tịnh xá, sao bây giờ lại gặp ngài ở đây? Chàng càng nhìn càng thấy đức Phật tướng mạo oai nghiêm thần tịnh, như một tòa kim sơn, rốt cuộc không đến lễ bái không xong. Chàng đến đảnh lễ dưới chân Phật và cảm động chân thành nói:

- Bạch Thế Tôn! Ngài là bậc đại sư của con, xin tiếp độ cho con. Đại Ca Diếp xin được quy y, từ nay Đại Ca Diếp là đệ tử của Phật.

Đức Phật biết lúc này niềm tin của Đại Ca Diếp đã chắc chắn, liền bảo:

- Này Đại Ca Diếp! Ông chính thật là đệ tử của ta, ta chính là lão sư của ông. Trên thế gian này, nếu người nào chưa chứng quả vị chánh giác, không dám nhận ông làm đệ tử. Ông hãy theo ta.

Đức Phật từ từ đứng dậy, đi về tịnh xá Trúc Lâm. Đại Ca Diếp theo sau chân ngài, vừa cung kính, vừa cảm động, vừa mừng đến rơi lệ.

Đức Phật ngoái đầu lại nhìn Đại Ca Diếp, sau mới nói:

- Ta nghe nói đến ông đã lâu, ta biết thế nào rồi ông cũng đến cầu đạo ta. Hôm nay là ngày ông được tiếp độ. Phật pháp lưu truyền về sau cần ông rất nhiều, vì chúng sinh và vì chính mình, ông nên trân trọng!

Về đến Trúc Lâm, đức Phật làm lễ thế độ cho Đại Ca Diếp, và nói pháp Tứ Đế, Mười hai nhân duyên, với oai đức tướng hảo của Thế Tôn, với từ âm thân thiết của Thế Tôn, có thể nói rằng bầu không khí chứng ngộ đã bao trùm Đại Ca Diếp. Lời dạy của đức Phật như đám mưa rơi trên thửa ruộng khô khan, tám ngày sau ông được khai ngộ.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 6. CỨU ĐỘ HIỀN THÊ
Đại Ca Diếp xuất gia được một năm cũng là năm thứ ba sau khi đức Phật thành đạo. Đức Phật nhận lời thỉnh của Phụ vương, cùng các Tỳ kheo trở về cố thành Ca Tỳ La. Đại Ca Diếp cũng có mặt trong ấy, sau đó Phật trở về tịnh xá Kỳ Viên nước Xá Vệ, trong số những hoàng tộc theo Phật xuất gia, có cả Kiều Đàm Di phu nhân cũng được xuất gia và thành lập giáo đoàn Tỳ kheo Ni.

Do đo, Đại Ca Diếp nhớ đến lời hứa với Diệu Hiền, vì trước đó người nữ không được xuất gia nên Tôn giả mới không dám xin với Phật. Bây giờ đã có giáo đoàn Tỳ kheo Ni. Chính là lúc thực hiện lời giao kết với Diệu Hiền. Đại Ca Diếp từ khi rời nhà đã cách ba bốn năm, trong ba bốn năm ấy, chẳng biết tình hình của Diệu Hiền thế nào? Tôn giả bèn an tĩnh nhập định quán sát, mới biết Diệu Hiền đang theo làm đệ tử của một phái ngoại đạo bên bờ sông Hằng.

Nguyên là từ khi Tôn giả đi tìm đạo, Diệu Hiền cũng ở nhà đợi tin tức, nhưng năm tháng trôi qua vùn vụt, một năm rồi hai năm mà chẳng thấy âm hao của Đại Ca Diếp, nàng mới nhất định không đợi nữa mà tự xuất gia. Lập chí rồi,nàng cho gọi người quản gia đến, bảo đem hết trang sức và y phục của mình phân chia cho bà con, làng xóm, gia nhân. Nàng đi đến bờ sông Hằng, lễ bái nhóm lõa hình ngoại đạo đang tu tập tại đây.

Làm đệ tử nhóm ngoại đạo này, vì dung nhan mỹ lệ mà nàng phải chịu nhiều sự lăng nhục. Đại Ca Diếp biết nàng đang cần sự tiếp độ của mình, đích thị là Tôn giả phải mau mau đem đạo lý chân thực của đức Phật sớm giác ngộ cho nàng. Tôn giả bèn nói chuyện ấy với một Tỳ kheo ni, nhờ đi đón Diệu Hiền, vị Tỳ kheo ni ấy bằng lòng, chẳng bao lâu đã đưa Diệu Hiền về đến.

Diệu Hiền gia nhập Ni viện rồi, cũng vì sắc đẹp ấy mà làm đề tài cho thiên hạ xầm xì. Nàng cảm thấy rất tủi hổ, buồn bực đã trót sinh người nữ kém phước, từ đó nàng không đi ra ngoài khất thực, xa lìa đại chúng không ló mặt nơi đông người.

Đại Ca Diếp biết chuyện sinh tâm lân mẫn, Tôn giả xin phép Phật, mỗi ngày chia bớt phần thức ăn cho Diệu Hiền. Chuyện ấy lọt vào mắt Tỳ kheo ni Thâu Lan Na Đà, cô là một người hay thị phi, bàn tán nhất trong chúng, chẳng biết vì tật đố hay vì cớ gì, cô nhiều lời hủy báng, cô nói:

- Hai người này, nghe nói mười hai năm ở nhà không ngủ chung giường, mà bây giờ mỗi ngày thấy họ thân mật chia sớt thức ăn, tôi đoán thế nào cũng có tình ý gì đây.

Tôn giả Đại Ca Diếp nghe nói, trong tâm vị thánh rỗng rang không có gì vướng mắc, nhưng vì muốn khích lệ Diệu Hiền nỗ lực tu tiếp, nên từ đó không giúp cơm nữa.

Thế gian đầy thị phi ác độc, một vị thánh thanh tịnh như Đại Ca Diếp, mà còn người khiêu khích đồn đại, thiệt ai nghe cũng bất bình.

Qua sự khích lệ ấy, Diệu Hiền nhận thấy mình phải tu hành nghiêm túc, bà suốt đêm không ngủ, thành tâm sám hối, và sau cùng được khai ngộ. Sau khi được khai ngộ, bà nói:

- Đoạn trừ mọi ràng buộc, hoàn thành tịnh hạnh, việc đáng làm ta đã làm xong.

Về sau, Phật khen ngợi bà:

- Trong chúng Tỳ kheo ni, không ai có thể sánh với Tỳ kheo ni Diệu Hiền về mặt túc mạng thông!

Tôn giả Đại Ca Diếp rất hoan hỷ, đối với ân tình của thế gian, ngài chẳng lưu lại chút mảy may.
  • 7. XÁ LỢI PHẤT PHỎNG VẤN
Từ đó Đại Ca Diếp được người tôn xưng là thánh giả, thanh danh hiển lộ trong tăng đoàn.

Có lúc, Tôn giả cùng Xá Lợi Phất đồng tu tập tại núi Kỳ Xà Quật. Có nhiều chúng ngoại đạo đến phỏng vấn tôn giả Xá Lợi Phất, bao quanh ngài đưa ra nhiều vấn đề gạn hỏi, họ hỏi: "Như Lai sau khi nhập Niết Bàn có sinh tử hay không? Hoặc là sau đó không có sinh tử? Hoặc là chẳng phải sinh tử cũng chẳng phải không sinh tử?"

Ngoại đạo dùng lối tứ cú để hỏi vấn đề sinh tử của đức Phật như thế, Tôn giả Xá Lợi Phất muốn trả lời họ, nhưng không biết trả lời sao cho hợp vì Tôn giả chưa từng nghe đức Phật dạy vấn đề này.

Chúng ngoại đạo không vừa ý lời giải đáp của Tôn giả, họ dèm chê:

- Người không trả lời được vấn đề này, sao dám tự xưng là bậc Thượng tọa. Nói là trí huệ số một mà giống như trẻ con.

Ngoại đạo đàm tiếu rồi bỏ đi, Xá lợi Phất rời chỗ tu tập của mình, băng qua đám lá rậm của rừng cây, đến thạch động tham vấn Tôn giả Đại Ca Diếp.

Xá Lợi Phất đem câu hỏi của ngoại đạo thuật lại cho Đại Ca Diếp nghe, và hỏi:

- Tôn giả, tại sao đức Phật chưa từng giải đáp vấn đề ấy, đối với câu hỏi của ngoại đạo tôi không thể giải đáp được.

Đại Ca Diếp liền trả lời:

- Đức Như Lai đã hết sạch ái chấp, tâm không còn phiền não, vĩnh viễn giải thoát, sự chứng ngộ của ngài rộng lớn sâu xa, không thể dùng tứ cú của mê tình mà hỏi, cũng không dùng ngôn ngữ để đáp. Chỉ vì vấn đề ấy không nên hỏi nên ngài không giải đáp.

Xá Lợi Phất nghe câu trả lời, thật là thích thú, cáo từ và trở về động mình tu tập.

Trong hàng đại đệ tử, các vị thường chỉ dạy nhắc nhở nhau, cùng hỏi cùng nghiên cứu, vấn qua đáp lại để bàn soạn sự học, cho nên câu hỏi đáp của hai vị Tôn giả chẳng có gì lạ, nhưng đối với vấn đề khúc mắc như Xá Lợi Phất nêu ra mà có thể tùy nghi giải đáp, mới thấy sức tu của Đại Ca Diếp cao xa đến mức nào!
  • 8. ĐỘ BÀ LÃO NGHÈO SINH CÕI TRỜI

Một hôm đức Phật cùng các đệ tử ở nước Xá Vệ, còn Đại Ca Diếp thì giáo hóa tại thành Vương Xá nước Ma Kiệt Đà. Tôn giả thường ra vào trong thành để bố thí phước điền. Khi Tôn giả đi khất thực, thường tránh nhà giàu, chỉ chọn nhà bần cùng. Trong tâm Tôn giả nghĩ rằng tuy cũng cần nên lân mẫn với họ, nhưng so với người nghèo khổ mỗi ngày phải lo lắng sinh nhai lại đáng thương hơn.

Những người bần khổ không thể hưởng thọ niềm vui ngũ dục đầy đủ, tuy nghe được chánh pháp họ rất thích, nhưng không đủ duyên may để thâu được được những cái quả báo phước đức của sự bố thí, cho nên tâm từ của Tôn giả như nước lành, rưới khắp những hạng người nghèo cùng đáng thương.

Trong thành Vương Xá có một bà lão rất nghèo khổ, đã không có bà con thân quyến lại không có nhà cửa gì cả. Sáng sớm đi lang thang từ ngõ đông sang ngõ tây, chiều tối thì ngủ vất vưởng ở bất cứ xó hẻm thuận tiện nào cũng được. Trên mình bà đeo những mảnh lá khô chằm vá nhau tạm che thân. Một hôm bà đang bệnh trầm trọng, nằm quị trên gò đất chờ chết, lúc ấy gặp một gia nhân của một nhà giàu nọ đem nước cơm đi đổ, bà lão bị đói khát hoành hành vội vơ lấy mảnh ngói bể hứng lớp nước bầy nhầy để uống cho đỡ đói.

Đại Ca Diếp biết bà lão kia bị bệnh nghèo đeo đẳng, ngài đặc biệt đến thăm. Bà lão từ trước giờ chưa từng được ai hỏi han nên khi thấy dáng Tôn giả đứng trước mặt, bà gượng nhổm dậy nhìn kỹ, té ra là một vị Tỳ kheo trang nghiêm đang đi khất thực, không lẽ thầy Tỳ kheo này lại nghèo túng hơn ta? Bà mới nói:

- Thân tôi nghèo khổ đói khát, cát đất, gò mã, bụi bờ làm nhà. Ngài xem tôi mặc áo không kín thân. Trong đất nước này không ai nghèo khổ hơn tôi. Ôi chao! Chẳng lẽ trên thế gian này lại có người từ chối cúng dường Sa môn sao? Vì sao ngài đến hỏi tôi? Xin ngài chỉ dạy phương pháp cứu tôi khỏi cảnh nghèo đói!

Đại Ca Diếp đáp:

- Trên thế gian này người tôn quý nhất, nhân từ nhất không ai bằng đức Phật, hoặc là những ai được tắm mình trong giáo lý Phật Đà. Hôm nay tôi muốn cứu độ bà thoát khỏi sự bần cùng, nên mới đặc biệt đến đây khất thực. Tôi cũng nghĩ đem tài vật đến giúp bà, nhưng điều đó chỉ giúp bà khỏi khổ nhất thời, mà sau lại tăng thêm bần cùng nữa, chi bằng bà hãy tùy ý đem bất cứ thứ gì bên người bà mà bố thí cho tôi, bà sẽ nhờ công đức đó, đời sau sẽ được sang trọng giàu có, hoặc được sinh lên trời, hưởng thọ sung sướng lâu dài.

Bà lão nghe Tôn giả từ bi thuyết pháp như vậy, rất cảm động, nhưng tìm hoài không có chút gì để bố thí. Bà rất đổi bi thương, buồn khóc thưa rằng:

- Thưa thầy Sa môn vĩ đại! Lời chỉ dạy quý báu của ngài con ghi khắc sâu xa trong tâm, nhưng ngài cũng biết, con là kẻ bần cùng hạ tiện, con chẳng có một chút vật thực nào để cúng dường ngài, cũng chẳng có y phục nào để bố thí nữa.

- Này bà lão! Đã khởi tâm bố thí thì không phải là người nghèo, người biết hỗ thẹn cũng đã mặc pháp y. Bà đã có hai món bảo bối hiếm có ấy, nên chắc chắn không còn nghèo. Hãy xem những người giàu có đầy tiền của châu báu trên thế gian này, không biết bố thí, không biết hỗ thẹn, đó mới thật là người ngu, người bần cùng vậy.

Bà lão nghe lời chỉ dạy, vui mừng phấn khởi, tâm đầy hỉ lạc, đầy hy vọng về tương lai, bà quên thân mình ô uế, bưng chút nước cơm đựng trong mẻ sành đem cúng dường Tôn giả. Tôn giả cũng cung kính kính tiếp nhận, và để cho bà khỏi nghi ngờ, Tôn giả đã uống cạn miếng nước cơm, bà lão thấy thế vui mừng vô hạn.

Chẳng bao lâu, bà rời bỏ cõi đời được sinh lên cõi trời Đao Lợi, do công đức cúng dường nước cơm, bà trở thành một thiên nữ xinh đẹp. Một hôm, thiên nữ quán sát phước nghiệp đời trước, nhớ đến ơn sâu của Đại Ca Diếp, bèn bay xuống cõi trần dùng thiên hoa rải cúng dường Tôn giả.
  • 9. QUAN SÁT TÌNH HÌNH TÍN CHÚNG
Một hôm, đức Thế Tôn bảo Đại Ca Diếp đến thành Khoáng Dã để quan sát tình hình giáo đoàn. Ở đây, sáng sớm Tôn giả đắp y mang bát vào thành, oai nghiêm đi khất thực.

Đi qua một vài đoạn đường, Tôn giả phát hiện một chuyện lạ, đân chúng thấy Tôn giả đi ngang nhà đều đóng cửa. Tôn giả ra khỏi thành vào trong thôn khất thực cũng gặp cách đối xử như vậy, ngài rất khởi niệm nghi ngờ. Phật pháp ở đây rất hưng thịnh vì sao dân chúng đối với các Tỳ kheo không một chút tôn kính như vậy kìa?

Ngài bèn đến một nhà cư sĩ hiểu biết rộng và hỏi thăm:

- Đức Phật ra khỏi đây không bao lâu, cũng còn các Tỳ kheo ở lại giáo hóa, vì sao mọi người quên hẳn sự tôn kính Tam Bảo? Các Tỳ kheo đi khất thực chẳng ai cúng dường?

Cư sĩ nọ đáp:

- Tôn giả! Từ khi đức Thế Tôn đi rồi, mấy năm trở lại đây, các vị Tỳ kheo trong thành này bày ra nhiều chuyện xây cất, mỗi người đều tự cất phòng ốc cho mình, nói rằng đức Phật đã cho phép. Xưa nay nếu là kiến tạo giảng đường hay tịnh xá công cộng để dùng trong việc hoằng pháp, hoặc tu tập, thế thì đó là việc chúng con hộ trì; nhưng mà bây giờ các Tỳ kheo đều cất nhà để an nhàn thân mình, các thầy cất cốc, cất am lu bù, đến từng nhà thí chủ kêu gọi cúng dường cửa lớn, cửa nhỏ, cột kèo, ngói gạch, dây mây mọi thứ đều kêu gọi quyên góp từ tín đồ. Lâu ngày tín chúng đều cảm thấy việc cung ứng này không có ngày chấm dứt, do đó dân trong thành, ngoài thôn hễ thấy các Tỳ kheo liền lật đật đóng cửa. Ôi! Nói đến việc này, chúng con thật là hỗ thẹn với đức Phật.

Đại Ca Diếp nghe xong, trong tâm rất khó chịu. Tôn giả lập tức quay trở về thành Vương Xá, đem câu chuyện trên bạch với đức Phật. Đức Thế Tôn bèn đến thành Khoáng Dã triệu tập hết các Tỳ kheo, giáo giới các thầy không được bắt tín chúng cúng dường quá sự phát tâm của họ. Đức Thế Tôn dạy:

- Các Tỳ kheo! Chánh pháp của ta lưu truyền lâu dài đều nhờ sức thanh tịnh và cao thượng của Tăng đoàn, người đến mức vô cầu mới thanh cao, các ông không được yêu sách tín chúng quá nhiều, trái lại các ông phải là người cống hiến cho tín chúng, các ông đừng để tín chúng chê bai, xa lánh. Nhiệm vụ quan trọng của các ông là hoằng pháp độ sinh, không phải là chuyện lo lắng về chỗ ở, chỗ ăn. Nếu như các ông xây cất giảng đường cho tín chúng, hoặc thiết lập tịnh xá để tu chung với nhau, không phải xây cất cho riêng mình, điều ấy ta cho phép. Còn làm nhiều tịnh thất lẻ tẻ, thiểu số người trong đó hưởng thọ cúng dường, đó là làm phân tán lực lượng tăng đoàn, am này tranh với am thất kia, ai cũng cho là mình ngon lành, lại càng dễ sinh tâm riêng tư!

Lời dạy của Phật, thật là tiếng chuông cảnh tỉnh trong giáo hội, tôi hy vọng các Tỳ kheo đi hóa duyên các nhà cư sĩ tại gia của thời đại này nhận thức được điều ấy.

Đức Phật dạy các Tỳ kheo xong, trở về thành Vương Xá. Tôn giả Đại Ca Diếp ở lại gầy dựng tín tâm cho dân chúng.

Tôn giả không tính toán cho đời sống riêng mình, cho nơi cư trú của mình, chỉ bận lo mang niềm vui Phật pháp đến cho mọi người, đợi cho tất cả đều tin tưởng hiểu biết chân lý của đức Phật xong, Tôn giả liền rời khỏi thành Khoáng Dã đi nơi khác.

Lấy cái họa của giáo đoàn làm cái họa của mình, hoàn thành việc đang làm rồi lui gót, không mong cầu cho mình mà chỉ làm việc vì Phật pháp, cái tư cách và chí nguyện cao cả bậc thánh ấy thật đáng cho mọi người khâm phục.
  • 10. A NAN TẶNG BÁT
Tôn giả Đại Ca Diếp chân thành vì pháp, rất được đức Thế Tôn tín nhiệm, đức Phật đối với Tôn giả thường yêu mến ủng hộ luôn.

Trong giáo đoàn có nhóm Lục Quần Tỳ kheo như Mãn Túc v.v... chuyên môn kết bè đảng làm việc ác, do đó đức Phật đã chế ra một số giới luật.

Có một thời, Phật đang ở Kỳ Viên tịnh xá, Lục Quần Tỳ kheo cũng ở đây cố tình tích chứa bình bát đủ loại. Bình bát thường thường có hai loại: bát bằng sắt thép và bát sành, do địa phương sản xuất, chất liệu hình dáng mỗi thứ không giống nhau, cho nên phân biệt thì có: Bát thiết, bát nước Tô Ma, bát của nước Ô Già, bát màu đen, bát nước Ưu Già, bát màu đỏ đủ loại... Lục Quần Tỳ kheo thường sưu tầm các thứ bình bát tốt, đem về tàng trữ trong phòng, như là một cửa tiệm đồ gốm.

Mấy ông Tỳ kheo này, từ sáng đến chiều chẳng lo tu hành gì cả, chỉ để hết tinh thần vào việc chứa bát, ngắm bát. Vì theo tinh thần của giáo đoàn, tuyệt đối cấm tích trữ vàng bạc, y phục, gạo thóc tài sản, cho nên mấy thầy dồn hết hứng thú trong việc thâu chứa đồ cổ.

Và do đó, đức Phật lại cấm chỉ việc chứa bát dư, chế định giới luật, nếu ai chứa bát dư, phải xả bỏ bát dư và sám hối, nếu không sẽ bị đọa vào địa ngục khi xác thân tan rã.

Trong lúc Phật sắp ban hành điều luật này, A Nan được cúng một cái bát nước Tô Ma rất quý. A Nan định đem tặng Đại Ca Diếp, nhưng Tôn giả Đại Ca Diếp còn bận du hóa nước ngoài, không có mặt ở thành Xá Vệ. Nếu y theo giới luật không được chứa bát dư, thì A Nan không thể để lại mà kịp tặng cho Đại Ca Diếp. A Nan chỉ còn cách đem ý ấy lên bạch Phật. Phật hỏi:

- Còn mấy ngày nữa Ca Diếp mới về lại XáVệ?

- Bạch Thế Tôn! Khoảng mười ngày trở lại Tôn giả mới về đến.

Đức Phật bèn triệu tập đại chúng, giảng dạy pháp đầu đà chân chánh, và khen ngợi Đại Ca Diếp vâng giữ hạnh đầu đà không sai phạm mảy may, dạy Lục Quần Tỳ kheo nên noi theo hạnh của Tôn giả mà tu tập. Và sau cùng, vì sự tình A Nan trình bày, đức Thế Tôn đặc biệt sửa đổi giới điều này, cho phép được chứa bát dư trong mười hôm.

Theo dõi sự kiện này, chúng ta có thể biết địa vị của Tôn giả Đại Ca Diếp đối với tâm tưởng của đức Phật và trong giáo đoàn rất cao vậy.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 11. ƯA TU KHỔ HẠNH
Đại Ca Diếp một bề ưa thích tu tập khổ hạnh đầu đà. Nói về sự tu tập của Tôn giả, từ trẻ cho đến tuổi già, không kể tình hình ra sao, hoặc là mọi người ân cần nói thế nào, Tôn giả không hề từ bỏ khổ hạnh.

Phàm người tu khổ hạnh đầu đà phải đủ mười hạnh:
  • (1) Chỉ chọn nơi vắng vẻ.
    (2) Chỉ sống bằng cách khất thực.
    (3) Thường ở một chỗ.
    (4) Ngày ăn một bữa.
    (5) Khất thực không lựa chọn.
    (6) Chỉ có ba y, bình bát, tọa cụ.
    (7) Thường ngồi tư duy.
    (8) Thường tịnh tọa chỗ trống.
    (9) Mặc y phấn tảo.
    (10) Thường ở nơi gò mả.
Đối với một nhân vật như Đại Ca Diếp, không đi hóa độ chúng sanh, mà ưa ở riêng một mình, sống quá ư khắc khổ, so với các vị Tỳ kheo tích cực tiến bộ thật không giống, tâm từ bi làm lợi lạc chúng sanh của Tôn giả đáng kính phục, nhưng nhiệt tình hoằng pháp thì còn thiếu.

Trừ đức Thế Tôn, việc biện luận với ngoại đạo và giáo hóa các Tỳ kheo đó là việc của nhị vị Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, còn Đại Ca Diếp chỉ chuyên tâm tu đạo, trong khi đức Thế Tôn và hai vị đại đệ tử còn tại thế, Đại Ca Diếp chỉ thỉnh thoảng thuyết pháp cho hàng tại gia cư sĩ mà thôi. Sau khi Phật diệt độ, thay thế Phật thống lãnh đại chúng, nhờ công lực đã được hàm dưỡng từ thời độc tu khổ hạnh trước đây, Tôn giả như một cổ đại hồng chung, khi lặng thinh thì lặng thinh trầm mặc, nhưng khi chạm duyên cũng phát tiếng ngân lớn vang dội bốn phương tám hướng.

Ban đầu hai Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng thường khuyên Đại Ca Diếp nên quên mình để phát tâm Bồ đề mà ra làm việc hoằng pháp lợi sanh, tuyên dương chân lý. Đại Ca Diếp cũng nhất quyết trả lời:

- Đối với việc hoằng dương chánh pháp, giáo hóa chúng sanh tôi không thể làm được, quên tự ngã không phải là chuyện dễ đâu! Dạy dỗ những bọn người không tín tâm, ác độc như thế tôi thật chẳng có dũng khí và sức lực. Tôi tự lượng sức mình chỉ kham sinh hoạt tự tu cho chính mình, bền bĩ trong việc khổ hạnh kham nhẫn, để ủng hộ kẻ hậu lai đối với hạnh đầu đà thiểu dục tri túc biết tôn trọng và thực hành theo. Nhiệm vụ hoằng pháp lợi sinh lớn lao kia hoàn toàn trông cậy vào các vị.

Hai vị Tôn giả nghe Đại Ca Diếp nói thế, không hề thất vọng, trái lại còn xưng tán:

- Tôn giả đủ khả năng dựng pháp tràng về phương diện ấy, thật cũng rất khó khăn, Phật pháp rất nhiều mặt, mỗi người có thể làm theo lý tưởng của mình, theo chí nguyện của mình, chúng tôi xin chúc hạ trưởng lão.

Đại Ca Diếp không thích sinh hoạt trong đoàn thể ở tịnh xá Rừng Trúc hay tịnh xá Kỳ Viên, thậm chí Tôn giả không thích hòa vui trong cảnh ấy, Tôn giả chỉ ưa tịnh tọa nơi đồng trống, quán tử thi nơi gò mả, hay vá y dưới gốc cây. Tôn giả nhận thấy đống xương trắng hoặc mùi hôi người chết, rất thích hợp trong việc tu quán vô thường, khổ, không, vô ngã.

Đại Ca Diếp không sợ mưa to gió lớn, không nệ ngày nắng đêm sương, thân già của Tôn giả luôn luôn ở dưới gốc cây trong rừng, hoặc nơi phần mộ xương trắng đồng hoang, mặc cho ai khuyên can, chẳng hề đình chỉ khổ hạnh.
  • 12. ĐỨC PHẬT CHIA NỬA TÒA
Tôn giả niên lạp ngày càng cao, đối với việc khổ hạnh đầu đà, càng lúc càng tinh cần.

Một hôm, đức Phật không nỡ nhìn thấy Tôn giả tuổi cao tác lớn mà cứ sống dãi dầu mưa nắng, ngày đêm phong sương như vậy, muốn khuyên Tôn giả bớt khổ hạnh.

Lúc ấy bánh xe pháp dừng trụ tại giảng đường Lộc Mẫu, đức Thế Tôn cho gọi Đại Ca Diếp. Tôn giả mặc y bá nạp, râu tóc ra dài, chậm chạp đi đến, các tân Tỳ kheo không biết Tôn giả, thấy hình dáng lôi thôi của Tôn giả đều tỏ ý khinh rẻ, có người còn định bước tới ngăn cản không cho đến gần Thế Tôn.

Phật biết ý đại chúng, liền từ xa gọi Tôn giả:

- Đại Ca Diếp! Ông đến đó ư! Ta còn chừa phân nửa tòa ở đây, ông hãy mau mau đến ngồi.

Các Tỳ kheo trẻ tuổi nghe Phật nói, giật mình không dè ông Tỳ kheo già đó lại là Tôn giả Đại Ca Diếp danh chấn tông môn. Tôn giả đảnh lễ Phật xong, lui lại vài bước và bạch:

- Bạch Thế Tôn! Con là đệ tử của ngài, con thật chẳng dám ngồi tại tòa dành riêng cho Thế Tôn!

Lúc ấy, đức Phật nói cho đại chúng rõ oai lực vô biên của Đại Ca Diếp, lịch trình tu tập của Tôn giả tương đồng với Thế Tôn, đời nay nếu không gặp Phật, Tôn giả cũng có thể giác ngộ, chứng quả vị La hán Độc giác.

Qua sự việc trên, có thể thấy đức Phật quý trọng Tôn giả đến thế nào, thậm chí đối đãi như khách, biểu lộ địa vị trọng yếu của Tôn giả trong giáo đoàn.

Đức Phật bảo Tôn giả không nên tiếp tục khổ hạnh, hãy bỏ bớt y thô nặng nên mặc y nhẹ của thí chủ cúng dường để tịnh dưỡng tuổi già, không nên mệt nhọc quá độ như thế.

Nhưng dù cho đức Phật ủy lạo đến đâu, Tôn giả cũng không thay đổi cách tu, Tôn giả thưa với Phật:

- Bạch Thế Tôn! Hạnh đầu đà đối với con chẳng phải là khổ nhọc, trái lại rất an lạc, con không hề bị lo lắng ưu phiền về thức ăn, y phục, không màn đến sự đắc thất trên nhân gian, con chỉ cảm thấy một sự tự do thanh tịnh thôi. Đương nhiên số người phê bình cho rằng lối sống của con nặng về tự lợi, còn như các Tôn giả Xá Lợi Phât, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên thì thay Phật làm nhiệm vụ tuyên dương chân lý, không sợ khó khăn, chẳng tiếc tánh mạng, cổ động bánh xe pháp, ủng hộ chúng sanh thấm nhuần pháp vị, đồng được pháp lạc. Về phần con, tuy không đủ nhiệt tình vì người vì pháp, nhưng con không hề quên ân Thế Tôn, cũng vì muốn báo ân Phật, con mới tu học khổ hạnh đầu đà. Vì chúng sinh cần cứu độ, hoàn toàn nương vào sự hoằng pháp của tăng đoàn. Các Tỳ kheo bố giáo là bậc thân pháp sư của tín đồ, cũng phải kiện toàn tự thân các vị, mới có thể đảm đương công tác cao quý ấy. Còn bổn phận của tăng đoàn kiện toàn như thế nào? Đương nhiên chỉ theo sinh hoạt nghiêm túc để bồi dưỡng đức hạnh cho chính mình. Môn tu khổ hạnh đầu đà trong Phật pháp cũng là một phương pháp sinh hoạt nghiêm túc, tập quen được lối sống ấy mới có thể khắc khổ, nhẫn nại, kham nhẫn đạm bạc, nhất tâm nhất đức vì pháp vì chúng sanh! Bạch Thế Tôn! Con vì muốn trực tiếp củng cố tăng đoàn, gián tiếp làm lợi ích chúng sanh, nên luôn luôn nguyện không xa bỏ khổ hạnh, xin Thế Tôn lượng thứ cho tính cách chấp trước của đệ tử.

Phật nghe xong, rất hoan hỷ, ngài nhìn Đại Ca Diếp, lại nhìn các Tỳ kheo, và nói:

- Rất tốt! Tỳ kheo các ông có nghe lời trưởng lão Đại Ca Diếp vừa nói không? Tương lai chánh pháp của ta bị hủy diệt, không phải do thiên ma ngoại đạo phá hoại, mà vì sự hủy hoại tan nát của tăng đoàn! Đại Ca Diếp nói rất đúng, muốn hoằng dương Phật pháp, để ánh sáng chân lý mãi mãi chiếu sáng trên thế gian, điều trước tiên là phải củng cố tăng đoàn. Muốn củng cố tăng đoàn mỗi tu sĩ phải tu hành một cách nghiêm túc. Người như Đại Ca Diếp mới có thể phụ trách chủ trì chánh pháp của ta!

Này Đại Ca Diếp! Ông cứ tiến tu đạo nghiệp, ta không ép ông, ông cứ tu theo ý nguyện của mình. Khi nào ông muốn gặp ta, cứ tùy thời mà đến.

Đức Phật và Đại Ca Diếp, tuy là hai mà tâm chỉ một, thầy trò thông cảm nhau. Đức Phật đãi Đại Ca Diếp như khách, như bằng hữu, nhưng Tôn giả không quên lễ nghĩa, dùng tư cách đồ đệ mà đáp lại, khiến cho mối tương giao sư đệ càng thêm thâm sâu, nồng hậu.

Chúng ta nghe nói đến đức Phật hoặc vị La Hán, đều tưởng tượng rằng các vị ấy lạnh lùng nghiêm nghị như cây khố, đá lạnh, đối với thế gian chẳng lưu chút cảm tình nào, thật ra không phải thế, các vị ấy đã biến đổi nhân tình tạp nhiễm thành một thứ tình cảm tự nhiên cao thượng, gọi đó là từ bi. Hạt giống từ bi nảy mầm từ cây trí huệ, như đá nam châm thu hút chúng sanh, khiến chúng sanh sớm chiều gần gũi tiếp cận được nhân cách cao thượng ấm áp ấy, liền sửa đổi tập khí của mình.

Trong chốn rừng sâu um tùm của miền nhiệt đới, cây Sa la trổ hoa bát ngát, những ngày hạ nhiệt đông hàn, những đêm trăng sáng trải ánh vàng trên vòm lá xanh, trong chốn cư trú thanh tịnh vắng vẻ ấy, Đại Ca Diếp đã tu tập hằng năm, hằng năm qua đều đặn, dẫu cho mười năm cũng như một ngày, cái phong tư cao nhã của một bậc thánh đệ tử như còn phảng phất đâu đây.
  • 13. NỐI TIẾP Y BÁT CỦA ĐỨC PHẬT
Ngày tháng thoi đưa, nhanh như điện chớp, ứng thân hóa độ của Thế Tôn đã mãn duyên, vào năm tám mươi tuổi, Ngài báo tin sẽ nhập Niết Bàn.

Cùng năm ấy, trước tiên là Mục Kiền Liên tuẫn nạn, sau đến Xá Lợi Phất hồi hương nhập diệt, hiện tại đức Thế Tôn lại sắp nhập Niết Bàn, trong tăng đoàn đâu cũng thấy vẻ sầu thảm. Vì sự lưu truyền chánh pháp và lãnh đạo tăng đoàn, đức Thế Tôn đã sớm chủ ý chọn người tiếp nối. Hiện nay trong tăng đoàn, Tôn giả Đại Ca Diếp già nua, và A Nan tuổi trẻ được coi như là những người có thể kế thừa Thế Tôn. Nhất là Tôn giả Đại Ca Diếp, ở trên hội Linh Sơn đức Thế Tôn đã ngầm trao chánh pháp nhãn tạng "Niêm Hoa Vi Tiếu" là điển tích tối sơ của Thiền tông.

Khi đức Phật nhập diệt ở thành Câu Thi Na, Tôn giả Đại Ca Diếp còn đang hướng dẫn năm trăm Tỳ kheo du hóa ở nước Đặc Xoa Na Xòa phương Bắc. Sau khi nghe tin, Tôn giả rất cảm thương, dắt các Tỳ kheo đi ngày đi đêm về thành Câu Thi Na, có người nước mắt đầm đìa, có người nằm lăn đất khóc than.

Trong chúng Tỳ kheo có ông Bạt Nan Đà thuộc nhóm Lục Quần Tỳ kheo lại rất vui vẻ nói rằng:

- Mấy thầy cần gì phải thương cảm như vậy? Phật đã nhập Niết Bàn rồi chúng ta mới được tự do, lão già ấy khi còn sống đã trói buộc chúng ta, quản lý chúng ta, ông còn thường câu thúc chúng ta, điều này không tốt, điều kia không được, cứ nghiêm cấm mãi. Bây giờ ổng nhập Niết Bàn rồi, chúng ta càng nhẹ nhỏn, thong thả chứ sao?

Không đợi Đại Ca Diếp quở trách, một thầy Tỳ kheo bước đến định đánh Bạt Nan Đà, Đại Ca Diếp vội ngăn lại và răn:

- Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, mọi người mất nơi nương tựa nên đều buồn thương, tại sao ông ngu si cho điều đó là việc vui mừng?

Kỳ thiệt, Tôn giả phải đập cho y một trận mới được.

Tuy là một bậc đại thánh, nhưng giây phút ấy Tôn giả cũng một phen vọng tưởng, có lúc tợ như con thơ nhớ từ phụ, tưởng đến dung mạo và ngôn từ dạy bảo tha thiết, có khi nhớ đức Phật như nghiêm sư với đệ tử, oai đức khiến người kinh sợ chẳng dám gần, có lúc lại nghĩ đến việc kết tập pháp bảo, phải nên mời các vị nào tham gia, người nào thuyết Kinh, người nào đọc Luật, Tôn giả đều suy nghĩ cặn kẽ, Tôn giả đem tấm lòng của một trưởng lão mà lo lắng cho tiền đồ Phật pháp.

Tóm lại, tâm tư của Tôn giả rất thâm trầm. Lúc ấy kim quan của đức Thế Tôn an trí tại chùa Thiên Phủ, hàng đệ tử vây quanh buồn bã khóc than, và chuẩn bị tưới dầu thơm, sắp củi lửa để làm lễ trà tỳ, nhưng đốt hoài không cháy. Bảy ngày sau, Đại Ca Diếp về đến từ trong kim quan đức Phật ló hai chân ra, Tôn giả trông thấy không cầm được nước mắt, chắp tay đảnh lễ thưa rằng:

- Đức Thế Tôn từ bi! Bậc cứu khổ vĩ đại, xin an tâm, chúng con xin đi theo bước chân của ngài!

Đại Ca Diếp nói xong, đức Phật thu hai bàn chân vào và lúc ấy giữa những tiếng khóc than kinh động của chúng đệ tử, đức Phật dùng "Tam muội chân hỏa" tự trà tỳ kim thân.

Từ đây trách nhiệm lưu truyền đại pháp đã do Tôn giả Đại Ca Diếp đảm đương.
  • 14. KẾT TẬP TAM TẠNG THÁNH ĐIỂN
Phật diệt độ khoảng chín mươi ngày sau, các Tỳ kheo mở hội nghị kết tập pháp điển.

Ban đầu, Đại Ca Diếp cũng một phen khổ tâm khi chọn vị trí kết tập. Tịnh xá Trúc Lâm thì quá rộng, ở đây lại không có nhiều các Tỳ kheo ly dục chứng quả cư trú, sau cùng Tôn giả chọn một thạch động trong rừng núi phía Đông Nam thành Vương Xá, tên gọi là động Tất Ba La Diên.

Trong rừng núi tịch mịch, hang động rộng rãi chính là một cảnh thoát trần trong những cảnh ngoài vòng trần ai. Năm trăm A La Hán đều suy cử Tôn giả Đại Ca Diếp, A Nan Đà, A Na Luật, Ưu Bà Ly, Phú Lâu Na làm bậc thượng thủ. Song Tôn giả Đại Ca Diếp với tư cách chủ tọa, đã cử tội A Nan trước đại chúng, quở trách A Nan chưa chứng thánh quả, mỗi tội bỏ xuống một thẻ, sáu tội sáu thẻ, oai nghiêm như đức Phật. A Nan dù kiêu khí ngất trời nhưng trước mặt Tôn giả cũng không dám phản kháng, chỉ một bề nhận tội.

Đại Ca Diếp rất vĩ đại, sau khi Phật diệt độ, trong những hàng đệ tử đông như thế mà đủ sức thống lý đại chúng, không để cho giáo đoàn bị chia năm xẻ bảy. Do đó đủ biết thanh danh và oai quyền của Tôn giả thật vững chắc như bàn thạch.

Khi Phật còn tại thế, hai vị đại đệ tử anh tài như Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã hoạt động trong và ngoài giáo đoàn, là hàng đệ tử thân tín của đức Phật. Còn Đại Ca Diếp thì trầm mặc tu đạo, những hoạt động của Tôn giả đều có giới hạn. Nhưng đến khi đức Phật và hai vị đại đệ tử nhập diệt rồi, mới gọi rằng nước cạn bày đá, đảm nhiệm việc lãnh đạo giáo đoàn do đó mới thấy sức tu dưỡng cao sâu của Tôn giả, và độ lượng rộng lớn của ngài.

Tác phong của Tôn giả là bảo thủ, Tôn giả không giống tinh thần tiến bộ và tích cực của Xá Lợi Phật, Mục Kiền Liên. Phật giáo ngày nay có khuynh hướng thối ẩn, cư trú rừng núi, bảo thủ, chủ trương khổ hạnh, đã chịu ảnh hưởng của Tôn giả Đại Ca Diếp rất nhiều, điều này là sự thực không thể phủ nhận.

Tôn giả Đại Ca Diếp không có thần thông quảng đại, nhưng đối với bất cứ điều khó khăn nào đều có thể kiên nhẫn, an nhiên mà vượt qua. Đem ánh sáng chân lý của đức Phật cao vọi như Thái Sơn chiếu khắp đại địa, lưu truyền đến đời vị lai vô cùng. Đầy đủ tư cách ấy thì trong tăng đoàn đương thời không có ai sánh bằng Tôn giả.

Ngày kết tập thứ hai trở đi, A Nan phụ trách tạng Kinh, Ưu Ba Ly phụ trách tạng Luật, Phú Lâu Na luận nghị. Đó là sự nghiệp thiêng liêng lớn lao của cuộc kết tập tam tạng lần thứ nhất, đã thuận hoàn thành như thế.

Chúng ta được thừa hưởng cam lộ pháp thủy của đức Phật, chúng ta có kho tàng thánh điển mênh mông như đại hải kia, chúng ta phải cảm tạ Tôn giả Đại Ca Diếp.
  • 15. LONG HOA TAM HỘI NGUYỆN TƯƠNG PHÙNG
Hai mươi, ba mươi năm sau lần kết tập ấy, Đại Ca Diếp bỗng nhiên khởi ý nghĩ yếm thế. Ngài nghĩ đức Thế Tôn là bậc đại sư của ta, ân sâu như đại hải, đối xử với ta tình như cha mẹ yêu con, ta đã vì đời sau mà lưu truyền đại pháp, có thể tính là báo đáp được ân Phật một phần trong muôn một. Hiện nay ta đã già yếu, thân thể lão hủ này còn luyến tiếc gì, tốt hơn ta nên nhập Niết Bàn.

Lúc ấy ngài đã hơn một trăm tuổi.

Ngài liền đến nơi A Nan đang du hóa, phó chúc pháp tạng, yêu cầu A Nan tiếp nối sứ mạng và sau đó bay lên hư không đến tại các nơi có tháp thờ xá lợi của Phật, hết thảy tám chỗ, cúng dường lễ bái.

Tôn giả trở về thành Vương Xá, định đến cáo từ vua A Xà Thế, nhưng quân hầu báo vua còn đang ngủ, Tôn giả bèn rời thành, đến núi Kê Túc phía Tây Nam, cách đó tám dặm. Ngọn núi này có ba đỉnh cao chót vót hình dáng như chân con gà. Phân nửa núi trở lên, là rừng cây rậm rạp, phân nửa núi trở xuống là thảm cỏ trải dài.

Khi Tôn giả đến dưới chân núi, thì ba đỉnh núi từ từ tách ra, thành một nơi tọa thiền bên trong rất đẹp. Tôn giả liền lấy cỏ trải tòa mà ngồi, và tự nói: "Hôm nay ta sẽ dùng sức thần để giữ gìn nhục thân này, dùng y phấn tảo che phủ lên mình, để đến sáu mươi bảy ức năm sau khi đức Di Lạc ra đời sẽ đến bái kiến ngài, giúp ngài giáo hóa chúng sanh!" Nói xong, ba ngọn núi khép lại như cũ dấu kín tung tích Tôn giả.

Vua A Xà Thế nghe tin Tôn giả nhập diệt, rất đỗi bi thương! Lập tức đến gặp Tôn giả A Nan, yêu cầu cùng đi với vua đến núi Kê Túc. Khi hai người vừa đến nơi, ba ngọn núi lại tách ra, cả hai cùng thấy Tôn giả Đại Ca Diếp đoan tọa nhập định trong đó. Nhà vua cùng A Nan cúng dường lễ bái rồi lui ra, núi tự nhiên khép lại. Ngoái lại nhìn cảnh núi rừng tịch mịch, nơi Tôn giả Đại Ca Diếp đã trường kỳ giữ gìn nhục thân đợi sáu mươi bảy ức năm sau khi đức Di Lạc ra đời sẽ đến bái kiến và tu học. Phong độ lưu truyền giáo hóa ấy, cả hai đều khâm phục vạn phần!

Câu chuyện huyền ảo này có ghi chép trong nhiều kinh điển. Từ đó chúng ta có thể nhận ra tư cách vĩ đại của Tôn giả qua ngàn vạn kiếp không lu mờ!

Có người nói: Tinh thần của bậc vĩ nhân hòa cùng tạo hóa, thâm nhập vào chỗ chí áo của trời đất, mà sinh mạng trường tồn với thời gian vô tận. Từ sự cố của Tôn giả Đại Ca Diếp, chúng ta có thể thấy sinh mạng của Tôn giả đã vô cùng vô tận, và như thế, giáo pháp của đức Phật nói ra cũng vô cùng vô tận vậy.

Một đời của Tôn giả Đại Ca Diếp thật là huy hoàng lộng lẫy, từ lúc sanh ra dưới gốc cây, đến đúc tượng vàng chọn vợ, mười hai năm danh nghĩa phu thê, cho đến khi quy y với Phật bên tháp Đa Tử, xuất thân là con nhà giàu mà kham nhẫn tu tập khổ hạnh, niêm hoa vi tiếu trên hội Linh Sơn, nối tiếp chánh pháp của Phật, nhiếp giữ đại pháp cho đến hơn trăm tuổi, không hề buông lơi một bước, phản đối A Nan tham dự kết tập mà đến khi A Nan khai ngộ chứng quả lại nguyện đem Phật pháp giao phó cho A Nan kế thừa, đó thật là cuộc đời của một vĩ nhân, đáng cho chúng ta noi theo mà tu tập.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

TÔN GIẢ XÁ LỢI PHẤT
TRÍ TUỆ ĐỆ NHẤT
  • 1. TRƯỚC VÀ SAU ĐẢN SANH
Tại nước Ma Kiệt Đà ở Nam Ấn, các thủ đô Vương Xá khoảng hai, ba dặm, có một thôn trang Ca Tý Nỏa Ca, rừng đẹp trúc cao, núi xanh sông biếc, thật là một địa phương u tịch và đó cũng là quê hương của ngài Xá Lợi Phất.

Xá Lợi Phất sinh ra trong gia đình Bà la môn, thân phụ - Đề Xá - là một luật sư nổi danh trong giáo đoàn Bà la môn. Thân mẫu khi mang thai ngài, trí huệ trỗi vượt hơn mọi phụ nữ tầm thường (theo truyền thuyết đó là do ảnh hưởng của thai nhi).

Em trai của thân mẫu ngài là Câu Sy La, cũng rất giỏi nghị luận, nhưng mỗi khi cùng với bà chị đàm đạo đều bị cạn lời bí lối, chẳng dám cầm cự phải thối lui. Ông xấu hổ rời nhà ra đi, biết rằng đứa trẻ trong bụng chị mình ngày sau sẽ là một bậc đại trí huệ, nếu tự mình không biết tiến hơn, mai sau cậu chẳng bằng cháu, thiên hạ sẽ cười cho thối óc. Do đó, ông đi khắp nơi tìm thầy học hỏi, nghiên cứu miệt mài đến nỗi móng tay ra dài mà không dám nghỉ để cắt. Người đương thời đặt cho ông danh hiệu là Trường Trảo Phạm Chí (sau này khi Xá Lợi Phất quy y Phật, ông cũng quy y theo làm Sa môn).

Vào năm tám tuổi, Xá Lợi Phất đã có thể giải suốt mọi thư tịch. Thời ấy trong nước Ma Kiệt Đàm có hai anh em trưởng giả, anh: Cát Lợi; em: A Già La mở tiệc đãi đằng vua quan, thái tử, các vị luận sư... ca vũ nhạc kịch, luận cổ bàn kim. Đại hội quy định, ai ngồi theo chỗ đó, chỉ có cậu bé Xá Lợi Phất trèo lên bửu tọa của luận sư cao trội, bên cạnh không người nào dám ngồi, mà chẳng hề sợ sệt. Ban đầu, mấy ông đại thần, luận sư cho đó là một tên thiếu niên vô tri, không thèm đếm xỉa đến, sai các đệ tử nhỏ tuổi đến thù đáp, nhưng gặp Xá Lợi Phất lời lẽ khúc chiết, nghĩa lý thích hợp, làm kinh ngạc bốn phía. Lúc ấy các đại luận sư mới khâm phục, khen ngợi rối rít, quốc vương cũng đẹp dạ, đem luôn một thôn trang phong tặng Xá Lợi Phất.

Ấu thơ tám tuổi đã xuất đầu lộ diện trong trường hợp như thế, phụ thân tuy nổi danh học giả, cũng tự cảm nhận: Thông minh tài trí của mình không bằng con yêu.
  • 2. LÃO SƯ CHÂN CHÁNH
Đến tuổi trưởng thành, người trong nước đều biết đại danh Xá Lợi Phất, mắt sáng như sao, tay dài quá gối. Xá Lợi Phất thừa hưởng truyền thống học giả của phụ thân nên cũng rất có phong độ học giả. Giới học thuật đương thời, không ai không biết đến chàng thanh niên hậu sinh khả úy này.

Đến năm hai mươi tuổi, Xá Lợi Phất từ giã quê hương, phụ mẫu lên đường tầm sư học đạo. Ban đầu chàng đến bái yết vị Bà la môn nổi danh San Xà Dạ làm thầy, nhưng học chưa được bao lâu chàng cảm thấy học vấn của thầy không đủ đáp ứng cho sức tìm hiểu của mình, bèn tính chuyện cáo từ. Bạn đồng học lúc bấy giờ, chỉ có Mục Kiền Liên là tâm giao, Xá Lợi Phất đem ý định của mình nói cho bạn nghe và Mục Kiền Liên cũng cảm thấy như vậy, cả hai bèn quyết định ly khai San Xà Dạ, thành lập riêng một học đoàn, chiêu tập đồ đệ. Hai chàng tuổi trẻ yên chí rằng trên đời này không có người trí thức nào sánh kịp mình và cũng chẳng có ai đủ tư cách làm thầy mình.

Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên tuổi tác tương đương và tư tưởng cũng gần gũi, cả hai đều có chí nguyện tìm cầu chân lý, nên tình cảm rất hòa hợp. Ngoài sức tự tu và dạy học, học giả trên toàn cõi Ấn Độ không có ai vừa mắt hai chàng.

Một ngày nọ, trên đường đi vào thành Vương Xá, Xá Lợi Phất gặp một vị đệ tử Phật là Tỳ kheo A Thị Thuyết. A Thị Thuyết là một trong năm vị Tỳ kheo đầu tiên quy y Phật, ngài đã trải qua nhiều năm khổ hạnh, đến khi nghe Phật nói pháp Tứ Đế, liền chứng thánh quả. Ngài có thái độ trang nghiêm, đi đứng oai nghi. Xá Lợi Phất một phen thấy qua trong lòng sinh kinh ngạc, không thể ngăn nổi sự tò mò, đến trước hỏi luôn:

- Xin lỗi, cho phép tôi hỏi thăm đạo giả, chẳng hay ngài tên gì? Hiện ở đâu?

- Đa tạ! Tôi tên A Thị Thuyết, ở Trúc Lâm tịnh xá phía ngoài thành, cách đây không xa lắm.

- Thầy của ngài là ai? Bình thường dạy ngài đạo lý gì? (Xá Lợi Phật khi hỏi câu này, thật là khẩu khí của một trưởng giả).

A Thị Thuyết chậm rãi trả lời:

- Thầy tôi là bậc Đại Thánh Thích Ca Mâu Ni xuất sinh từ dòng họ Thích. Đã tu chứng thành Phật. Ngài dạy về chân lý của vũ trụ nhân sinh, kẻ ít học như tôi không thể nào lãnh hội trọn vẹn, nhưng tôi còn nhớ, đạo lý ngài thường giảng là:
  • Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
    Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật.
Ngài cũng dạy rằng:
  • Nhất thiết hữu vi pháp
    Như mộng huyễn bào ảnh
    Như lộ diệc như điển
    Ưng tác như thị quán.
Nghĩa là tất cả các pháp trong vũ trụ này đều giả chứ không thật, và vô thường như chiêm bao mộng mị, như ảo ảnh, như sương móc trên ngọn cỏ, như chớp ngang lưng trời. Người tu theo Phật hãy nương theo đó mà quán sát.

Đối với lời dạy của đức Thế Tôn, hàng đệ tử chúng tôi chưa lãnh hội được hết những ý nghĩa sâu xa mà ngài đã dạy.

Xá Lợi Phất nghe danh hiệu Phật Đà và giáo pháp của ngài, dường như trời long đất lở, như mặt trời sáng ngời trước mắt, tất cả mối nghi ngờ về vũ trụ nhân sinh đều biến mất. Chàng đứng bên đường đàm đạo với A Thị Thuyết, như là bạn tri kỷ trăm năm và sau cùng ước hẹn, sẽ đến bái phỏng đức Phật.

Xá Lợi Phất về đến nơi, Mục Kiền Liên thấy bộ dạng hân hoan của bạn, liền hỏi thăm:

- Xá Lợi Phất có việc gì trông bạn có vẻ cao hứng đến thế?

- Mục Kiền Liên, đây là dịp vui mừng đệ nhất trong đời tôi, tôi báo cho bạn biết, tôi đã gặp vị lão sư của chúng ta.

- Bạn nói gì thế, ai là người có thể làm thầy của chúng ta?

- Phật Đà! Đó chính là đức Phật Đà.

Xá Lợi Phất liền đem những lời của A Thị Thuyết nói về đức Phật và giáo pháp, kể lại cho Mục Kiền Liên nghe. Người kể, người nghe đều không ngăn được xúc động, bất giác rơi lệ.

Pháp duyên, người bình thường nghe sẽ không lãnh hội được ra sao, nhưng đối với người tìm cầu chân lý tối thượng như Xá Lợi Phất, thì những công phu tu hành từ nhiều năm nay chỉ là những việc làm không có giá trị gì lắm trong cõi vô minh. Có thể nói không lầm rằng người nhận thức được pháp duyên mới có thể nhận thức được Phật pháp.

Ngày hôm sau, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đem hai trăm đồ chúng, đồng đến Trúc Lâm tịnh xá quy y dưới tòa đức Phật, đức Phật cũng rất hoan hỷ, ngài biết rằng chân lý mình chứng ngộ đến hôm nay mới gặp đúng người có thể tiếp thọ. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng cảm thấy mình đã gặp đúng bậc minh sư.
  • 3. GIÁM ĐỐC CÔNG TRÌNH KỲ VIÊN
Sau khi Xá Lợi Phất quy y Phật, lực lượng tăng đoàn bắt đầu tăng thêm, đức Phật rất tin dùng Xá Lợi Phất, người thứ nhất vâng lãnh sứ mạng sang phương Bắc hoằng pháp và trông coi việc xây cất Kỳ Viên tịnh xá là Xá Lợi Phất.

Trúc Lâm tịnh xá nằm ở Ma Kiệt Đà, nam Ấn Độ, còn trong thời gian Phật thành đạo hai năm đầu, ở phương Bắc không có một cơ sở để thuyết pháp. Duyên kỳ ngộ, Tu Đạt trưởng giả ở thành Vương Xá nước Kiều Tát La (Kosala) phương Bắc, đến phương Nam thăm người quen, được gặp Phật liền phát tâm quy y, và phát tâm kiến lập một tịnh xá ở phương Bắc cúng dường Phật để khắp rưới nước cam lồ.

Trưởng giả Tu Đạt dùng vàng ròng trải khắp mặt đất mua vườn hoa của thái tử Kỳ Đà, làm nơi kiến tạo tịnh xá. Ông thỉnh Phật cử cho một người thiết kế và trông coi công trình. Phương Bắc đa phần người ta tin theo ngoại đạo. Do đó Xá Lợi Phất đến đây không những chỉ hướng dẫn việc xây cất tịnh xá, mà còn phải hàng phục chúng ngoại đạo. Vì thế, ngài dạy Xá Lợi Phất cùng Tu Đạt đến Xá Vệ trước.

Tịnh xá vừa khởi công không bao lâu, quả không lầm ma nạn khởi lên. Nhiều nhóm ngoại đạo ganh ghét sự phát triển của Phật giáo, đến yêu cầu Tu Đạt bỏ ý định xây dựng tịnh xá cúng Phật, thậm chí bảo ông đừng tín ngưỡng Phật đà.

Tu Đạt là người đã lãnh thọ pháp ân của Phật, dù bất cứ thế nào ông cũng không nghe theo lời ngoại đạo, họ bèn nghĩ đến việc biện luận với đệ tử Phật, ngài Xá Lợi Phất. Họ tin chắc mình sẽ đánh đổ được Phật giáo, sẽ làm cho Tu Đạt tỉnh ngộ. Tu Đạt nghe qua tin này rất kinh sợ, nghĩ thầm, một mình ngài Xá Lợi Phất làm sao tranh biện nổi với từng ấy ngoại đạo?

Ông rầu rĩ báo cho Xá Lợi Phất biết ý định của bọn họ, trái lại Xá Lợi Phất rất hoan hỷ cho đây chính là cơ hội tất nhất để ngài thay Phật tuyên dương giáo pháp.

Đã ước định về thời gian, địa điểm mở cuộc đại hội biện luận, ngoài đạo cử mười vị luận sư danh tiếng, bên nhà Phật chỉ có một mình ngài Xá Lợi Phất. So sánh về lực lượng, bên Phật giáo tuy ít, nhưng một mình ngài Xá Lợi Phất có thể hàng phục ngàn vạn ngoại đạo. Xá Lợi Phất là đệ tử cao trỗi trong hàng đệ tử Phật, lại xuất thân từ gia đình Bà la môn, ông nội, phụ thân đều là những luận sư danh tiếng trong Bà la môn giáo, đều là học giả hạng nhất của toàn cõi Ấn Độ. Học vấn của Xá Lợi Phất đã thừa hưởng truyền thống danh giá đó. Ngài tinh thông tất cả kinh điển ngoại đạo và hiện tại là người đắc Thánh quả. Chọn Xá Lợi Phất để tranh luận với ngoại đạo, thiệt là không còn ai hơn.

Trong trường biện luận, ngài Xá Lợi Phất thắng lợi hoàn toàn, có một số ngoại đạo tiếp thu chân lý, đều xin nhờ Xá Lợi Phất giới thiệu, trở lại quy y bậc đại thánh. Đức Phật chỉ ngồi ở phương Nam, mà ánh sáng oai đức đã chiếu trùm đến phương Bắc.

Phen ngày Xá Lợi Phất hướng dẫn cả ngàn vạn người quy y Phật, Tu Đạt lúc này mới nở lỗ mũi, càng khâm phục Xá Lợi Phất, càng cảm kích đức của Thế Tôn.

Việc xây cất Kỳ Viên tiến rất mau, theo thiết kế của ngài Xá Lợi Phất, trù liệu có mười sáu giảng đường dành cho đại hội giảng kinh, lại có mười sáu tiểu đường, chia ra làm phòng ngủ, nhà khám bệnh, nhà tắm, nhà kho..., ngoài ra còn có sân vận động, ao tắm, suối nước giặt giũ v.v...

Lúc tịnh xá sắp hoàn thành, Xá Lợi Phất nói với Tu Đạt:

- Trưởng giả! Ông nhìn xem, trên trời xuất hiện những gì kia?

- Thưa Tôn giả! Con chẳng thấy có gì cả. Tu Đạt thất vọng trả lời.

- Chẳng có gì lạ, mắt thường không thể thấy được những biến hiện, bây giờ ông nương sức thiên nhãn của tôi, xem lại một lần nữa.

- A! Tu Đạt vui mừng kêu lên - thưa Tôn giả, con thấy có nhiều cung điện trang nghiêm rực rỡ.

- Đó là cung điện của sáu cõi trời Dục, vì ông cúng dường tịnh xá cho Phật thuyết pháp, tịnh xá tuy chưa hoàn thành, nhưng cung điện của ông trên sáu cõi trời đã sớm dành sẵn cho ông.

- Nhưng trong sáu cõi trời ấy nhiều những cung điện đến thế, con phải ở cõi trời nào mới tốt?

- Cõi trời Đao Lợi thọ mạng rất lâu, biết tu hành, siêng năng trong Phật đạo, khó đọa lạc. Xá Lợi Phất giải thích cho Tu Đạt nghe.

- Vậy sau này con quyết định nguyện sanh về cõi trời Đạo Lợi.

Khi Tu Đạt nói xong, những cung điện kia dần dần ẩn mất, chỉ còn cung điện của cõi trời Đao Lợi sáng rực đẹp đẻ hiện ở không trung. Tu Đạt thấy rồi rất mừng rỡ, bình sinh chưa bao giờ được thấy như vậy.
  • 4. KHÔNG THỐI CHUYỂN TÂM ĐẠI THỪA
Chuyện trưởng giả Tu Đạt cúng dường tịnh xá cho Phật, nhờ thần lực thiên nhãn của ngài Xá Lợi Phất thấy được cung điện cõi trời. Về đôi mắt của Tôn giả, trong thời quá khứ năm mươi tiểu kiếp về trước, khi ngài tu khổ hạnh, có một đoạn có sự liên quan đến đôi mắt ấy.

Xá Lợi Phất khi hành đạo Bồ tát, hành hạnh Bố thí của Đại thừa, ngài không những nguyện đem nhà cửa, ruộng vườn, tài sản v.v... những vật sở hữu nơi thân vui lòng bố thí, kể cả thân thể, mạng sống cũng không tiếc một mảy may, nguyện bố thí cho người.

Phát tâm nguyện chân thiết như vậy, làm kinh động trời đất, liền có một thiên nhân đến thử đạo tâm của ngài.

Thiên nhân biến thành một thanh niên khoảng hai mươi tuổi ngồi chờ trên đường Xá Lợi Phất thường đi qua. Thanh niên vừa thấy ngài đi đến, bèn lớn tiếng khóc rống, Xá Lợi Phất thấy vậy bất nhẫn, đến trước mặt an ủi hỏi han:

- Úy da! Này cậu kia, vì sao ngồi đây khóc lóc trông thương tâm như vậy?

- Ông đừng hỏi lôi thôi, nói cho ông nghe cũng chẳng được gì!

- Tôi là một Sa môn học đạo, phát nguyện cứu giúp khổ nạn cho chúng sanh. Anh cần gì nếu tôi có sẵn, tôi sẽ giúp anh mãn nguyện.

- Ông chẳng thể giúp tôi được đâu, tôi khóc đây chẳng phải vì thiếu tài vật thế gian, mà vì mẹ tôi mang bệnh không thể trị được, thầy thuốc cần phải có con mắt của người tu để hòa thuốc, bệnh mẹ tôi mới lành. Con mắt của người đời đã khó kiếm, còn mắt của người tu làm sao chịu cho tôi? Nghĩ đến mẹ già rên rỉ trên giường bệnh chờ thuốc, tôi bất chợt đau đớn mà phát khóc.

- Chuyện đó đâu khó gì, tôi vừa nói với anh, tôi là Sa môn kia mà. Tôi sẽ bố thí cho anh một con mắt, để cứu bệnh nan y cho mẹ anh.

Thanh niên vui mừng nhảy lên.

- Ý! Ngài bố thí cho tôi một con mắt?

- Tất cả tài sản của tôi đều bố thí hết, chính vì muốn tiến một bước trên hạnh Đại thừa, tôi nguyện đem thân ra bố thí, đang khổ sở vì chẳng gặp ai nhận, nay gặp lúc anh đang cần, tôi được mãn nguyện tâm đạo, tôi rất vui mừng cám ơn anh, anh nên tìm cách lấy con mắt của tôi đi.

Sáu mươi tiểu kiếp trước, trong tâm thầy tu Xá Lợi Phất nghĩ rằng: "Ta có hai con mắt, bố thí cho người một con, còn một con cũng đủ thấy đường, đối với mình cũng chẳng trở ngại chi".

Ngài bảo thanh niên tìm cách lấy con mắt đi, thanh niên không chịu, nói:

- Thiệt chẳng nên, làm sao tôi dám cưỡng đoạt con mắt của ông? Như lời ông phát nguyện thì ông tự móc mắt ra mà cho tôi.

Xá Lợi Phất nghe nói có lý, liền quyết tâm dũng cảm chịu đau, lấy tay móc ngay con mắt bên trái ra, đưa tận tay người thanh niên và nói:

- Đa tạ anh đã giúp tôi thành tựu tâm nguyện, anh hãy cầm lấy.

Thanh niên đưa tay cầm con mắt trái la lên:

- Hỏng bét! Ai biểu móc con mắt trái ra đây? Bệnh mẹ tôi, thầy thuốc nói phải dùng con mắt bên phải mới đúng.

Xá Lợi Phất nghe nói thiệt là hỏng tuốt. Ngài tự trách mình không hỏi kỹ rồi hãy móc mắt, bây giờ làm sao? Cho con mắt bên trái, còn con mắt bên phải để xài, nếu cho luôn con mắt bên phải, sẽ không thấy gì ráo. Thật đáng kính phục Xá Lợi Phất, không bao giờ trách người. Ngài nghĩ tiếp, phát tâm và cứu người cần phải được rốt ráo, khó gặp được người nhận thí để thành tựu đạo hạnh của mình, nên móc con mắt bên phải cho người mới xong. Xá Lợi Phất nghĩ như vậy rồi bèn an ủi thanh niên:

- Anh đừng nóng ruột, vừa rồi tại tôi hấp tấp, không kịp hỏi nên móc lộn con mắt, bây giờ tôi biết rằng, thân thể này là hư huyễn vô thường. Tôi còn con mắt bên phải, tôi xin móc luôn cho anh làm thuốc chữa bệnh cho mẹ.

Xá Lợi Phất nói xong, lại quyết tâm một phen nữa, mạnh dạn chịu đau móc luôn con mắt bên phải cho thanh niên nọ.

Thanh niên cầm con mắt Xá Lợi Phất, không thèm nói một lời cám ơn, đưa con mắt lên ngửi một cái, quăng luôn xuống đất, mắng:

- Ông là thầy tu cái gì? Con mắt hôi hám khó ngửi, làm sao nấu thuốc cho mẹ tôi dùng?

Thanh niên mắng xong còn lấy chân chà lên con mắt Xá Lợi Phất.

Tuy không thấy, nhưng lỗ tai còn thính, ngài nghe lời thanh niên mắng mỏ, nghe tiếng chân thanh niên chà đạp con mắt của mình. Ngài thở dài nghĩ thầm: "Chúng sanh khó độ, tâm Bồ tát khó phát, ta chẳng dám vọng tưởng tiến tu Đại thừa, ta nên quay lại chú trọng việc tu hành tự lợi thôi".

Trong tâm ngài vừa khởi ý niệm ấy, tức thời trên không trung xuất hiện rất nhiều thiên nhân, nói với Xá Lợi Phất:

- Tu đạo giả! Ngài đừng chán nản, người thanh niên này là do thiên nhân chúng tôi đến thử thách đạo tâm của ngài, chúng tôi nguyện ủng hộ hết mình để ngài chóng thành tựu tâm nguyện.

Xá Lợi Phất nghe nói, rất xấu hổ, tâm Bồ tát lợi tha khởi phát trở lại, ngay lúc ấy thành tựu được đạo tâm bất thối.

Từ sáu mươi tiểu kiếp đến nay, Xá Lợi Phất không ngừng học đạo, đời này được gặp Phật, chứng thánh quả, do đó được thiên nhãn thông.
  • 5. THỌ THỨC ĂN BẤT TỊNH
Xá Lợi Phất là thủ tọa trong hàng đệ tử Phật, đại trí, đại huệ, thần lực siêu quần. Ngài đối với đức Phật thật là bách ý bách thuận, đối với lời chỉ dạy của Phật chưa từng có cãi lời.

Đối với các đệ tử đức Phật tín nhiệm nhất là Xá Lợi Phất. Sau ngày thành đạo, lần trở về cố hương Ca Tỳ La thứ nhất, gặp La Hầu La muốn xuất gia, đức Phật bảo ông bái Xá Lợi Phất làm thân giáo sư, theo Xá Lợi Phất thọ giới Sa Di.

Một hôm, Xá Lợi Phất dắt Sa di La Hầu La đi khất thực trở về, đức Phật thấy vẻ mặt La Hầu La không vui, biết trong tâm ông có chuyện bất bình, bèn gọi ông đến gần, hỏi ông trong lòng bất mãn việc gì?

Sa di La Hầu La cúi đầu tỏ ý không vui, giọng nói bất mãn:

- Phật Đà! Con là Sa di đáng lẽ không nên nói lỗi bậc thượng tọa, nhưng nếu không nói thì không ai biết hoàn cảnh Sa di của chúng con.

- Sự việc thế nào? Ông giải thích ta nghe.

- Phật Đà! Các vị thượng tọa và trung tọa dẫn chúng con ra ngoài thành khất thực, tín chúng cúng dường các vị ấy toàn là những món ngon thượng đẳng, còn hàng Sa di sơ học chúng con, chỉ bố thì toàn cơm trộn xác mè rau rừng lộn lạo. Thân thể con người đối với việc ăn uống đâu có phân biệt tuổi tác và giới hạnh, đều có nhu cầu giống nhau. Các vị trưởng lão ngoài sự thọ dụng của riêng mình, không có lòng từ bi đoái hoài đến chúng con, khiến tín chúng cúng dường sanh tâm phân biệt.

- Việc ấy đâu đáng gì để nói, chỉ có chút tiểu sự mà ông không thể nhẫn.

- Phật Đà! Xin ngài từ bi đừng trách mắng chúng con, được ăn dầu mè và tô lạc, mới có thể tăng trưởng khí lực, thân thể khỏe mạnh, còn chúng con mỗi ngày ăn xác mè và rau rừng, dinh dưỡng không đủ, lâu ngày thân thể mỏi mệt thường chẳng có thể chuyên tâm tu trì.

Đức Phật nghe La Hầu La nói, cũng công nhận là đúng, tuy nhiên ngài cũng răn dạy:

- La Hầu La! Ông rời hoàng cung gia nhập tăng đoàn là để được cúng dường thức ngon vật lạ phải không?

- Thưa không, bạch Thế Tôn! Con vào tăng đoàn là vì để học đạo tu hành.

- Vậy thì ông mới nói chuyện gì đó? Như nếu nghĩ đến việc tu hành, thì khi thọ nhận của tín thí một hạt mè, một hạt cơm cũng là thấy đủ, ông đi mà lo tu hành, đừng quá quan tâm đến việc ăn uống.

Tuy dạy bảo La Hầu La như thế, nhưng ngài cũng biết tín chúng khi cúng dường có khởi tâm phân biệt, trong lòng không vui. Ngài gọi Xá Lợi Phất đến, sau khi bảo La Hầu La lui ra, hỏi:

- Xá Lợi Phất! Hôm nay ông thọ đồ ăn bất tịnh, ông có biết không?

Xá Lợi Phất nghe nói kinh hãi, lập tức bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn! Từ lúc con quy y với ngài, con vẫn y pháp khất thực của Phật mà xin ăn, con không hề trái phạm mà xin thức ăn bất tịnh.

Phật biết rõ tâm Xá Lợi Phật, giải thích:

- Việc khất thực của riêng ông, ta biết là hoàn toàn không trái phép, nhưng tăng đoàn có lục hòa, không nên chỉ biết riêng mình. Vì chấp chế nên bình đẳng, lợi ích cũng đều nhau, làm bậc trưởng lão nên thường thương tưởng để ý đến các Tỳ kheo nhỏ tuổi và Sa di, khi khất thực nên chú ý đến họ.

Đức Phật dạy xong, Xá Lợi Phất cung kính lãnh thọ.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 6. KHIẾN KẺ PHẢN BỘI KINH SỢ
Trong hàng đệ tử Phật, có một Tỳ kheo tên Đề Bà Đạt Đa, ông ta vốn là em con chú của Phật, khi ngài còn làm vương tử, sau khi theo Phật xuất gia được mười năm, bị ma quỷ làm mê mờ tâm trí, bèn phản lại Phật, tách rời khỏi tăng đoàn.

Một hôm, sau khi đức Phật đi khất thực về, cùng các đệ tử nghỉ ngơi tại giảng đường, Đề Bà Đạt Đa ngang nhiên dẫn đầu nhóm bè đảng đến yêu cầu Phật nhường quyền hành lãnh đạo tăng đoàn cho ông.

Phật chẳng hề trả lời, mặc cho Đề Bà Đạt Đa la lối om sòm. Phật vẫn im lặng nhường lời, Đề Bà Đạt Đa lại kêu gọi các Tỳ kheo đi theo ông, A Nan là bào đệ của ông, lúc ấy mới nói:

- Xin anh đừng hồ đồ, anh là huynh trưởng của tôi, tôi nghĩ đến anh tạo tội nặng như thế, tương lai sẽ bị đọa mà cảm thấy ghê sợ. Đức Phật là đại từ bi, con người như anh không thể sánh với ngài. Nếu hôm nay có mặt Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở đây, chắc chắn không để cho anh tung hoành như vậy.

Sau đó, Đề Bà Đạt Đa dùng các phương pháp huy hiếp, dùng lợi lộc dụ dỗ các đệ tử Phật, có một số người lòng tin không vững, vì tham mê sự cúng dường nồng hậu của vua A Xà Thế đối với Đề Bà, đổi lòng đi theo ông.

Ngày nọ, đang khi các phản đồ cùng với số đệ tử của Đề Bà Đạt Đa nhóm họp tại chỗ, Xá Lợi Phất uy nghiêm đi đến và hỏi:

- Này quý vị, tôi hỏi quý vị một câu, vậy chớ quý vị xuất gia tu đạo là vì thọ cúng dường? Hay vì tu đạo?

Đại chúng đồng đáp:

- Vì mục đích tu đạo và muốn thoát sinh tử luân hồi!

- Nếu như vậy, các ông không tu theo chánh đạo của đức Phật, lại để lòng tin thuần khiết của mình bị lay động vì chút vật chất cỏn con, các ông phải mau mau sám hối và quay về với chánh pháp mới được.

Khi Xá Lợi Phật nói lời ấy, từ thân mình phóng ra muôn đạo kim quang, trong đó hiện hiển từ dung của Phật, các Tỳ kheo phản bội và môn đồ của Đề Bà Đạt Đa thấy rồi đều quỳ xuống sám hối, Xá Lợi Phất lại dẫn họ trở về tăng đoàn.

Đức Phật từ đó càng tin cậy Xá Lợi Phất, ngài có công lớn trong sự hòa hợp tăng đoàn. Đề Bà Đạt Đa không sợ Phật, mà rất sợ Xá Lợi Phất.
  • 7. LÃNH THỌ ĐẠO CỨU KHỔ
Khi đức Phật ở Kỳ Viện tịnh xá, thấy chúng sanh trôi nổi trong biển khổ sanh tử không chỗ nương cậy, nghĩ đến mọi loài trong sáu nẻo không có một nơi trở về an vui, hạnh phúc, ngài muốn nói lên pháp môn cứu độ nhưng sợ hạng căn cơ thấp kém nhỏ hẹp không thể tin tưởng, thọ trì; sau cùng chọn lựa cặn kẽ, ngài quyết định dùng trí huệ của Xá Lợi Phất chắc chắn sẽ thông hiểu được cõi Cực Lạc trang nghiêm, thanh tịnh, chắc chắn có thể lãnh thọ tín ngưỡng A Di Đà Phật. Trong chúng hội tuy có đủ ba hạng căn cơ thượng, trung, hạ, nhưng đức Phật chọn Xá Lợi Phất làm đương cơ để nói lên một pháp môn dễ thực hành mà sáng tỏ, đức Phật dạy:

- "Xá Lợi Phất! Ở phương Tây cách thế giới của ta rất xa xôi, có một thế giới tên là thế giới Cực Lạc, ở đó vị giáo chủ là đức Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp.

Xá Lợi Phất! Thế giới ấy tại sao gọi là thế giới Cực Lạc? Vì thế giới ấy không giống thế giới Ta Bà này có nhiều xấu xa, nhỏ hẹp, đau khổ. Chúng sanh ở quốc độ đó chỉ có đầy đủ, không thiếu thốn, chỉ có an vui không hề đau khổ, cho nên gọi là thế giới Cực Lạc. Cõi ấy cảnh vật tốt đẹp trang nghiêm, bằng phẳng, sạch sẽ, giàu có. Người trong nước về phần ăn mặc, đi đứng, thuốc men v.v..., đều tùy theo nhu cầu mà đầy đủ tiện nghi, những người ấy đều là các bậc thượng thiện ở chung một cõi: Phong cảnh như một rừng hoa tuyệt mỹ, kiến trúc như một đô thị nguy nga.

Xá Lợi Phất! Chỉ cần nhất tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, gieo trồng duyên phước đức, tu học ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tương lai sẽ được Phật A Di Đà tiếp dẫn, được vãng sanh về nước ngài.

Xá Lợi Phất! Chúng sanh ở thế giới Ta Bà đều muốn thoát khỏi khổ não trong sáu nẻo luân hồi, chỉ nên phát nguyện cầu được sanh về cõi ấy. Ta từng bảo A Nan lễ bái Phật A Di Đà, ông ấy cũng từng được thấy ngài phóng hào quang lớn, các ông nên tin pháp môn khó tin mà ta vừa nói, đó thật là con đường cứu khổ".

Đức Phật nói xong, đại trí Xá Lợi Phất, không hề có một niệm hoài nghi. Tôn giả và đại chúng đều tin sâu pháp môn Tịnh Độ của Phật A Di Đà.
  • 8. ĐỨC HẠNH NHỊN VÀ NHƯỜNG
Xá Lợi Phất đối với việc giáo pháp của đức Phật, luôn tôn kính và phụng trì, đối với việc bố giáo chưa từng thối chí, chỉ đối với riêng mình thì vinh nhục khen chê đều chẳng lưu tâm, thảy đều nhường nhịn.

Có một lần, khi đức Phật dẫn đại chúng đi bố giáo và trở về thành Xá Vệ. Lúc đó nhóm đồ đệ của Lục Quần Tỳ kheo đã nhanh chân đến Kỳ Hoàn tịnh xá trước đức Phật và đại chúng, chiếm luôn những chỗ nghỉ ngơi tốt đẹp, ngay cả cư thất của Xá Lợi Phất cũng bị chiếm, họ lại nói: "Chỗ này là chỗ của thầy chúng ta, chỗ này là chỗ của chúng ta".

Xá Lợi Phất khi về đến tịnh xá thấy chỗ nghỉ của mình bị Lục Quần Tỳ kheo đã ở trước, không còn cách nào khác, Tôn giả bèn ra gốc cây ngồi thiền qua đêm. Sáng sớm đức Phật dậy, nghe dưới cây có tiếng ho hen, ngài bèn hỏi:

- Ai ở đó? Sao không tịnh tọa trong phòng?

Xá Lợi Phất thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con là Xá Lợi Phất, vì hôm qua có rất nhiều Tỳ kheo theo đức Phật về tịnh xá, tất cả phòng đều có người, con tạm ngủ dưới gốc cây một đêm cũng không sao.

Đức Phật nghe xong, rất khen đức nhẫn nhượng của Tôn giả, nhưng ngài cho họp các Tỳ kheo lại và dạy:

- Các Tỳ kheo! Ta hỏi các ông, trong giáo đoàn ta, người nào xứng đáng được thọ lãnh tòa thượng đẳng, nước thượng đẳng, ẩm thực thượng đẳng?

Các Tỳ kheo ồn ào bày tỏ ý kiến:

- Đó là Tỳ kheo xuất thân từ dòng vua chúa!

- Đó là Tỳ kheo xuất thân từ dòng giáo sĩ!

- Tỳ kheo nào tu hành và có khả năng bố giáo mới xứng đáng được sàng tòa hạng nhất, nước và ẩm thực hạng nhất!

Sau khi nghe các câu trả lời lung tung, đức Phật nghiêm nghị bảo:

- Các Tỳ kheo! Thuở xưa tại núi Tuyết có chim cá cô, con khỉ, con voi đồng ở chúng, tuy chúng là bằng hữu, nhưng vì thân thể, sức lực và trí khôn của mỗi con không đều, nên mạnh ai nấy tự cao tự đại, không tôn kính lẫn nhau. Sau khi biết như vậy là sai trái, mới cung kính đối với loài lớn tuổi, và nghe lời răn dạy của hạng ấy, đến khi thân hoại mạng chung, chúng đều sanh vào đường lành.

- Các Tỳ kheo! Các ông phải tôn kính bậc niên lão về pháp hạnh, hiện tại được người khen ngợi, về sau mới được sanh chỗ lành. Này các Tỳ kheo! Trong giáo pháp ta không có cao thấp, nhưng có bậc trưởng lão về pháp lạp và giới lạp, các ông phải cũng kính, phụng sự. Các bậc trưởng lão ấy đáng được thọ sàng tòa đệ nhất, nước và thực phẩm đệ nhất.

Đức Phật nói như thế, đại chúng đều hiểu ý. Xá Lợi Phất rất cảm kích, đại chúng cũng rất cảm kích.
  • 9. KHEN MỘT CÁI CHẾT ĐẸP
Xá Lợi Phất tuy là bậc trưởng lão chứng thánh quả, nhưng đối người nữ tu hành thành tựu, ngài cũng rất quý trọng.

Ngày nọ, Tôn giả đang ngồi thiền trong khu rừng gần thành Vương Xá, đang lúc buông hết để nhập chánh định, bỗng nghe Tỳ kheo ni Ưu Ba Tiên Na ngồi thiền trong hang động đối diện lớn tiếng gọi ngài! Ngài bước đến thì Ưu Ba Tiên Na nói:

- Thưa Tôn giả! Khi tôi ngồi tọa thiền, trên thân mình bỗng chạm nhằm vật gì, ban đầu tôi không để ý, sau mới biết là một loài rắn độc. Tôi đã bị nó cắn thế nào cùng chết, bây giờ thừa lúc nọc độc chưa hoành hành, xin ngài từ bi vì tôi mà mời đại chúng đến cho tôi được cáo biệt!

Khi nói câu ấy, Ưu Ba Tiên Na không tỏ một chút gì kinh sợ, như là chẳng có việc gì xảy ra.

- Ở đây vừa xảy ra việc đó sao? Ta xem sắc mặt cô không có gì biến đổi, nếu như bị rắn cắn, nhất định cô sẽ biến sắc.

Ban đầu Xá Lợi Phất cho là không có việc gì, nên nói như thế. Ưu Ba Tiên Na trầm tĩnh đáp:

- Bạch Tôn giả! Thân người là do tứ đại, ngũ uẩn hư vọng mà thành, không có chủ tể, vốn là vô thường, vốn là không. Tôi đã chứng ngộ được đạo lý ấy, độc xà làm sao cắn được cái "không".

- Cô nói rất đúng, cô đã đến trình độ thoát mọi đau đớn của thân thể, cô dùng huệ mạng của mình mà giữ gìn sắc mặt không biến đổi.

Xá Lợi Phật khen ngợi Ưu Ba Tiên Na và thông tri đến các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni tụ tập gần đó, đem Ưu Ba Tiên Na ra khỏi động, nọc độc mới dần dần xâm nhập khắp người. Ưu Ba Tiên Na vô sự nhập Niết Bàn. Thấy được bậc giải thoát như thế, đại chúng rất tán thán, Xá Lợi Phất nói:

- Người tu hành điều tâm, tấn nhập Niết Bàn, đối với cái chết của thân mình coi như bỏ cái bát độc, như bệnh nặng được lành. Có cầu ắt có báo đáp, có chí nguyện nhất định thành, sắp chết không đổi sắc, đó là dùng mắt trí huệ mà xem tướng thế gian, xem việc bỏ xác thân như ra khỏi nhà lửa, thật là đẹp vô cùng.

Lời Xá Lợi Phất khen Ưu Ba Tiên Na, cũng vốn là phương pháp quán sát của Phật giới đối với việc tử sanh, chuyện ấy, trong con mắt người tu hành xem như một đám mưa qua.
  • 10. LÒNG KHOAN DUNG RỘNG RÃI
Tuổi tác của ngài Xá Lợi Phất, tùy theo vô thường năm tháng gia tăng. Ngài đã đến lúc là một bậc cao niên tám mươi tuổi. Năm ấy, sau mùa an cư ở Kỳ Viên, vì việc hoằng pháp độ sanh ngài không nệ tuổi già, không từ lao khổ, thỉnh cầu đức Phật cho phép ngài đi du phương hóa đạo, Phật hứa khả và rất khen ngợi tinh thần vì người, vì giáo lý của Xá Lợi Phất.

Tôn giả rời tịnh xá không bao lâu, có một Tỳ kheo đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Xá Lợi Phất đi vân du hôm nay không phải vì tuyên dương Phật pháp, mà vì ông ấy đã làm nhục con, gặp mặt con ông thấy hỗ thẹn muốn tránh nên mới kiếm chuyện đi phương khác.

Đức Phật không vui khi có kẻ phỉ báng người vắng mặt, nghe xong lập tức cho mời Xá Lợi Phất trở lại và ở trước đại chúng, Phật nghiêm nghị hỏi Xá Lợi Phất:

- Xá Lợi Phất, sau khi ông đi không lâu, có một Tỳ kheo đến mách với ta rằng ông đã khi dễ, nhục mạ ông ấy, có phải vậy không?

Xá Lợi Phất ôn hòa, cung kính thưa:

- Bạch Thế Tôn! Từ khi con theo ngài đến nay gần tám mươi tuổi, con nhớ con chưa từng sát hại sanh mạng, chưa hề nói lời hư vọng, chỉ trừ khi vì muốn tuyên dương chân lý, cũng chưa từng nói chuyện riêng tư, lợi hại được mất của người, cùng người bàn tán tốt xấu. Hôm nay là ngày rốt sau của an cư, trong ba tháng qua mỗi ngày con đều sám hối, không mất chánh niệm, tâm con yên lặng, không có một vẻ bất bình, con làm sao khinh thị người được ư?

- Bạch Thế Tôn! Đất bùn hay nhẫn nhục, bất cứ vật gì nhơ uế đổ lên, đất không cự tuyệt. Phân tiểu, máu mủ, đờm dãi cũng như kẹo ngon đất đều cảm thọ. Tâm con hôm nay bộc bạch trước đức Thế Tôn, nguyện như sức nhẫn nhục của đại địa, nguyện không trái nghịch ý người.

Dòng nước thanh tịnh không kể vật sạch dơ hay cũ nát đều cùng nước để rửa sạch, tâm con không yêu ghét cũng như dòng nước kia. Bạch Thế Tôn, cây chổi dùng để quét bụi, khi quét dọn không chọn lựa tốt xấu, tâm con hôm nay thật không hề khởi phân biệt tốt xấu.

Con ở trong chánh niệm, quyết không hề khinh tiện vị Tỳ kheo kia, con đối Phật mà nói lời này, con biết việc làm của con, Tỳ kheo kia cũng biết việc làm của vị ấy. Nếu như con có lỗi con xin hướng về Tỳ kheo ấy sám hối để tâm con khỏi cắn rứt.

Vị trưởng lão gần tám mươi tuổi đã đối trước Phật cáo bạch mọi việc như thật, đại chúng nghe qua đều cảm động.

Phật bảo ông Tỳ kheo vu cáo kia:

- Ông có lỗi hủy báng trưởng lão, bây giờ không thể không sám hối, ông đã có ý khiến tăng đoàn phân vân, ông muốn cho tăng đoàn bất hòa. Nếu như ông chí thành sửa đổi, sẽ khỏi khổ báo vô cùng.

Tỳ kheo kia vội vàng quỳ trước Phật, ai cầu sám hối:

- Bạch Thế Tôn! Tôn giả Xá Lợi Phất là người không lỗi chi, con đối với bậc trí huệ năng lực như thế mà không biết nhún mình học tập, lại sinh tật đố, xin Phật từ bi thương xót cho con cơ hội đầu tiên sám hối.

Đức Phật trang nghiêm từ hòa bảo:

- Ông hãy đến sám hối Xá Lợi Phất.

Tỳ kheo ấy phủ phục cúi đầu quỳ lạy trước Xá Lợi Phất. Tôn giả để bàn tay lên đầu ông và từ tốn nói:

- Tỳ kheo! Trong giáo pháp của Phật sám hối có sức mạnh vô cùng. Làm người ai không khỏi lầm lỗi, biết lỗi biết sửa, đó là việc lành rất lớn. Tôi nhận sự sám hối của ông, từ đây về sau đừng tái phạm.

Thái độ và lời nói của Xá Lợi Phất, ai nghe cũng cảm động. Lòng quảng đại, tâm bình đẳng của Tôn giả thật là rộng lớn vô cùng.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 11. VÀO KIM CANG ĐỊNH
Khi đức Thế Tôn ở tại vườn trúc Ca Lan Đà, thành Vương Xá, Tôn giả Xá Lợi Phật nhập Kim Cang Tam Muội ở núi Kỳ Xà Quật. Trong núi có hai con quỷ một thiện, một ác. Một đứa tên là Ưu Bà Ca La, một đứa tên Già La, chúng nhìn xa xa thấy Xá Lợi Phất đang ngồi kiết già tĩnh tọa, ác quỷ Già La bèn nói với thiện quỷ Ưu Bà Ca La:

- Này Ưu Bà Ca La, ta sẽ đánh bể cái đầu của lão Sa Môn kia.

Thiện quỷ Ưu Bà Ca La can ngăn:

- Anh chớ nên nói như thế, vị Sa môn này là đệ tử Phật, thông minh trí huệ số một và có thần lực, nếu như anh khởi ác tâm hại vị ấy, về sau sẽ trầm luân vĩnh cửu, chịu khổ vô cùng. Ác quỷ Già La cương quyết:

- Anh sợ lão Sa môn ấy sao? Sa môn là người dễ bắt nạt. Anh chú ý xem một chưởng của tôi, cái đầu Sa môn lập tức nát như cám.

Thiện quỷ Ưu Bà Ca La:

- Anh nói như vậy chứ tôi thật kiêng nễ Sa môn. Sa môn tuy là nhẫn nhục dễ bị lấn áp, nhưng các vị ấy có oai đức rất lớn, anh mà đánh Sa môn ấy, ổng tuy có khổ nhứt thời, nhưng chúng ta sẽ vĩnh viễn bất an.

Thiện quỷ nói xong, ác quỷ vẫn không nghe, liền tung chưởng đánh ngay vào đầu Xá Lợi Phất. Thiện quỷ không nỡ nhìn cảnh ấy, bèn tàng hình biến đi. Câu chuyện tuy nói dài dòng nhưng xảy ra chỉ trong nháy mắt, ác quỷ đánh tới mà Xá Lợi Phất chỉ có cảm giác như một chiếc lá rơi trên đầu. Ngài mở mắt ra chỉ kịp thấy một con quỷ thất khiếu chảy máu rớt xuống địa ngục.

Xá Lợi Phất từ Kim Cang tam muội dậy, chỉnh y phục đến vườn Trúc gặp Phật, Phật bèn hỏi:

- Xá Lợi Phất, hôm nay thân ông có việc gì không?

- Bạch Thế Tôn! từ trước đến giờ con không có bệnh nặng, hiện tại trên đầu có đau chút đỉnh.

- Xá Lợi Phất! Hôm nay ông nhập Kim Cang định rất tốt, quỷ Già La đánh trên đầu ông mà chẳng gây thương tích cho ông, phải biết quỷ Già La mà đấm núi Tu Di cũng phải bể hai, sức định Kim Cang lớn mạnh như thế, Tỳ kheo các ông cần phải tu trì.

Xá Lợi Phất thường dạo trong không Tam Muội và Kim Cang tam muội, tai nạn bên ngoài không thể làm hại ngài tí nào.
  • 12. XIN ĐƯỢC NHẬP NIẾT BÀN TRƯỚC
Đức Phật ở trong rừng của thôn Trúc Phương gần thành Tỳ Xá Ly, sau khi thuyết pháp xong bèn báo cho mọi người biết là ba tháng nữa ngài sẽ nhập Niết Bàn.

Mọi người đều buồn thảm, chuyện ấy không cần nói, Xá Lợi Phất cũng không thể nào nhìn thấy đức Phật Niết Bàn. Tôn giả ở trong định nghĩ thầm:

- Những đệ tử thượng thủ của chư Phật quá khứ đều nhập Niết Bàn trước, nay ta là đệ tử thượng thủ của Thế Tôn, nên ta phải nhập Niết Bàn trước ngài.

Sau khi nghĩ như vậy, Xá Lợi Phất liền xả thiền đến trước Phật quỳ thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nhập Niết Bàn, xin đức Thế Tôn hứa khả.

Phật chú ý nhìn Xá Lợi Phất rất lâu, mới hỏi:

- Vì sao ông muốn nhập Niết Bàn mau như vậy?

- Bạch Thế Tôn! Ngài nói ngài sẽ nhập Niết Bàn rất gần đây. Thế Tôn đã ban cho con pháp tính và ân huệ rộng lớn, làm sao con có thể thấy Thế Tôn vào Niết Bàn. Vả lại, Thế Tôn từng nói, các đệ tử thượng thủ của chư Phật quá khứ đều vào Niết Bàn trước các ngài, con thiết tưởng nay là đúng lúc con vào Niết Bàn, xin Thế Tôn từ bi hứa khả.

Xá Lợi Phất nói xong, rất có vẻ thương cảm nhưng vẫn không để mất phong độ an tịnh.

Phật lại hỏi:

- Ông định vào Niết Bàn ở nơi nào?

- Ở cố hương của con, thôn Na La Ty Nỏa Ca, mẹ già trăm tuổi của con vẫn còn khỏe mạnh, con muốn về thăm mẹ già một lần và sẽ nhập Niết Bàn nơi phòng con đã được sinh dưỡng.

- Ta không ngăn cản ông, ông có thể làm theo ý mình, nhưng ông là đệ tử thượng thủ trong hàng đệ tử ta, nên đợi các chúng hội họp, và lưu cho mọi người một đôi lời giáo huấn.

Phật sai A Nan, tập họp chúng Tỳ kheo, mọi người nghe tin Xá Lợi Phất cáo từ để vào Niết Bàn, đều mau mau vân tập. Trước tiên Xá Lợi Phất cáo biệt đức Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con từ quá khứ vô lượng kiếp luôn luôn hy vọng được sinh nhằm thời Phật ra đời và đã được mãn nguyện, nỗi vui mừng khi gặp Phật chẳng có gì so sánh được. Trong bốn mươi năm, lãnh thọ lời dạy từ bi của Thế Tôn, khiến kẻ ngu si như con được mở mắt trí huệ, giác ngộ chân lý, chứng thánh quả. Ngôn từ và hình dung trong thiên hạ không thể diễn tả được sự cảm kích và vui mừng của con. Hôm nay thời hẹn lìa cõi dục gần kề, con sắp xả bỏ mọi ràng buộc thế gian, sắp sửa tấn nhập cảnh giới Niết Bàn tự do tự tại. Như người gánh nặng đi xa, sắp được buông xuống. Con rất tự lấy làm vui mừng, con thừa thọ pháp thủy cam lồ của Thế Tôn, đã giúp con cởi mở sự trói buộc của ngũ uẩn, không còn thọ hưởng sự khổ não các cõi nữa. Đây là lời từ giã cuối cùng đối với Thế Tôn, xin ngài cho con đảnh lễ.

Xá Lợi Phất nói xong, gieo năm vóc sát đất, không khí rất trầm lặng, nghiêm túc.

Phật gật đầu nói với Tôn giả:

- Xá Lợi Phất! Những lời giảng dạy của ta ông đã lãnh hội, nay ta thọ ký cho ông, tương lai ông sẽ thành Phật, hiệu là Hoa Quang Như Lai, sẽ trở lại nhân gian giáo hóa chúng sinh, thành tựu Phật quả tối cao.

Đức Phật nói xong, liền bảo đại chúng tiễn đưa Xá Lợi Phất một đoạn đường. Tôn giả đứng dậy từ giã đi lui ra cho đến lúc không còn nhìn thấy Thế Tôn, mới xoay mình hướng về phía trước.

Các Tỳ kheo đều mang hương hoa đưa tiễn Tôn giả, đây là lúc đượm vẻ vắng lặng, trang nghiêm, phần lớn các tỳ kheo đều rướm lệ.
  • 13. LỜI TẶNG SAU CÙNG
Các Tỳ kheo đi theo Xá Lợi Phất một đoạn không xa, Tôn giả dừng lại nói với mọi người:

- Quý vị hãy dừng lại đây, không cần đưa tiễn thêm. Chỉ cần Quân Đầu theo tôi mà thôi. Xin quý vị hãy trở về tự mình gấp rút tu hành, mong rằng quý vị nỗ lực tinh tấn thoát ly mọi ưu bi khổ não, mau vào cảnh giới giải thoát sanh tử luân hồi.

Đức Thế Tôn xuất hiện trên thế gian như hoa Ưu Đàm mấy ngàn vạn năm mới gặp kỳ nở hoa.

Thân người khó được, tín tâm thuần khiết khó nuôi dưỡng, đời này chúng ta được xuất gia, lại được nghe Phật thuyết pháp, thật là việc hy hữu trong trăm ngàn vạn ức đời, hy vọng đại chúng tinh tấn thêm lên, các hành vô thường cần yếu phải chiến thắng cái khổ vô thường đó, đạt đến Niết Bàn vô ngã đó mới là nơi trở về vĩnh viễn chân thật của chúng ta, đó mới là một thế giới an bình tịch tĩnh.

Tôn giả nói lời ấy xong, đại chúng nghĩ đến đây là lời tặng cuối cùng trong dịp tử biệt sanh ly, không nén nổi bi ai, mọi người đều khóc với Tôn giả:

- Tôn giả! Ngài là đệ tử thượng thủ của đức Thế Tôn, là bậc trưởng lão trong hàng Tỳ kheo của chúng con, về sau chúng con rất cần ngài lãnh đạo trong công tác hóa đạo, vì sao ngài sớm vào Niết Bàn như thế?

Xá Lợi Phất biết rõ tâm đại chúng và Tôn giả đáp:

- Xin các vị đừng thương cảm như thế, thế gian này là vô thường, Phật Đà chẳng thường nói với chúng ta như vậy sao? Núi Tu Di còn có lúc hoại, biển lớn còn có ngày khô cạn, cái chết của xác thân Xá Lợi Phất tôi như hạt cải nhỏ xíu, đó là chuyện đương nhiên, đó cũng là thật tướng của thế giới.

Lời sau cùng tôi muốn dặn dò quý vị là, cần phải nhất tâm tu đạo, thoát ly khổ hải, cần gấp về thế giới Cực Lạc thanh lương. Trước đây đức Phật đã từng dạy tôi là, quốc độ của Phật A Di Đà ở phương Tây là nơi giải thoát an lạc. Các vị nên niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng thì nguyện vọng của quý vị sẽ như ý.

Tôi lại mong quý vị tuyên dương lưu bố giáo pháp của Phật Đà, không nên so đo toan tính về danh lợi của riêng mình, không làm gì phước lợi cho quần sanh thì đừng xuất gia.

Cho đến thời mạt pháp, đời đời kiếp kiếp chỉ cần có chúng sanh nghĩ đến việc cầu vui dứt khổ. Giải quyết xong chuyện của chính mình, họ cũng có thể nối tiếp huệ mạng của Phật Đà!

Xá Lợi Phất nói xong, mọi người đều vô cùng cảm động. Mỗi người biết đây là lần chia tay sau cùng với Tôn giả, về sau sẽ khó thể tương phùng. Tuy Tôn giả bảo đại chúng trở lui, mà ai nấy đều bước theo ngài, ngài không vui khi thấy thái độ lưu luyến như thế, lại một lần nữa cự tuyệt sự tiễn dưa của họ. Cuối cùng mọi người phải dừng lại, nhìn theo mất hút bóng Tôn giả mà không nghĩ chuyện quay về. Nghĩ từ nay sẽ không còn gặp lại vị trí huệ đệ nhất, mà bất giác nước mắt rơi không ngừng. Các vị ấy tuy đã giác ngộ, nhưng nhân tính và pháp tính không khác vậy.
  • 14. HỒI GIA
Từ giã đức Phật và tăng đoàn, Xá Lợi Phất chỉ dắt theo đệ tử Quân Đầu. Trên đường đi, trong lòng Tôn giả khởi lên những đợt sóng cảm nghĩ triền miên. Tuy nhiên như thế, nhưng trong tâm ngài vẫn không loạn động, phẳng lặng và sáng suốt như đứng lặng yên trên đỉnh Tuyết Sơn, toàn vũ trụ đều hiện rõ trong tâm.

Khi Xá Lợi Phất về đến cố hương, mặt trời nghiêng về Tây trên thôn Ca La Ty Nỏa Ca, một ráng mây hồng ở góc trời, Tôn giả ngồi nghỉ bên đường, thốt nhiên đứa cháu gái tên Ưu Bà Ly Bà Đa đến bên lễ bái, Tôn giả hỏi:

- Bà nội có nhà không?

- Bà nội không đi đâu cả.

- Cháu thưa với bà có ta trở về.

- Dạ!

- Thưa với bà cho người quét dọn căn phòng của ta sạch sẽ, ta sẽ nghỉ ở đó một đêm.

- Dạ!

Xá Lợi Phất về làm gì, đứa cháu nhỏ chẳng hề biết ất giáp, chỉ dạ lia lịa, vội chạy về thưa với bà báo tin bá phụ hồi gia.

Mẫu thân của Tôn giả, nghe tin con mình từ lâu không về nhà, nay về đến, rất vui mừng. Xá Lợi Phất tuy đã tám mươi, nhưng đối với tấm lòng của bà mẹ già một trăm tuổi, lúc nào cũng xem Tôn giả như đứa con nhỏ.

Bảo quét dọn căn phòng sinh dưỡng của Tôn giả sạch sẽ, mẫu thân ngài rất lấy làm lạ, nhưng nỗi vui mừng mẹ gặp con khiến bà phấn khởi không căn vặn lý do.

- Bà nội nghỉ đi, cháu quét dọn cũng được rồi.

Ưu Bà Ly Bà Đa nói.

- Mấy đứa bây làm nhanh nhanh, quét dọn cho thật kỹ, bác bây là người rất ưa thanh tịnh đó nghen.

Mặt trời khuất núi, Tôn giả về đến nhà hỏi thăm từng người trong gia đình, mẹ ngài vui mừng đến rơi lệ, nói:

- Cuối cùng rồi con cũng trở về.

Xá Lợi Phất an nhiên nhìn mẹ, mỉm cười và đem ý định trở về đây để nhập Niết Bàn báo cho mẹ cùng gia nhân hay, ai nấy đều kinh hãi.

Xá Lợi Phất nói:

- Mọi người đừng bận tâm, xin mẹ đừng coi cái chết của con giống như mọi người. Khi chết ai cũng khóc lóc, nhưng con vào Niết Bàn là việc rất vui mừng. Lúc này thân tâm con rất vui, rất an ổn. Một đời con được gặp bậc thầy cứu thế Phật đà, nghe được giáo pháp và thực hành theo đó, con đã được cứu vớt khỏi biển sanh tử, đã được giải thoát từ trong phiền não, không còn việc gì phải sợ hãi. Sở dĩ hôm nay con về, vì để tấn nhập Niết Bàn. Con là đệ tử thượng thủ của Phật, con phải vào Niết Bàn trước ngài. Xin cả nhà yên lòng, đời người ai khỏi chết? Như tôi không chút mê mờ mà vào cảnh giới Niết Bàn thường trụ. đó là một hạnh phúc lớn lao.

Mẹ già trăm tuổi của Xá Lợi Phất nghe xong rất buồn, nhưng nghĩ con mình xả bỏ thế gian một cách tốt đẹp, tự do giải thoát như vậy, thì cũng đáng mừng. Bà nghĩ đến cái chết của con mình trong tương lai, cũng hy vọng được như Tôn giả, đem hết tâm tình hoan hỷ mà đón nhận.

Xá Lợi Phất lại đem lời dạy của Phật nói lại cho mẹ nghe, bà rất thông hiểu ý Tôn giả, nói với ngài:

- Con giảng giải rất đúng, mẹ cũng rất vui mừng, không mê muội mà vào Niết Bàn, không còn cái khổ sanh tử là hạnh phúc trên hết. Con hãy nghỉ ngơi một chút đi.

Tuy bà nói vậy, nhưng cũng rơi nước mắt mà lui về phòng.
  • 15. NHẬP NIẾT BÀN
Mẹ và gia nhân đi rồi, Tôn giả mới nói với Quân Đầu:

- Con hãy qua phòng bên kia, để một mình ta trong phòng này.

Tôn giả Xá Lợi Phất trở về nhập Niết Bàn lan truyền trong thôn xóm. Đến canh ba nửa đêm, những người trong thôn lân cận đã quy y với Phật đến tụ tập, vua A Xà Thế cũng đem nhiều đại thần đến, ai cũng muốn gặp Tôn giả lần cuối, viếng thăm và nghe lời thuyết pháp của ngài.

Quân Đầu dẫn mọi người ngồi tại một nơi và bảo hãy đợi Tôn giả nghỉ ngơi xong dẽ bái kiến.

Đêm càng sâu càng vắng, nơi tịnh thất Tôn giả chỉ có một ngọn đèn sáng, ngoài ra không nghe một tiếng động nào.

Phương Đông dần sáng, Tôn giả gọi Quân Đầu đến hỏi:

- Có người nào đến, phải không?

- Thưa phải, nhiều người nghe tin Tôn giả nhập Niết Bàn đều đến xin được gặp cả vua A Xà Thế cũng đến.

- Con mời họ vào đây.

- Họ rất mong được thấy Tôn giả.

Quân Đầu ra nói với mọi người, Tôn giả sẽ cùng mọi người tương kiến, ai nấy còn đang sợ rằng không được thấy Tôn giả hiện tiền, nghe nói vậy đều rất phấn khởi. Mọi người rón rén bước vào phòng Tôn giả, chẳng dám ho hen, bao quanh lớp trong lớp ngoài.

Cuộc gặp gở thật thiêng liêng, Tôn giả nói với mọi người:

- Các vị đến đây rất đúng lúc. Tôi cũng muốn gặp quý vị một lần. Bốn mươi năm qua, tôi vâng lãnh lời chỉ dạy của đức Thế Tôn, đi các nơi giáo hóa hoặc là tu học bên đấng đạo sư, tôi với ân sư chưa hề có một niệm không vui, hoặc một chút bất mãn, tôi cùng lúc càng cảm kích ân lớn của ngài. Trên đời này đối với giáo thị rộng lớn sâu xa như biển lớn của Thế Tôn, cũng còn có những chỗ thậm thâm tôi chưa hiểu hết, hôm nay nghĩ đến điều ấy thật là thiếu sót vô cùng. Tôi cũng được mọi người tôn xưng là trí huệ đệ nhất, chẳng qua nhờ sức từ bi của Phật, vâng theo lời dạy mà hành trì, nỗ lực tinh tấn mà chứng thánh quả.

Tôi nói như vậy là muốn nhắc quý vị biết rằng được gặp Phật ở đời là ngàn năm khó thấy, vạn năm không dễ hội ngộ, các vị hãy mau mau theo lời Phật dạy mà tu hành, bảo bối trong biển pháp tuy nhiều, các vị không tham cầu thì không được.

Tôi không còn chút gì chấp ngã, hôm nay cáo biệt các vị, tôi sẽ vào cảnh giới Niết Bàn tịch tịnh, tôi nguyện theo sau Phật, đến nơi bất sinh bất tử vĩnh viễn trường tồn.

Mọi người nghe Tôn giả thuyết pháp, thấy dáng mạo an tịnh của ngài, ai có thể nghĩ rằng đây là người sắp rời bỏ cõi đời? Vua A Xà Thế và tất cả đều cung kính khâm phục và cũng rất thương cảm. Tôn giả an trụ trong định, nằm nghiêng bên hữu, vào cảnh giới Niết Bàn.
  • 16. TINH THẦN CÒN MÃI TRÊN THẾ GIAN
Tôn giả Xá Lợi Phất Niến Bàn được bảy ngày, đệ tử Quân Đầu đem hài cốt trà tỳ, sau đó trở về chỗ Phật, kể hết sự tình cho A Nan nghe, A Nan rơi nước mắt, đưa Quân Đầu báo cáo tỉ mỉ với đức Phật, Thế Tôn yên lặng lắng nghe.

Quân Đầu báo cáo xong, đức Thế Tôn thấy A Nan rất đổi bi thương, nước mắt đầm đìa, mới nói:

- A Nan! Ông buồn thảm lo lắng việc gì? Xá Lợi Phất Niết Bàn điều ấy không quý báu ư? Ông ấy lãnh thọ pháp giáo của ta, rồi khi viên tịch đã đem hết chân lý đi không để lại chút gì sao?

A Nan cung kính chắp tay thưa:

- Bạch Thế Tôn, không phải vậy. Con chẳng phải buồn rầu lo lắng điều ấy, Tôn giả Xá Lợi Phất phụng trì giới luật, trí huệ cao siêu, khi thuyết pháp khéo léo, mạnh mẽ bố giáo. Ngài luôn nhiệt tình trong công tác, điều ấy không những chỉ chúng con biết mà chúng sinh cũng hoan hỷ xưng tán. Nghĩ đến hôm nay Tôn giả không còn nữa, vì sự lưu bố chánh pháp, vì sự tồn tại của giáo đoàn ngàn vạn năm sau, chịu ảnh hưởng sự Niết Bàn quá sớm của Tôn giả, chẳng phải riêng con lo lắng, con thiết tưởng cả đại chúng cũng đều buồn rầu lo lắng.

Đức Phật biết điều đó là đúng, Xá Lợi Phất tuy không còn nhưng chánh pháp chưa từng mất, vô thường xưa nay là thật tướng của thế gian, sinh diệt là lý đương nhiên. Đại thọ khi ngã, trước tiên gãy những cành lớn, núi báu trước khi hoại, thì tảng đá to hoại trước. Xá Lợi Phất là người nhập Niết Bàn đầu tiên trong chúng Tỳ kheo, cũng là thuận theo pháp tự nhiên. Ta không bao lâu cũng nhập Niết Bàn, các ông đừng thất vọng, giáo pháp của ta chưa từng theo ta mà mất đi. Ta sống mãi ngàn vạn năm trong lòng người tin tưởng, ta luôn chiếu cố đến họ. Các ông cần phải nương nơi pháp, nương nơi chân lý ta đã nói, không nên nương tựa vào ai khác. Tấn nhập Niết Bàn, qua thế giới Cực Lạc là công phu đệ nhất.

Phật nói xong, nhận linh cốt Xá Lợi Phất từ tay Quân Đầu, nói với đại chúng:

- Các Tỳ kheo! Linh cốt này, trước đây vài ngày còn vì chúng sanh thuyết pháp bố giáo, còn là đại trí Xá Lợi Phất, trí huệ ông ấy rộng lớn vô biên, trừ Thế Tôn ra không ai sánh kịp, ông ấy chứng chính tánh, ít muốn biết đủ, dũng mãnh tinh tấn, thường tu thiền định, vì giáo vì người, hàng phục ngoại đạo, tuyên dương chánh pháp, ông đã chứng quả giải thoát không còn khổ não.

Các Tỳ kheo hãy xem đây! Đây là di thể do Thế Tôn đích thân cầm lấy.

Khi đức Phật nói lời ấy, bất giác đại chúng đều đảnh lễ linh cốt Tôn giả, cung kính gieo năm vóc sát đất.

Tôn giả tuy ra đi, nhưng tinh thần còn mãi mãi trên thế gian.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

TÔN GIẢ MỤC KIỀN LIÊN
THẦN THÔNG ĐỆ NHẤT
  • 1. NGƯỜI THỊ TÙNG ĐẦU TIÊN
Hiện nay trong mỗi đại hùng bảo điện chúng ta thường tôn trí thánh tượng Phật Đà ngay chính giữa, bên tả ngài là A Nan, bên hữu là ngài Ca Diếp, nhưng với thời tối sơ của đức Phật mới hoằng pháp, sự tình không phải là như vậy.

Hai năm sau khi đức Thế Tôn thành đạo, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên quy y Phật, từ khi ấy Mục Kiền Liên luôn luôn ở bên tả của ngài, Xá Lợi Phất bên hữu, trừ những lúc bận hoằng hóa phương xa, bình thường hai vị không rời Phật nửa bước.

Xá Lợi Phất theo Phật xuất gia, nửa tháng sau mới dứt hết kiết sử đoạn trừ phiền não, nhưng Mục Kiền Liên chỉ trong vòng bảy hôm liền hết các lậu hoặc, hiện sức thần thông, chứng quả A la hán, trí huệ Ba la mật.

Mục Kiền Liên dáng người cao lớn, mặt vuông tai dài, biểu lộ tính cứng rắn. Tôn giả rất lạc quan, dũng cảm, thường vì chính nghĩa đả phá việc bất bình.

Trong hàng Tỳ kheo đệ tử Phật, có nhiều vị thần thông phi thường, nhưng Mục Kiền Liên được tôn xưng thần thông đệ nhất vì trong lúc hóa đạo ngài ưa hiện thần thông, đức Phật tuy không cho phép các đệ tử hiển phép lạ mê hoặc người, nhưng riêng đối với Mục Kiền Liên, ngài thường khen ngợi.
  • 2. NGUYÊN NHÂN PHÁT NGUYỆN CẦU THẦN THÔNG
Vì sao Mục Kiền Liên có thần thông? Chuyện này có liên quan đến một đoạn duyên vi diệu của ngài trong quá khứ.

Thời quá khứ, Mục Kiền Liên làm nghề đánh cá, thường ở bờ biển lưới tôm, chài cá đem đi bán, sinh sống bằng nghề ấy qua ngày, cho đến một hôm thiên lương trỗi dậy, thức tỉnh rằng nghề của mình là một nghiệp ác lớn. Tuy sống đời này cần phải tạo công đức cho đời sau và do ý niệm lương thiện ấy, chàng ngư phủ quyết định đổi nghề. Chẳng bao lâu chàng thấy trong thành có một vị Bích Chi Phật, mỗi ngày đi ngang đường với oai nghi đi đứng tĩnh lặng, phong độ thật trang nghiêm đáng kính bèn thỉnh về nhà cúng dường thịnh soạn. Nhưng vị Bích Chi Phật ấy bên ngoài hiện thần thông mà không khéo thuyết pháp, ngài chỉ dùng thần thông hóa độ, ngoài ra không có pháp môn khác. Sau khi thọ thực xong, ngài bay lên hư không đi tới đi lui lên xuống như thường. Ngư phủ thấy rồi trong lòng vui mừng bèn phát nguyện đời sau xin được thần thông.

Có chí thì nên, do duyên đó Tôn giả Mục Kiền Liên đời nay quy y Phật và được xưng là thần thông đệ nhất.
  • 3. CẦU BÁU ĐƯA PHẬT ĐÀ
Thần thông của Mục Kiền Liên, tai nghe thấu mọi âm thanh xa gần, mắt thấy hết mọi sự vật không bị trở ngại, không kể đường dài ngắn vừa nghe liền hiện thân. Tôn giả thường dùng phép lạ ấy để trợ Phật giáo hóa.

Một hôm, dân chúng trong thành Xá Vệ tổ chức buổi yến tiệc cúng dường chín mươi sáu giáo phái xuất gia và mời vua Ba Tư Nặc, thái tử, quần thần cũng đến dự, bàn tiệc dọn tại quảng trường đối diện với bờ sông A Kỳ, Mục Kiền Liên là vị khách đến đầu tiên. Giây phút sau chúng ngoại đạo tấp nập đến thọ cúng, ai cũng muốn đến trước để chiếm một chỗ ngồi trước, nhưng hôm đó nước sông A Kỳ bỗng dâng cao, không thể qua được. Lúc ấy, Mục Kiền Liên nhìn xa xa thấy đức Phật thống lãnh đại chúng oai nghi an tường đi đến. Ngài lập tức hóa một chiếu cầu trân bảo bắc ngang sông, giăng mắc hương hoa, dùng thất bảo nghiêm sức để đón Phật.

Lúc đức Thế Tôn chưa đến, chúng ngoại đạo đứng bên bờ thấy nước mênh mông bèn nghĩ thầm: "Hôm nay nước cao quá, chúng ta không thể sang bờ bên kia để thọ cúng, thôi hãy đợi Phật và các đệ tử đến, xem ngài có biện pháp gì chăng?" Còn đang tính toán, chiếc cầu báu vừa hoàn thành, bọn họ vừa thấy rất vui mừng, reo hò inh ỏi, tranh nhau nói:

- Sa Môn đến chậm rồi. Trời cho cây cầu này đưa chúng ta qua trước, chúng ta sẽ là thượng khách chiếm ghế Chủ tịch.

Ngoại đạo nói xong chen nhau lên cầu, đến giữa cầu bỗng nghe tiếng nổ lớn chiếc cầu gãy ngang, mọi người rơi xuống nước lũm ngũm, tiếng kêu cứu chấn động một vùng.

Khi đức Phật đến, chiếc cầu trở lại như cũ, Phật và các Tỳ kheo đi qua, thấy các ngoại đạo đang vùng vẫy, loi ngoi trong nước, ngài động lòng từ bi vận dụng thần lực cứu hết mọi người đem lên, cho đi theo sau đức Phật, sau đó mới được yên ổn theo thứ tự mà qua sông rồi cầu cũng biến mất.

Trong khi đức Phật và các đệ tử thọ thực, chúng ngoại đạo y phục ướt mèm, phải ngồi phơi nắng hong khô. Sau đại hội họ đều biết sức yếu hèn của mình không thể so sánh với quang minh rạng rỡ của đức Thế Tôn và chư đệ tử.
  • 4. TRONG ĐỊNH THƯA HỎI
Một ngày nọ, đức Phật ở tại tịnh xá Kỳ Hoàn nước Xá Vệ. Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất đến vườn Trúc Ca Lan Đà, thành Vương Xá, lãnh đạo các Tỳ kheo đi giáo hóa trong dân gian.

Hai vị ngụ trong một thiền phòng, đêm yên tĩnh, bốn bề không tiếng động, ánh đèn trong phòng hòa cùng ánh trăng. Gần sáng, Xá Lợi Phất phá tan không khí trầm mặc, hỏi Mục Kiền Liên:

- Này Tôn giả, xin phép cho tôi hỏi đường đột thế này, vậy chớ đêm nay ngài có trụ tại chánh định tịch diệt hay không?

Mục Kiền Liên nhẹ nhàng hỏi lại:

- Vì sao ngài hỏi tôi như thế?

- Vì lâu thật lâu tôi không nghe hơi thở hô hấp của ngài, cũng không thấy ngài cử động, dường như không có mặt Tôn giả trong phòng này.

- Tôn giả Xá Lợi Phất! Đêm nay tôi vừa khởi lên một vấn đề cần thiết, tinh tấn trên sự tu hành, nên tôi đến thỉnh ý Phật. Vừa rồi ngài không nghe tiếng tăm tôi, là vì tôi vừa ở bên Phật hỏi chuyện.

- Ngài nói sao khó hiểu quá, hiện giờ Phật đang ở vườn Trúc phương Nam, hai nơi cách nhau rất xa làm sao Tôn giả nói chuyện với Phật? Hay đức Phật dùng thần túc đến đây?

Mục Kiền Liên trả lời:

- Không, chẳng phải vậy đâu, tôi không dùng thần túc đến nơi tòa Phật, mà Phật cũng không dùng thần túc đến chỗ chúng ta.

- Như vậy rốt cuộc làm sao Tôn giả nói chuyện với đức Phật?

- Thưa Tôn giả, chẳng có gì lạ lùng hết, đức Thế Tôn có thiên nhãn và thiên nhĩ thông. Tôi và Tôn giả cũng có thần thông ấy, cần để tâm vận dụng, chúng ta đều có thể nói chuyện với đức Thế Tôn bất cứ lúc nào và ở đâu.

Xá Lợi Phất cũng biết vậy, nhưng ngài luôn luôn có thái độ khiêm cung với bạn đồng trú xứ. Mục Kiền Liên nói xong, Tôn giả rất hoan hỷ liền khen:

- Tôn giả Mục Kiền Liên! Ngài thật có đại thần lực, đại công đức, tôi được làm bạn với ngài thật hân hạnh. Tôn giả như đỉnh núi nguy nga, tôi như tiểu thạch đứng bên núi, được ngồi đồng một tòa với Tôn giả thật là duyên hiếm có. Người nào được giao du với Tôn giả, cung kính cúng dường, nhất định được lợi ích tốt lành.

Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đều là bạn cũ, hai vị cùng tôn kính nhau, khen ngợi nhau, từ thỉ chí chung đạo tình thâm trọng.
  • 5. AI LÀ THẦN THÔNG ĐỆ NHẤT
Nói về Tôn giả Xá Lợi Phất, lão bằng hữu Mục Kiền Liên, không những có đại trí huệ, mà cũng có đại thần thông, đầu tiên khi Tôn giả đến thành Xá Vệ làm giám đốc cho công trình Kỳ Viên, đã cùng với Lao Độ Sai, thủ lĩnh ngoại đạo thi triển mười tám phép thần biến và được thắng lợi. Xá Lợi Phất đã lưu lại ảnh hưởng trong dân chúng thành Xá Vệ là một vị Tôn giả đại thần thông và đại trí huệ.

Một hôm, nhằm ngày rằm, Phật thuyết giới cho chư vị Tỳ kheo đến mé ao A Nậu Đạt, trong tòa thiếu Xá Lợi Phất. Phật bảo Mục Kiền Liên:

- Mục Kiền Liên! Ông đến thành Xá Vệ mời Xá Lợi Phất về và nói đây là ý của ta.

Mục Kiền Liên vâng dạ ra đi, đến bên tòa Xá Lợi Phất bảo rằng:

- Tôn giả! Đức Thế Tôn bảo tôi mời ngài đến ao A Nậu, nơi thuyết giới hiện tại.

Xá Lợi Phất nghe nói lộ vẻ hoan hỷ:

- Đa tạ huynh đã truyền thánh ý đến cho tôi, chúng ta đi ngay thôi, nhưng tôi với Tôn giả làm một cuộc du hí nhé.

- Du hí kiểu nào? Mục Kiền Liên nghi ngờ nhìn Xá Lợi Phất.

- Tôn giả là bậc lão đại thần thông, đây là một sợi giải áo. Tôn giả thử đem nó kết thành một cây cổ thụ.

Xá Lợi Phất vừa nói xong, liền ném sợi dây ra. Mục Kiền Liên đưa tay bắt lấy, nhưng sợi dây không nhúc nhích, Tôn giả vận dụng hết sức thần thông kéo sợi dây đến nỗi chấn động đại địa. Xá Lợi Phất mau mau đem sợi dây quấn quanh núi Tu Di, Mục Kiền Liên liền nhắc núi Tu Di lên. Xá Lợi Phất bèn đem dây cột vào tòa sư tử của đức Phật. Mục Kiền Liên lần nữa dùng hết thần lực cũng không lay động được nó. Xá Lợi Phất cười nói với Mục Kiền Liên:

- Tôn giả! Chỗ học và chỗ chứng của chúng ta sánh với vạn đức vạn năng của Phật đã cách xa trời vực. Thần lực của chúng ta có thể dời núi Tu Di, rung chuyển thiên địa, nhưng pháp tòa của Phật không lay động mảy may, tôi đâm ra nghi ngờ thần lực của mình, nên mới mời ngài thí nghiệm, thôi bây giờ chúng ta mau đến bái kiến đức Thế Tôn. Ngài đi trước, tôi theo sau.

Mục Kiền Liên rất khâm phục lời nói của người đạo hữu thâm giao, gật đầu và dùng thần túc bay về ao A Nậu. Đến nơi đã thấy Xá Lợi Phất kiết già, ngồi cạnh đức Thế Tôn. Mục Kiền Liên đảnh lễ Phật xong, bèn hỏi Phật đầy nghi ngờ:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ con mất hết thần túc thông rồi sao? Con từ tịnh xá Kỳ Viên về đây trước Xá Lợi Phất, tại sao Tôn giả lại đến nơi trước con? Phật thường nói con thần thông đệ nhất, danh xưng đó con thiết tưởng tặng cho Tôn giả Xá Lợi Phất mới phải.

Đức Phật từ bi an ủi:

- Mục Kiền Liên! Ông có đại thần lực, trừ ta ra không kém thua ai, ông cũng chẳng hề thối thất thần thông, nhưng ông cần phải biết, Xá Lợi Phất là đại trí huệ đấy.

Phật thuyết giới bên ao A Nậu Đạt xong, dẫn các đệ tử trở về thành Xá Vệ, tín chúng trong thành biết chuyện vừa rồi, ai nấy đều xôn xao bàn tán, nói rằng thần thông của Xá Lợi Phất hơn Mục Kiền Liên.

Mục Kiền Liên nghe tiếng bình phẩm ấy không hề cảm thấy bực bội. Tâm của ngài rộng rãi và rất khiêm tốn, cho rằng Xá Lợi Phất xứng đáng hơn mình. Mọi người khen Xá Lợi Phất, điều đó vinh hạnh như khen ngợi chính Tôn giả.

Nhưng trong lòng Xá Lợi Phất không yên, ngài cho điều đó có gì ủy khúc với Mục Kiền Liên. Tôn giả bèn đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Mục Kiền Liên có đại thần thông, đại công đức, hôm nọ con đến ao A Nậu trước là vì con gấp rút muốn nghe Thế Tôn thuyết giới, tuy Tôn giả Mục Kiền Liên vận dụng thần lực nhưng không nghĩ đến việc tranh thủ thời gian. Hôm nay mọi người nhôn nhao bàn tán, nói con thần thông hơn Mục Kiền Liên, thật con không dám nhận, xin đức Thế Tôn dùng phương tiện giải trừ lối phê bình bất công ấy.

Đức Phật nghe xong mỉm cười nhân ái, gật đầu. Phật bèn gọi Mục Kiền Liên:

- Mục Kiền Liên! Ông là đệ tử thần thông vô tỷ trong hàng đệ tử ta, hôm nay ông có thể ở trong đại chúng hiện thần lực để khai phát tín tâm cho hàng sơ học.

Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy liền từ tòa đứng dậy, một chân đạp trên địa cầu, một chân đạp cõi trời Phạm thiên, khiến đại địa chấn động sáu cách, và ở trong không trung dùng phạm âm thuyết pháp, sáu mươi Tỳ kheo được Lậu Tận Ý Giải.

Từ đó đại chúng đều đồng thanh công nhận Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhất.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 6. DỜI NÚI ĐỘ PHẠM CHÍ
Ấn Độ thời Phật tại thế, phần đông ngoại đạo không tin theo Phật pháp, lại có ngũ thông, đáng tiếc không thấu rõ chân lý, không tu đức hạnh từ bi trí huệ, cho nên không thoát sinh tử, trở lại trầm luân trong sáu nẻo.

Đối với hàng ngoại đạo mê chấp thần thông này dùng chính sở trường của họ để độ họ, Phật thường sai Mục Kiền Liên trong việc hóa độ chúng ngoại đạo Phạm chí.

Một hôm, Phật bảo Tôn giả Mục Kiền Liên:

- Mục Kiền Liên! Tại biên giới Ấn Độ có một nước lớn, vua và thần dân đều không biết Phật pháp, thờ phụng Phạm chí ngoại đạo, có nhiều Phạm chí đắc thần thông, họ dời núi lấp sông, phân thân biến hóa dễ dàng. Ông hãy đến đó phương tiện vận dụng oai thần, khiến họ tin tưởng Phật pháp, bỏ tà về chánh, sửa đổi mê lầm.

Tôn giả vâng lời, liền bay lên không trung đến nước ấy, nhìn xuống thấy có một ngọn núi lớn có rất nhiều người ngoại đạo bao quanh, xem tình hình này dường như họ đang dùng đạo lực di động trái núi kia.

Mục Kiền Liên liền đáp xuống đỉnh núi, đứng trụ bộ trên ấy, thân hình cao thấu hư không, ngọn núi kia chẳng lay động mảy may. Chúng ngoại đạo hoảng kinh bàn tán:

- Núi nay đã dời lên, ai lại làm cho nó cứng ngắc không nhúc nhích như vầy. Có lẽ nào trong chúng ta có người không thanh tịnh sao?

Vừa nói xong, bỗng ngó lên thấy Mục Kiền Liên đang đứng trên đỉnh núi, cao vòi vọi, họ bèn hét lên:

- Tên kia! Mi là ai? Dám đến đây lộng hành? Ngọn núi này làm trở ngại giao thông, nhà vua ra lệnh chúng ta dẹp nó đi, vì dân trừ hoạn nạn, tại sao mi lại đè nó đứng yên không cho di chuyển.

Mục Kiền Liên cười và nói:

- Rõ ràng là tôi đứng giữa hư không, ai đè trái núi của các ông làm chi?

Ngoại đạo lại huy động hết đạo lực, ba lần muốn dời núi, mà hòn núi to lớn vẫn y nguyên như cũ.

Đang lúc ngoại đạo cảm thấy hết phương cách và kinh sợ hoang mang. Mục Kiền Liên lớn tiếng kêu:

- Các Phạm chí! Định thần xem đây, núi kia sẽ biến mất.

Mục Kiền Liên nói xong, hòn núi cao ngất hùng vĩ kia tức khắc biến thành bình địa.

Các ngoại đạo cúi đầu nói:

- Đại đức từ đâu đến? Nếu chẳng phải là bậc trí huệ sáng suốt, đạo đức sâu dày không thể được như vậy, xin ngài thâu nhận chúng tôi làm đệ tử, chỉ dạy bờ mê cho chúng tôi.

Mục Kiền Liên từ trên không hạ xuống, nói:

- Các ông có tâm chí thành hối cải, tôi biết đó không phải là lời dối gạt, nếu các ông muốn bỏ tốt cầu sáng, bỏ ác làm lành, tôi còn có bậc tôn sư, đức Phật Đà Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đức Phật là bậc trời trong loại trời, bậc thánh trong các thánh, đầy đủ nhất thiết trí, vạn đức vạn năng, các ông hãy theo tôi đến chỗ Phật quy y, đức Phật nhất định từ bi nhiếp thọ.

Các Phạm chí vui mừng nhảy nhót, hỏi thăm:

- Giáo pháp của Phật chẳng lẽ hơn Lão sư sao?

Mục Kiền Liên nghiêm trang nói:

- Đức Phật như núi Tu Di, tôi chỉ như hạt cải, hạt cải không thể so sánh với Tu Di, Phật Đà như biển lớn, tôi chỉ như dòng nước nhỏ, dòng nước không thể sánh với biển cả. Phật ra đời khó gặp, các ông quy y Phật mới mong thoát khỏi sanh tử luân hồi.

Các Phạm chí nghe xong vui vẻ, đều theo Mục Kiền Liên đến chỗ Phật quy y thọ giáo.

Tôn giả Mục Kiền Liên thường dùng thần thông chiết phục ngoại đạo, khiến họ khởi tâm quy hướng Phật pháp. Ngài là người có nhiều biện pháp trong việc hàng phục ngoại đạo.
  • 7. HÀNG PHỤC ÁC QUỶ
Tôn giả Mục Kiền Liên tuy hay hàng phục ác ma ngoại đạo, nhưng bọn chúng cũng thường tìm cách chọc ghẹo ngài.

Một phen, Mục Kiền Liên vâng lời Phật, đơn thân đến nước Bạt Già giáo hóa, có một tệ quỷ thấy Tôn giả đang tản bộ trên đường, hắn liền dùng thần thông chui vào bụng Tôn giả. Tôn giả cảm thấy đau nhói ở bụng, dường như có vật gì như cái chén lợn cợn trong đó mà lại kêu rầm rầm như sấm. Tôn giả liền dừng bước, trở về thất tịnh tọa tư duy, biết đây là tệ quỷ khiêu khích mình, bèn nói:

- Ác ma, mau mau đi ra, không được xâm phạm đệ tử Phật. Mi chẳng thể làm tổn hại đức Phật và đệ tử ngài, trừ những đệ tử nghiệp lực đến thời, nếu không mi vĩnh viễn chẳng làm gì được.

Ác ma thầm nghĩ:

- Lạ thật! Hình dạng ta ra sao, ngay cả Phật còn không biết. Mục Kiền Liên tuy có thần thông làm sao biết được?

Tôn giả lại nói:

- Ác ma! Mi đừng lấy làm lạ, ta biết trong bụng mi đang nghĩ rằng Phật đà chẳng biết hình thù mi ra sao, Mục Kiền Liên tuy có thần thông làm sao lại biết.

Tệ quỷ nghe rồi kinh hãi, liền biến thành nước miếng vọt ra, từ đó chẳng dám trêu chọc đến Tôn giả.

Thần thông của Mục Kiền Liên khiến người tin Phật khâm phục và ngoại ma sợ hãi.
  • 8. SẮC ĐẸP KHÔNG CỰ NỔI THẦN THÔNG
Có thần thông như Mục Kiền Liên, chẳng những chẳng bị ác quỷ gia hại mà sắc đẹp cũng không lay động đạo tâm.

Một hôm, Tôn giả đi khất thực trở về, ngang qua một khu vườn, trong đó có một người đàn bà trung niên đang chờ ngài. Người này tuy khoảng ba mươi tuổi, nhưng thời gian không làm giảm vẻ đẹp, đôi mắt kiều mị, hình dáng rất yểu điệu hấp dẫn nam nhi.

Nàng thấy Tôn giả Mục Kiền Liên sắp đến gần bèn đứng dậy cúi chào:

- Tôn giả, ngài có bận đi đâu không? Ngài có thể dừng lại nói chuyện với em không ạ?

Mục Kiền Liên dừng bước, chú ý nhìn và không những ngài thấy dung mạo thanh lịch của cô mà còn thấy rõ bên trong tâm cô đang có ý đồ gì.

Tôn giả không động trước thinh sắc, oai nghiêm nói:

- Thật đáng thương cho cô! Cô phải chịu những điều ô nhục, tuy được chút đỉnh tiền bạc mà lương tâm mờ ám, nghe lời xúi sử của ngoại đạo, tưởng rằng đối trước ta cô có thể bày âm mưu phi pháp.

Cô nàng nghe nói kinh hoàng, nhẹ giọng:

- Tôn giả!... Ông... ông... tại sao nói như vậy?

Mục Kiền Liên oai nghiêm như một ngọn núi:

- Cô không thể che dấu tội lỗi của mình, cô đến đây với ý định gì, tôi vừa nhìn qua biết liền. Cô mê muội theo sắc đẹp hư vọng, sắc đẹp giúp cô tăng trưởng tội ác, giống như voi già sa lầy, càng cựa quậy càng lún sâu thôi.

- Tôn giả! Ngài đã biết rõ tâm tôi, tôi cũng biết không thể qua mắt ngài. Tôi sớm nghe danh ngài là vị đệ tử thần thông đệ nhất của Phật, tôi không tin rằng thần thông có thể vượt qua sắc đẹp. Tôi biết tôi là một kẻ tội lỗi, tôi cũng tưởng đến việc lương thiện, nhưng rất đỗi tuyệt vọng. Tôi nghĩ tôi là một kẻ không thể cứu vớt, có một quá khứ ghê rợn, mai sau chắc chắn sẽ chịu quả báo đáng sợ.

Mục Kiền Liên an ủi:

- Cô không nên tự làm khổ mình, cũng đừng thất vọng, tội nghiệp dù nặng đến đâu, chỉ cần một phen sám hối thì được tẩy trừ, tâm không thanh tịnh có thể dùng Phật pháp rửa sạch. Trăm dòng sông nhớp nhúa một phen chảy vào biển cả, nước biển lớn thảy đều làm sạch nước trăm sông. Lời dạy của đức Thế Tôn, đủ sức khiến thanh tịnh lòng người ô uế, có thể cho sám hối những tội nghiệp quá khứ.

Nghe Tôn giả nói như vậy, cô kia rất mừng rỡ mắt đầy hy vọng, nói:

- Tôn giả! Giáo thị của đức Phật từ bi vĩ đại đến vậy ư? Quá khứ tôi rất là tội lỗi, tôi chỉ gặp toàn những điều bất hạnh, tôi mà nói ra đây, Tôn giả chắc sẽ bịt tai ngoảnh mặt.

- Chẳng có gì quan hệ, cứ nói ra cũng tốt. Cô tên gì?

- Thưa, tôi tên Liên Hoa Sắc, là con gái một nhà trưởng giả thành Đức Xoa Thi La. Khi tôi được mười sáu tuổi, phụ mẫu thành lập gia thất cho tôi, nhưng chẳng bao lâu cha tôi qua đời, bà mẹ góa bụa của tôi bèn tư thông với chồng tôi, biết được việc này tôi rất đau lòng. Lúc ấy tôi đã có một đứa con gái, bèn bỏ nó ra đi. Sau này tôi tái giá với người khác. Có một lần, người chồng sau này đi xa buôn bán, khi chàng từ Đức Xoa Thi La trở về, lén tôi lấy một ngàn lượng vàng mua một tiểu thiếp. Ban đầy y dấu nhẹm không cho tôi hay, đưa tiểu thiếp này gởi nhà bạn, sau tôi biết được nóng nảy muốn coi mặt con đó là đứa nào mà dám đoạt chồng tôi. Thiệt là, thưa Tôn giả, không thấy thì thôi, thấy rồi tôi mới té xỉu tại chỗ, nó đâu phải ai xa lạ chính là con gái của tôi với đời chồng trước.

Liên Hoa Sắc nói đến đó, khóc không ra tiếng. Mục Kiền Liên bèn an ủi:

- Liên Hoa Sắc! Cô không nên thương tâm quá đổi. Người biết rõ quá khứ vị lai thì xem đó chỉ là một sự luân hồi nhân quả. Nói thật mà nghe, đời người chỉ là một bể tội lỗi. Rồi sau thế nào?

- Làm sao tôi có thể nhẫn nhục được nỗi đau khổ đó? Nghĩ đến ban đầu thì mẹ đoạt chồng mình, bây giờ con lại tranh chung trượng phu của mình. Tôi còn mặt mũi nào ở đời? Tôi bỏ nhà ra đi, tôi chán ghét thế gian, chán ghét mọi người, tôi làm kẻ mua vui cho thiên hạ, tôi muốn đùa cợt thế nhân, tôi phát triển mọi sinh hoạt tội lỗi của mình. Việc gì tôi cũng làm được miễn có tiền. Tôn giả đã biết tại sao tôi đến đây khiêu khích ngài, may mà Tôn giả có đại thần lực, không thì bây giờ tôi chẳng biết phải sám hối thế nào?

Mục Kiền Liên nghe Liên Hoa Sắc kể hết sự tình, không hề khởi tâm khinh khi, trái lại Tôn giả biết trong tâm Liên Hoa Sắc rất chân thành, rất lương thiện. Ngài dùng lời từ bi từ hòa đến gần bên an ủi:

- Liên Hoa Sắc! Thân thế cô thật đáng thương, cô nên theo lời chỉ dạy của đức Phật mà sửa đổi, thời tiết nhân duyên đã đến, cô hãy theo tôi ra mắt Thế Tôn.

Liên Hoa Sắc rất mừng rỡ, sở dĩ cô được cứu độ, chuyển họa thành phước đều nhờ sức thần thông phương tiện thiện xảo của Mục Kiền Liên.
  • 9. THỬ NGHE TIẾNG PHẬT GẦN XA
Trong tăng đoàn, Mục Kiền Liên là người sống động, chuyện người khác làm không được ngài đều làm xong, chỗ nào người khác không đến được ngài đều có thể đến.

Một hôm Phật thuyết pháp tại giảng đường Trúc Lâm tịnh xá, Mục Kiền Liên ngồi thiền trong tịnh thất không đi nghe giảng, nhưng tiếng thuyết pháp của Phật như sấm rền bên tai. Ngài lấy làm lạ, ở một nơi cách xa Phật như thế mà vẫn nghe tiếng, bèn nảy ra ý định đo thử xem pháp âm của Phật còn xa đến đâu. Ngài vận dụng thần túc thông bay qua mười ức cõi Phật, đến một quốc độ, nơi ấy đức Phật Thế Tự Tại Vương là giáo chủ và đang thuyết pháp. Mục Kiền Liên cũng thường du hành đến cõi này cũng như một khách rong chơi giàu có lịch lãm, đến đâu cũng đều xem là gia hương, cố quốc. Bây giờ đến đây, thấy đức Thế Tự Tại Vương đang thuyết pháp, Tôn giả rất hoan hỷ liền nhanh tay nhẹ chân tìm chỗ ngồi trong pháp hội. Nói đến chỗ này thật là bất khả tư nghị, Mục Kiền Liên chẳng những nghe tiếng Phật của quốc độ này, mà cả tiếng của đức Phật Thích Ca ở cõi Ta Bà cũng nghe luôn.

Đức Thế Tự Tai Vương thuyết pháp xong, một vị Bồ tát hướng về Phật đảnh lễ và chỉ Mục Kiền Liên nói:

- Như Lai! Trong khi thuyết pháp, chẳng biết từ đâu bò đến một con đại trùng (sâu lớn), trông thật quái dị, chúng con muốn đuổi nó đi!

Đức Phật vội ngăn:

- Đừng nói thế! Đó là Mục Kiền Liên, đệ tử thần thông đệ nhất của đức Phật Thích Ca ở cõi Ta Bà!

- Sao họ nhỏ bé như vậy?

Các Bồ tát đều thưa hỏi. Nguyên lai, thân thế của chư Bồ tát và chúng sanh trong cõi nước Phật đây to lớn gấp trăm ngàn lần người cõi Ta bà, chẳng lạ gì họ ngạc nhiên khi thấy Mục Kiền Liên.

Đức Thế Tự Tại Vương giải thích:

- Các ông đừng khinh thị Tôn giả này, ông ấy có đại thần lực, đại oai đức, ông ấy hành hóa tự tại, dạo chơi các quốc độ. Chẳng qua thân thể thấp bé là vì chúng sanh mỗi quốc độ nghiệp lực chẳng đồng.

Đức Phật nói xong, từ hòa nhìn Mục Kiền Liên:

- Tôn giả! Ông từ phương khác đến, có thể đối với chúng Bồ tát đệ tử ta, hiện các thần thông để trừ nghi hoặc cho họ.

Mục Kiền Liên bèn thừa oai thần Phật, hóa hiện các thứ thần kỳ, chúng Bồ tát thấy rồi đều sinh lòng cung kính.

Mục Kiền Liên hiện phép lạ xong trở về chỗ ngồi, đức Phật hỏi:

- Tôn giả! Ông đến quốc độ ta là muốn thử nghe tiếng thuyết pháp của Phật Thích Ca xa bao nhiêu phải không?

Mục Kiền Liên cung kính đảnh lễ đáp:

- Thưa phải, quả thật đệ tử có dụng tâm đó.

- Tôn giả! Ông không nên nghĩ như vậy, oai lực của chư Phật, hàng phàm phu và nhị thừa không thể biết hết, thanh âm thuyết pháp của chư Phật biến hiện khắp tất cả hư không cảnh giới. Các căn phàm nhân duyên của chúng sanh thì có xa gần, cho nên dùng tâm phân biệt không thể thử biết âm thanh của Phật.

Lời khai thị của đức Thế Tự Tại Vương Như Lai, Mục Kiền Liên nghe xong rất hỗ thẹn. Từ đó về sau, Tôn giả vẫn giữ vẻ linh hoạt nhưng không dám thử thăm dò đức Phật và Phật âm nữa.
  • 10. CHÚNG QUỶ THƯA HỎI VỀ NHÂN DUYÊN NGHIỆP BÁO
Tôn giả Mục Kiền Liên không những thường du hành các cõi Phật, mà còn thừa thần lực xuống địa ngục quan sát chúng sanh thọ quả báo.

Một hôm, Tôn giả hành cước bên bờ sông Hằng, lúc ấy ánh nắng nhạt dần như rút theo con nước, màu hoàng hôn hoang vắng. Tôn giả thấy ban đêm đi hành hóa không tiện, bèn ngồi tịnh lự bên bờ sông.

Gió chiều nhẹ thổi, không trung lác đác vài vì sao. Bờ sông Hằng các loại ngạ quỷ lắm phen tụ tập, muốn tìm nước uống để trừ đói khát, nhưng gặp phải một con quỷ hung ác giữ mé sông, tay cầm gậy sắt xua đuổi, do đó các quỷ đói không dám đến gần bờ nước. Mục Kiền Liên ngồi ngay thẳng chánh niệm, thấy các loài quỷ thọ tội không đồng, bèn gọi chúng lại, nhân cơ hội ấy, chúng quỷ hỏi ngài về nhân duyên tội nghiệp.

Quỷ thứ nhất:

- Tôn giả! Đời trước chúng tôi là người nay bị đọa làm thân quỷ đói, thường bị khổ đói khát, nghe nói nước sông Hằng trong mát, mà khi đến lấy nước uống, nước liền nóng sôi, chỉ cần hớp một miếng lục phủ ngũ tạng liền cháy tiêu, còn bị quỷ giữ nước sông cầm gậy đánh đuổi. Xin hỏi Tôn giả chúng tôi do nghiệp gì mà thọ khổ báo này?

Mục Kiền Liên dùng sức định thần thông quan sát quả ba đời, bèn nói với nó:

- Đời trước ngươi làm thầy toán số, khi nói tướng kiết hung cho người, nói dối nhiều hơn nói thật, tùy ý khen chê, tự xưng mình thông suốt mà thật là dối láo, vì muốn cầu lợi dưỡng không thương người mê muội, nên mới thọ nghiệp báo như vậy.

Quỷ thứ hai hỏi:

- Tôn giả! Tôi thường bị một con chó lớn hung dữ nhai nuốt thân thể, ăn hết thịt xong, một cơn gió thổi qua bộ xương sống trở lại, chẳng biết chuyện gì, khiến tôi thọ khổ báo này?

- Đời trước ngươi giết heo, dê, gà, vịt, cúng tế trời thần nên chịu quả báo ấy.

Quỷ thứ ba hỏi:

- Tôn giả! Tôi thì bụng to như cái lu, cổ họng nhỏ như cây kim, thấy thức ăn ngon mà chẳng ăn được, chẳng biết nhân duyên gì?

- Người đời trước làm quan tự thị giàu mạnh, tung hoành theo ý thích, khinh khi người, tài sản người khác do mồ hôi nước mắt tạo ra, ngươi ỷ mạnh chiếm đoạt, nên nay phải chịu khổ báo.

Quỷ thứ tư:

- Tôn giả! Lưỡi tôi le dài khắp thân, mà máu huyết cứ vọt ngược từ dưới lên trên khiến đầu to bằng cái đấu lớn. Mỗi khi huyết quản sắp đứt mệnh như chỉ mành, chẳng biết duyên gì thọ khổ báo này?

- Ngươi đời trước ưa nói chuyện thị phi, tốt xấu của người, mỗi lời nói ra không lợi ích cho chúng sanh, nếu có lời gì đều làm tăng khổ não cho người nên nay mới chịu khổ như thế.

Mỗi ngạ quỷ lần lượt thưa hỏi tội nghiệp đã tạo ở đời trước, duyên của quả báo đời này, Tôn giả đều mỗi mỗi trả lời. Thần thông của Tôn giả thật là lên trời xuống đất tự tại vậy.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 11. DO LAI CỦA VU LAN BỒN
Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thiên nhãn thông biết quả báo ứng của loài quỷ, hốt nhiên nhớ đến mẫu thân quá cố. Ngài bèn vận dụng thần lực quan sát, thấy vong mẫu đang đọa trong loài ngạ quỷ chịu nhiều đau đớn, cuống họng nhỏ như cây kim, chỉ còn da bọc xương. Mục Kiền Liên thấy tình trạng ấy, động lòng hiếu thảo, không ngăn nỗi thương cảm vạn phần, liền dùng bình bát đựng cơm, mượn sức thần đến trước lão mẫu, nhưng mẹ ngồi ôm bát cơm chưa kịp đưa vào miệng, cơm trong tay đã hóa thành lửa đỏ chẳng thể nuốt trôi. Mục Kiền Liên thấy vậy buồn bã rơi lệ nghĩ mình bất lực, ngài biết được nghiệp quả của chúng ngạ quỷ, nhưng không thể biết mẫu thân do nhân duyên nghiệp báo gì mà chịu khổ sở như vậy, ngài mang tâm tình trầm trọng, mau mau đến trước Phật bẩm bạch:

- Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay đệ tử dùng thần thông thấy mẫu thân đang bị đọa vào ngạ quỷ, chịu nhiều khổ não, thức ăn biến thành lửa đỏ, chẳng biết do nhân duyên gì? Thần thông của đệ tử có thể quan sát thấu đáo nhân duyện tội báo của chúng quỷ, vì sao đối trước vong mẫu lại chẳng biết được? Cúi xin Phật từ bi chỉ dạy.

Đức Thế Tôn lộ vẻ lân mẫn đáp rằng:

- Mục Kiền Liên! Mẹ ông lúc sanh tiền, báng Phật mắng Tăng, không tin quả, tham sân tà ác, dối gạt mọi người. Do đó mới thọ khổ báo này. Ông vì mẫu tử tình thâm, thần thông bị thân tịch che lấp nên không biết được!

- Ngài có diệu pháp gì để cứu mẫu thân của đệ tử thoát khổ ngạ quỷ?

Mục Kiền Liên hướng về đức Phật ai cầu, Phật dạy:

- Mục Kiền Liên! Tội báo của mẹ ông cấu kết sâu dày, không thể dùng lực lượng một cá nhân mà cứu bạt được. Hiếu đạo của ông tuy cảm động trời đất, nhưng thiên địa thần kỳ đối với người đọa lạc vì phỉ báng Tam Bảo không thể làm gì được. Hiện tại, ông chỉ nương sức oai thần của thập phương Tăng chúng mới giúp mẹ ông thoát khổ ngạ quỷ. Mỗi năm đến rằm tháng bảy là ngày giải hạ tự tứ của chư Tăng, ngày đó những người làm con nên vì cha mẹ bảy đời và cha mẹ hiện tại đang ở trong chốn nguy nan, sửa soạn trăm thức ăn ngon, quả vật tươi tốt bậc nhất thế gian, đặt trong mâm đầy để cúng dường chư đại đức Tăng trong mười phương. Nhân ngày ấy là ngày tự tứ của chư Tăng, tất cả Thánh chúng hoặc tọa thiền ở trong rừng núi, bên dòng nước, hoặc đắc tứ quả A la hán, hoặc kinh hành dưới cội cây, hoặc là bậc được lục thông giáo hóa. Cho đến có những Bồ tát trong mười phương hiện làm Tỳ kheo đều đồng nhất tâm thọ thực, do vì chư thánh chúng đều đầy đủ giới hạnh thanh tịnh, đức độ rộng sâu như biển, bất khả tư nghị. Nếu ai hay cúng dường các vị Tăng ngày tự tứ, thì cha mẹ hiện đời hoặc lục thân quyến thuộc nhất định ra khỏi ba đường khổ, liền được giải thoát, y thực tự nhiên, nếu cha mẹ còn sống thì phước lạc trăm năm, mọi việc đều an lành thuận thảo. Đó thật là diệu pháp để cầu siêu cứu bạt.

Mục Kiền Liên nghe Phật nói, hoan hỷ vâng làm. Ngày Tăng tự tứ làm lễ cúng dường đại chúng thánh Tăng, ngày đó mẹ ngài cũng thoát khổ ngạ quỷ.

Mục Kiền Liên rất cảm kích ân đức Phật, bèn tán thán công đức Tam Bảo, khuyến khích thế gian làm theo pháp Vu Lan Bồn, cúng dường Phật cập Tăng để báo đáp ơn huệ sinh dưỡng thương yêu vỗ về của song thân. Cử hành pháp hội Vu Lan, đó vốn là lợi ích cho cha mẹ những ai muốn làm như Tôn giả Mục Kiền Liên. Tôn giả không những thần thông số một, mà cũng nổi danh đại từ đại hiếu.
  • 12. GIẢNG THUYẾT BÀI KỆ CỦA BẢY ĐỨC PHẬT
Một hôm, chúng đệ tử đến yêu cầu Phật nói về duyên bổn sanh của dòng họ Thích, đức Phật nghĩ đến vấn đề này, nói việc tốt của bổn tộc thì e khó tránh khỏi tuyên truyền, sau khi suy xét, ngài bèn gọi Mục Kiền Liên thay ngài giảng thuyết.

Mục Kiền Liên vận dụng túc mạng thông quan sát sự tích của nhiều kiếp đã qua, rõ ràng như vẽ trước mắt. Ngài thuật lại tỉ mỉ lịch sử dòng họ Thích Ca, mọi người nghe xong đều cảm đến việc đức Phật giáng sinh trong dòng họ Thích và thành chánh giác, không phải không có nhân duyên to lớn.

Mục Kiền Liên là người thường thay Phật thuyết pháp.

Lại một hôm, chúng tỳ kheo nhóm họp lại cùng đàm đạo, mỗi người đều trình bày chỗ tâm đắc trong việc tu học. Tôn giả Mục Kiền Liên nhân đó nhắc lại lời dạy của các đức Phật.

"Nếu không phát Bồ đề tâm - nguyện tu cho đến giải thoát sinh tử luân hồi và theo chư Phật, chư đại Bồ tát nguyện độ chúng sanh - mà chỉ làm tất cả việc thiện thì cũng chỉ lẩn quẩn mãi mãi trong vòng lục đạo mà thôi" (Vong thiết Bồ đề tâm, tu chư thiện nghiệp, thị danh ma nghiệp).

Rồi Tôn giả nhắc tiếp lời dạy của đức Thế Tôn: "Nước trong tất cả các biển chỉ có một vị đó là vị mặn. Đạo Phật cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát sanh tử luân hồi. Chư Phật đều dẫn dắt chúng sanh đến một mục đích cao cả đó là giải thoát và giải thoát tri kiến Phật".

Từ việc Tôn giả Mục Kiền Liên nhắc lại lời dạy của chư Phật, tất cả các Tỳ kheo có mặt hôm đó đều nhớ rõ mục đích của người tu theo đạo Phật và họ đều lưu giữ trong tâm cũng như truyền đạt cho những đệ tử sau này để những người đi sau khỏi lạc vào ma đạo.
  • 13. THẦN THÔNG CHẲNG QUA NGHIỆP LỰC
Thần thông của Mục Kiền Liên trong hàng đệ tử chẳng ai sánh bằng, phàm làm việc gì ngài vận dụng thần thông đều được thành tựu.

Thần thông rất tiện cho việc tiếp độ chúng sanh, nhưng thần thông không thể đi trái ngược lý nhân quả, không thể thắng nghiệp lực, không thể giải thoát sanh tử luân hồi, đó là sự thật.

Một lần nọ, thành Ca Tỳ La bị vua Lưu Ly nước Kiều Tát La (Kosala) xâm lược. Ban đầu đức Thế Tôn cũng động lòng ái quốc tìm cách giải cứu, ba phen ngồi chận đường cản trở đại quân của vua Lưu Ly. Tuy vua Lưu Ly mỗi lần gặp Phật, mỗi lần lui binh, nhưng lòng thù hận muốn báo thù và xâm lược không dứt được. Đức Phật biết sự báo ứng của quả, muốn để cho nó tự kết thúc, nên sau đó để cho vua Lưu Ly tự do đi.

Thật là, thần thông của Mục Kiền Liên không thể giải được hết sạch nghiệp báo, Tôn giả biết đại quân của vua Lưu Ly bao vây thành Ca Tỳ La, và rất kích động, đến bạch Phật:

- Thưa Thế Tôn! Thành Ca Tỳ La bị Lưu Ly xâm lược, chúng con cần phải tận lực để bảo cứu nhân dân trong thành.

Đức Phật nhìn Tôn giả giây lát, rồi từ hòa nói:

- Mục Kiền Liên! Dòng Thích Ca chịu quả báo của tội nghiệp nhiều kiếp đã qua, đó là cộng nghiệp chiêu cảm, ông không thể chịu thay họ! Họ chẳng chịu sám hối, một bề kiêu mạn, không sửa đổi, nhà cửa mục nát thì đến ngày sụp đổ thôi.

Mục Kiền Liên nghe Phật nói, tuy biết đó là sự thật, nhưng nghĩ đến thần thông quảng đại của mình, muốn dùng để cứu nạn dân chúng trong thành.

Vua Lưu Ly dùng trăm vạn đại quân vây khổn Ca Tỳ La, một giọt nước cũng không lọt, người ta làm sao đi lại. Chỉ có Mục Kiền Liên vận thần thông nương hư không bay vào thành. Tôn giả vào thành rồi, chọn năm trăm người ưu tú trong dòng Thích Ca thâu nhiếp vào trong bình bát và bay ra. Đến một nơi an ổn, ngài mở nắp bình bát tính thả năm trăm người ấy ra. Chẳng dè không thấy gì cả, một phen nhìn xuống thất kinh hồn vía, năm trăm người trong bát đều hóa thành máu cả!

Đến lúc này Tôn giả mới biết lời Phật nói không sai, chẳng thể làm ngược lại lý nhân quả, dầu là giỏi thần thông cũng không thắng nổi nghiệp lực.
  • 14. NGƯỜI TUẨN GIÁO ĐỆ NHẤT
Mục Kiền Liên nhờ thân thông lên trời xuống đất hỗ trợ tuyên dương Phật pháp, công ấy rất lớn. Nhưng Phật đã nói, thần thông không phải pháp môn cứu cánh, La hán mày dài vốn là đại thần của vua Ưu Điền, tên là Tân Đầu Lô Phả La Đọa, theo Phật xuất gia đắc thần thông hay biến hiện kỳ diệu trước hàng cư sĩ, đức Phật từng quở trách và ông rời tăng đoàn, một mình qua Châu Tây Cù Da Ni giáo hóa. Chỉ có đối với thần thông của Mục Kiền Liên, đức Phật chẳng những không quở trách mà lại thường khen ngợi. Chẳng phải đức Thế Tôn có tâm thiên lệch, nhưng ngài biết một điều là, dùng thần thông của Mục Kiền Liên để hỗ trợ tuyên hóa rất tốt, nhưng kết cuộc thần thông không thể hơn nghiệp báo. Nghiệp lực của mỗi người tạo tác rõ ràng, dù là thần thông cũng không khỏi chết. Đức Phật đã dùng sự thật ấy để răn dạy người sau.

Tôn giả Mục Kiền Liên tuổi gần về già, nhưng hoạt động truyền giáo vẫn như nước chảy mây bay, càng lúc càng tinh tấn. Tôn giả không biết rằng chính vì nhiệt tâm tuyên dương giáo pháp của mình lại khiến cho ngoại đạo tật đố. Bọn chúng đối với đức Phật không có biện pháp gì, chỉ đợi cơ hội ám sát Mục Kiền Liên.

Mục Kiền Liên gánh vác trách nhiệm hoằng hóa lợi sanh, một lần nọ trên đường tuyên dương chân lý đi ngang qua núi Y Tư Xa Lê, bị bọn lõa hình ngoại đạo bắt gặp, chúng bèn từ trên núi xô đá xuống, muốn sát hại Mục Kiền Liên, đá rơi loạn xạ như mưa khiến nhục thân vô thường của Tôn giả nát ngứu như tương, nhưng bọn lõa hình ngoại đạo hai, ba ngày sau vẫn còn chưa dám đến gần nơi Tôn giả tử nạn, họ vẫn còn sợ sức thần thông của Tôn giả. Thật là Tôn giả vì truyền bá chủng tử Bồ đề, gặp vụ bức hại của ngoại đạo để lưu lại cho hậu thế tấm gương hy sinh nhục thân của Tôn giả cũng trường tồn với thế gian.

Máu của Tôn giả đổ ra không phải là vô ích, bao nhiêu vị tiên hiền thánh triết đã vì hoằng pháp lợi sinh, noi theo dấu chân của Tôn giả Mục Kiền Liên, hiến tất cả sanh mệnh cho ánh sáng chân lý, để Phật pháp bất diệt, sự hy sinh ấy thật cao cả.

Tôn giả Mục Kiền Liên bị ngoại đạo ám hại truyền đến tai vua A Xà Thế, nhà vua nổi cơn phẫn nộ, hạ lệnh bắt hết các hung thủ, mấy ngàn lõa hình ngoại đạo đều bị nhà vua ném vào hầm lửa.

Chuyện ấy không giải trừ được nỗi bi ai của các Tỳ kheo, đại chúng than thở cho rằng trên thế gian không công bằng, tại sao Mục Kiền Liên thần thông đến thế mà không tránh được sự phục kích của ngoại đạo.

Tâm các vị Tỳ kheo không cam chịu được, bèn tập họp đến thỉnh Phật:

- Bạch Thế Tôn! Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đều là đệ tử thượng thủ của Phật. Mục Kiền Liên là một người hoàn toàn, khi Phật lên thiên cung thuyết pháp cho mẫu hậu, Tôn giả nhận lời yêu cầu của chúng con lên cung trời bái vọng Thế Tôn. Mẫu thân ông vì phỉ báng Tam bảo mà đọa địa ngục, ông cũng xuống địa ngục cứu mẹ. Tôn giả có thần thông oanh liệt, tại sao không dùng sức thần thông đối kháng ngoại đạo?

Đức Phật đã thể chứng chân lý vũ trụ, chỗ thiết yếu phát sinh thế gian, đại trí giác của ngài mênh mông như đại hải, ngài đã biết trước nên không bị kích động như các Tỳ kheo, ngài an nhiên bảo đại chúng:

- Mục Kiền Liên không phải không chống cự nổi với ngoại đạo, nhưng ở lần trước khi vua Lưu Ly xâm lược Ca Tỳ La, ông ấy dùng thần thông mà cứu không qua nghiệp lực, nhục thể là vô thường, nghiệp báo cần phải trả, trong đời quá khứ ông làm nghề chài lưới sát hại oan uổng không biết bao nhiêu sanh linh. Các ông đừng lấy đó làm khó chịu. Mục Kiền Liên tuy chết, nhưng chân lý không hề mất.

- Bạch Thế Tôn! Chúng con vẫn cảm thấy Mục Kiền Liên bị hại quá ư thê thảm!

- Các Tỳ kheo! Các ông không nên nghĩ như vậy, vấn đề sanh tử đối với người giác ngộ không quan trọng. Có sanh ắt có tử, chuyện tử không nhất thiết là chuyện kinh sợ hoang mang, đừng chấp chặc vào đó. Mục Kiền Liên khi vong thân chẳng mê muội tấn nhập Niết Bàn, đó là điều đáng quý, Mục Kiền Liên hy sinh vì sự nghiệp tuyên dương giáo pháp, đó mới là cái đẹp vô hạn.

Trong hàng Tỳ kheo vẫn có người còn thắc mắc, họ than thở lắc đầu, thương cảm hết sức, bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chúng con vẫn biết phải có tinh thần hy sinh vì đạo, nhưng Tôn giả hy sinh như vậy thật quá sớm, còn biết bao sự nghiệp hoằng hóa, chúng con đều cần đến sự lãnh đạo của Tôn giả. Thế Tôn! Sao ngài không báo trước với Tôn giả để ông ấy dự phòng?

Qua những lời trên, chúng ta có thể biết mọi người rất xúc động trước sự tuẫn giáo của Tôn giả và cũng biết các Tỳ kheo rất khâm phục Mục Kiền Liên. Một lần nữa, đức Phật lại dùng lời an ủi khích lệ đại chúng:

- Các Tỳ kheo! Khi Mục Kiền Liên lâm nạn, chẳng phải ông ấy không biết dự phòng, ông ấy có thể bảo vệ cho mình khỏi chết, nhưng đó không phải là biện pháp cứu cánh, người tu hành không thể làm ngược lại lý nhân quả, ông ấy gieo chài cá, nghiệp sát sanh phải kết thúc bằng quả bị hại. Vả lại, Mục Kiền Liên đã phát nguyện đem mạng sống hy sinh cho chánh pháp, đó là mãn nguyện của ông, ông rất hoan hỷ nhập diệt. Nếu đệ tử của ta đều có tinh thần của Mục Kiền Liên thì Phật pháp lại phát huy rộng lớn. Các ông nên noi gương Mục Kiền Liên.

Pháp ngữ khai thị của đức Thế Tôn, các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni nghe rồi rất cảm động. Một sắc thân Mục Kiền Liên tử vong, sẽ còn vô số Mục Kiền Liên vì tuyên dương chân lý, vì sự lưu truyền của thánh giáo mà hoan hỷ tự nguyện noi dấu.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

TÔN GIẢ CA CHIÊN DIÊN
LUẬN NGHỊ ĐỆ NHẤT
  • 1. THI TÀI DIỄN GIẢI VỚI ANH
Tại thôn Di Hầu, nước A Bàn Đề (Avanti) miền Nam Ấn Độ, có một gia đình thuộc hàng thế gia vọng tộc Bà la môn, được dân chúng toàn thôn kính nể.

Hôm nay tôi giới thiệu Tôn giả Ca Chiên Diên đã xuất sanh từ gia đình ấy. Phụ thân Tôn giả là quốc sư đương thời, gia đình có nhiều đất đai rộng lớn, kẻ ăn người ở cả trăm, quyền thế, đại phú, là bậc đại nhân gia đệ nhất của cả nước.

Tôn giả Ca Chiên Diên vốn tên gọi là Na La Đà, con thứ hai của quốc sư. Ca Chiên Diên là họ, về sau Tôn giả nổi tiếng nên mọi người dùng họ để thay tên gọi.

Ca ca của Tôn giả là một người rất thông minh, anh tuấn, hào sảng, ban đầu theo cha xuất gia làm Bà la môn, sau đi theo học khắp các nước, trải qua nhiều nơi, bái phỏng nhiều minh sư, cho nên thông đạt rất nhiều thứ học thuật, học rành nhiều tài nghệ. Sau thời gian du học, một hôm chàng trở về cố hương, triệu tập mọi người lại công khai tuyên bố diễn thuyết chỗ nhận thức của mình về triết lý Vệ Đà tối cao.

Trong khi ấy Ca Chiên Diên chưa hề ra khỏi cửa, biết anh trở về giảng luận Vệ Đà, chàng cũng ra một thông cáo và lập một giảng đài dối diện với giảng đài của anh, đồng thời cũng diễn thuyết về triết học Vệ Đà. Chàng trổ biện tài vô ngại, thuyết minh rõ những chỗ bị yếu, thu hút hết thính chúng của anh quay về mình, mọi người nghe xong đều phê bình rầm rộ: "Em giỏi hơn anh xa".

Ông anh vốn tính háo thắng, bị một phen đả kích, sinh lòng tật đố với Ca Chiên Diên, hai anh em bất hòa gây gổ ồn ào rồi đưa nhau ra trước phụ thân. Ca Ca nộ khí xung thiên, thưa với cha:

- Thưa cha! Xin cha trừng trị em con, hắn vô phép vô tắc làm mất mặt con, con đã đi du học nhiều năm làm sao lại thua hắn? Vậy mà khi con đang diễn giảng hắn cũng đăng đàn đối lập, đoạt hết thính giả của con!

Tôn giả Ca Chiên Diên điềm nhiên chậm rãi giải thích:

- Xin cha lượng xét! Học vấn là chuyện công khai, ai cũng có quyền nghiên cứu và diễn giảng. Ca ca đi du học nước ngoài, con ở nhà nghiên cứu, con không có ý tranh hơn với Ca ca, con chỉ nghĩ rằng mấy năm nay nghiên cứu ở nhà, không biết có được thành quả thế nào? Ca ca đi du học mà chỉ mang về một bụng hơn thua, con ở nhà chỉ thật lòng học hỏi. Xin cha đừng bận tâm, chúng con tự giáo dục chúng con mới phải, mong rằng Ca ca cũng đồng ý với con như vậy.

Phụ thân tuy là quốc sư, nghe hai quý tử bàn cãi cũng không biết phân xử ra sao. Rốt cuộc ông bàn với phu nhân, đem gởi Ca Chiên Diên đi phương Nam, học đạo với tiên A Tư Đà, gần thành Ưu Thiền Da Ni, nếu để chàng ở nhà thì ông anh không thể xuất đầu lộ diện.
  • 2. LỜI CHỈ GIÁO CỦA CỬU PHỤ
Tiên A Tư Đà là cậu ruột của Ca Chiên Diên, trưởng huynh của mẫu thân chàng. Ông là vị tiên nhân bác học, thần thông của Ấn Độ đương thời, khi đức Thế Tôn đản sanh làm Thái tử, ông đã nhận lời mời của vua Tịnh Phạn, đến cung xem tướng Thái tử. Xem tướng xong, ông nói với vua Tịnh Phạn:

- Đại vương! Vị Thái tử hiền minh này, tương lai nhất định sẽ xuất gia học đạo và thành tựu quả vị tối cao. Thật đáng tiếc cho tôi đã già quá rồi, không kịp đợi, vì lúc ngài thành đạo, tôi đã qua đời. Tuy tôi không thể lãnh thọ giáo lý của ngài, nhưng tôi sẽ dạy đệ tử tôi theo ngài học đạo.

Nói xong ông rơi nước mắt mà lui ra.

Từ khi Ca Chiên Diên bị phụ thân gởi đến đây, chàng rất được tiên A Tư Đà yêu mến, ông đem hết sở học truyền dạy cho đứa cháu thông minh, Ca Chiên Diên cũng không phụ lòng hy vọng của cậu ruột, chẳng bao lâu chàng thông đạt cả tứ thiền và ngũ thần thông.

Từ đó, Ca Chiên Diên không còn nhớ nghĩ đến gia đình, thứ nhất chàng không muốn bám vào ảnh hưởng của thân phụ, bị thiên hạ coi là con của quốc sư mà phải cung kính. Hai là nghĩ đến ông anh háo thắng của mình, chàng biết không có cách gì ở chung cho nổi. Chàng quyết định sống riêng thế giới của mình. Cha mẹ sai người đến đón chàng trở về, chàng cũng khéo léo từ chối.

A Tư Đà biết Ca Chiên Diên không bị tình thương gia đình ràng buộc, rất vui, một hôm ông bảo Ca Chiên Diên:

- Ca Chiên Diên! Như chí nguyện của con bây giờ, mai sau con sẽ trở thành một nhân vật vĩ đại, nhưng con phải gặp minh sư mới được. Chỗ hiểu biết của ta, hiện tại không đủ cho con cầu học. Đức đại thánh Phật Đà đã xuất thế, con hãy đợi sau khi ngài thành đạo, mau mau theo học với ngài.

Ca Chiên Diên nghe lời thầy, bán tín bán nghi, chàng chỉ tin có một điều, đó là lời tiên đoán mai sau chàng sẽ trở thành một nhân vật vĩ đại.

Ngày nọ, A Tư Đà dắt Ca Chiên Diên xuống núi, đến vườn Lộc Dã nước Ba La Nại, xây cất một ngôi tịnh thất và an trụ luôn ở đó. Tịnh thất hoàn thành, A Tư Đà bảo Ca Chiên Diên mỗi ngày cầu đảo ba lần, cầu cho đức đại giác Phật Đà mau chứng quả. A Tư Đà lại bảo cháu:

- Ca Chiên Diên! Theo ta tính quẻ dự đoán, đức Cù Đàm chẳng bao lâu sẽ thành đạo, sau đó nhất định sẽ đến Lộc Dã Uyển mà quay bánh xe pháp trước nhất. Ta chỉ biết được như thế còn đức Cù Đàm giác ngộ chân lý gì, thì ta không có phước để biết điều ấy. Con nên nhớ kỹ điều này, đức Phật thành đạo rồi con phải mau mau đi theo ngài cầu đạo và tu học đó nhé.

Ít lau sau, A Tư Đà chấm dứt thọ mạng từ giã cõi đời, Ca Chiên Diên không còn thầy, từ đó phát huy học vấn và tài năng. Cha là quốc sư, cậu ruột là đại tiên A Tư Đà, tuy Ca Chiên Diên không hề nghĩ tới điều này nhưng quần chúng trọng vọng nhà học giả không để đâu cho hết. Đáng tiếc, Ca Chiên Diên bị chìm trong danh văn lợi dưỡng, quên đi lời di ngôn của cậu, là phải đi cầu đạo với đức Phật.
  • 3. BÀI KỆ THẦN BÍ
Ca Chiên Diên tự cho mình đã đắc đạo, xứng đáng cho người đời cúng dường, đâu cần mong đợi đức Phật xuất thế làm gì. Do đó, vị thầy thân thiết qua đời không lâu, ông chẳng còn cầu đảo để sớm gặp Phật đà.

Thời gian sau, tại miền đất hoang gần thành Ba La Nại, người ta đào bới được nhiều di tích của một cổ thành mấy ngàn năm trước. Trong ấy có một tấm bia đá khắc một lối chữ mà chẳng ai biết là thứ chữ gì, dường như đó là một bài kệ, nhưng không ai đọc ra, thiên hạ đồn rằng, ai mà đọc được tấm bia đá đó, chắc chắn vị đó là một bậc đại giác mới hiểu được như vậy.

Một hôm, quốc vương Ba La Nại bảo các đại thần:

- Nước chúng ta được một số bảo vật lưu truyền từ cổ đại, trong đó có một tấm bia đá ghi bài kệ văn, các người phải mau mau tìm hiểu cho ra. Nếu không, các nước lân cận sẽ cười nước chúng ta không có người trí huệ. Nội trong bảy hôm, nếu như không ai hiểu được bài kệ ấy ta sẽ cách chức các khanh.

Mệnh lệnh của nhà vua tuy thật nghiêm khắc, nhưng các quan đại thần từ xưa đến giờ chưa từng thấy thứ chữ này, đều lấm lét nhìn nhau chẳng biết phải làm gì. Sau cùng, các quan dâng kiến nghị lên nhà vua, xin treo bảng thông báo cho toàn quốc, ai đọc được bài kệ trên bia cũ sẽ được trọng thưởng mỹ nữ và tài vật châu báu.

Yết thị của nhà vua nêu ra, tức thì bay đến Ca Chiên Diên, thầy lập tức nhớ đến cậu A Tư Đà đã từng dạy cho mình các thứ chữ trên mọi quốc gia và những thứ chữ của chư Thiên, mình cũng được học rất nhiều. Cho nên thầy rất mực tự tin ra gỡ bảng.

Quả thật Ca Chiên Diên đọc được toàn bộ bài kệ, thầy nói đó là thứ văn tự của Phạm Thiên, người không có thần thông chẳng thể nào thấu rõ được. Thầy bèn phiên dịch bài kệ ra cho quốc vương nghe, ý tứ như thế này:
  • Ai là vua trong các vị vua?
    Ai là thánh trong các bậc thánh?
    Thế nào là người ngu?
    Thế nào là bậc trí?
    Làm sao để lìa cấu uế?
    Làm sao để đạt được Niết Bàn?
    Ai là kẻ chìm trong biển sanh tử?
    Ai là người tiêu diêu nơi cõi nước giải thoát?
Lâu nay mọi người đọc không ra bài kệ thần bí, Ca Chiên Diên đã vén tấm màn bí mật lên, và toàn quốc đều truyền tụng rất nhanh, tuy ai nấy đều biết đọc suông nhưng lại chẳng người nào hiểu được ý chỉ bài kệ ra sao, ngay cả Ca Chiên Diên cũng không sao giải đáp được.

Bài văn trên thạch bia ấy, mỗi câu là một nghi vấn trừu tượng, nếu đem các học thuyết đương thời để giải đáp cũng chỉ được phần nào. Còn muốn thấu đáo toàn bộ vấn đề thiệt là không có lời giải đáp. Nhà vua tuy công nhận sức bác học của Ca Chiên Diên, thông hiểu cả văn tự Phạm Thiên, nhưng thầy không giải thích được nghi vấn của bài kệ, đã lưu lại một dấu hỏi lớn. Nhà vua lại ra lệnh treo giải thưởng, yêu cầu học giả trong thiên hạ đến khai thông vấn đề,

Ca Chiên Diên không chịu thua, thầy bèn hứa với nhà vua nội trong bảy ngày nhất định sẽ trở lại giải đáp ý chỉ này.
  • 4. THỈNH GIÁO ĐỨC PHẬT
Ca Chiên Diên đã hứa chắc với nhà vua, trở về khảo cứu triệt để, thiệt là cái ý chỉ bài kệ chẳng thể dùng trí tưởng mà truy tầm cho được. Phen này chỉ có một bậc đại giác ngộ mới có thể giải đáp được thôi.

Đến lúc không còn biện pháp gì nữa, Ca Chiên Diên phải đi cầu cứu người khác. Ban đầu thầy đến chỗ của Phú Lâu Na Ca Diếp thỉnh giáo, sau đó lại tìm đến từng người trong nhóm lục sư ngoại đạo học hỏi, mà ý kiến của họ chỉ rất thô thiển, cũng giống như Ca Chiên Diên một thứ, chẳng phải là ý nghĩa đích thực của kệ văn.

Cùng đường hết lối, Ca Chiên Diên mới nghĩ đến Phật Đà. Nghĩ đến Phật, lại càng không muốn đi thỉnh giáo. Thầy nghĩ: "Bài kệ này, văn tự cõi trời, các lão Bà la môn trưởng thượng, uy quyền một cõi mà còn không biết, Cù Đàm tuổi còn trẻ, làm sao biết được?" Sau cùng, nhớ đến lời cậu dặn trước kia bảo mình phải đi tìm ngài để tu học, nhưng Cù Đàm tuổi tác không bao lăm, làm sao thành tựu công hạnh Phật Đà viên mãn được? Sau rốt thầy mới đả thông tư tưởng, ngộ đạo không căn cứ trên tuổi tác lớn nhỏ mà quyết định, và nhắm hướng Lộc Dã Uyển đi tới.

Từ xưa đến nay, quả thật người có thể giải đáp bài kệ ấy chỉ có Phật. Chẳng kể văn kệ trên tấm bia là thật hay không thật, nhưng nó ám chỉ một ý nghĩa sâu xa. Đức Thế Tôn nhiều năm nỗ lực tu hành là để khai thông vấn đề đó, sự chứng ngộ của ngài là một giải đáp hết sức sống động cho câu hỏi đã nêu.

Ca Chiên Diên bái kiến đức Phật, mới biết lời nói của cửu phụ không sai. Thầy chưa biết trí huệ của Phật như đại hải, chỉ mới thấy tướng hảo trang nghiêm của ngài, đã khởi lòng cung kính vô biên.

Ca Chiên Diên chắp tay, đọc qua bài kệ một lượt, cầu mong đức Phật giải đáp cho.

Đức Thế Tôn chẳng cần suy nghĩ, như đại chung vừa chạm nhẹ đã vang tiếng, ngài dùng kệ đáp lại rằng:
  • Vua trong các vua là vua cõi trời thứ sáu.
    Thánh trong các thánh là đức Phật đại giác.
    Bị vô minh nhiễm ô gọi là kẻ ngu.
    Hay diệt hết các phiền não gọi là bậc trí.
    Tu đạo, lìa tham, sân, si tức là lìa cấu uế.
    Hoàn thành giới, định, huệ tức chứng Niết Bàn.
Ca Chiên Diên rất thông minh, nghe Phật đáp xong, mỗi câu mỗi lời đều thâm nhập vào tạng phủ, mối nghi ngờ ám ảnh trong tâm đều được ánh sáng trí huệ dẹp tan. Thầy vui mừng lặng đi giây lâu không nói được nên lời, sau cùng mới tụng lại bài kệ của Phật và hướng về phía ngài đảnh lễ. Mối cảm kích của Ca Chiên Diên chẳng lạ gì, vì vừa nghe lời đức Phật thầy đã khai ngộ, theo đó mà thông hiểu chân lý.

Đức Phật rất ưa thích ông thầy Bà la môn này, ngài khen Ca Chiên Diên thiện căn sâu dày, và lại dạy đạo lý cho một phen nữa, Ca Chiên Diên lễ tạ xong, liền đem bài kệ đáp của đức Phật trở về thuật lại cho nhà vua nghe, sau đó tuyên bố với các tín đồ của mình rằng từ nay thầy sẽ quy y đức Phật, làm đệ tử của bậc đại thánh.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 5. KHUYÊN NIỆM TAM BẢO
Ca Chiên Diên thiên tư thông tuệ, rốt cuộc bị trí huệ cao siêu và nhân cách vĩ đại của đức Phật cảm hóa, trở thành một đệ tử được khai ngộ và chứng quả trong tăng đoàn. Ca Chiên Diên rất vui mừng, chẳng những tự mình từ đây được cứu độ mà còn lại toại nguyện xưa của cậu mình là A Tư Đà.

Tôn giả Ca Chiên Diên vốn là một nhân vật phi phàm, huống chi hiện nay đã theo Phật xuất gia chứng quả A la hán. Tôn giả thông đạt rất nhiều kinh luận ngoại đạo, lại có rất nhiều bằng hữu ngoại đạo, Tôn giả phát nguyện trước nhất sẽ cảm hóa những bạn tu còn ngơ ngẩn trên đường mê nẻo tà, mỗi mỗi đưa về quy y Phật để lãnh thọ giáo lý của Thế Tôn.

Do đó, Ca Chiên Diên ở trong tăng đoàn không những nhiệt tâm phục vụ và tu hành, mà đối với bên ngoài cũng nhiệt tâm hoằng pháp, tuyên dương giáo pháp. Chân lý của đức Phật được sức phát động của Tôn giả Ca Chiên Diên, đã dễ dàng phổ cập trong xã hội, đi sâu vào lòng người. Đó là việc hiển nhiên.

Chân lý cứu đời của đức Phật vốn thường hằng xưa nay không biến đổi, dù trải qua ngàn vạn kiếp cũng trường tồn như mới, Ca Chiên Diên càng tuyên dương càng tăng thêm tín tâm, Tôn giả nhận thấy mình là sứ giả của đức Phật, thật là một vinh hạnh lớn, lòng tin và sự nhiệt thành của Tôn giả khiến đại danh Ca Chiên Diên như hương thơm bay xa, ai ai cũng biết tên Tôn giả.

Một hôm, Phật trở về Ca Tỳ La hóa đạo, Ca Chiên Diên cũng theo Phật, ngụ tại tịnh xá trong thôn Ha Lợi, và tất cả những gia đình trong thôn này dù lớn dù nhỏ đều lưu dấu vết giáo hóa của Tôn giả. Ngày nọ, trưởng giả Bát Thành bị bệnh. Tôn giả bèn đến thăm và đặc biệt thuyết pháp cho ông nghe để giải trừ bệnh khổ.

Ca Chiên Diên bước vào nhà trưởng giả, thấy ông còn nằm bệnh trên giường bèn đến bên hỏi thăm:

- Này trưởng giả! Nghe tin ông có chút bệnh, tôi vâng lời đức Phật đến đây an ủi ông. Ông có chạy chữa thầy thuốc gì không?

- Kính tạ ân đức Phật và Tôn giả, bệnh của con không còn hy vọng, bao nhiêu thầy đều nói con mang bệnh bất trị.

Trưởng giả Bát Thành rất thương cảm mà nói như thế.

- Ông hãy xưng niệm Tam Bảo, để nương nhờ oai đức Tam Bảo khiến tâm ông được thanh tịnh, bệnh tình cũng thuyên giảm đi.

- Bạch Tôn giả! Chúng con quy y Tam Bảo là mong ủng hộ Tam Bảo, tịnh hóa nhân gian, chúng con đã hiến dâng tất cả những tài vật của chính mình, thì không nên trở lại cầu mong Tam Bảo.

- Thật ra là như vậy, thế gian vô thường không thể cầu xin Tam Bảo cho được thường trụ, thân thể bệnh hoạn không thể cầu Tam Bảo cho mạnh luôn. Tín ngưỡng là hy sinh cá nhân nhỏ hẹp để thành tựu đại ngã. Đàn việt có chút ít bệnh khổ, chúng tôi có thể đến thuyết pháp không cần phiền đến Phật, Pháp, Tăng. Nhưng nếu sức người không có cách giải cứu, thành tâm cầu nguyện Tam Bảo, thì từ quang phó chiếu, ông làm như vậy chẳng có lỗi chi.

Bát Thành nghe Tôn giả nói, mỗi ngày đều một lòng nhất tâm xưng niệm Tam Bảo, căn bệnh bất trị của ông dần dần thuyên giảm.

Điều đó chứng tỏ tuy Phật pháp rộng lớn vô biên, nhưng cũng là thiện duyên của người bệnh nên mới được Ca Chiên Diên lưu tâm đến, dùng nước cam lộ từ bi của Phật pháp trị liệu cho nỗi đau khổ của chúng sanh.
  • 6. TUYÊN NÓI PHÁP BÌNH ĐẲNG
Ca Chiên Diên có khi tu học bên đức Phật, có khi một mình đi vân du giáo hóa các nơi. Phương pháp giáo hóa của Ca Chiên Diên và Phú Lâu Na có chỗ bất đồng. Khi Phú Lâu Na thuyết pháp thường là tập họp ngàn vạn thính chúng đến nghe, còn Tôn giả Ca Chiên Diên thì thích thuyết pháp cho từng người.

Từng người, từng người một đối diện mà giảng dạy, đó là lối thuyết pháp thân thiết nhất, khiến chân lý dễ dàng thâm nhập tâm người nghe. Quả thật chẳng lầm, không kể là ai, chỉ cần Ca Chiên Diên nói vài câu liền có ấn tượng đẹp và niềm tin nơi lời nói của Tôn giả.

Một hôm, Phật trụ tại tịnh xá Kỳ Viên, Ca Chiên Diên thì ba y một bát, động hành băng rừng núi, qua những cánh đồng mênh mông, đến nước Ma Thâu La (Mathura) ở phía Tây, giáo hóa.

Tôn giả đến Ma Thâu La, trước tiên xem xét dân tình, phong tục địa phương, lề lối sinh hoạt tập quán của nước này xong, mới vào thành bái kiến quốc vương.

Vua Ma Thâu La lần đầu gặp được Ca Chiên Diên, liền hỏi:

- Tôn giả! Tôi nghe nói ngài vốn dòng dõi Bà la môn, đó là một chủng tộc cao quý nhất, còn Phật Đà thuộc dòng Sát Đế Lợi, mà nay ngài trở lại quy y với ông ta, làm đệ tử ông ta, thiệt chẳng ép uổng lắm sao?

- Đại vương! Chuyện đó chẳng những không ép uổng gì hết, mà trái lại, tôi cảm thấy rất hân hạnh được làm đệ tử bậc đại thánh Phật Đà.

- Lạ thật! Từ bỏ dòng dõi thanh tịnh sinh từ miệng Phạm Thiên, để làm đệ tử một người dòng Sát Đế Lợi, thật là chẳng ai hiểu nổi!

Nhà vua này ngoan cố và thủ cựu, chấp vào thành kiến u mê, chấp ngã đầy bụng, chẳng thèm nghe lời của Tôn giả chút nào.

Tôn giả chẳng hề giận, ôn hòa giải thích cho nhà vua nghe:

- Này Đại vương! Ngày xưa tôi là Bà la môn, tôi cũng nghĩ như đại vương. Nhưng sau khi nghe Phật Đà giáo thị, tôi mới biết đó là nhận thức sai lầm. Trong xã hội, việc phân chia dòng dõi Bà la môn, Sát đế lợi, Phệ xá, Thủ đà la và phân loại nghề nghiệp, điều ấy không sai, nhưng do đó mà chia cách ra, giải thích về dòng dõi có hơn kém, thật là không đúng. Người trong dòng dõi nào cũng có thiện có ác. Hiện tại trong chủng tộc Bà la môn, nhiều người làm những điều ác như sát sanh, tà dâm, tà kiến lại nói rằng là người quý tộc ư? Người tôn quý hay hạ tiện không phải do dòng họ, người tu đạo làm lành, giác ngộ chứng quả, thì chẳng kể thuộc chủng tộc nào đều là bậc tôn quý, là bậc nhất, là thanh tịnh cả.

Nghe lời thuyết giáo ấy, vua Ma Thâu La chợt tỉnh ngộ, vua tự nói:

- À! Thì ra đó là lỗi của ta, trong đất nước này nhà tù chỉ nhốt toàn chủng tộc Thủ đà la, còn Bà la môn phạm pháp thì không sao cả. Hèn gì xã hội hỗn loạn, nhân dân ta thán bất bình.

Ca Chiên Diên biết nhà vua thấy được chỗ sai lầm, thật tâm hối lỗi, bèn nói tiếp:

- Đại vương! Đại vương cần tin phụng chánh pháp đức Phật đại giác ngộ là bậc tối tôn tối quý trong loài người, chúng ta quy y Phật làm đệ tử, tìm sự giải thoát tự do cho sinh mệnh, đó thật là hạnh phúc và vinh dự lắm!

Vua Ma Thâu La được tiếp thọ Phật pháp bình đẳng, bèn yêu cầu Tôn giả giới thiệu để quy y Phật.

Nhà vua ra lệnh đại xá, thả hết những tù nhân dòng Thủ đà la, chỉnh đốn lại chánh trị, không còn nể mạnh hiếp yếu, bỏ luôn luật pháp bất công, không phân biệt giai cấp giữa người và người, đều chịu một quốc pháp như nhau. Từ đó toàn cả nước vui mừng, nhân dân an cư lạc nghiệp, ai nấy đều cảm kích sự giáo hóa của Tôn giả Ca Chiên Diên, cảm kích Phật pháp từ bi, bình đẳng.
  • 7. LUẬN VỀ TƯ CÁCH CÁC BẬC TRƯỞNG THƯỢNG
Ca Chiên Diên theo đức Phật, tuyên bố chủ trương "bình đẳng giữa bốn chủng tộc", điều ấy khiến cho Bà la môn không chịu được, hễ gặp cơ hội họ liền tìm Ca Chiên Diên chất vấn, họ nghĩ rằng: "Không triệt hạ Ca Chiên Diên thì Bà la môn từ nay không cất đầu lên nổi".

Tôn giả Ca Chiên Diên rất giỏi biện luận, không kể người đó là Bà la môn quyền uy đến đâu, khi gặp mặt Tôn giả chỉ dùng vài lời ngắn gọn, không nói dài dòng lôi thôi, khiến kẻ vấn nạn phải vui lòng khâm phục.

Một hôm, Tôn giả ở trong nước Ba La Nại, cùng với các Tỳ kheo đồng học thọ thực trong trai đường, tịnh xá nằm ở bên ao Ô Nê, có một Bà la môn niên kỷ thuộc hàng trưởng thượng, biết Tôn giả đang ở đây liền đến khiêu chiến. Lão Bà la môn chống gậy, làm thinh đứng bên cạnh Ca Chiên Diên, ý ông ta tưởng rằng: Ca Chiên Diên thấy mình đến chắc sẽ đứng dậy nhường chỗ ngồi. Nào dè ngoài ý dự đoán của lão, Ca Chiên Diên chẳng thèm nhìn đến ông, Bà la môn đợi hồi lâu bèn nổi giận lớn tiếng trách:

- Các người là giống gì? Đối với người già cả như ta tại sao không đứng dậy nhường ghế ngồi hả?

Các Tỳ kheo một phen thất kinh, lắm vị đứng lên định nhường chỗ cho Bà la môn ngồi. Chỉ có Ca Chiên Diên chẳng nao núng chút nào, nói với Bà la môn nọ:

- Ông là người nào mà đến đây lớn tiếng ầm ỉ? Chúng ta có phép cung kính của chúng ta, nhưng mà ở đây không có ai là trưởng thượng và tiền bối cả.

Lão đạo sĩ Bà la môn nổi giận, quơ gậy chỉ vào cái đầu bạc của mình, nộ khí xung thiên la lên:

- Già cả như lão đây không phải là trưởng thượng hả? Không đáng cho mấy người cung kính hả?

- Ông ấy à? Ông không đáng gọi là già lão, cũng không đáng thọ sự cung kính của chúng ta! Ca Chiên Diên nói một cách khi dễ.

- Tại sao ngươi khinh người quá vậy?

Lão Bà la môn nổi trận lôi đình, lấy gậy chỉ trỏ Ca Chiên Diên. Đối lại, Ca Chiên Diên rất điềm tĩnh từ tốn nói:

- Tôi thấy cử chỉ và lời nói của ông không đáng gọi là người lớn, không đáng cho người ta kính trọng. Đừng kể là Bà la môn, dù cho tám, chín chục tuổi, tóc bạc răng rụng mà không chân chánh tu đạo, đắm chìm trong trần sắc, không bỏ được phiền não tham, sân, si, tật đố, người chỉ đáng gọi là thiếu niên. Như các người tuổi trẻ quanh đây, da dẻ còn tươi nhuận, đầu tóc đen nhánh, nhưng họ đã thoát khỏi sự trói buộc của ái dục, không còn tham cầu nơi thế gian, không có chút xíu ý niệm bất bình sân hận, được như vậy chúng ta mới gọi là bậc trưởng thượng, là bậc lão túc, đáng được tất cả chúng ta cung kính.

Lão Bà la môn nghe nói xong, chẳng biết trả lời lại thế nào, làm thinh đi ra.
  • 8. CÓ ĐẠO ĐỨC KHÔNG PHẢI Ở TUỔI TÁC
Thuyết phục Bà la môn râu bạc, từ đó chẳng được an ổn vô sự gì, danh tiếng Ca Chiên Diên càng to, các vị theo đạo Bà la môn cũng không thể tha thứ cho Tôn giả.

Lại có một Bà la môn khác, rất giỏi biện luận, nghe nói Ca Chiên Diên đối với Bà la môn lão niên của họ chẳng những không cung kính mà còn bắt bẻ lại, khiến phải ngậm miệng chẳng nói được gì, ông Bà la môn này rất tức giận, từ xứ Câu Thi Na ở xứ Bắc xa xôi, hỏi thăm tìm đến chỗ Ca Chiên Diên tại thành Ba La Nại, vừa chạm mặt ông ta đã kêu đích danh Ca Chiên Diên mà hỏi:

- Ca Chiên Diên! Tôi nghe người ta nói, Ca Chiên Diên là gốc Bà la môn, nay cải giáo làm Sa môn, có phải vậy chăng?

- Đúng vậy, ông xem tôi đang đắp cà sa đây.

- Người phản bội tín ngưỡng của mình, lỗi nhiều ít?

- Từ cái tín ngưỡng tà chấp kia, đi theo đạo lý quang minh chánh tín này, không có lỗi gì cả!

Ca Chiên Diên trả lời rất đanh thép.

- Ông chẳng phải là người vô danh tiểu tốt, ông đã từng nghiên cứu tinh thâm pháp điển Mã Nổ của Bà la môn chúng ta, ông cải giáo theo Phật, chuyện đó chưa thể bỏ qua, mà còn nghe đồn ông hay giảng thuyết Phật pháp cho các Bà la môn để rủ rê theo mình, hành động ấy thật là vô lễ.

- Người đã đi qua, chỉ lại cho bạn đồng hành đoạn đường cũ những lỗi lầm lạc, đó là lời dạy từ bi của đức Phật.

Được kể là hạng người giỏi lý luận, mà gặp phải Ca Chiên Diên, ông Bà la môn này cũng chẳng làm gì được. Nhưng ông ta chưa chịu thua, nhớ đến mục đích của mình đến ông, ông bèn hỏi lại:

- Ca Chiên Diên! Tôi lại hỏi ông điều này: nghe nói Ca Chiên Diên làm Sa môn Tỳ kheo, đã không cung kính Bà la môn lão túc cũng không mời ngồi, nếu quả như vậy, nếu ông tự cho là Tỳ kheo, cũng không được vô lễ như vậy.

Ca Chiên Diên thẳng thắng, chậm rãi đáp:

- Câu hỏi của ông sự thật là thế, Ca Chiên Diên tôi từ khi quy y với bậc Chánh biến tri Phật đà, quả thật tôi không cung kính phụng sự bậc lão túc Bà la môn, điều đó cũng hợp lý thôi. Vì tôi đã chứng thánh quả, ông đừng đem tuổi tác già trẻ mà đến đây chất vấn, lễ và pháp không thể lộn xộn được.

Bà là môn nghe biện luận khéo léo của Ca Chiên Diên, rốt cuộc thấy hỗ thẹn không nói thêm lời nào, về sau bỏ tà chấp, yêu cầu Tôn giả giới thiệu để làm đệ tử Phật.

Tôn giả thật đáng kính trọng vậy!
  • 9. GIẢI ĐÁP NGUYÊN NHÂN TRANH CÃI
Chân lý nếu không biện biệt thì không sáng tỏ được, trong tăng đoàn có một vị như Ca Chiên Diên khiến bao nhiêu người vấn nạn đều kiêng nể.

Một hôm Ca Chiên Diên đang ôm bát khất thực trên đường, gặp một đạo sĩ Bà la môn đi ngược chiều, ông ta mời Ca Chiên Diên dừng lại và hỏi:

- Tôn giả! Hôm nay gặp ngài ở đây thật là may mắn, tôi có một vấn đề muốn thỉnh giáo, mong ngài lấy tư cách khách quan để giải nghi dùm tôi.

Ca Chiên Diên từ tốn đáp:

- Chẳng có chi, ông nghi hoặc điều gì xin cứ hỏi.

- Tôn giả! Tôi thấy trên thế gian, Sát Đế Lợi tranh đấu với Sát Đế Lợi, Bà la môn tranh đấu với Bà la môn, vì lý do gì mà họ tranh đấu mãi như thế?

Ca Chiên Diên đáp:

- Vì tham dục mê hoặc!

- Thưa Tôn giả! Vậy chớ Tỳ kheo các ngài tranh cãi với nhau, lại là lý do nào?

- Do ngã kiến và pháp chấp.

Đạo sĩ Bà la môn nhắm mắt lại, đưa tay vò đầu dường như cố suy nghĩ về lời đáp của Tôn giả. Thái độ của ông ta có phần kỳ quặc khiến dân chúng hai bên đường chú ý.

Xưa nay, thầy Tỳ kheo nói chuyện với đạo sĩ Bà la môn ở giữa đường là chuyện lạ, huống chi Bà la môn này lại có thái độ như thế.

Một Tỳ kheo đắp y vàng, trang nghiêm tề chỉnh đứng đấy, cùng một đạo sĩ Bà la môn khổ hạnh râu tóc phủ khắp mình, lại đứng nhắm mắt vò đầu lia lịa, bốn phía quần chúng chú mục vào hai người sắp sửa xem một vở tuồng vui nhộn.

Đạo sĩ Bà la môn suy nghĩ một chặp, mở mắt ra lại hỏi:

- Tôn giả! Ngài đáp rất công bình hợp lý, song tôi nghĩ rằng trên thế gian này không biết có vật nào ly khai được tham dục, ngã kiến và pháp chấp không?

Ca Chiên Diên chẳng chút do dự đáp ngay:

- Có lão sư của tôi là đức Phật hiện đang thuyết pháp tại thành Xá Vệ. Ngài là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ngài không còn phiền não tham dục, ngã kiến, pháp chấp, là bậc đạo sư của ba cõi, là mô phạm của nhân thiên!

Đạo sĩ Bà la môn rất cảm kích đối với lời thuyết pháp của Ca Chiên Diên, ông ta liền yêu cầu Tôn giả, giới thiệu cho ông ta quy y Phật, làm một đệ tử cư sĩ.

Quần chúng bên đường mục kích cảnh Tôn giả thuyết phục đạo sĩ đều hoan nghinh, nhiều người quỳ tại chỗ đảnh lễ Tôn giả như chúc mừng thắng lợi; tuy vậy Tôn giả chẳng lộ vẻ tự đắc. Ngài khiêm tốn đáp lễ lại mọi người, và cùng Bà la môn đã đổi thành cư sĩ tục gia cáo biệt, thản nhiên tiếp tục con đường khất thực của mình.
  • 10. RĂN DẠY BỌN THIẾU NIÊN VÔ LỄ
Ca Chiên Diên xuất thân từ Bà la môn và qua lại biện luận với Bà la môn rất nhiều. Thảy đều do Tôn giả là một nhân vật cao cấp, có danh vọng và địa vị trong giáo phái Bà la môn, một phen cải giáo quy y Phật, điều ấy làm chấn động cả một tín ngưỡng thần quyền.

Các giáo sĩ Bà la môn công kích, vấn nạn Ca Chiên Diên rất nhiều, nhưng số Bà la môn duy trì tình bằng hữu với Tôn giả, tự giác tín ngưỡng cần để tự do cũng không phải ít.

Một phen nọ, Ca Chiên Diên hành hóa tại cố hương A Bà Đề (Avanti), thôn Di Hầu, trong thôn có một Bà la môn tên Lỗ Ê Già, ông ta đối với Tôn giả rất cung kính tôn trọng.

Một hôm, đám thiếu niên, con em của Bà la môn Lỗ Ê Già lên núi chặt củi, bọn chúng đi ngang một hang đá thấy Ca Chiên Diên đang tịnh tọa bên trong, liền kêu réo nhau ồn ào, đem Tôn giả làm trò đùa với nhau:

- Ê! Lại đây! Mày lại đây coi Sa môn đầu trọc ở đây nè!

- Nhìn làm quái gì, lão đầu trọc ấy chẳng có thú vị gì cả!

Đám đệ tử của Lỗ Ê Già nhao nhao mỗi người một câu rần rộ ngoài cửa động, trong đó có một tên can gián:

- Úy! Các bạn chế nhạo người ấy, ổng là người mà thầy mình cung kính lắm đó.

Tuy vậy bọn thiếu niên vẫn bướng bỉnh cười đùa chế nhạo ầm ỉ, thậm chí còn lấy đá chọi vào trong.

Ca Chiên Diên đang tịnh tọa phải đứng dậy bước ra ngoài, răn dạy bọn chúng một phen:

- Này các chú! Lúc trước các Bà la môn tu hành đàng hoàng, cấm tuyệt ngũ dục, bây giờ thì Bà la môn cưới vợ đẻ con giống như người thế tục, xem hành vi của các chú chẳng khác bọn trẻ nít hoang đàng vô lễ, bộ thầy các chú dạy như vậy đó hả?

Thái độ của Ca Chiên Diên oai nghiêm như sư tử, làm cho bọn thiếu niên khép một bên, chẳng dám hó hé, nhưng trong bụng căm tức. Lúc về nhà, bọn chúng liền mách lại với Lỗ Ê Già, nói Ca Chiên Diên mắng chửi Bà la môn thế nọ, thế kia.

Lỗ Ê Già nghe xong, nổi giận nói rằng:

- Ta đối với Ca Chiên Diên rất tôn kính, mà ông trở lại mắng nhiếc chúng ta, ta phải đi tìm ổng hỏi cho ra lẽ.

Lỗ Ê Già sát khí đằng đằng tức tốc chạy đến thạch động của Tôn giả, quyết phen này không làm lớn chuyện không xong. Nhưng khi gặp Ca Chiên Diên nghiêm trang ôn hòa thuật lại những lời của bọn trẻ và lời nói của mình cho ông ta nghe. Lỗ Ê Già cảm thấy xấu hổ, cúi đầu chẳng nói lời nào.

Ca Chiên Diên thừa cơ hội nói tiếp:

- Này bạn Lỗ Ê Già: ông nghe tôi nói đây, tín ngưỡng và tu tập của chúng ta là cốt giải thoát sanh tử, đạt được sinh mệnh tự do. Trăm ngàn lần không thể đem tín ngưỡng và việc tu biến thành một thứ nghề làm ăn. Hiện tại các ông trong số Bà la môn làm nghề cúng tế cho người đời, dường như là có ý kinh doanh, lìa gia đình để làm Bà la môn tu đạo có được mấy người chân chính? Phần lớn toàn là danh văn lợi dưỡng, tự mình làm ra vẻ chí thành mà thật là hư dối. Đã không được cứu độ mà mang chiêu bài tôn giáo để thỏa mãn dục vọng riêng của mình, thật là chuyện đáng buồn.

Các Bà la môn thời nay đều là người ngoài tâm cầu pháp, nếu không cầu phước báo nhân thiên thì cũng đem hiện tượng vũ trụ ra mà giải thích tới lui, có mấy người nhận thức được chính mình. Thầy của tôi là đức Phật, là vị cứu tinh cho các nhà tu đạo đang lẩn quẩn trên đường tôn giáo, ông là bạn tốt của tôi, mong rằng ông sẽ bỏ mọi điều tà chấp, đừng nên ham làm thầy thiên hạ, đem tâm tình bao la, đồng theo đức Phật học tập với tôi đi.

Lỗ Ê Già nghe xong, lộ vẻ e thẹn mà nói:

- Tôn giả! Ngài nói rất đúng, giờ đây tôi sẽ nhất tâm y theo lời chỉ giáo của ngài.

Thiệt là tợ như vác cây đại đao muốn đâm người, mà chẳng đâm trúng Ca Chiên Diên, trở lại bị Tôn giả dùng lời sắc bén bẻ gãy, Lỗ Ê Già chỉ còn cách buông hết các thứ võ trang mê vọng tà chấp, đầu hàng Ca Chiên Diên luận nghị đệ nhất.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Nguyenthu
Bài viết: 667
Ngày: 19/03/20 05:08
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hoa Kỳ
Được cảm ơn: 15 time

Re: MƯỜI ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT

Bài viết chưa xem gửi bởi Nguyenthu »

  • 11. THUYẾT MINH LÝ VÔ THƯỜNG
Ca Chiên Diên biện tài vô ngại, nghị luận già giặn không ai sánh kịp, trong tăng đoàn cũng như ngoài xã hội danh cao vòi vọi không ai không biết.

Đức Phật rất thích các đệ tử lỗi lạc, chỉ cần có chút khả năng cũng được nêu lên tán dương. Ca Chiên Diên là một thánh đệ tử phi thường, đức Phật mỗi khi nhìn thấy hoặc nghe nói đến tên Tôn giả, đều rất hài lòng. Cho đến một hôm ngài đến giáo hóa nước A Bàn Đề, bèn bảo Tôn giả thay ngài giảng nói đạo lý vô thường cho tứ chúng.

Ca Chiên Diên đảnh lễ đức Phật trước, sau mới nói:

- Các vì đại thiện trí thức! Tất cả mọi tụ hội đều có lúc ly tán, có sanh ắt có tử, có thành thì có hoại, các pháp hữu vi trên thế gian, dù cho sơn hà đại địa, sum la vạn tượng cũng không thoát khỏi phép tắc vô thường.

Các vị hãy nhìn xem, mùa xuân trăm hoa đua nở, một trận gió thu thổi tới liền biến thành cảnh tượng lá vàng rơi lả tả. Vốn là tuổi trẻ, mặt đẹp sắc hồng, trải qua năm tháng liền thành da nhăn tóc bạc, già nua lụm cụm.

Làm người, nếu như không được giải thoát sanh tử luân hồi thì cái sanh mệnh ngắn ngủi này thiệt là cô độc và đáng thương lắm. Một giọt sương đọng trên cành, vừa lúc mặt trời lên, chiếu rọi muôn ngàn tia sáng, nó đã tan biến theo bóng đêm.

Quyến thuộc ân ái đến lúc già chết cũng không ai thay thế được. Con cháu hiếu thuận, trong lúc ông bà xuôi tay nhắm mắt cũng chỉ biết vây quanh người mà khóc kể, khóc đến mấy cũng không níu được vô thường, cũng không làm ông bà sống lại.

Kim ngân tài bảo cũng chẳng nương cậy được vững bền, qua một cơn thiên tai liền mất, hết giá trị. Danh vọng quyền thế cũng không thật, trên thế gian này có vương hầu nào không từng bị lật đổ?

Không rõ lý vô thường sẽ bị màu sắc rối ren của thế gian lừa đảo. Kia là thiên nhiên, núi xanh sông biếc, kia là loài người, sức khỏe tráng kiện, đây xã hội, đèn hồng rượu lục, mấy thứ ấy mới nhìn qua thật thú vị vô cùng, mà cũng thật là cạm bẫy hại người, vì đã chứa sẵn sự vô thường lo sợ.

Suy nghĩ kỹ mà xem, thế gian chỉ có vô thường là trên hết, nơi nơi đều là hư ngụy, giả dối lừa đảo. Chỉ có nhân quả và nghiệp lực mỗi người tạo tác là không hư ngụy, không dối gạt thôi. Nhân quả và nghiệp lực như bóng theo hình, dù sống chết chúng đều dính bên ta.

Vì thế, thưa các vị đại thiện trí thức! Người tu chúng ta cần phải có tinh thần khiêu chiến với con ma vô thường theo lời chỉ dạy từ bi của Phật Đà, chúng ta cần phải nỗ lực khẩn thiết tu tập, nhận thức được bộ mặt thật của chính mình, phá tan thế gian vô thường chứng đắc sinh mệnh vĩnh cửu. Chúng ta không cầu sống mà cũng chẳng bị chết!

Lời chỉ dạy thống thiết của Tôn giả, nghĩa lý phân minh làm cảm động tất cả tứ chúng trong hội.

Thay Phật thuyết pháp chỉ có Ca Chiên Diên biện tài nghị luận, mới đầy đủ tư cách ấy, mới được vinh dự ấy.
  • 12. NÓI ĐẠO LÝ PHÁT TÀI CHO KẺ NGHÈO
Sau khi tuyên hóa tại nước A Bàn Đề, Tôn giả trở về nước Xá Vệ để nghe Thế Tôn thuyết pháp. Trên đường đi, Tôn giả gặp một phụ nữ tay cầm vò nước, ngồi khóc thảm thiết bên mé sông. Thấy qua cảnh tượng, tự nhiên Tôn giả động tâm và sinh lòng lân mẫn. Ngài e rằng cô này vì một chuyện bất đắc chí nào đó, không giải quyết được mà nhào xuống sông tự vẩn.

Tôn giả đến trước và hỏi:

- Này cô! Chuyện gì khiến cô buồn thảm mà ngồi đây khóc lóc?

Cô kia càng khóc lớn:

- Chẳng việc gì đến ông, nói với ông làm quái gì?

- Này cô! Cứ nói tôi nghe, tôi là đệ tử Phật, tôi có thể giúp cô giải quyết vấn đề được chớ.

- Ông mà làm cái gì, ông coi trên đời này không công bằng giàu nghèo khác nhau trời vực, tôi là một kẻ nghèo cùng suốt đời khổ sở, tôi bị cái khổ bần cùng mài dũa đến nỗi không còn muốn sống nữa.

Cô nọ nói xong, lại lăm le nhảy xuống nước, Ca Chiên Diên vội kéo cô ta lại, từ bi giảng dạy:

- Này cô, đừng buồn thảm như vậy, trên đời này có biết bao nhiêu người nghèo chứ đâu phải mình cô. Vả lại, nghèo cũng không hẳn là bất hạnh, là khổ sở, kẻ giàu chưa chắc là khoái lạc. Cô coi mấy người phú hộ lắm của nhiều tiền kia, hằng ngày cứ bị tham dục, sân si quấy rối khổ sở. Làm người ở đời chỉ cần sống bình an là quý, bần cùng có gì bi thảm đâu nào?

Cô ta lại vùng vằng la lớn:

- Ông là Sa môn, ông không cần đến tình đời, còn tui đâu có được. Ông phải biết tui là đầy tớ cho một nhà phú hộ, cùng đời mạt kiếp làm kẻ tôi đòi, cơm áo không đủ, tự do chẳng có, mà còn gặp chủ nhân hắc ám, tham lam hung dữ chẳng có chút xíu từ tâm, tụi tui làm công chuyện hễ sai một chút là lãnh đòn, nghe chửi, muốn sống không yên mà chết chẳng được, nghĩ đến nỗi cùng cực đều do kiếp nghèo mà ra, biểu sao tui không buồn không khổ?

- Cô à! Tuy như vậy, cô cũng đừng bi quan, tôi sẽ chỉ cho cô một cách phát tài và thoát khỏi nghèo khổ.

- Cách gì vậy ông?

Cô ta quẹt nước mắt, hy vọng nhìn Tôn giả.

- Ồ, cách này thật đơn giản, cô đã bị bần cùng làm khổ, thì cô cứ đem bần cùng bán quách cho người khác đi.

- Bần cùng mà bán cho ai? Cô nọ lại la lên: Ông đừng nói giỡn, bần cùng mà đem bán được thì trên cõi đời này không còn người nghèo. Có ai mà chịu mua cái nghèo bao giờ?

Ca Chiên Diên trả lời:

- Bán cho tôi, tôi chịu mua.

- Bần cùng có thể bán được mà cũng là ông mua, nhưng ở đời này ai biết cách bán nó ra sao?

- Hãy bố thí! Tôn giả khai thị tiếp: Cô nên biết sự giàu nghèo ở đời đều có duyên, người nghèo sở dĩ nghèo hoài là vì đời trước không chịu bố thí và tu phước, người giàu sở dĩ giàu sang sung sướng là vì đời trước họ đã bố thí và tu phước. Vì vậy, bố thí, tu phước là cách bán nghèo mua giàu tốt nhất đó.

Người nữ tỳ nghe xong, trí huệ khai thông, đến hôm nay cô mới biết cách làm giàu. Nhưng cô lại đau khổ mà nói rằng:

- Thưa Tôn giả! Ngài dạy chí phải, con đã biết cách để được phát tài. Nhưng con nghèo quá mức không có chút gì cả, cái vò nước trong tay con cũng là của chủ nhà, họ giữ của còn hơn giữ mạng sống. Ngài bảo con bố thí cái gì bây giờ?

Ca Chiên Diên đưa bình bát cho cô ta, nói:

- Bố thí không cần phải là tiền bạc, thấy người khác bố thí mà mình phát tâm vui vẻ cũng được. Cô hãy múc nước đổ đầy bát cho tôi, đó là cô đã bố thí rồi!

Người nữ tỳ liền hiểu rõ ý nghĩa bố thí, liền làm theo lời dạy, về sau nhờ công đức cúng nước cho Tôn giả, cô được sanh lên cõi trời Đao Lợi.

Ca Chiên Diên đầy đủ phương tiện thuyết pháp, gọi rằng luận nghị đệ nhất, thật là danh bất hư truyền.
  • 13. ĐỔI ÁI TÌNH THÀNH TỪ BI
Một hôm, Tôn giả đi giáo hóa tại một nước rất xa xôi tên Ba La Lê Viên, và cư trú trong vườn trúc của một vị trưởng giả.

Đương lúc đó, vua nước ấy - Văn Đồ Vương - gặp một biến cố đau đớn, đó là vị đệ nhất vương phi vua rất yêu dấu chẳng may mệnh bạc. Nhà vua buồn khổ muôn phần, không ngó ngàng gì đến triều chánh, ngày nào cũng khóc lóc thảm thiết.

Người đã chết, dù là bậc quyền thế, tôn quý như vua chúa cũng không thể biểu sống trở lại được. Vua Văn Đồ thì không thể quên tình ân ái cũ, ra lệnh các quan đại thần ướp xác vương phi và quàn trong cung, mỗi ngày vua đều đối diện tử thi mà than thở:

- Ôi! Cái miệng xinh kia sao không nói chuyện với trẫm? Đôi tay kia sao không ôm trẫm? Vương phi yêu dấu ơi! Sao không chịu mở mắt nhìn trẫm?

Nỗi bi ai của nhà vua cứ triền miên bất tận như thế, các quan đại thần chẳng có cách gì, họ khuyên can nhà vua xin đừng buồn thảm quá độ, nhà vua chẳng để tai lời nào, lại nói: "Muốn nhà vua hết buồn, tốt nhất là làm sao cho vương phi sống lại", nhưng chuyện ấy ai mà làm được.

Trong lúc bối rối, bế tắc, các quan đại thần chợt nghĩ ra, Tôn giả Ca Chiên Diên hiện đang giáo hóa ở đây, hy vọng nơi oai đức và tại biện luận khéo léo của Tôn giả, chắc thuyết phục được nhà vua dứt bỏ mối bi ai, lấy lại dũng khí mà chỉnh đốn triều đình.

Các quan cũng kiến nghị lên vua:

- Muôn tâu đại vương! Trong nước ta hiện nay có một vị đại đệ tử của đức Phật đang du hóa, đó là Tôn giả Ca Chiên Diên, một bậc đại thần thông, đại oai đức, trí huệ uyên bác, không vấn đề gì không hiểu, ngay cả văn từ Phạm Thiên trên tấm bia cổ, ngài cũng biết được! Tôn giả biện tài vô ngại, mỗi khi nói chuyện gương mặt thường nở nụ cười. Xin thỉnh đại vương hãy đến gặp ngài, chắc chắn sẽ có nhiều lợi ích.

Vua Văn Đồ nghe tâu, vội hỏi:

- Thần thông của người ấy có thể gọi vương phi ta sống dậy không?

Các đại thần lúng túng, đều chẳng dám nói sao, trong ấy có một vị đã từng nghe Tôn giả thuyết pháp, cung kính đáp:

- Muôn tâu đại vương! Có thể hay không có thể làm cho vương phi sống dậy, điều ấy chúng thần không dám trả lời chắc, chuyện ấy chỉ có đến thỉnh giáo Tôn giả Ca Chiên Diên mới biết được thôi!

Vua Văn Đồ chuẩn y lời tâu của các quan liền lập tức ban lệnh đi ngay. Nhà vua ngự xe loan, mang theo nhiều lễ vật đến rừng trúc. Gặp mặt Tôn giả vua liền yêu cầu cứu mạng cho vương phi hồi sinh.

Ca Chiên Diên bẻ một nhánh cây gần đấy, nói với nhà vua:

- Này đại vương! Hãy đem nhánh cây này về cung, mà giữ cho nó tươi xanh hoài, đừng khô héo được không?

- Điều đó không thể được, cây đã lìa cội rễ, làm sao mà sống, mà xanh tươi.

- Vậy thì vương phi đã hết nghiệp, thọ mạng đã chấm dứt, mà bảo sống trở lại, chuyện ấy làm được sao?

Ca Chiên Diên hỏi trở lại, vua Văn Đồ ngay lúc đó liền giác ngộ lý vô thường, đã chết không thể sống.

Tôn giả biết tâm nhà vua, liền thuyết pháp tiếp theo:

- Này đại vương! Ngài là vua một nước, người cai trị toàn dân, toàn thể dân chúng là người của nhà vua chớ chẳng riêng một mình vương phi của vua đâu. Đại vương nên đem tấm lòng thương một mình vương phi, mở rộng ra thương khắp người người trong thiên hạ, dùng tình thương rộng lớn thay thế tình yêu riêng tư, thì quốc gia mới hưng thịnh, dân chúng sẽ ủng hộ nhà vua mãi mãi.

Vua Văn Đồ nghe xong, bừng tỉnh cơn mê, dứt hết mọi buồn thương, đảnh lễ cáo biệt Tôn giả, trở về cung an táng vương phi, chỉnh đốn triều chánh, thương dân như con. Từ đó cả nước mừng vui, ai nấy đều cảm kích tài khéo thuyết pháp của Tôn giả Ca Chiên Diên.

Ngày nay khói lửa tràn lan trên thế giới, chúng ta mong mỏi tinh thần nghị luận đệ nhất của Tôn giả Ca Chiên Diên sống lại trong tăng đoàn Phật giáo để thuyết phục các lãnh tụ hiếu chiến kia.

(Còn tiếp)
kinhle NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT kinhle
Vào đời đi theo nghiệp duyên,
Củi hết lửa tắt, về miền Tây Phương.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.15 khách