ĐẠO PHẬT - QUAN ĐIỂM - XÃ HỘI

Mời mọi người cùng nhau đem đạo vào đời, thảo luận chia sẻ học hỏi kinh nghiệm tu tập và áp dụng Phật pháp vào đời sống hằng ngày

Điều hành viên: Thanh Tịnh Lưu Ly, binh

Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

ĐẠO PHẬT - QUAN ĐIỂM - XÃ HỘI

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẠO PHẬT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA XÃ HỘI NHƯ CHÍNH QUYỀN VÀ GIÁO HỘI, TỰ TỬ, PHÁ THAI, ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI,...

Không có một giáo hoàng của Phật giáo để tuyên bố một cách mệnh lệnh về những vấn đề này và Đức Phật đã không đặc biệt diễn giải về những vẫn đề này.
Tuy vậy, căn cứ trên giáo pháp, chúng ta có thể kết luận rằng: một cách phổ quát, đạo Phật ủng hộ tất cả trong một thông điệp hòa bình. Thù ghét và phỉ báng kẽ khác không phải là một giá trị đạo đức trong truyền thống Phật giáo.
Thay vì chú mục vào những vấn đề gây chia rẻ xã hội, tôn giáo nên tập trung vào những sự tốt đẹp của nhân loại và hướng dẫn để mỗi chúng ta có thể xử dụng sự tồn tại quý báu của loài người chúng ta để phát triển nhân loại hoàn thiện và toàn diện.

http://www.simhas.org/qanda3a.html


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

CHÍNH QUYỀN VÀ GIÁO HỘI

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

CHÍNH QUYỀN VÀ GIÁO HỘI

Trong khi giảng giải nhiều đề tài về: Thế nào để là một lãnh tụ tốt hay một vị minh quân, Đức Phật không ủng hộ việc kết hợp chính quyền và giáo hội.
Một thí dụ có thể tìm thấy trong cuộc đời Đức Karmapa thứ năm, hoàng đế Yongle muốn muốn tông phái Karma Kagyu trở thành quốc giáo trên toàn lãnh thổ trị vì, nhưng đức Karmapa đã chống lại ý kiến này. Cũng vậy, Kalu Rinpoche đã nói rõ ràng rằng nhiều tôn giáo khác nhau tồn tại sẽ lợi lạc cho nhiều tâm linh khác nhau của những cá nhân khác nhau.
Vì vậy, đạo Phật không ủng hộ cho việc thành lập quốc giáo. Vì vậy trong khi những lãnh tụ thế tục nên được hướng dẫn bởi đạo đức của tôn giáo, họ không nên được hướng dẫn bởi sự tự cho là đúng.


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

TỰ TỬ

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

TỰ TỬ

Những lời dạy của Đức Phật rõ ràng chống lại việc tự tử và tất cả những hình thức chết êm ái. Đời sống con người quý báu va hiếm có. Tự tử là một cách chết trong bạo động, một cá nhân rời bỏ thế giới trong tình trạng giận dữ và đau khổ. Những cái chết êm ái (không đau đớn) trong hầu hết các tình trạng thì nguy hiểm và không cần thiết để lấy đi một mạng sống.
Tuy vậy, Phật giáo tin rằng con người nên được cho phép để chết một cách tự nhiên và bình thản. Một vài tôn giáo thì chống lại việc rút ống dưỡng khí tuyên bố rằng việc trợ sinh kéo dài hàng năm cho đến phút cuối cùng là "ý chí của thượng đế" và bất cứ điều gì khác hơn là giết người (sát nhân). Những lời tuyên bố như vậy không tìm thấy trong những lời dạy của Đức Phật.


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

PHÁ THAI ?

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

PHÁ THAI ?

Đại pháp sư Tinh Vân (Hsing Yun) đã nói rằng: "Bất cứ khi nào người ta cố kìm hảm hay hạn chế người khác mà không có một lý do chính đáng, thì người ta đã xâm phạm kẽ khác. Điều này đặc biệt đúng khi vũ lực hay sự hăm dọa được xử dụng. Thí dụ, khi ở một nơi người ta vẫn dùng sức mạnh để ngăn cản người khác phá thai. Không ai có thể phá thai mà không có một lý do chính đáng, nhưng quyết định nên hay không nên phải được đề xuất bởi những người liên hệ gần gũi nhất.

Một số người lạ, bảo thủ tuyên bố rằng phá thai là sai và chỉ tuyên bố bằng lời nói . Người ấy không phải là người sẽ phải nuôi dưỡng đứa bé. Người đàn bà đang mang thai mới chính là người đáng nói lên vấn đề nhất. Bà ta phải tham khảo lương tâm của chính bà và quyết định điều bà ta nghĩ là đúng. Lương tâm là một sự hướng dẫn tuyệt hảo, hiếm khi nó hướng dẫn lầm lạc. Đức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hiểu biết mục đích tất cả những gì chúng ta thực hiện,...Đạo Phật là một tôn giáo của tỉnh thức (tự giác). Điều này là một lý do khác vì sao là sai khi dùng sức mạnh để khiến những người khác thực hiện điều mà chúng ta cho là đúng. Chúng ta nên khuyến khích những người khác hãy nhìn lại chính họ." (from "Buddhism Pure and Simple").

Cuộc sống bắt đầu bằng khoảnh khắc của sự thai nghén. Vì vậy một cách riêng tư Phật giáo đối lập với sự phá thai. Tuy nhiên Phật giáo không ủng hộ hay bào chửa cho thái độ của chính quyền đối với phụ nữ trong vấn đề này. Một sự khác biệt cần được vạch ta giữa sự giải quyết của Phật giáo với vấn đề của xã hội của sự tăng vọt tỉ lệ phá thai và sự giải quyết của những tôn giáo biện hộ cho việc chống phá thai.

Cấm phá thai không giải được vấn đề. Một người nên giản dị nghĩ ," Đức Phật sẽ làm gì?" Phật giáo giải quyết vấn đề đòi hỏi đáp ứng ý nghĩa yêu thương (từ bi), và sự giáo dục,... không phải là nạn nhân. Giải quyết của Phật giáo đồ nên tìm kiếm ở nghĩa trung đạo để đối diện với vấn đề.

NẾU KHÔNG MUỐN PHÁ THAI THÌ PHẢI TRÁNH CÓ THAI !


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

Re: ĐẠO PHẬT - QUAN ĐIỂM - XÃ HỘI

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

- - -
Đại pháp sư Tinh Vân (Hsing Yun) đã nói rằng:" Chúng ta muốn làm cho mọi người đều hoan hỉ. Chúng ta muồn nọi người đều cảm thấy hy vọng. Nếu chúng ta không thể gieo niềm hy vọng làm sao người ta muốn trở thành Phật tử?...Mục tiêu của chúng ta là giúp đở mọi người, chứ không phải để hạn chế họ... Người ta thường hỏi, tôi nghĩ thế nào về đồng tính luyến ái. Họ tự hỏi, điều đó đúng hay sai? Câu trả lời là, nó chẳng đúng hay sai. Đó chỉ là những việc họ làm. Nếu họ không làm tổn hại đến người khác thì đấy là chuyện riêng của họ, chúng ta nên cho phép mà không nên cấm đoán họ. Tuy nhiên, điều ấy cần có thời gian để thế giới hoàn toàn chấp nhận đồng tính luyến ái. Tất cả chúng ta phải học để chấp nhận thái độ của kẽ khác." (from "Buddhism Pure and Simple").

Khát dục là khát dục (chấm). Không có điều gọi là "khát dục đạo đức" hay "khát dục phi đạo đức". Có những lãnh tụ tinh thần nói với tín đồ của họ rằng, sự phóng đảng dục vọng của những người khác giới là có thể chấp nhận và đạo đức, nhưng bất cứ hình thức dục vọng nào của những người đồng tính là SAI. Vài lãnh tụ tinh thần nói với tín đồ của họ rằng quan hệ tình dục chỉ đơn thuần là ý định sinh sản. Hầu hết những người đồng tính không hứa hẹn những hành động tình dục cho việc sinh sản. Thật là kỳ lạ khi xã hội lại cấm đoán quan hệ tình dục đồng tính. Vì vậy những người đồng tính xứng đáng để được những quyền lợi như những người khác.

Vài Phật tử bình luận rằng tình dục là hạnh kiểm xấu. Vấn đề tình dục rõ ràng là hành động trần tục. Điều đó không dẫn đến giác ngộ. Tuy nhiên đó là một sai lầm nghiêm trọng để bị trừng phạt hay bị chỉ trích bởi những tín đồ do hành động tình dục riêng tư.

Không ít những bậc thầy tinh thần không vòng vo chỉ trích hành động tình dục của những người khác giới hay tỉ lệ ly dị tăng cao. Tuy nhiên, họ sẽ yêu sách chống lại những người đồng tính một cách dữ dội. Họ sẽ tuyên bố rằng "hôn nhân đồng tính là nguôn gốc của tội ác", hay họ sẽ nói rằng "nếu là đồng tính người ấy sẽ tái sinh là cặp Xiêm sinh đôi (a Siamese twin)" . Những lời tuyên bố như vậy không có trong giáo pháp của đạo Phật.

Giáo pháp nguyên thỉ của Đức Phật không bao gồm nghi thức hay trình tự của lễ cưới. Lễ cưới và hôn nhân được xem như những việc của thế tục. Phật giáo không xem hôn nhân như một thánh tích tôn giáo. Vì vậy mọi người tự do và tự chịu trách nhiệm với lựa chọn của họ. Hôn nhân trong xã hội nên căn cứ trên những luật pháp quốc gia và trên sự bảo vệ bình đẳng, không căn cứ trên sự giải thích hẹp hòi của chỉ một tôn giáo.

Tu sĩ nam hay nữ dĩ nhiên phải giữ đời sống độc thân. Những ai đã thọ giới (phát nguyện) thì không được có hành động tình dục đồng tính hay khác giới tính.

Phật tử tại gia thì nên luôn luôn hỏi rằng " hành động của tôi có làm tổn hại đến người khác hay chính tôi không?" Đây là một câu hỏi quan yếu quyết định. Hành động cẩu thả hiển nhiên biểu lộ đó là hạt giống của nghiệp.


http://www.simhas.org/qanda3a.html


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

PHẬT GIÁO - YẾM THẾ - TIÊU CỰC ?

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

PHẬT GIÁO CÓ YẾM THẾ VÀ TIÊU CỰC KHÔNG?

Không.

Phật giáo rất thực tế về thế giới. Trong tứ diệu đế, điều thứ nhất, Đức Phật đã dạy về sự hiện hữu của khổ đau trên thế gian. Và điều thứ hai Đức Phật dạy rằng nguyên nhân của khổ đau tuỳ thuộc vào những nguồn gốc và điều kiện khác nhau, trước tiên nó là hiện thân của sự thiếu hiểu biết, tham dục, và vị kỷ. Điều thứ ba dạy rằng một người có thể chấm dứt khổ đau, và điều thứ tư giảng giải con đường để chấm dứt khổ đau.

Phật giáo nhấn mạnh sự hiện hữu của vô thường, phiền não và khổ đau. Phật giáo dạy rằng tham dục, ích kỷ là những hạt giống chường ngại cho giác ngộ. Có những chân lý về thế gian mà hành giả nên quán chiếu.

Tuy nhiên, những sự thật này đã được khám phá bởi Đức Phật với một thông điệp tích cực: rằng con người có thể khắc phục những sự thật về khổ đau vì chúng ta có sự tái sinh quý báu của con người và rằng mỗi người có bổn tánh không khác Đức Phật. Phật giáo khuyến tấn mọi người hãy nhìn thế gian trong một chiều hướng hiện thực và hữu ích.

Đức Phật và những bậc thầy hiện tại không là những nhân vật mờ ảo, ảm đạm, yếm thế. Thực sự, Đức Phật đã nổi tiếng vì tính hài hước, và nhiều bậc thầy ngày nay đã được biết đến vì mẫu chuyện vui của các ngài. Longchenpa, một bậc thầy Tây tạng, một lần đã nói rằng, " Một người phá lên cười, xuất hiện từ trong tất cả".(?)

Khi Dilgo Khyentse Rinpoche giải thích rằng, đấy là những người thực sự thấy rõ và tự tại với sợ hãi và nhìn thế gian ở khía cạnh tích cực.

Đức Phật và nhiều bậc thầy hiện tại với lòng từ bi của các ngài, là những người quan tâm đến loài người và những loài chúng sinh khác. Đối lại với khổ đau, vô thường và ngay cả sự chết là hiện thực, vài cá nhân có thể thích giam mình trong những tiểu mật thất và lẫn tránh thế gian, tuy nhiên đấy không phải là một cách thực tế để tiếp cận với hiện hữu.


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

Re: ĐẠO PHẬT - QUAN ĐIỂM - XÃ HỘI

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

CÓ DỄ DÀNG KHÔNG ĐỂ NHÌN NHỮNG VỊ TU SĨ, HAY NHỮNG NGƯỜI NHƯ ĐỨC DALAI LAMA TRONG THANH TỊNH ĐẠO, NGƯỜI TA THƯỜNG THẤY TẤT CẢ NHỮNG VỊ ẤY MỘT CÁCH ĐƠN GIẢN NHƯ NHỮNG NGƯỜI BÌNH THƯỜNG. MỘT NGƯỜI CÓ CẦN MỘT VỊ THẦY (TINH THẦN) CHO MÌNH KHÔNG?

Có những người trong thời Phật tại thế đã nghĩ rằng đức Phật có những khuyết điểm, hay qua sự lừa phỉnh đã cố dựng lên những chuyện để vu khống đức Phật. Cũng như vậy, ngày nay, có những người sẽ nói rằng đức Dalai Lama, hay những bậc thầy lớn khác chỉ là những người bình thường và không có gì thật sự đặc biệt.

Ngay cả những bậc đạo sư quá khứ như Marpa, Milarepa, Long Thọ,... cũng luôn luôn có những cá nhân chỉ trích các ngài. Nếu đức Phật đi ngang qua, chúng ta sẽ biết ngài đang đứng trước chúng ta chứ ?

Ở phương Tây có một lời nói rất thông thường rằng, "nếu đức Ki-tô đến và bước chân trên mặt đất một lần nữa, người ta sẽ đóng đinh ngài trên thánh giá một lần nữa". Ý nghĩa lời nói nầy rất rõ ràng rằng: những cá nhân phán định hay bình phẩm một cách thiếu hiểu biết một người nào đấy có xứng đáng với hiện thực, ngay cả những người ấy là những bậc thánh thiện.

Nếu ai đấy có tìm hiểu về cuộc đời của những nhân vật vĩ đại và để biết chẳc rằng các bậc đạo sư với tính cách cá nhân hơn, người ấy sẽ hiểu chính xác rằng các bậc đạo sư có những phẩm cách rất đặc biệt. CÁC NGÀI KHÔNG GIỐNG NHƯ CHÚNG TA.

Có những kẽ sẽ tuyên bố một cách sai lầm rằng: một người không cần bất cứ một đạo sư nào để trở nên giác ngộ. Người ta sẽ nói rằng, " ông ấy là bạn tôi, người quen biết của tôi, không phải là đạo sư của tôi!" Họ quá sợ những người khác, và có tự ngã mạnh mẽ như vậy, và đẩy chủ nghĩa cá nhân đến cực điểm như vậy, họ nghĩ rằng học hỏi từ những bậc đạo sư thì nguy hiểm và có thể tổn hại đến sự tồn tại của chính mình.

Chẳng cần biết chúng ta làm nghề nghiệp gì trong cuộc sống, chúng ta phải học hỏi việc ấy từ những người khác. Giả dụ, nếu chúng ta muốn vẽ, thì rất bình thường, cái kiến thức ấy phải thu thập từ người hướng dẫn. Tuy nhiên, nếu người ta muốn tự cố gắng, thì cái lần đầu tiên ban sơ để vẽ sẽ rất khó khăn. Người ta sẽ không biết phải làm gì. Cũng giống như vậy, một người cần sự hướng dẫn tinh thần.

Mọi người đã trở nên giác ngộ đều có một vị đạo sư. Ngay cả đức Phật trong những đời quá khứ đã có những vị thầy và mỗi chúng sinh đã trở nên giác ngộ đã được rèn luyện theo những con đường các bậc giác ngộ đã đi qua. Chúng ta không phải ở mức độ giác ngộ của Sĩ Đạt Ta (Siddhartha Guatama), một người chỉ chỉ ngồi xuống cội cây tất bát la để đạt sự giác ngộ cuối cùng - chúng ta thì quá xa với trình độ ấy.

Không phải tất cả những tu sĩ hiện nay đều có đủ phẩm chất hay trình độ; rất nhiều tu sĩ Phật giáo không đủ trình độ để hướng dẫn và không có sự chứng đắc. Một người phải điều nghiên kỹ lưỡng trước khi chọn một vị đạo sư. Cũng vậy, một tu sĩ không nhất thiết phải là một vị đạo sư hay một vị giáo thọ; tu sĩ là một người thực tập giáo lý trong cuộc sống của tu viện. Những người ấy là đặc biệt hay bình thường có thể khác nhau rất nhiều.

Cuối cùng, đấy là việc thực hành của riêng từng cá nhân, sự chuyên cần và chí tâm sẽ đưa đến sự giác ngộ. Nhưng điều ấy chỉ xuyên qua sự từ bi của một đạo sư, người hướng dẫn đệ tử có thể dễ dàng thấu rõ giáo pháp và tính giác bổn nhiên.


http://www.simhas.org/qanda10.html


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

Re: ĐẠO PHẬT - QUAN ĐIỂM - XÃ HỘI

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

NGƯỜI TA KHÓ CÓ THỂ TÌM THẤY SỰ CẢM HỨNG VỚI ĐỜI SỐNG ĐỘC THÂN CỦA TU SĨ. TÌNH DỤC LÀ MỘT PHẦN CỦA ĐỜI SỐNG VÀ KHÔNG LÀ GIỚI LUẬT ĐỘC THÂN CỦA TU SĨ THÌ TRÁI NGƯỢC VỚI VẤN ĐỀ XUYÊN QUA SỰ HẠN CHẾ NÀY ?

Tình trạng khác nhau cho từng cá nhân. Lướt qua một cách chung chung thì không đúng. Một người phải hiểu rằng tình dục không là vấn đề - nó là nổi ưu phiền của tinh thần, thiếu chánh niệm, tai hại và là hành động sai lầm có thể cùng với tình dục là nguyên nhân của những chướng ngại cho giác ngộ.

Những tu sĩ độc thân nhận thức một cách rõ ràng và đúng đắn phải chuyển hoá sự khát dục của mình thì quả là rẩt hứng thú. Những người đó, dĩ nhiên, khi cố kiềm chế và kết cuộc chỉ trở nên thiếu thốn hay bối rối với tình dục sẽ không cảm thấy cảm thấy hứng thú trong đường tu.

Giới luật tôn giáo thì trái ngược với vấn đề chẳng kể là nó được giải quyết như thế nào; cho đến khi nào không có những người giác ngộ, tỉnh giác, chánh niệm trên thế giới và trong tôn giáo, vẫn sẽ có những lỗi lầm sai sót. Ví dụ, có những sự sửa đổi và vấn đề trong giới luật là sự xuất hiện những nhà truyền giáo và mục sư có gia đình, nhưng không phải những vị này không có vấn đề. Vấn đề trong giới luật không chỉ xuyên qua sự độc thân !

Độc thân không phải bất cứ là một đòi hỏi thiết yếu nào của một hành giả, nó chỉ là một lời nguyện của một vị tăng, ni; hay tạm thời của một người trong thời gian tham dự một khoá tu dài hạn.

Không ít những vị thầy của Phật giáo Tây tạng, có gia đình và con cái. Kim cương thừa tiếp cận vấn đề có thể tốt hơn cho những nguyên nhân của khát dục; tình dục sẽ được chuyển hoá hay thanh tịnh hoá thay vì chỉ đơn thuần trấn áp hay kiềm chế nó; lẫn tránh một cây độc người ta không giải thoát khỏi nó, nhưng bằng sự chuyển hoá nó thành cây thuốc, bạn đã thanh tịnh hoá nó. Có những vị thầy như His Holiness the Sakya Trizin, Dudjom Rinpoche và Tulku Ugyen Rinpoche đã và sẽ truyền thừa tông môn lại cho chính con ruột của mình. Đấy là những ví dụ tiêu biểu về những vị thầy có gia đình.

Sự gợi ý của chúng tôi, Simhas, là chúng ta có thể cầu đạo, học đạo từ những bậc thầy, những bậc đạo sư, những vị thật sự chứng ngộ dù là những vị tu sĩ có sự cảm hứng với đời sống độc thân hay là những vị không độc thân.



http://www.simhas.org/qanda11.html


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

Re: ĐẠO PHẬT - QUAN ĐIỂM - XÃ HỘI

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

LÀM THẾ NÀO ĐỂ TIN TƯỞNG, NƯƠNG TỰA MỘT VỊ ĐẠO SƯ, MẶC DÙ MỘT VỊ ĐẠO SƯ LÀ CẦN THIẾT? LUÔN LUÔN CÓ NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÔNG TỐT CỦA NHỮNG VỊ ĐẠO SƯ, HAY NHỮNG VỊ ĐẠO SƯ LÀM TỔN HẠI ĐẾN NHỮNG NGƯỜI ĐỆ TỬ, HAY NHỮNG VỊ ĐẠO SƯ RẤT KIÊU KỲ VÀ VỊ KỶ.

Lý lẽ này cũng như nói, "Tại sao phải đối xử tốt với bất cứ ai một khi rất nhiều người là những kẽ ích kỷ một cách mù quáng", hay "không có lý do nào để chúng ta học hỏi và đến trường vì tất cả những giáo viên chắc chắn không thông tuệ một cách thái quá."

Quan điểm này được hình thành vì rất nhiều người trong chúng ta có cái nhìn tiêu cực với nhân loại. Có lẽ quan điểm như vậy được kết luận một cách công bằng khi có nhiều những cá nhân uỷ thác hay liên hệ đến những hành vi xấu. Chúng ta thấy nó hằng ngày trên tin tức. Chúng ta đều biết tất cả những tổ chức tôn giáo của nhân loại dù bị phơi bày những điều không đẹp nhưng điều này không làm mỗi cá nhân xấu đi.

Nhưng đừng quơ đủa cả nắm. Trong cả thùng táo luôn luôn có một hay hai trái thối...nhưng không gì thế mà vất luôn cả thùng.

Đức Phật và các bậc đạo sư sau đó luôn luôn cảnh giác về phẩm chất của các bậc thầy cùng đệ tử. Jamgon Kongtrul Rinpoche, một trong những vị đạo sư được tôn kính nhất của Tây tạng đã nói rằng, một vị thầy phô trương những khiếm khuyết nghiêm trọng (như là tích trử tiền của, không chân thực, dạy bảo những điều mâu thuẩn với giáo pháp hay truyền bá những điều thâm thuý, bí mật trước đám đông) chỉ có thể trao truyền "sự hổ trợ của Ma vương" cho đệ tử. Ma vương là hiện thân của ích kỷ và đối lập trực tiếp với Phật tính, ma vương là hiện thân của những hành vi xấu.

Phật giáo khuyến khích sự kiểm nghiệm phẩm chất hoàn hảo của một vị đạo sư. Người ta nên chọn một vị đạo sư đầy đủ phẩm cách, chứng ngộ và chân thực, và không chỉ căn cứ trên sự phổ biến hay bởi vì ở ngay xóm bên.

Một số những vị thầy thuần khiết hiện tại biểu hiện rõ ràng các ngài đáng tin cậy dù chỉ qua ngôn ngữ của các ngài, các ngài luôn luôn tuyên bố rằng, " chỉ là tu sĩ giản dị, một hành giả bình thường như mọi người, hay còn xa với sự chứng ngộ." (với Tây tạng như the Dalai Lama, the Gyalwa Karmapa and Tai Situ Rinpoche,...)

Các ngài tự khiêm tốn một cách liên tục ,..không bao giờ trả lời một cách trực tiếp bất cứ sự liên hệ nào đến địa vị hay năng lực tâm linh của các ngài. Thay vì vậy các ngài đột ngột cắt lời, "điều ấy tôi không thể, chỉ có thể thường thường,...", "về việc là sự tái sinh của Đức Karmapa (hay Dalai Lama) đời trước, tôi cũng không chắc chắn lắm."

Sự thiếu khiêm tốn của một vị thầy thường cho thấy sự đáng tin cậy của những vị ấy. Một vị thường nhấn mạnh là hàng giáo phẩm cao cấp và muốn cải hoá những người khác, mời mọc những người khác "đến đây", quả thực là lạ lùng. Như Thrangu Rinpoche nói, ý kiến của ngài về sự liên hệ đến việc thuyết phục những người khác, "nếu một vị Lama nói rằng:"đến đây", (nhấn mạnh trên sự lắng nghe của người khác đối với quan điểm và sự giảng dạy của vị ấy), có điều gì không đúng đắn lắm đối với vị Lama ấy."

Lựa chọn (tầm sư học đạo) một vị thầy đáng tin cậy quả thật là khó khăn, nhưng người ta nên trước tiên kiểm nghiệm trên lời nói và sách vở của một vị thầy. Chúng ta thường thấy những vị với những hành động tiêu cực nhưng cũng chính vị ấy lại hoặc tự đề xướng, hoặc óc bè phái, hoặc thích tranh cải hay thuyết giảng bằng cách hạ thấp giáo pháp. Đấy là những dấu hiệu rằng vị ấy muốn tự đề cao để thu hút một số đông tín đồ.

Tuy nhiên cũng giống như vậy, những lời tố cáo sai lạc cũng được ném ra bởi những học trò khao khát tiếng tăm, kết quả nhanh chóng, một vài vị trí nào đấy hay đấy là nơi ẩn náo của sự oán hận.

Giả dụ, một đệ tử đang có một sự liên hệ không chính đáng với một đệ tử khác phái, và những cá nhân ấy đều gần gũi với Sư trưỡng lão. Khi vị Sư trưỡng lão nhắc nhở rằng sự liên hệ ấy là lầm lạc và họ nên giữ gìn quan hệ chính đáng với người thân cận của chính họ, điều này là nguyên nhân tạo nên sự giận dỗi nơi những người đệ tử ấy và vì vậy những lời tố cáo sai lạc chống lại với vị thầy của chính họ được tung ra.

Chúng ta nên quán chiếu quan hệ giữa thầy và thầy, thầy và học trò, học trò và học trò để không có những ngôn ngữ, hành động kể cả những tư tưởng sai lầm trên đường tầm đạo.
Vì sao? Vì kiểm soát thân, khẩu, ý là căn bản của sự tu đạo, nếu không thì đạo quả giải thoát không do đâu mà đạt được.


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

ĐẠO PHẬT - TIỂU THỪA - ĐẠI THỪA

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

TẠI SAO CÓ DANH XƯNG TIỂU THỪA? CHÚNG TÔI NGHĨ RẰNG TẠI MỘT THỜI ĐIỂM NÀO ĐẤY PHẬT GIÁO BỘ PHÁI ĐÃ BỊ NHỮNG HÀNH GIẢ ĐẠI THỪA GỌI MỘT CÁCH THIẾU TÔN TRỌNG. CHÚNG TÔI NGHĨ ĐIỂU NÀY ĐÃ KHÔNG CÒN ĐÚNG ĐẮN, TINH TƯỜNG VÀ TẾ NHỊ TRONG GIAO TIẾP .



Điều này cũng hơi lạ, đặc biệt trong thời kỳ Phật giáo bộ phái ở Ấn độ, khi mà một bộ phái hoàn toàn tách biệt ở Châu Á. Các tông phái đã tồn tại tại hai thời điểm khác nhau, một cách hoàn toàn khác biệt nhau.Hơn nữa, hành giả Phật giáo Theravada, Kim cương thừa/ Đại thừa hoàn toàn không có sự liên lạc với nhau nên tông phái này không thể gọi tông phái nọ bằng nhãn hiệu như thế nào đi nữa.

Phật giáo đại thừa tại Tây tạng và các nước Phật giáo bắc tông, đặt căn bản trên bồ tát thừa, đã không biết nhiều về những hoạt động của Phật giáo Theravada tại các nước sở tại. Vì vậy người ta (PGBT) chắc chắn đã không gọi họ (PGNT) là Tiểu thừa hay bất cứ nhãn hiệu nào khác.


Chúng tôi, Simhas, cho rằng những học giả salon phương tây đã tự đặt ra nhãn hiệu này. Những người ở Tây tạng như Jamgon Kongtrul chẳng hạn, sẽ không nói rằng "Tất cả những vị hành giả Nam tông ở Đông Nam Á là Tiểu thừa. Chúng tôi chỉ gọi bình thường như các vị ấy tự gọi là Phật giáo Theravada." Jamgon Kongtrul và tất cả những hành giả Phật giáo Bắc tông đã không có bất cứ liên hệ nào với việc gọi Phật giáo Đông Nam Á,hay để đặt nhãn hiệu Phật giáo nơi ấy là Tiểu thừa.


Tất cả những ý kiến này, về việc Phật giáo Đông Nam Á có phải là Tiểu thừa hay không, chỉ là ý kiến mới gần đây của các học giả phương tây. Những học giả phương tây đã nẩy sinh ý kiến này khi danh xưng Phật giáo đại thừa đã không được dùng tới ở Đông Nam Á. Ít ra là gần 50 năm trước không một ai ở châu Á đã có ý kiến này. Điểu này hoàn toàn là sự kiện của phương tây.

Tất cả mọi truyền thống không kể là Tây tạng, Thiền tông,... hay Theravada đều hiện diện lý tưởng Bồ tát và Phật tính, là những con đường cao quý mà một người có thể đảm đương. Truyền thống đại thừa là lý tưởng Bồ tát đạo.


Hành giả Theravada thì luôn luôn cống hiến năng lực để giải thoát những nỗi khổ của mọi loài chúng sinh và quyết đinh bởi sự hiến dâng tài trí của cá nhân để họ có thể giác ngộ dù là Thinh văn giác, Độc giác, hay Toàn giác. Đã có rất nhiều thí dụ xuyên qua lịch sử Theravada chứng tỏ rằng những hành giả này đã phát triển Bồ đề tâm.

Vào thế kỷ 12, ở Miến điện, Quốc vương Alaungsithu của Pangan, sau khi kiến thiết Tự viện Shwegugyi, đã dựng lên một văn bia bằng tiếng Pali ghi rằng, với hành động sùng đạo này quốc vương tuyên bố công khai quyết định để sẽ trở thành một vị Toàn giác chứ không là một vị Thinh văn.


Tại Tích lan, vào thế kỷ thứ 10, quốc vương Mahinda IV (956-972 AD) trong một văn bia đã tuyên bố rằng "không một ai ngoài những vị Bồ tát sẽ trở thành quốc vương của Tích lan".

Maha-Tipitaka Culabhaya người viết quyển Milanda-Tika, khoảng thế kỷ 12 AD, trong truyền thống Theravada của Đại tịnh xá ở Anuradhapura, đã nói ở cuối quyển sách trong lời bạt rằng, ngài ao ước trở thành một vị Phật: Buddho Bhaveyyam "con nguyện trở thành một vị Phật". Ở Tích lan, có rất nhiều kinh sách đã ghi chép về những nguyện vọng của những hành giả cư sĩ và tu sĩ muốn trở thành những vị Bồ tát và những vị Phật.

Vì vậy, Phật giáo Theravada đã thừa nhận sự hiện diện của cả ba thừa (Thinh văn, Duyên giác, và Bồ tát) và chiếu cố tính ưu việt của lý tưởng Bồ tát. Tuy nhiên sự công nhận cũng giống như Phật giáo đại thừa rằng Đức Phật thuyết pháp tuỳ căn cơ trình độ của mỗi chúng sinh, và vì vậy mỗi cá nhân phải lựa chọn "thừa" nào thích hợp với tâm tính của chính mình.

Mặc dù hiện nay không có trường phái Phật giáo nào dành riêng cho Tiểu thừa, nhưng vẫn có những hành giả xác định vẫn giữ lập trường Tiểu thừa. Thế thì mệnh danh là Đại thừa hay Tiểu thừa chỉ là động cơ thúc đẩy mà không cần thiết phải là một truyền thống, và như vậy mà thuật ngữ Tiểu thừa được xử dụng trong trường phái Đại thừa.


Thuật ngữ Tiểu thừa không phải cổ xưa hay không đúng về phương diện xã hội. Bất chấp truyền thống, địa dư hay trường phái, có những hành giả vẫn dễ dàng sa vào sự lầm tưởng rằng người ta không cần phải phấn đấu cho Bồ tát đạo hay Phật đạo. Người ta nghĩ rằng giải thoát khỏi khổ đau cho chính bản thân là kết quả tuyệt hảo cuối cùng. Thuật ngữ Tiểu thừa có tính hiện thực hơn là xúc phạm. Động cơ thúc đẩy đến Toàn giác, điều lợi lạc cho những chúng sinh khác thì cao quý hơn chỉ phấn đấu sự giác ngộ chỉ cho riêng bản thân được lợi lạc.


Thật tức cười nếu nghĩ rằng tất những hành giả Đại thừa thì ở trên một địa bàn nào đấy còn tất cả những hành giả Tiểu thừa thì ở một địa bàn khác hay truyền thống khác. Chúng ta sẽ tìm thấy những hành giả và ngay cả những ví dụ cụ thể của tất cả những động lực (Đại thừa hay Tiểu thừa) trên mọi địa dư và trong tất cả mọi truyền thống. Đã có nhiều thí dụ của những hành giả Theravada có quan điểm Đại thừa, và những hành giả ở China hay Tây tạng có thái độ Tiểu thừa.


http://www.simhas.org


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

Re: ĐẠO PHẬT - QUAN ĐIỂM - XÃ HỘI

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

CÓ PHẢI PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA THẬT SỰ LÀ MỘT BỘ PHẬN CỦA PHẬT GIÁO? CHÚNG TÔI NGHE NHIỀU NGƯỜI PHƯƠNG TÂY NÓI RẰNG:"ĐIỀU RIÊNG BIỆT ĐẶC TRƯNG NHẤT CỦA PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA LÀ THAY VÌ TÌM KIẾM NIẾT BÀN CUỐI CÙNG, NGƯỜI TA TỪ CHỐI HẠNH PHÚC TỐI THƯỢNG NÀY, THAY VÌ VẬY NGƯỜI TA TRỞ THÀNH MỘT VỊ BỒ TÁT, CỐNG HIẾN NĂNG LỰC ĐỂ HỔ TRỢ NHỮNG CHÚNG SINH KHÁC ĐẠT ĐƯỢC GIÁC NGỘ. TRONG VIỆC THỰC HÀNH CỦA LÝ TƯỞNG BỒ TÁT ĐẠO ĐẤY LÀ MỘT CON ĐƯỜNG ƯU VIỆT CAO THƯỢNG KHI MÀ CÓ RẤT ÍT CHÚNG SINH MUỐN ĐỐI DIỆN VỚI LỰA CHỌN NHƯ VẬY.




Điều kỳ lạ thứ nhất của lời phát biểu này là niết bàn đã được xác quyết như một nơi chốn. Niết bàn là một trạng thái của tâm, trạng thái khi một chúng sinh không bị lừa dối hay không bị ảnh hưởng bởi vòng luân hồi (tự tại với sinh tử luân hồi). Một chúng sinh có thể tồn tại trong trạng thái niết bàn nhưng vẫn hiện diện trong vòng luân hồi. Vì vậy một vị bồ tát có thể chứng ngộ niết bàn nhưng vẫn hiện hữu trong thế gian để lợi lạc cho những chúng sinh khác.

Cũng vậy, một cách sáng tỏ, một vị bồ tát là một chúng sinh đã đạt đến trình độ khã quyết hiện thực trên con đường, và nguyện giác ngộ để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Động lực của một vị bồ tát có thể như một vị vua, một vị hướng đạo, hay một vị thuyền trưởng.

- Bồ tát như một vị vua trở nên giác ngộ hoàn toàn như một vị Phật và rồi hướng dẫn cho chúng sinh.
- Bồ tát như một vị hướng đạo chỉ dẫn chúng sinh phương hướng của giác ngộ.
- Bồ tát như một vị thuyền trưởng chỉ đường cho tất cả chúng sinh và cùng lúc các ngài bồ tát cũng hướng đến mục tiêu của Phật quả.

Vì vậy, không phải tất cả các vị Bồ tát cùng nhắm đến việc hoàn thành mục tiêu từ bi của các ngài đều giống nhau. Tuy vậy, tất cả những đức Phật và Bồ tát hiện diện trên cõi đời hiển nhiên là để lợi ích cho tất cả hữu tình. Nguyện vọng bồ tát là kim chỉ nam, là nguyên nhân tại sao các đức Phật thị hiện trên cõi đời. Đấy là nguyên nhân tại sao đức Phật đã được gọi là "bồ tát " trong tất cả kinh điển liên quan đến những đời quá khứ của các ngài. Bồ tát thừa , điều "đặc tính cá biệt đặc trưng nhất của Đại thừa", nói cách khác đức Phật phải hiện diện ở Bồ tát thừa chứ không thể hiện diện ở "thừa" nào khác.


Vấn đề là, khi một số Phật giáo đồ có thể cảm thấy, Bồ tát thừa thì chỉ đơn thuần là một nét đặc biệt kinh điển, là lý tưởng thuần tuý: người ta có thể sa vào sự tin tưởng rằng trong thực tế không ai có thể trở nên một vị PHật hay một vị Bồ tát. Kiểu lý luận này dường như vô lý. Không ai khác hơn có thể đạt được đức tính cao cả, trí tuệ siêu việt đồng đẳng như một vị Phật. Vậy thì làm thế nào một chúng sinh có thể rút ngắn sự chứng ngộ tâm linh tối thượng qua những phương pháp khác? Có thể người ta nghĩ rằng lý tưởng này quá cao để người ta có thể đạt được?


Nhưng khi mà mỗi chúng sinh có bản chất tự nhiên để trở nên giác ngộ, và một cách xác định người ta có cơ hội (với sự chỉ đạo và hướng dẫn thích hợp) để đạt đuợc giác ngộ.

Thật khác thường để Phật giáo đồ Hoa kỳ từ chối Đại thừa, đặc biệt từ khi hành giả phương tây bị vướng vào ý tưởng Phật tính và mang lấy nó với một tính dân chủ cực đoan người ta tin tưởng ngay cả rằng người ta không cần một vị giáo thọ (tự tín Phật tính tự ngã và tự tu, tự chứng); người ta tuyên bố rằng người ta có thể trở nên giác ngộ mà không cần sự giúp đở nào. Từ trường hợp ấy, vậy tại sao, trên phương diện khác, sẽ có bất cứ hành giả phương tây nào tin rằng bản chất của họ quá thấp và rằng Đại thừa là quá lý tưởng, quá khó, quá xa vời cho họ để đạt được? Nó chỉ có thể xuyên qua sự lý luận mâu thuẩn và hướng dẫn lầm lẫn.


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

Re: ĐẠO PHẬT - QUAN ĐIỂM - XÃ HỘI

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

KHÔNG CÓ NHỮNG YẾU TỐ CỦA KIM CƯƠNG THỪA ĐÃ VAY MƯỢN TỪ HINDU TANTRA YOGA, ĐẠO BON, THẦN ĐẠO CHỨ? ĐẠI THỪA VÀ KIM CƯƠNG THỪA DƯỜNG NHƯ LÀ MỘT PHẬT GIÁO TỔNG HỢP VỚI NHỮNG XỨ SỞ ĐÔNG Á, NHỮNG NGƯỜI BẢN ĐỊA ĐÃ TIẾP NHẬN PHẬT GIÁO ĐỂ ĐÁP ỨNG NHU CẦU, VÀ Ý TƯỞNG CỦA CHÍNH HỌ... NHƯ THIỀN TÔNG ĐÃ NHẬN PHONG CÁCH RIÊNG BIỆT CỦA NÓ TỪ LÃO GIÁO VÀ KHỔNG GIÁO?

Những ý kiến này đã được phát triển bởi một vài học giả phương tây xuyên qua việc
phát hiện một ít sự giống nhau giữa Phật giáo và Ấn giáo, Phật giáo và Lão giáo, Phật giáo và Thần giáo hay bất cứ điều gì những tôn giáo khác và Phật giáo dường như cũng giống nhau. Thế nhưng, lý luận này đã bị bóp méo khi hầu hết các tôn giáo đều có một số điều giống nhau.

Lịch sử đã nói rằng, nhiều trường phái Phật giáo đã tồn tại và phát triển mạnh ở hầu hết châu Á hàng thế kỷ trước. Hiện tại một vài trường phái chỉ tồn tại ở một vài vùng. Vì vậy ngày nay những người phương tây đã đưa ra những ý kiến sai lầm này rằng Phật giáo trong một địa phương đã bị biến đổi bởi những người bản địa. Đấy là nguyên nhân họ đưa ra lý thuyết cố gắng để giải thích tại sao Phật giáo trông hay xuất hiện khác nhau từ nơi này đến nơi khác, tuy nhiên người ta làm điều này không chính xác với lịch sử quá khứ (điều chỉ một cách rõ ràng rằng Kim cương thừa và Đại thừa đã tồn tại ở Ấn độ và Đông Nam Á). Người ta cũng thiếu sự thấu hiểu chính xác rằng đức Phật không chỉ giảng dạy một phương pháp hay một chân lý tự nó khã tín; những giảng dạy của đức Phật trãi qua nhiều giai đoạn và trong tổng cộng vô số giáo pháp và phương pháp.

Kim cương thừa đã từng hiện diện một cách rất mạnh mẽ một thời kỳ ở Đông Nam Á. Ngày nay, ở Nam dương, Cam bốt , người ta vẫn có thể thấy những mạn đà la và những công trình hoàn hảo được xây dựng để thờ phụng những vị Phật và Bồ tát của Đại thừa, và ngay cả những bổn tôn của Mật tông.


Tôn giả A để sa (vị đạo sư vĩ đại của Ấn độ đến Tây tạng vào thế kỷ 11 AD) vị giáo thọ chính của Serlingpa đã từ một hòn đảo nhỏ của Nam dương. Hơn nữa, những cổ tượng được tìm thấy ở Java (Kim Cương Tát Đoả, Di Lặc, Tỳ Lô Giá Na bên cạnh những tượng khác của Đại thừa và Kim cương thừa) rõ ràng giống phong cách và những nét đặc trưng của những pho tượng hiện đang được sản xuât ngày nay của Kim cương thừa Tây tạng. Tại Cam bốt và Thái lan, ngày nay vẫn thấy những pho tượng bổn tôn như Hevajra, Vajrayana Yidam, và viện bảo tàng nghệ thuật New York đang trưng bày. Trường phái Shignon của Nhật ngày nay không gì khác hơn là một truyền thống Kim cương thừa, nó được truyền bá mang dấu tích trực tiếp của những đạo sư Ấn độ. Hầu hết những bổn tôn ngày nay của Phật giáo có thể trực tiếp truyền từ Ấn độ, và những pho tượng đã hiện diện vẫn giống như đã từng tồn tại như thế hàng thế kỷ trước.

Vì vậy, các truyền thống Phật giáo ngày nay tồn tại ở hầu hết châu Á không phải là sự chắp vá. Những quốc gia Á châu đã không biến đổi Phật giáo nguyên thuỷ được truyền từ Ấn độ (trước khi Hồi giáo xâm lược và Ấn giáo trổi dậy). Điều này rõ ràng ngay cả những điều bí truyền như Kim cương thừa được truyền bá trực tiếp từ Ấn độ đến Tây tạng, từ Ấn độ sang Nam dương, từ Ấn độ sang China và Japan và từ Ấn độ đến Đông Nam Á.

Vì vậy Phật giáo Kim cương thừa không đơn thuần là yếu tố Tây tạng hay Japan, nó đã tồn tại xuyên suốt Á châu và vẫn tồn tại rất mạnh mẽ tại Japan và một ít tại China.

Thiền tông đã chiếm vị chính trong Kinh điển Phật giáo chẳng hạn từ kinh Lăng già, trình bày giáo nghĩa của Phật tính. Thiền tông được truyền trực tiếp từ Ấn độ bởi Tổ sư Ấn độ Đạt Ma, người dùng giáo nghĩa Phật tính, giảng dạy phương pháp cho đệ tử để nhận ra thực tính bổn nhiên của họ trong thiền tập. Giáo nghĩa thực hành này không chỉ lưu hành ở Đông Á nơi Thiền tông hiện diện, mà cũng ngay ở Tây tạng.

Những điểm sinh động này chứng tỏ Phật giáo được truyền bá từ Ấn độ đến Tây tạng, đến Japan, đến Đông Nam Á hay đến China là giống nhau; tại mỗi quốc gia, giáo pháp đã không bị biến đổi bởi những người bản địa như những học giả từng tuyên bố như vậy.

Cuối cùng, chúng ta có thể kiểm nghiệm và bác bỏ ý kiến cho rằng Kim cương thừa hay Đại thừa Phật giáo chỉ đơn giản là sản phẩm pha lẫn Phật giáo với những yếu tố Ấn giáo. Nếu PHật giáo loại bỏ tất cả những yếu tố thông thường của nó với những tôn giáo khác thì gần như chẳng còn gì. Vì Phật giáo phát sinh từ tiểu lục địa Ấn độ giống như Ấn giáo, nên nó cũng phải dùng những thuật ngứ và thành ngữ như tantra hay sutra. Các học giả phương tây có nghĩ rằng Phật giáo nên dùng những thuật ngữ của tiếng La tinh?

Như Sakya Trizin Rinpoche nói: " có những người đề xuất rằng Phật giáo Tantra không thuộc Phật giáo thuần khiết bởi vì nó bao gồm nhiều yếu tố thực hành của Ấn giáo. Đây là lý luận giả tạo bởi vì những phương pháp nhất định là ranh giới sẽ được chia sẻ bởi những truyền thống tôn giáo khác. Giả thiết chúng tôi phải loại bỏ mỗi và mỗi nhân tố thực hành chia sẽ với truyền thống Ấn giáo, trong trường hợp đó chúng tôi phải bỏ sự rộng lượng, đạo đức và nhiều thứ nữa".


Những học giả cố gắng một cách hoan hỉ làm ngang bằng Phật giáo về mặt thực hành với các tôn giáo khác. Một số nói rằng khái niệm pháp thân của đức Phật (hiện thân qua các bổn tôn như Kim cương trì) như bản thể tối thượng của đức Phật là bị ảnh hưởng bởi tư tưởng nhất thần luận của Hồi giáo. Một số nói rằng Kim cương thừa của Tây tạng thật sự là pha lẫn với đạo Bon truyền thống Tây tạng, trong khi những người khác nói hoàn toàn khác nhau---- rằng ở Japan nó là Thần đạo có nguồn gốc thần bí từ tư tưởng của Kim cương thừa. Và bây giờ, chúng ta cũng có những học giả nói rằng ở Ấn độ Kim cương thừa đã được đồng hoá từ Ấn giáo sang Phật giáo. Hiện nay, chắc chắn có nhứng học giả ngay cả bắt đầu nói rằng Ki tô giáo không phải là một tôn giáo của chính nó mà thật sự nó được sáng tạo bởi những người Do thái đã tiếp nhận luồng gió từ những lời dạy của đức Phật, hay ngay cả rằng đức Ki tô đã từng sang Ấn độ và học với Phật giáo.

Thật quá dài dòng đòi hỏi để nói rằng những giáo thuyết này là đúng sự thật, nhưng chắc chắn rõ ràng rằng những hành giả không nên sa lầy mà tin tưởng vào tất cả những gì các học giả đã đề xướng. Người ta nên thấy từ bên trên, chúng ta không nên sa vào cảm tính với những điều suy diễn và những ý tưởng mâu thuẩn.


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.35 khách