Sự linh ứng mầu nhiệm của Kinh Đại Bát Nhã

Nơi mọi người gặp gỡ làm quen, chào hỏi, nhắn tin, gửi cho nhau thiệp chúc mừng, và hình ảnh vui. không cần đăng nhập. Kính mời các bạn tham gia.

Điều hành viên: Thanh Tịnh Lưu Ly

Như Tá đây

Sự linh ứng mầu nhiệm của Kinh Đại Bát Nhã

Bài viết chưa xem gửi bởi Như Tá đây »

Kính bạch quý thầy theo lời yêu cầu của quý thầy bảo con tìm bộ Kinh Đại Bát Nhã đã được đánh máy sẳn. Suốt gần 3 tháng nay ngày nào con cũng cầu nguyện và mong có được bộ Kinh ấy để giao cho quý thầy. Nhưng biết tìm ở đâu ? Làm sao có được bộ đại Bát Nhã 600 quyển đánh máy sẳn mà giao cho quý thầy? Muốn đánh máy chắc phải mất vài tháng! Chưa kể là dò lại, nhưng quan trọng hơn là bản góc lấy đâu ra mà dò ?

Hôm nay sau khi làm việc mệt con vào trang web quangduc.com "dạo" xem có gì mới thì phát giác ra bộ Bát Nhã đã được gởi lên mạng mới được mấy ngày. Thấy Bộ Kinh Bát Nhã đã được đưa lên mạng con mừng con hơn bắt được vàng. Vui mừng hơn nữa là trang Quảng Đức đã gởi lên mạng trọn vẹn nguyên bộ dưới dạng zip. Thoạt đầu con chỉ nghĩ đây chỉ là sự tình cờ nhưng khi đọc Bài "Thừa Tăng Sai" của HT Trí Nghiêm con mới thấy đây là sự linh nghiệm mầu nhiệm của Kinh Đại Bát Nhã. Ngài Huyền Trang sau khi dịch xong Kinh Đại Bát Nhã ra tiếng Hán đã: chấp tay hoan hỷ bảo đồ chúng rằng: “Kinh này đối với địa phương đây có phước duyên lắm, Huyền Trang được đến ngôi chùa Ngọc Hoa này là thần lực của kinh vậy. Trước kia khi còn ở kinh sư, nhiều các duyên sự lôi kéo rắc rối, đâu còn thì giờ rảnh; nay nhờ về đây công việc được xong trọn vẹn đều là nhờ chư Phật âm thầm gia bị, Long Thiên ủng hộ. Vì là kinh điển trấn quốc, viên ngọc lớn của người trời, đồ chúng nên đều hớn hở vui mừng nhảy nhót”. Xem đây thì biết chúng ta may mắn biết dường nào! Như lời ngài Huyền Trang đã nói chúng ta đã có Đại Pháp Bảo chấn môn rồi vậy!!!

Nhân đây con xin trích một đoạn trong bài ấy để mọi người cùng xem:

"...Đến ngày Nguyên đán tháng Giêng mùa Xuân năm thứ năm khởi đầu dịch kinh Đại Bát Nhã. Bản chữ Phạn tổng có hai mươi vạn bài tụng. Văn đã rộng lớn, kẻ học đồ muốn cầu thỉnh xin lược bớt; nên Pháp Sư hầu muốn thuận theo ý chúng, như ngài La Thập đã làm, cắt bỏ bớt những đoạn văn phiền phức trùng điệp. Khởi nghĩ ấy rồi, đêm nằm mộng thấy có những sự trạng để răn cảnh giới nhau, như hoặc thấy bay lên trên cao nguy, đi nơi hiểm khốn, hoặc thấy thú dữ bắt người v.v… run sợ toát mồ hôi mới được thoát khỏi. Khi đã tỉnh giấc kinh hãi, đến các chúng nói lại việc ấy và lại y như Kinh phiên dịch rộng đủ. Trong đêm bèn thấy chư Phật Bồ Tát phóng hào quang nơi chặng giữa mày mắt soi xúc thân mình, tâm ý vui thích. Pháp Sư lại tự thấy tay cầm đèn hoa cúng dường chư Phật, hoặc thấy thăng lên tòa cao vì chúng thuyết pháp, có nhiều người vây quanh ngợi khen cung kính, hoặc mộng thấy có người đem danh quả phụng biếu cho mình; tỉnh giấc vui mừng chẳng dám cắt bỏ bớt, nhất nhất đúng như bản chữ Phạn mà dịch...
Trong văn có chỗ nghi ngờ, tức đem ba bản so sánh lấy làm quyết định; ân cần tra xét lại kỹ càng rồi mới chịu hạ bút thành văn. Tâm ý tra xét cẩn thận đúng mức , thật từ xưa chẳng sánh kịp. Hoặc văn trái với ý chỉ sâu thẳm, ý hiểu còn có do dự rụt rè, tất cảm giác cảnh lạ lùng, tuồng như có người trao cho minh quyết, tâm trí liền rỗng vỡ vạc thông suốt, như vẹt mây mù mà thấy mặt trời. Pháp Sư tự nói rằng: "Chỗ ngộ hội như đây đâu phải trí cạn cợt Huyền Trang tôi mà thông suốt được, đều là được chư Phật Bồ Tát đã âm thầm gia hộ vậy".
Hội thứ nhất của Kinh có phẩm Nghiêm tịnh cõi Phật. Trong ấy nói:"Các chúng Bồ Tát Ma ha tát vì Bát Nhã Ba La Mật Đa, dùng thần thông nguyện lực đựng các ngọc báu thượng diệu, các diệu hương hoa, uống ăn trăm vị, áo mặc, âm nhạc của cõi Đại Thiên tùy ý sanh ra năm trần diệu cảnh, các thứ cúng dường để trang nghiêm chỗ thuyết pháp". Lúc ấy, Ngài tự chủ chùa Ngọc Hoa hiệu Huệ Đức và các Ngài Đại đức Tăng hội đồng dịch Kinh, trong đêm ấy đồng mộng thấy trong nội cảnh chùa Ngọc Hoa rộng rãi nghiêm tịnh lịch đẹp trang nghiêm: Nào là phan trướng, xe báu, nào là tràng hoa, kỹ nhạc v.v… đầy nhẫy trong nội cảnh chùa. Lại thấy có vô lượng Tăng chúng tay cầm lọng hoa và đồ cúng dường như trên đồng đến cúng dường Kinh Đại Bát Nhã. Những đường sá tường vách trong khu vực chùa đều trang hoàng đẹp đẽ, đất đầy danh hoa, Tăng chúng đồng giẫm trên mà đi. Đến như Viện phiên kinh, nơi Viện lại càng bội phần đẹp đẽ lạ lùng, như Kinh đã chép cõi bảy báu trang nghiêm. Lại nghe thấy trong Viện có ba gian nhà để giảng thuyết, Pháp Sư ngồi gian giữa diễn giảng. Đã thấy đấy rồi, vui mừng thức giấc, đồng đến thăm hỏi nói việc đã thấy trong mộng với Pháp Sư. Pháp Sư bảo:"Nay chính dịch phẩm này, các Bồ Tát thảy tất có cúng dường. Các Thầy đã mộng thấy, tin có việc ấy. Ôi".
Bấy giờ, bên điện có hai cây mít, bỗng lúc phi thời lần lượt nở hoa, mỗi hoa đều nở sáu đóa thịnh mậu, sắc hồng trắng, thật đáng yêu phi thường. Lúc đấy Tăng chúng luận nghị rằng: "Đây chính là triệu chứng điềm lành Bát Nhã được xiển dương lại; lại ra sáu quả là tiêu biểu sáu Ba La Mật Đa".
Nhưng Pháp Sư khi dịch kinh này, tâm chí miệt mài và hằng lo lắng vô thường , nên mới bảo chư Tăng rằng: "Huyền Trang tôi năm nay đã sáu mươi lăm tuổi, chắc sẽ bỏ mạng ngôi già lam này; bộ Kinh này rất lớn lao, hằng lo sợ việc làm chẳng trọn vẹn, người người nên nổ lực gia công tinh tiến, rất chớ nên vì khó nhọc mà từ nan!".
Đến ngày hai mươi ba tháng mười niên hiệu Long Sóc năm thứ ba mới được hoàn tất công việc phiên dịch, hợp thành sáu trăm quyển, gọi là Đại Bát Nhã Kinh vậy; chấp tay hoan hỷ bảo đồ chúng rằng: “Kinh này đối với địa phương đây có phước duyên lắm, Huyền Trang được đến ngôi chùa Ngọc Hoa này là thần lực của kinh vậy. Trước kia khi còn ở kinh sư, nhiều các duyên sự lôi kéo rắc rối, đâu còn thì giờ rảnh; nay nhờ về đây công việc được xong trọn vẹn đều là nhờ chư Phật âm thầm gia bị, Long Thiên ủng hộ. Vì là kinh điển trấn quốc, viên ngọc lớn của người trời, đồ chúng nên đều hớn hở vui mừng nhảy nhót”.
Bấy giờ, ngài Duy Na chùa Ngọc Hoa họ Đô, hiệu tịch chiếu vui mừng khao thưởng tất công, mới thiết trai cúng dường. Cũng chính ngày ấy thỉnh kinh từ điện Túc Thành đem về điện Gia Thọ là chỗ trai sở, giảng diễn đọc tụng. Chính lúc đang nghinh thỉnh kinh đi, Bát Nhã phóng quang soi khắp xa gần và có mùi thơm phi thường. Pháp sư bảo các môn nhân rằng: “Như kinh đã tự ghi rằng phương này sẽ có kẻ vui muốn Đại thừa là: Quốc vương, Đại thần, bốn bộ đồ chúng biên chép, thọ trì, đọc tụng lưu thông khắp cõi, đều được sanh thiên giải thoát rốt ráo. Đã có văn đây chẳng lẽ lặng thinh vậy sao”.
...
Tam Tạng Pháp Sư khởi đầu dịch kinh Đại Bát Nhã này vào ngày Nguyên đán mồng một tháng Giêng mùa Xuân niên hiệu Hiển Khánh năm thứ năm, vào triều vua Thái Tông Văn Hoàng Đế, tức là vào khoảng giữa thế kỷ thứ VII (nhà Đường lập quốc 618, vua thứ nhất 9 năm, vua thứ hai 23 năm tức Thái Tông Văn) đến ngày 23 tháng 10 mùa Đông, niên hiệu Long Sóc năm thứ 3 mới hoàn tất. Thời gian mất 3 năm.
(Phần tôi khởi dịch ngày 25 tháng 5 năm Giáp Dần, tức tháng 6 năm 1972 đến ngày mồng 08 tháng 04 năm Kỷ Mùi, tức tháng 05 năm 1979. Thời gian mất 7 năm).
Dịch xong, Pháp Sư chấp tay vui mừng bảo đồ chúng rằng: Kinh đây đối địa phương này có duyên … nay được trọn xong, đều là nhờ chư Phật minh gia, Long Thiên ủng hộ, vì đây là Kinh điển trấn quốc, khối ngọc to lớn của người, trời. Đồ chúng nên đều hớn hở nhảy nhót vui mừng! Rồi ông Duy Na chùa Ngọc Hoa thiết chay khoản đãi vui mừng tất công. Và ngay ngày ấy rước Kinh từ điện này qua điện nọ … Kinh phóng hào quang v.v… đều là chư Phật Long Thiên, người và oai lực của Kinh đồng nói lên nỗi vui mừng cho chúng sanh được hạnh phúc. Cho nên lời ngự chế của Đường Thái Tông có câu rằng: “Thánh Giáo khuyết mà lại được toàn, chúng sanh tội mà hoàn được phước”. Trải qua gần 7 thế kỷ (Từ Hớn chí Đường hơn 600 năm) người Phật tử Trung Quốc mới có được bộ Kinh Đại Bát Nhã 600 quyển trọn vẹn đầy đủ.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam ta hơn mười tám thế kỷ mới nói chuyện “Có”. Từ thời ngài Cưu-ma-là-thập dịch 400 quyển, ngài Huyền Trang dịch 600 quyển, hai bộ Kinh này tuy có truyền vào Việt Nam, nhưng bằng chữ Hán thì vẫn là của người ngoại quốc. May sao do Ủy viên Hội ấn hành Kinh điển tại Hương Cảng họ Ảnh ấn bộ Kinh Đại Bát Nhã 600 quyển này vào năm 1958 truyền sang miền Nam Việt Nam, mới có một người Việt, Thích Trí Nghiêm tôi, ngồi trên đồi núi Trại Thủy thuộc thành phố Nha Trang quyết chí miệt mài dịch từ Hán văn sang Việt văn, sau 7 năm hoàn thành 600 quyển kinh 5 triệu chữ. Kiểu đếm chữ dễ dàng như sau:
...
Phật nói: Đại Bát Nhã là viên ngọc đại bảo thần châu vô giá. Châu này ở chỗ nào là chỗ đó khí hậu điều hòa … chúng sanh an lạc. Người Phật tử Việt Nam ta đã được Bát Nhã thần châu này chắc cũng phải vui mừng sung sướng như người Phật tử Trung Quốc đã vui mừng nhảy nhót!
Khi Pháp Sư khởi đầu phiên dịch, Tăng chúng muốn Ngài lược dịch, Pháp Sư theo ý chúng. Đến đêm mộng thấy những điềm triệu kinh hãi; sáng ngày ra trước chúng đổi ý kiến và nói: Phạn văn một chữ là tôi dịch ra Hán văn một chữ. Thời đêm đến Ngài mộng thấy chư Phật phóng quang soi đến thân mình … và tự thấy mình thăng tòa vì chúng thuyết pháp … Hoặc mộng thấy có người mang danh quả đến biếu. Khi thức giấc vui mừng chẳng dám bỏ bớt. (Điểm này các nhà phiên dịch Kinh Phật phải lưu ý cho lắm vậy. Các đức Phật cần khổ tu hành ba vô số kiếp mới nói được lời nói Chánh Pháp, mà chúng sanh gạt bỏ bớt là đắc tội với Chánh Pháp. Nếu làm không nổi thì đừng rờ tới không có tội gì hết).
Rồi tới điềm mộng công cộng: Ngài Huệ Đức chủ chùa Ngọc Hoa và Hội đồng dịch Kinh, một đêm nọ đồng mộng thấy trong khu vực chùa này từ trong ra ngoài, từ trên đến dưới, huy hoàng trang nghiêm: Tràng phan bảo cái, cờ lọng hương hoa, đèn sáng, nhạc trỗi tưng bừng rực rỡ; như trong phẩm Nghiêm tịnh cõi Phật mà Kinh đã nói. Lại còn thấy nghe Pháp Sư Huyền Trang ngự trên tòa giữa nhà thuyết pháp. Sáng ngày đồng đến chỗ Pháp Sư nói lại việc mộng đã thấy và tham hỏi ý kiến. Pháp Sư nói: Nay chính đang dịch phẩm Kinh ấy, thời có các Bồ-tát đến cúng dường, chư Sư đã thấy phải tin có việc này.
Đó là việc mộng. Sau đây là chuyện thực: Khi bấy giờ gần bên Chánh Điện chùa Ngọc Hoa có hai cây mít (nại thọ) bỗng ra hoa phi thời, mỗi hoa đều ra quả, sáu quả sắc hồng trắng, thịnh mậu xinh đẹp đáng yêu quí lắm. Lúc ấy tăng chúng bèn luận rằng là triệu chứng Bát Nhã tái xiển dương; mà ra sáu quả lại là tiêu biểu sáu Ba La Mật Đa.
Tôi (HT Trí Nghiêm) khởi đầu dịch Kinh này đầu hè năm 1972, sang giữa mùa xuân năm 1973 thì một hôm bỗng nhiên có bốn em nữ sinh đến chơi chùa và xin tôi chụp bóng phong cảnh; tôi chấp nhận cho chúng tự do xem cảnh. Nhưng tôi thấy tác phong các em này hơi khác lạ, chẳng như nữ sinh Trung học Bồ-đề, nên tôi mới hỏi, thì chúng đáp: Chúng con là nữ sinh trường Trung học Hưng Đạo, các con là con của tín đồ Thiên Chúa; Hưng Đạo là tư thục của Thiên Chúa giáo. Thế rồi chúng đi chụp bóng bồn bông này sang chậu hoa nọ, khóm trúc cành mai, cội phong lan, gốc cổ thụ … rồi hai em vui vẻ bước vào trước tôi: Thưa Ông! Cây mít của ông nó ra sáu trái thật đẹp quá! Mời ông ra đứng bên nó cho chúng con chụp tấm bóng để kỷ niệm. Đang lúc tôi viết cũng đã hơi mỏi và thấy chúng ân cần, nhớm dậy bước ra đứng bên sáu trái mít. Chúng nhiếp ảnh xong, tôi trở lại bàn viết. Thế là chúng thu nhiếp những gì là xuân hoa tuyết sắc của chốn Tăng viên và sau chót thu nhiếp sáu quả Ba La Mật Đa vào trong ống kính. rồi chúng vui vẻ cáo từ dắt tay nhau xuống dốc. Sau hơn mười lăm hôm, chúng gửi lên tặng tôi tấm bóng cây mít có sáu quả.
Bất ngờ nhận được tấm bóng, xem đẹp thật; rồi thản nhiên cất đi chứ không nghĩ gì có liên hệ đến kinh điển. Vì bộ Kinh tôi dịch thất lạc quyển mục lục; mà truyện của Pháp Sư trích đăng nơi quyển mục lục; nên khi sáu quả mít xuất hiện, tôi không hề biết tới. Ba năm sau mới mượn được mục lục, mới nhận thấy sự việc đã hiện ra trước đây hơn mười hai thế kỷ, nay lại xuất hiện tại đây, biết đâu xưa nay chẳng phải là hai. Vì việc xảy ra tại đây là việc ngẫu nhiên trăm phần trăm: Chúng tự nhiên đến chơi; chúng có sáng kiến mời chủ ra chụp bóng và tặng bóng cho chủ … bởi lời đức Phật nói ra Kinh điển bất khả tư nghì, không vì thời gian lâu xa, địa dư cách trở mà chỉ vì duyên lành đến lúc cơ cảm thành thục là có điềm thụy ứng vậy thôi!
Người xưa có câu: Quả trung nại trân, nghĩa là trong các loại trái cây, trái mít là quí trọng hơn hết.
Đức Phật thuyết ra các pháp, sáu pháp Ba La Mật Đa là thẳm sâu mầu nhiệm cao thượng hơn hết. Cho nên trường hợp sáu trái mít đã hiện ra cách đây hơn mười hai thế kỷ mà người ta phải ghi vào lịch sử phiên dịch Kinh điển; ngày nay lại tái diễn một lần nữa ở đây, có lẽ cũng là điềm thiêng liêng nào trong phạm vi đạo pháp!"


Ngoài ra xin nói thêm rằng thân cây mít xưa nay rất được các nhà điêu khắc ưa chuộng dùng để tạc tượng Phật.

Chúng con thành tâm đảnh lễ Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang sang tiếng Hán và Cố Đại Lão HT Thượng Trí Hạ Nghiêm người đã dịch bộ Kinh Đại Bát Nhã này ra tiếng Việt. Có lẽ do Bồ Tát Quảng Đức gia hộ nên xui khiến cho con tìm được bộ Kinh này trên trang web mang tên ngài. Ngoài ra cũng xin tri ân Đại Đức Nguyên Tạng người chủ trương và Nhị Tường người đã gởi trọn bộ Kinh Đại Bát Nhã dưới dạng zip để con có thể download về. Cuối cùng xin thành kinh ghi tri ân ĐĐ Thích Tâm Nhãn người khởi đầu phổ biến bộ Kinh Đại Bát Nhã này lên mạng.
các bạn hãy theo đường dẫn này sẽ thấy bộ kinh chỉ vừa được lên mạng vậy mà chúng tôi phát hiện ra liền trong khi đó chúng tôi rất ít vào mạng. http://quangduc.com/kinhdien-2/376kinhdaibatnha.html
Nay con xin kính báo
Như Tá


Hình đại diện của người dùng
Admin I
Bài viết: 210
Ngày: 16/06/07 20:05

Re: Sự linh ứng mầu nhiệm của Kinh Đại Bát Nhã

Bài viết chưa xem gửi bởi Admin I »

Đã nhận được Kinh Đại Bát Nhã, hiện đang sửa lại các tựa đề bằng font unicode vì người đánh máy đã dùng loại font không phải unicode. Có lẽ trong vòng tuần lễ sẽ lên mạng trọn bộ. Nhưng sẽ không dò lại nguyên bản được vì hiện tại BTTDTKVN chỉ có 6 tập thôi trong khi đó bộ này đến 12 tập. Tạm thời cứ gởi lên mạng sau này sẽ dò lại. Có thể yên tâm về độ chính xát của bản này vì đây là bản góc sử dụng in Bộ Đại Bát Nhã tại Mỹ. Vì vậy, phần lỗi chính tả gần như không có.
PS:
Nhắn tin của Ban Tu Thư đến Như Tá nè: "Tìm giúp bộ Đại Bảo Tích, Hoa Nghiêm các bản này cũng đã lên mạng rồi. Chúc thành công nhé.
Kính,
:D


Chư Tỷ-kheo, xưa cũng như nay, ta chỉ giảng nói về khổ và sự diệt khổ. MN. 22

Khônb bệnh lợi tối thắng, Niết-bàn lạc tối thượng, bát chánh là độc đạo. An ổn và bất tử. MN. 75.
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.13 khách