Ngữ Lục

Bạn có thể tạo một ngôi nhà cho riêng mình, với những vật liệu mà bạn thích, xin giữ ngôi nhà được thanh tịnh trong ánh hào quang của Phật-đà. Kính mời các bạn.

Điều hành viên: quang_tam3

thanhtinhtam
Bài viết: 520
Ngày: 30/05/11 20:38
Giới tính: Nam
Được cảm ơn: 1 time

Re: Ngữ Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi thanhtinhtam »

binh đã viết:Kính các đạo hữu
Tôi nghĩ thân mình lo còn chưa xong, không biết mai này có được vãng sanh hay không, làm sao dám làm chuyên viên ?
Chỉ mong được học hỏi những điều hay, tốt và phuơng pháp tu niệm từ các đạo hữu và cũng Chỉ biết cố gắng phụng sự Phật pháp, phụng sự Tịnh độ, làm người sai vặt trong Phật đạo để mai này dùng chút công đức đó hồi hướng cầu vãng sanh mà thôi.
Phải có lòng tin nơi thiện căn của chính mình chứ bác. Như bác đã xem qua kinh Vô Lượng Thọ, đại khái đức Phật có dạy về điều này, nay con trích ngang đoạn Kinh:
http://niemphat.net/Luan/chugiai/biendianghithanh.htm
Lại có chúng sanh tích tập thiện căn, mong cầu Phật trí, phổ biến trí, oai đức quảng đại bất tư nghị trí; đối với thiện căn của chính mình chẳng thể sanh nổi lòng tin nên đối với việc vãng sanh cõi Phật thanh tịnh, ý chí do dự, chẳng thể chuyên chú nơi chỗ y cứ, nhưng do liên tục niệm Phật chẳng ngớt, kết thiện nguyện ấy thành căn bản nên vẫn được vãng sanh.
---
Con thì đời này gặp Kinh Vô Lượng Thọ, quyết chí học theo, nên con tin đời này con quyết định vãng sanh :) chẳng nghi vào đâu nữa.
Nhưng phải gắng tu hành để cảm được Phật, những điều cần phải làm để cảm Phật A Di Đà đến tiếp dẫn, đức Phật Thích Ca có dạy rõ ràng trong phẩm 35, nếu làm không được 5 điều trong đó thì đức Phật dạy:
http://niemphat.net/Luan/chugiai/trungtrunghoimien.htm
Phật bảo Di Lặc: - Ta bảo các ông: Năm sự ác, năm sự đau, năm sự đốt như thế xoay chuyển sanh lẫn nhau. Kẻ nào dám phạm phải những điều ấy sẽ trải thân trong đường ác; hoặc là trong đời này trước hết bị bệnh tật, tai ương, sống chết chẳng được, để làm gương cho kẻ khác. Hoặc là chết đi, đọa trong ba đường ác. Sầu đau, thảm não, tàn khốc, tự nung đốt thân.


thanhtinhtam
Bài viết: 520
Ngày: 30/05/11 20:38
Giới tính: Nam
Được cảm ơn: 1 time

Re: Ngữ Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi thanhtinhtam »

battinh đã viết:Mời vào, mời mời vào!
Ôi Tây phương vui thay!
Cầu xin về bên cõi ấy
Ở chi nơi đây
Nợ trần vấn vương!
Mời vào, mời mời vào!
tangbong :D
Đh battinh :D
Ý mình nói là đh gặp người nào khác ngoài đời thì khuyên họ, dẫn dụ họ tu niệm Phật cầu sanh Tây Phương đó. Chứ những người trong diễn đàn này thì không quan trọng cho lắm, vì nếu là người tu Tịnh Độ thì không nói, chứ theo các tông khác thì xoay chuyển lòng họ thì khá khó khăn. tangbong
* Ông phát nguyện lập trường học nơi đất trống, lập liên xã nơi đất trống, cố nhiên là đỡ tốn công, nhưng vẫn là chẳng biết tùy địa phương, tùy duyên để tạo phương tiện cho dễ thực hiện. Trên là nơi thanh miếu, minh đường , dưới là bến nước, bên cội cây, hễ gặp ai có thể trò chuyện được, liền dùng những chuyện này để khuyên nhủ. Văn Lộ Công phát nguyện “sẽ khiến cho mười vạn người niệm Phật cầu sanh Tây Phương” bèn kết Liên Xã. Tôi cho rằng: “Từ một người cho đến vô lượng người đều nên làm cho họ vãng sanh Tây Phương trong đời này, há nên lấy mười vạn người làm hạn định?” (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 3, Thư trả lời cư sĩ Đường Đại Viên - 1)


thanhtinhtam
Bài viết: 520
Ngày: 30/05/11 20:38
Giới tính: Nam
Được cảm ơn: 1 time

Re: Ngữ Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi thanhtinhtam »

* Nếu bệnh khổ đến hồi kịch liệt chẳng thể chịu đựng nổi, ngoài việc sáng chiều niệm Phật, hồi hướng ra, hãy chuyên tâm dốc chí niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân trong các cõi nước nhiều như vi trần, tầm thanh cứu khổ. Người gặp cơn nguy cấp, nếu có thể trì tụng, lễ bái Ngài, không ai chẳng được cảm ứng, rủ lòng Từ gia trì, che chở, khiến thoát khỏi khổ não, hưởng yên vui vậy.
* Nghiệp chướng nặng, tham sân mạnh mẽ, thân yếu đuối, tâm khiếp nhược, thì chỉ nên nhất tâm niệm Phật, lâu ngày các thứ bệnh sẽ tự lành. Phẩm Phổ Môn nói: “Nếu có chúng sanh nhiều dâm dục, nóng giận, ngu si, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ xa lìa được [những sự ấy]”. Niệm Phật cũng thế, chỉ nên tận tâm kiệt lực, chẳng hề ngờ vực, thì không gì chẳng cầu được!
* Mỗi ngày, trừ lúc phải làm mọi việc thuộc bổn phận của chính mình ra, hãy chuyên tâm niệm danh hiệu Phật. Sáng tối đối trước Phật, cạn hết lòng thành, trọn hết lòng kính, khẩn thiết sám hối túc nghiệp từ vô thỉ. Lâu ngày như thế, sẽ có lợi ích chẳng thể nghĩ bàn mà chẳng hay, chẳng biết. Kinh Pháp Hoa dạy: “Nếu có chúng sanh nhiều lòng dâm dục, thường niệm cung kính Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được ly dục”. Đối với sân hận và ngu si cũng thế. Như vậy thì chí thành niệm thánh hiệu A Di Ðà và Quán Âm, ba thứ Hoặc tham, sân, si sẽ tự tiêu diệt. Hơn nữa, nay đang lúc cõi đời hoạn nạn, ngoài niệm Phật ra, hãy nên niệm thêm thánh hiệu Quán Âm, trong âm thầm sẽ có sự chuyển biến chẳng thể nghĩ bàn, kẻo đến lúc túc nghiệp bất chợt hiện đến, không có cách gì tránh thoát.
Ấn Quang Đại Sư


thanhtinhtam
Bài viết: 520
Ngày: 30/05/11 20:38
Giới tính: Nam
Được cảm ơn: 1 time

Re: Ngữ Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi thanhtinhtam »

* Lâm chung teo quắt lại và bị bệnh khổ, chính là do nghiệp chướng từ nhiều kiếp. Vì người ấy dốc lòng tu Tịnh nghiệp, nên chuyển trọng báo, hậu báo thành báo nhẹ trong hiện đời. Ông bảo “do tu trì tinh tấn, nên thân ngày càng yếu”, lời ấy chẳng xác đáng, còn vướng lỗi là khiến cho kẻ tín tâm nông cạn nhân đó bèn lui sụt! Cần biết: Người niệm Phật quyết định tiêu trừ nghiệp chướng; những nghiệp chướng hiện tiền chỉ là những ác báo phải đọa trong tam đồ của đời tương lai chuyển thành bệnh khổ trong đời hiện tại để giải quyết cho xong đó thôi! Kinh Kim Cang dạy: “Trì kinh Kim Cang có điều nhục nhỏ như bị người khác khinh miệt chính là diệt được nỗi khổ tam đồ ác đạo trong nhiều kiếp”. Ðấy chính là phước dầy, sẽ được vãng sanh Tây Phương. Chịu nỗi khổ nhỏ lúc này để giải quyết cho xong ác báo từ vô lượng kiếp đến nay, thật là may mắn to lớn. Chớ học theo kẻ chẳng biết sự việc mà nói: “Vì tu trì nên đến nỗi mắc bệnh, hay bị chết!”

* Vì lẽ nào mẹ ông bệnh chẳng lành? Ðấy là do túc nghiệp tạo thành như thế, nhằm chuyển trọng báo, hậu báo thành báo nhẹ trong đời này để giải quyết cho xong ngay trong lúc này. Pháp sư Huyền Trang khi lâm chung còn có chút bệnh khổ, lòng ngờ vực những kinh do chính mình dịch có chỗ nào sai lầm hay chăng? Liền có một vị Bồ Tát an ủi rằng: “Tội báo trong những kiếp trước của Sư sẽ do nỗi khổ nhỏ nhoi này mà tiêu. Ðừng hoài nghi nữa!” Hãy dùng ý này để an ủi mẹ ông, khuyên bà sanh tâm hoan hỷ, đừng sanh tâm oán hận, sẽ quyết định được Phật gia bị. Tuổi thọ chưa hết, sẽ mau được lành bệnh. Tuổi thọ đã hết, sẽ vãng sanh. Phàm là người đang lúc bệnh khổ, hãy nên nghĩ lùi một bước, sẽ an lạc vô lượng!
Ấn Quang Đại sư


thanhtinhtam
Bài viết: 520
Ngày: 30/05/11 20:38
Giới tính: Nam
Được cảm ơn: 1 time

Re: Ngữ Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi thanhtinhtam »

Theo Đường Tam Tạng Truyện, ngài Chánh Pháp Tạng Giới Hiền thuộc chùa Na Lan Đà ở Ấn Độ bị bệnh phong. Mỗi lần lên cơn, chân tay co quắp, đau đớn như lửa đốt, dao cắt, muốn nhịn ăn để chết. Sư mộng thấy có ba người: Một người sắc vàng ròng, một người màu lưu ly, một người màu bạch ngân, bảo: “Trong quá khứ, ông từng làm quốc vương, nhiều phen não hại chúng sanh, cho nên hứng chịu quả báo này. Hãy nên chí thành sám hối, siêng năng tuyên giảng kinh luận, bệnh sẽ tự tiêu diệt”. Người sắc vàng chỉ người sắc biếc nói: “Đây là Quán Thế Âm, người sắc bạc là Từ Thị”, tự bảo mình là Văn Thù, cho biết sẽ có vị Tăng Trung Hoa đến đây, “ông hãy nên dạy dỗ”. Ngài Giới Hiền thưa “xin vâng lời dạy”, từ đấy lành bệnh.


thanhtinhtam
Bài viết: 520
Ngày: 30/05/11 20:38
Giới tính: Nam
Được cảm ơn: 1 time

Re: Ngữ Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi thanhtinhtam »

Trong Kinh "BẤT KHÔNG QUYẾN SÁCH THẦN CHÚ TÂM KINH", đức Quán Thế Âm Bồ Tát có dạy như sau, nay xin trích đoạn:

Thế Tôn ! Nếu có chúng sinh tạo các tội nặng, tập hành Pháp ác, hủy nhục Hiền Thánh, phỉ báng Chính Pháp nên bị đọa trong Vô Gián Đại Địa Ngục trải qua vô số kiếp chịu các khổ đau. Chư Phật, Bồ Tát, Độc Giác, Thanh Văn tuy có đủ Thần Thông mà chẳng thể cứu được. Nếu kẻ ấy nghe Thần Chú Tâm Kinh này mà có thể sinh lòng hối hận xấu hổ, cuối cùng chẳng tùy tiện gây tạo (tội nữa). Nếu kẻ ấy lại có thể trải qua một ngày một đêm thọ trì Trai Giới, tụng Chú Tâm này thời nghiệp tội đã gây tạo chỉ chịu nhẹ trong đời này, lại chẳng bị đọa vào Địa Ngục Vô Gián. Làm sao chứng biết kẻ ấy chỉ chịu nhẹ trong hiện đời chẳng bị đọa vào Địa Ngục? Ấy là đột nhiên bị bệnh lạnh nóng. Hoặc trải qua một ngày, hai ngày hoặc lại cho đến trải qua bảy ngày
Hoặc bị đau mắt, đau tai, đau mũi, đau răng, đau môi, đau lưỡi, hoặc đau nứu lợi, hoặc đau tim ngực. Hoặc đau bụng, rốn. Hoặc đau eo lưng, xương sống. Hoặc đau hông sườn, nách. Hoặc đau bộ phận sinh dục, xương bánh chè. Hoặc đau đầu gối, bắp đùi. Hoặc đau chi tiết. Hoặc đau bàn tay, bàn chân. Hoặc đau đầu mặt. Hoặc đau cổ họng, cổ. Hoặc đau vai, bắp tay. Hoặc bị trúng gió, bệnh khí, bệnh trĩ, bệnh lỵ, bệnh sởi. Hoặc bị bệnh Luyến Phích (bệnh có báng nước trong bụng), Bạch Lại , Trọng Lại với các bệnh ghẻ lở , Hắc Lào. Hoặc bị nhọt do phỏng da, Cam Sang, Hoa Sang, Lậu Sang, nhọt độc. Hoặc bị Ung Thũng, Du Thũng, Đinh Thũng (gân thịt sưng vù lên thành nhọt), gân thịt sưng vù, rôm sảy, Ác Thũng. Hoặc bị bệnh thần kinh điên loạn, hoặc bị Cam Thấp, hoặc bị Quỷ Mỵ, hoặc bị Yểm Đảo (cầu đảo ếm đối). Hoặc bị Chú Trớ (bùa Chú nguyền rủa), hoặc bị trúng thuốc độc, hoặc bị trói trong tù, hoặc bị gông cùm xiềng xích. Hoặc bị đánh chửi, hoặc bị phỉ báng, hoặc bị mưu hại, hoặc
bị sợ hãi. Hoặc lại gặp mọi thứ khác, tăng thêm hoặc giảm bớt việc chẳng nhiêu ích. Nói tóm lại hết thảy khổ não bức thiết thân tâm với thấy mộng ác. Do điều này chứng biết kẻ kia chịu nhận nhẹ trong đời hiện tại và chẳng bị đọa vào Địa Ngục Vô Gián, hết thảy Nghiệp Tội thảy đều tiêu trừ. Chúng sinh như vậy do sức của Chú này còn chịu nhận nhẹ trong đời hiện tại , tiêu trừ tội nặng huống chi là Hữu Tình khác có thân tâm thanh tịnh, nghe trì Chú này mà chẳng được phước ư ? Nghiệp tội đời trước cũng được tiêu trừ, hiện tại vị lai thường nhận được khoái lạc.


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ngữ Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Có phải hình này không!? :D
Hình ảnh

Quán Thế Âm hiện thân Bất Không Quyến Sách Bồ tát áp lãnh đại binh. Tự giác giác tha, phổ độ chúng sanh.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
thanhtinhtam
Bài viết: 520
Ngày: 30/05/11 20:38
Giới tính: Nam
Được cảm ơn: 1 time

Re: Ngữ Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi thanhtinhtam »

Đh đọc được chữ tàu luôn kinhle :)


Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: Ngữ Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Không được như vậy đâu! Đó là chú giải trong cuốn sách hình Chú Đại Bi đấy! ./..,.,


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
thanhtinhtam
Bài viết: 520
Ngày: 30/05/11 20:38
Giới tính: Nam
Được cảm ơn: 1 time

Re: Ngữ Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi thanhtinhtam »

Cổ nhân nói: “Bậc quân tử tận lực thực hành thì được một câu nói tốt lành sẽ thọ dụng suốt đời không hết. Nếu chẳng chăm chú tận tụy thực hành, dẫu đọc hết sách vở thế gian, đối với chính mình vẫn vô ích!” Như rồng thật hễ được một giọt nước liền có thể làm mưa khắp cả thế giới; rồng đất dẫu ngâm trong nước cũng chẳng khỏi cái họa táng thân!
Đại sư Ấn Quang


thanhtinhtam
Bài viết: 520
Ngày: 30/05/11 20:38
Giới tính: Nam
Được cảm ơn: 1 time

Kinh Thọ Thập Thiện Giới

Bài viết chưa xem gửi bởi thanhtinhtam »

ĐỨC PHẬT NÓI KINH THẬP ÁC BÁO
Hán dịch: Thất lạc tên dịch giả
Việt dịch: THÍCH THIỆN THÔNG

Tôi nghe như vầy: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tịnh xá Kỳ Hoàn, trong khu vườn của thái tử Kỳ Đà và Cấp Cô Độc, cùng với số đông một ngàn hai trăm năm mươi tỳ kheo, hội lại một chỗ.
Bấy giờ đức Phật, với giọng hiền hòa, bảo Xá Lợi Phất:
- Ta vì các ông nói sự trừ diệt quả báo chẳng lành của mười điều ác. Hãy lóng nghe nhận, một lòng nhớ lấy, dè dặt chớ quên. Mười nghiệp ác là:
- Nghiệp giết sanh mạng,
- Nghiệp hay trộm cướp,
- Nghiệp ham dâm dục,
- Nghiệp nói hư dối,
- Nghiệp nói đôi chiều,
- Nghiệp nói hung dữ,
- Nghiệp nói thêu dệt,
- Nghiệp ác tham lam,
- Nghiệp ác giận dỗi,
- Nghiệp ác ngu si.
- Này Xá Lợi Phất! Nay ông hãy nên dạy khắp chúng sanh, trong sạch thân nghiệp, trong sạch khẩu nghiệp, trong sạch ý nghiệp, năm vóc sát đất, quy y hòa thượng, thành tâm sám hối ba nghiệp ác này. Phật vì đại chúng và Xá Lợi Phất nói về thể thức truyền giới Thập Thiện và Bát Quan Trai (1) .
Nói pháp này rồi, kế đến đức Phật nói về nghiệp báo của mười điều ác:
Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất,
Nay ông nên biết rõ như vầy
Tất cả bao nhiêu loại chúng sanh,
Không loài nào chẳng quý thân mạng,
Vì thế nên thực hành bố thí
Trải lòng từ bình đẳng khắp loài
Xem chúng sanh dường như tai mắt,
Đây mệnh danh là giới không giết,
Các đức Phật quá, hiện, vị lai,
Và người trí thảy đều nói đến,
Tha loài khác như tha thứ mình,
Chớ giết hại, chớ dùng gậy gộc,
Nếu thấy người giết chết sanh vật,
Không khác gì dao cắt tim mình
Xem chúng sanh không khác chi ta,
Giữ giới sát, được sanh thiên giới,
Thường gặp Phật và các Bố Tát,
Thế nên vâng giữ giới không giết.
Để ban vô úy tất cả loài
Thác rồi sanh lên trời Đao Lợi,
Voi, ngựa, ngọc nữ cùng vui chơi,
Hoặc sanh Phạm thiên, điện lưu ly
Màu như bạc trắng, hoa vàng chối,
Thường ngồi tòa đẹp bằng bảy báu,
Ghế vàng, bát ngọc, hoa thất bảo,
Vô lượng thiên nữ tấu nhạc trời,
Cung điện cất bổng dạo hư không,
Đầu đội mão quý ngồi điện giữa,
Trừ bỏ ham dâm, vào chánh định,
Thấy các đức Phật nói Tứ Đế,
Hiểu ngộ mau được quả Dự lưu,
Hoặc là phấn chấn phát đạo tâm,
Về sau sẽ thành đạo Bồ Đề.
Cũng sanh Đâu Suất, trời Dạ Ma,
Hoặc trời Quang Âm, Tịnh Cư xứ,
Phạm Phụ, Biến Tịnh lầu sáng đẹp,
Trên nữa là trời Sắc Cứu Cánh,
Lui tới dạo chơi các vườn trời,
Câu hội cùng Bồ Tát Di Lặc,
Thong dong đi đứng, bữa ăn ngon,
Ngày đêm sáu thời thường nghe pháp,
Bồ Tát Di Lặc thường giảng nói
Hạnh bất thoái chuyển đại pháp luân
Tương lai sẽ gặp đức Di Lặc,
Hàng ma, thành Phật quay xe pháp
Trong pháp Phật ấy được xuất gia,
Lại gặp ngàn Phật trong hiền kiếp,
Được Phật Lâu Chí thọ ký cho
Vô thượng Chánh đẳng Đại Bồ Đề
Đó là thắng quả giới không giết,
Cũng gọi từ bi, gốc phạm hạnh,
Tất cả chư Phật đều nói đến,
Cũng là tất cả hạnh Phật làm,
Chúng sanh, hết thảy quý tai mắt,
Yêu mến con cái cũng như vậy,
Yêu quý mạng sống lại vô cùng,
Vì thế chẳng được giết sanh vật,
Đây gọi Phạm hạnh rất cao tột,
Không giết, ý tưởng giết cũng không,
Cũng chẳng ăn dùng các thứ thịt,
Thấy người giết hại, như thấy giặc,
Biết chắc người ấy đọa địa ngục,
Người ăn nhiều thịt, nhiều ốm đau,
Chấm dứt giết mạng, tự trang nghiêm,
Thể hiện lòng từ bi rộng lớn,
Vâng giữ gìn giới không sát sanh,
Quyết sẽ thành tựu đạo Bồ đề.
Đức Thế Tôn bảo ngài Xá Lợi Phất:
- Ông cần nên biết, nghiệp giết sanh mạng, tội ấy rất nặng. Trước đây có lần, ta cùng với ông, du hóa đến thành Ba tra liên phất (2) , trong thành lớn này, có một cô gái, con một gia đình thuộc hạng trưởng giả, cô gái tên là Đề bà bạt đề. Cô ta sanh hạ một đứa bé trai. Dung mạo đứa bé đoan chánh đẹp đẽ, vẽ đẹp sen hồng của một thiên nữ cũng khó sánh bằng, mẹ của đứa bé rất thương yêu nó, bèn ẵm đến chỗ ta, và bạch rằng:
- Bạch đức Thế Tôn! Đứa con của con thật rất đáng yêu, nó đẹp như một đồng nhi thiên nữ, con yêu quý trẻ hơn thân của con, gấp ngàn muôn lần.
Khi đó ta bảo người con gái nọ:
- Thiện nữ nên biết, tất cả phàm phu, ai ai cũng tự yêu quý mạng sống, không bao giờ chán, cũng như biển cả, nuốt các dòng nước, vẫn không khảm đủ. Sao nay ngươi lại nói rằng thương con, hơn cả thân mình, lấy gì chứng minh?
Người con gái thưa:
- Bạch đức Thế Tôn! Con yêu đứa trẻ, đến nổi giả sử lửa mạnh nổi lên đốt cháy thân con, con vẫn không thể buông bỏ nó ra. Vì để cảm hóa người con gái nọ, lúc ấy Phật dùng thần lực hóa ra bốn quỉ Dạ xoa, mỗi quỉ Dạ xoa bưng một núi lửa, từ bốn mặt lại. Khi lửa còn xa, thì người con gái dùng thân mình và y phục tùy thân che đậy đứa trẻ. Lửa lần tới gần, cô gái hoảng hốt lấy tay che mặt, và đưa con ra ngăn chặn ngọn lửa.
Phật hỏi cô gái:
- Ngươi vừa mới nói yêu quý đứa con, bây giờ sao lại đem con ngăn lửa, để tự cứu mình?
- Người con gái thưa:
- Lạy đức Thế Tôn! Xin cứu giùm con, con chẳng tiếc trẻ!
Đức Thế Tôn nhiếp thần lực trở lại, thì cả mẹ con đều được mát mẻ. Ngay trong lúc ấy, cô gái tỉnh ngộ, và phát đạo tâm chơn chánh cao tột.
Phật hỏi cô gái:
- Nếu ngươi đã biết yêu quý thân mình và yêu dấu con, sao lại tự giết và sai người giết? (3) . Ngươi nên biết rằng, giết hại sinh mạng, chịu báo rất dữ, chắc chắn phải đọa địa ngục A tỳ, sự khổ kịch liệt, hệ thuộc pháp luật chốn vua Diêm La. Những gì gọi là pháp luật rất nặng?
- Vì vua Diêm La, ngày đêm sáu thời, nói đến ác báo của việc giết hại. Có mười [báo] nghiệp ác thuộc tội sát hại.
- Quả báo thứ nhất: Nghiệp giết sanh mạng, thường đọa địa ngục Núi đao hực lửa. Có bánh xe dao cắt rọc thân mình, tay chân lóng đốt, đứt ra thành tám muôn bốn ngàn đoạn, một ngày một đêm, sáu mươi ức lần chết đi sống lại. Bấy giờ vua Diêm la quở trách tội nhơn: Ngươi ưa giết hại, nay khổ như thế, ngươi có ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết.
- Quả báo thứ hai: Nghiệp giết sanh mạng, chắc chắn sẽ đọa Địa ngục rừng gươm. Có đến tám muôn bốn ngàn cây gươm, mỗi thân cây gươm cao đến tám muôn bốn ngàn do tuần, mỗi mỗi cây gươm, sanh ra tám muôn bốn ngàn nhánh gươm, mỗi mỗi nhánh gươm, sanh ra tám muôn bốn ngàn hoa gươm, và mỗi hoa gươm, sanh ra tám muôn bốn ngàn trái gươm. Tội nhơn sát sanh trèo lên cây gươm, thì trái tim cũng lớn ra khắp cả các đầu cây gươm, ngoài ra tay chân, lóng đốt đều vào khắp giáp rừng gươm. Tám vạn bốn ngàn nhánh gươm đều vào mỗi mỗi lóng đốt trong khắp thân thể, gươm đó róc tận xương tủy tội nhân. Hoa gươm, trái gươm lan khắp các nơi, không sót chỗ nào. Thân thể tội nhân, bị nát vụn ra như hột Đình lịch (4) , một ngày một đêm tám mươi bốn ngàn lần bị chết sống. Nghiệp ác giết hại, việc ấy như vậy. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhân. Ngươi ưa giết hại, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết.
- Quả báo thứ ba: Nghiệp giết sinh mạng, sau sanh địa ngục Vạt nước sôi trào. Trăm ngàn muôn ức giọt nước sôi sục, nấu thịt tội nhơn, bày ra xương xẩu, đặt lên trụ đồng, tự nhiên sống lại. Trăm ngàn gai nhọn biến thành dao sắt, tội nhơn tự cắt thịt mình mà ăn, ăn rồi trở vào trong vạt nước sôi, một ngày một đêm, tám mươi bốn ngàn lần bị chết sống. Nghiệp ác giết hại, việc ấy như vậy. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn: Ngươi ưa giết hại, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết.
- Quả báo thứ tư: Nghiệp giết sinh mạng, sau bị sanh làm Địa ngục giường sắt. Có một giường sắt, ngang rộng bằng nhau, mỗi bề dài đến năm mươi do tuần, bốn bên có những mũi sắt bén nhọn, bắn tim tội nhơn, vành bánh sắt lớn nghiến đầu người tội, bổ từ đảnh đầu, xoáy xuống dưới chân rồi xoáy ra ngoài, một ngày một đêm, tám muôn bốn ngàn lần bị chết sống. Nghiệp ác giết hại, việc ấy như vậy. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn. Ngươi ưa giết hại, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp đền nợ cho người, không thể nào hết.
- Quả báo thứ năm: Nghiệp giết sanh mạng, sau bị sanh làm Địa ngục núi sắt. Bốn bề núi này, như một hang sắt, trong hang phát lửa, bốn phía xáp lại. Năm quỷ Dạ xoa, chặt thân tội nhân ra làm bốn khúc, ném vào trong lửa. Bốn núi ép lại, thân thể tội nhơn tan tành ra bụi. Chim lửa nổi dậy, thứ chim mỏ sắt, chui vào tay chân lóng đốt, phá nát xương tủy tội nhơn. Một ngày một đêm, tám muôn bốn ngàn lần bị chết sống. Nghiệp ác giết hại, việc ấy như vậy. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn: Ngươi ưa giết hại, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết.
- Quả báo thứ sáu: Nghiệp giết sanh mạng, sau bị sanh làm Địa ngục lưới sắt: Có núi sắt lớn, cao vút đến hàng trăm ngàn do tuần, trong đó tràn đầy nước sắt nóng chảy, lưới sắt nằm trên. Mỗi mỗi mắt lưới, có trùng sắt [trùng sắt] này, từ trên đỉnh đầu, rúc vào xương tủy, bổ xuống dưới chân mà ra bên ngoài. Một ngày một đêm, tám muôn bốn ngàn lần bị chết sống. Nghiệp ác giết hại, việc ấy như vậy. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn: Ngươi ưa giết hại, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết.
- Quả báo thứ bảy: Nghiệp giết sanh mạng, sau bị sanh làm Địa ngục Hoa sen đỏ. Có một hoa sen vô cùng to lớn, gồm có tám muôn bốn ngàn cách sen, mỗi mỗi cánh sen, như một núi đao, cao năm do tuần, trăm ức rừng gươm cùng cháy một lúc, tội nhơn ngồi giáp trong hoa sen đó, mỗi mỗi cánh sen đều bung lớn ra. Khi sen bung ra, thì những núi lửa và rừng gươm đều đốt thịt phá xương, đau khổ trăm bề, không thể chịu nổi. Khi hoa xếp lại, thì trăm ngàn núi dao, cùng trong một lúc cắt đứt thân mình. Một ngày một đêm, tám muôn bốn ngàn lần bị chết sống. Nghiệp ác giết hại, việc ấy như vậy. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn: Ngươi ưa giết hại, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết.
- Quả báo thứ tám: Nghiệp giết sanh mạng, sau đọa địa ngục Năm phần bị chết và năm phần sống. Có năm quả núi, hình thù rất lớn, với năm trăm ức những bánh xe đao ở trên đỉnh núi, trên bánh xe đao, có bánh xe nước. Tội nhơn ngục này, thân thể như một cánh hoa nở ra, nằm trên băng giá. Những bánh xe đao của năm quả núi, năm phía ép lại, hô lên “Sống! Sống”. Xe đao cắt thân ra làm năm đoạn, năm đoạn nửa sống, nửa chết như thế, tan nát thành bụi. Một ngày một đêm, tám muôn bốn ngàn lần bị giết chết sống. Nghiệp ác giết hại, việc ấy như vậy. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn: Ngươi ưa giết hại, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết.
- Quả báo thứ chín: Nghiệp giết sanh mạng, sau đọa địa ngục Rừng đầy rắn độc. Có đến vô lượng số cát sông Hằng những con rắn độc, đều bằng sắt nóng, mỗi con rắn dài vài ngàn do tuần, miệng phun nọc độc, như hoàn sắt nóng, từ đầu tội nhân mà vào khắp thân. Mỗi mỗi lóng đốt, có vô lượng rắn, nhả độc phun lửa, đốt cháy tội nhơn, một ngày một đêm, tám muôn bốn ngàn lần bị giết hại, việc ấy như vậy. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn: Ngươi ưa giết hại, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết.
- Quả báo thứ mười: Nghiệp giết sanh mạng, sau sanh địa ngục Gông cùm xiềng sắt. Ngục này bề cao mười hai do tuần, núi sắt làm gông, sáu mươi do tuần, trụ sắt lưới lửa giáp vòng làm xiềng, tám mươi do tuần. Có những chó sắt, trong miệng phun lửa, làm thứ móc xích. Tên sắt từ trên hư không rơi xuống, bắn tim tội nhơn, gông cùm xiềng xích, thành viên đồng cháy, vào mắt tội nhơn, chạy khắp thân thể, tay chân lóng đốt, rồi từ dưới chân mà ra bên ngoài. Một ngày một đêm, tám muôn bốn ngàn lần bị chết sống. Nghiệp ác giết hại, việc ấy như vậy. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn: Ngươi ưa giết hại, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết.
Khi ấy, đức Thế Tôn bảo ngài Xá Lợi Phật:
- Nghiệp giết chúng sanh, phải ở địa ngục, tuy chịu khổ ấy, nhưng vẫn chưa đủ. Đây chỉ mới là hoa báo mà thôi. Tội mãn rồi mới sanh trong loài người, lại mang nhiều bệnh, mạng sống ngắn ngủi, sau đó lại sanh vào bốn loại sanh (5) chịu các thứ khổ vô lượng vô biên, không thể kể xiết.
Thế nào gọi là Giới không trộm cướp?
- Giới không trộm cướp, tức là có lòng rộng rãi bố thí khắp cả chúng sanh những thứ của cải, vật dùng ngoài thân. Chư Phật thường nói: “Giới không trộm cướp là nước cam lồ trong mát an ổn”. Bảo vệ giới này, được mệnh danh là “Con đường để sanh lên các cõi trời” hoặc mệnh danh là “Chỗ để đắc đạo” là áo Niết bàn, là mạng giải thoát. Thế nên chư Phật, luôn luôn ca ngợi sự không trộm cướp, là cái nhân tốt, để chấm dứt những ác báo ngạ quỷ.
Về tội trộm cướp, cũng có mười thứ quả báo xấu xa.
Quả báo thứ nhất: Nghiệp ác trộm cướp, sau phải đọa làm Địa ngục núi thịt. Tội nhơn ngục này, cổ như quả núi, có trăm ngàn đầu, ở mỗi đầu má sanh ra gò thịt, trăm ngàn chó sắt từ núi sắt ra, gầm gừ tru sủa, chúng giành giựt nhau ăn thịt tội nhơn. Những cây đinh sắt, từ miệng chó ra, bắn đầu tội nhơn, thấu suốt gót chân, rồi ra bên ngoài, lại bị lột da, căng rộng ra hàng trăm ngàn do tuần trên dùi sắt nhọn, toàn thân và da đều bị đau nhức, trải qua suốt tám vạn bốn ngàn năm, tim gan như cắt, đau khổ khó lường. Đó là quả báo thứ nhất của nghiệp trộm cướp. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn: Ngươi ưa trộm cướp, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết.
Quả báo thứ hai: Sanh làm quỷ đói. Thân cao lớn đến năm ngàn do tuần, khi cất bước đi, tiếng vang ầm ỉ, như tiếng di chuyển năm trăm chiếc xe. Tay chân lóng đốt trong khắp cả người, đều bị sức lửa, như lửa của mười chiếc xe đốt cháy, đói ăn hoàn sắt nóng, khát uống nước đồng sôi, tóc tai bù xù, như những dùi sắt, tóc cứng dài xuống, quấn lại thân thể, chịu vô lượng khổ đến trăm ngàn năm, tai không từng nghe đến tiếng cơm nước. Sau đó lại sẽ sanh chốn địa ngục, chịu nhiều thống khổ. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn: Ngươi ưa trộm cướp, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết. Đó là quả báo thứ hai của nghiệp trộm cướp.
Quả báo thứ ba: Sanh làm Địa ngục hàn băng. Phải chịu lạnh lẽo trăm ngàn vạn năm. Bốn phương tám hướng, toàn những núi băng, dùng làm áo mặc, thân thể nứt nẻ, như hoa sen nở, tự ăn thịt mình, lại có tên lửa, bắn vào trái tim. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn: Ngươi ưa trộm cướp, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết. Đó là quả báo thứ ba của nghiệp trộm cướp.
Quả báo thứ tư: Sanh làm la sát. Nếu đàn bà thì mặt mày đoan chánh, dường như thiên nữ, đàn ông hình dáng rất là dữ tợn, cả ngàn con mắt, lấy sắt niền đầu, răng nanh nhô lên, lộ ra ngoài miệng Lỗ tai dựng ngược và phát ra lửa. Khi La sát nữ làm dáng, mà la sát nam động chạm đến thân, thì bị lửa đốt, chỉ có uống huyết và ăn thịt sống, hoặc ăn lửa nóng, tro than, hoặc ăn đồ mửa hôi tanh nhơ uế. Chịu thân la sát như vậy, trải qua trăm ngàn vạn năm, hết sức đau khổ. Đó là quả báo thứ tư của nghiệp trộm cướp.
Quả báo thứ năm: Bị thác sanh làm Địa ngục nai sắt. Mang lấy hình nai, có trăm ngàn đầu, trăm ngàn tay chân, trăm ngàn đuôi dài, trăm ngàn móng dày, trăm ngàn lớp da. Bị năm trăm ức cọp, sư tử sắt, lột các lớp da, trên mỗi lớp da, phát sanh vô lượng dùi sắt bén nhọn, dường như gươm đao, rọc thấu xương tủy, đau đớn không lường, chịu khổ như vậy trăm ngàn vạn năm. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn: Ngươi ưa trộm cướp, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết. Đó là quả báo thứ năm.
Quả báo thứ sáu: Sanh trong loài người, nhưng thân thể bị lõa lồ đen đúa, con mắt bị lé, hơi miệng hôi hám, thường bị giam hãm ở chốn lao tù, dọn dẹp phân nhơ, hoặc bị chủ nhà sai khiến đày đọa. Dầu sanh làm người, nhưng trạng huống lại không khác trâu ngựa. Cha chẳng thương con, con chẳng thuận cha, mẹ chẳng thương con, con nghịch với mẹ. Đó là quả báo thứ sáu của nghiệp trộm cướp.
Quả báo thứ bảy: Sanh làm địa ngục: Hoa bằng gươm đao. Rừng dao, rừng gươm số lượng vô ngần, có những tội nhân, thân như ghè sắt, ngang rộng như nhau, hàng ngàn do tuần. Ngục tốt đuổi theo bén gót tội nhơn, như gió lùa hoa, tự nhiên sanh trên hoa gươm thẳng đứng, trăm ngàn hoa gươm chia ra lột da, thành vô số đoạn, róc thấu xương tủy, rồi từ trên không, rơi xuống sống lại, trên những hoa dao. Những mũi dao hoa, chia ra lột da, thành vô số đoạn, phá bổ xương tủy, thành nhiều khúc vụn, đâm thấm tim gan, cầu chết không được. Núi sắt bốn bề, hóa làm vô lượng trái sắt bén nhọn, như những tên ná cùng bắn vào tim, chịu khổ như vậy vô lượng ức năm. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn: Ngươi ưa trộm cướp, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết. Đó là quả báo thứ bảy của nghiệp trộm cướp.
Quả báo thứ tám: Bị sanh làm đại Địa ngục núi lửa. Mang thân hình lớn, có trăm ngàn đầu, trên lưng mang vác năm trăm vượn lửa, tay cầm dao lửa, tự lột da mình, ném lên núi lửa. Quả tim sanh ra sói lửa, nhai xương, nhai tủy tội nhơn. Thân của tội nhân, như lửa cháy bừng, chạy trong núi lửa, tìm chỗ lẩn trốn, nhưng không chỗ nào để trốn thoát khỏi, chịu khổ muôn phần, cầu chết không được, chịu khổ như thế trăm ngàn vạn năm. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn: Ngươi ưa trộm cướp, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết. Đó là quả báo thứ tám của nghiệp trộm cướp.
Quả báo thứ chín: Sanh làm địa ngục Xuyên thủng lỗ mũi. Ngục xuyên mũi này, mười hai móc sắt, móc lấy mắt, tai, mũi, lưỡi và miệng tội nhân, đánh gậy, bẻ răng, lột lớp da mặt thành những khúc thịt, rồi bỏ vào miệng. Những khúc thịt này lại biến thành những mũi tên lửa lớn, bắn từ trái tim, cho đến dưới chân, cầu chết không được. Chịu khổ như thế trăm ngàn vạn năm. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn: Ngươi ưa trộm cướp, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết. Đó là quả báo thứ chín của nghiệp trộm cướp.
Quả báo thứ mười: Sanh làm địa ngục Lột da xẻ thịt. Tội nhơn nằm trên ghế dài bằng sắt, có các ngục tốt, cầm dao lột da, xẻ thịt, cắt tim, cầu chết không được, chịu khổ như thế đến ngàn vạn năm. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn: Ngươi ưa trộm cướp, nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải chịu trăm ngàn muôn kiếp, đền nợ cho người, không thể nào hết. Đó là quả báo thứ mười của nghiệp trộm cướp.
Thế nào gọi là giới không dâm dục?
-Không dâm dục có năm thứ công đức, mà các đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đồng khen. Người không dâm dục, sống theo oai nghi, như oai nghi Phật, thân thể người ấy, thơm như thân Phật. Những gì gọi là năm thứ công đức?
Một là, nhãn thức không bị giao động, không nhìn sắc dâm, giả sử gặp phải, như gặp trùng phẩn, như dao cắt tim, lửa đốt con mắt. Tâm chẳng nghĩ đến thứ tình luyến ái; vô thường bức thiết, lửa mắt giao động càng bậy đó thôi, có gì yêu dấu?
Hai là, lỗ tai chẳng bằng lòng nghe đến tiếng gợi dâm. Giả sử có nghe, nhĩ thức không động, không lấy làm vui. Âm thanh ngu si, chẳng qua là thứ tác động rừng rậm của giống độc xà, làm hạt giống ái, là thứ gió giặc, từ nhĩ căn phát, từ nơi nhĩ thức, vọng động nổi dậy, như tiếng ngâm nga của quỷ dạ xoa, có gì yêu dấu? Đó chỉ là những âm vang huyễn hoặc, những kẻ ngu phu mới sanh đắm nhiễm, mới bị kích động khắp các giác quan! Tiếng này như sương nhiễm lạnh lòng người, trôi lăn theo mãi biển ái sông si, buông xuôi theo dòng năm thứ dục lạc (6) . Vì sâu sắc biết về thứ giặc ấy, cho nên nhĩ thức không bị giao động.
Ba là, lỗ mũi khi ngửi mùi hương, ngay đó biết rõ, hương này vốn từ tám gió nổi lên (7) , từ gió si động, gió ái thổi lay. Mùi các thứ hoa hay các phấn sáp, từ vọng tưởng sanh, từ sự điên đảo, ngang nhiên mà có, từ nhận thức vọng của mũi nổi dậy, bảo càn là thơm, hoặc khen vị tốt. Vì tỷ thức kinh động, cho nên đối với hoa lá cỏ cây, đều khen là thơm. Như Lai nhiếp thân, chẳng hề ngửi đến mùi thơm, mùi hôi thối, biết thể của nó, chẳng phải chơn thật, nên chẳng khen sự tiếp xúc mùi hương.
Bốn là, Nhận thức của lưỡi không động, chẳng hề nói đến lợi lộc thế gian, chẳng khen việc dâm. Miệng không nói đến thú vui của việc xúc chạm dục nhiễm, cũng chẳng mê cuồng, để tâm đến việc gắn bó thất gia, cũng chẳng hay nói việc đáng ưa thích, làm tăng vô minh cho năm thứ hoặc si mê yêu đắm. Thế nên chư Phật, thiệt thức không động.
Năm là, Ý căn lặng lẽ không động, chẳng khởi lòng dục, chẳng nghĩ việc dâm, chẳng tưởng lạc thú của việc ái ân, dâm căn không động, ý thức không chuyển, như tâm giải thoát, trú chỗ vắng lặng của đức Niết Bàn, chơn thường, chơn lạc, an ổn vô vi, học theo tâm Phật, trụ ngằn vô tận của thể Chơn như, một bề thể nhập mười tám đại không (8) chín thứ Niết bàn (9) . Phật và Bồ Tát, đều được những thứ công đức như vậy, cho nên thân hình luôn luôn thanh tịnh, sanh trên hoa sen, thân thể trong sạch, không chút nhơ bợn, tâm cũng điềm đạm, thế nên tất cả chư Phật nói rằng: “Giới không dâm dục trong sạch hơn hết, là món công đức vô cùng cao tột, đầy đủ năm lợi”. Chư Phật khen ngợi đề cao nó là một cái nhân giải thoát, không cùng không tận.
Trái lại dâm dục là thứ dây nhợ, trói buộc nặng nề, không thứ nào hơn, chẳng khác voi già lún xuống bùn sâu. Dâm dục là gốc của tất cả tội. Nay ta sẽ nói tội lỗi của sự dâm dục.
Các ông một lòng lẵng lặng nghe,
Dâm dục vẫn đục muôn hạnh tốt,
Nhận chìm thiền định xuống sình lầy,
Ngăn ngại, che lấp đường giải thoát,
Thiện nam, thiện nữ, hỡi các người!
Nếu muốn tìm về đạo an vui,
Muốn lìa ngục tù nơi ba cõi,
Muốn khỏi hầm lửa, sông ngũ dục,
Muốn tránh vạc nước lửa, núi băng,
Muốn thoát mối lo đường sống chết,
Hãy giữ gìn tâm, như tâm Phật,
Nên gắng trì giới, không dâm dục,
Muốn cầu sanh lên trời trường thọ,
Tuổi thọ, mạng sống vô lượng kiếp,
Muốn làm Phạm Thiên, chuyển luân vương
Giàu có, bảy báu nhiều vô lượng,
Hãy giữ gìn tâm, như tâm Phật,
Nên gắng trì giới không dâm dục,
Muốn được gặp gỡ các đức Phật,
Nghe pháp, chứng vào các đạo quả,
Đầy đủ sáu thứ đại thần thông,
Dạo chơi các cõi nước mười phương,
Hãy giữ gìn tâm, như tâm Phật,
Nên gắng trì giới không dâm dục.
Dâm dục có mười tai họa. Những gì là mười?
-Một là: Người ham dâm dục, dù sanh cõi trời làm Thiên đế thích, thọ hưởng dồi dào năm thứ dục lạc, mà tâm không khác con chó ăn vụng, thường bị say sưa, không mấy tỉnh táo, ngụp lặn trong dòng ngũ dục không ngừng.
Hai là: Người ham dâm dục, dầu được làm vua nơi cõi nhơn gian, quyền uy thế lực, gây việc ân ái với đứa nô tỳ, làm kẻ sai khiến cho đứa tớ quê. Dù có đầy dẫy châu báu của cải, chẳng khác củi khô đem ném vào lửa, không sao cho vừa, đến kết cuộc rồi, nước mất nhà tan, thân bại danh liệt, chết đọa vào chốn ác đạo tam đồ (10) .
Ba là: Người ham dâm dục, hằng bị lệ thuộc theo sự thúc giục bởi sáu giác quan, con voi vô thường, lén đuổi sau lưng mà không hay biết. Tâm như khỉ vượn, không hiểu biết gì đến các tai nạn. Bị lửa dục đốt, chẳng kể gì đến cha mẹ, anh em, chị em, cô dì, dường như heo chó, cỡi hót lẫn nhau, không thấy xấu hổ.
Bốn là: Người ham dâm dục, thường uống huyết nồng của người phụ nữ, trong vô lượng đời thường ở bào thai, lấy các thứ trùng ruột non ruột già và trong tử cung làm thứ áo mặc, hấp thụ dinh dưỡng nơi đường sinh dục, nuôi lớn hình hài.
Năm là: Người ham dâm dục, tâm như dao bén, con mắt dường như chiếc xe nung lửa, cắt rọc thiêu phá kho tàng công đức của các hạnh lành.
Sáu là: Người ham dâm dục, tới đám quý tộc là đốt lửa kiết sử (11) , nổi củi tham dục, ý muốn bóc lột như loài La sát. Đến chốn giáo sĩ (12) chẳng sanh hổ thẹn, như kẻ ảo thuật, chỉ quen làm trò yêu mị huyễn hoặc, rồi nói đến việc bất tịnh nhiễm ô. Đến giữa đám đông các vị sa môn, chẳng biết quy y, chẳng sanh kính ngưỡng. Rễ tình dấy động, như keo dính cỏ, kiết sử nhiễm dục vây bủa ý căn, lửa sáu tình dậy đốt hạt giống lành, phá mất nghiệp sạch, hạnh trong gieo trồng đời trước. Dở tay, động chân dường như dao bén, mắt như lửa mạnh, miệng như la sát, khắp lỗ chân lông lửa dâm thúc dục.
Bảy là: Người ham dâm dục tạo tám thứ nghiệp. – Giết hại sinh vật. Làm ra gươm dao gậy gộc cung nỏ, là những khí cụ để giết chúng sanh. Làm mai làm mối cho nam cho nữ. Nói năng láo khoét. Uống rượu say sưa. Đờn ca xướng hát. Bày cảnh dâm dật. Trộm cắp của người để trau chuốt thân thể chứa những thi trùng, bị tâm vương, tâm sở hằng thường sai khiến, đôi mắt man dại, dường như chó dữ rình ăn vật nhơ.
Tám là: Người ham dâm dục, bị dục sai khiến, lửa tim ngùn ngụt, như sắt nóng lửa hừng, phá mất phạm hạnh, quyết phải rơi vào địa ngục vô gián.
Chín là: Người ham dâm dục, sau khi chết rồi, chỉ trong khoảnh khắc đọa làm địa ngục Cột đồng cháy đỏ. Ngục này ngang rộng bảy ngàn do tuần, trông như một cánh rừng hoa bằng đồng, dưới có giường sắt, trên giường lại có những trụ đồng nóng, cao ngàn do tuần, khắp cả tám góc. Trụ thẳng có gương, trong gương tự nhiên có những tượng nữ, hoặc hình người nam. Dâm nhơn vừa nghĩ đến việc ái dục, tình căn phát động, thì lửa nổi lên cùng trong một lúc. Hoa đồng biến thành vạt nước đồng sôi, giường sắt bị lửa đốt cháy mãnh liệt, con gái hóa làm chó dữ, con trai hóa thành dao bén, đuổi theo bén gót tội nhơn, tội nhơn chịu vô lượng khổ, ăn toàn sắt nóng, uống nước sắt sôi, cầu chết không được, chịu khổ như vậy đến vô lượng năm, tuổi thọ một kiếp.
Mười là: Người ham dâm dục không được gặp Phật, như mặt trời bị nhiều lớp mây che. Vì phá phạm hạnh, chắc chắn phải đọa địa ngục A Tỳ, thân đầy ngục ấy, thọ mạng một kiếp. Lại phải lăn lộn qua các địa ngục quyến thuộc hai bên của ngục A Tỳ, đến một kiếp nữa. Bấy giờ vua Diêm La quở trách tội nhơn “Ngươi ưa dâm dục nay khổ như thế, việc này ưa chăng? Ngươi còn phải qua trăm ngàn muôn kiếp đền nợ cho người, không thể nào hết. Mãn tội địa ngục, lại sanh làm chim Tu hú, Bồ câu hoặc làm rồng rắn. Vì làm nhơ uế phạm hạnh thanh tịnh, phải chịu các sự khổ não như thế, trăm kiếp ngàn đời không gặp chư Phật, không nghe chánh pháp, trọn chẳng đắc đạo.”
Bấy giờ đức Phật nói lên bài tụng:
Dâm dục không cắt đứt,
Tiếp nối đời chúng sanh
Vô minh là gốc rễ,
Dao già chết cắt mình,
Uổng chịu rừng rắn độc,
Túi máu đầy hôi tanh,
Như trùng phân ưa phẩn,
Kẻ ham dâm dục cũng đồng,
Chín lỗ tuôn lửa dục,
Ân ái như gai độc
Điên đảo thấy vọng khởi
Do huyễn hoặc, ái sanh,
Bao nhiêu nhan sắc mịn,
Như cây sanh hoa dại,
Gió điên đảo thổi đến,
Hoa héo thành dỏi tửa,
Nữ nhơn như bình đất,
Lẫn chứa dòng máu tanh,
Bình đầy rồi rỉ ngấm,
Nước hôi thúi tràn lan,
Mắt thấy nước không sạch,
Như chó trộm ham dâm,
Nên tự diệt các ái,
Quán bất tịnh để tâm,
Uống vào nước ngon ngọt,
Ở thành đại Niết Bàn.
Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
- Nếu như người nào, giữ thân, giữ tâm, không làm dâm dục, giữ gìn con mắt, chẳng nhìn sắc dâm, giữ gìn lỗ tai, chẳng nghe tiếng dâm, giữ gìn lỗ mũi, chẳng ngửi mùi dâm, giữ gìn miệng lưỡi, chẳng chạm lưỡi dâm... Nếu được như thế, mệnh danh là bực đầy đủ sáng suốt, thực hành tám thánh đạo.
Không dâm dục, trong sạch được thân tâm, ví như hoa sen, không dính bụi bặm, trở thành các bậc Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, hoặc trở thành đấng Vô thượng Chánh giác. Những thành quả đó, do không dâm dục, thanh tịnh mà được.
Đức Phật dạy tiếp:
-Nghiệp ác của miệng gồm có năm điều: Nói lời dối trá. Nói lưỡi đôi chiều. Nói lời hung dữ. Nói lời thêu dệt. Khen ngợi tà kiến. Phật nói bài tụng:
Nếu người luôn luôn không nói dối,
Và giảng nói giới không vọng ngữ
Giữ gìn cửa miệng như miệng Phật
Thường nói những lời đầy chơn thật,
Người ấy được sanh lên cõi trời,
Mùi thơm nơi miệng tỏa ra xa,
Hoặc sanh làm người trong thế gian,
Hương thơm tô điểm cho kiếp sống.
Cũng như dòng nước nơi Hương sơn,
Chảy vào những nhánh sông Niết Bàn.
Nếu người không nói lời hai lưỡi,
Tấm lòng như một, chẳng đây kia,
Lưỡi như tướng lưỡi các đức Phật,
Lưỡi như lá sen che phủ mặt,
Năm màu ánh sáng xen lẫn nhau,
Từ trong tướng lưỡi lan rộng ra,
Thường nói những lời bực đại nhân,
Chí thành một mực, không hai lưỡi,
Nếu hay giữ lời không ác khẩu,
Mệnh danh là bậc “đại trượng phu”
Là bậc đúng đắn trong loài người,
Hết thảy mọi người đều thích gặp
Như cây Chiên đàn bát ngát thơm.
Nếu hay giữ lời: Không thêu dệt,
Miệng thường phát ra mùi thơm lạ,
Tựa như mùi thơm hoa sen xanh,
Sanh ra được gặp gỡ đức Phật,
Khẩu nghiệp trong sạch đúng như thật.
Nếu chẳng ngợi khen nhận thức tà,
Chẳng nói như nghiệp kẻ tà kiến,
Đời đời sanh ra thường xuất gia,
Nếp sống chân chánh thường đầy đủ,
Không khác gì Phật trụ Niết Bàn,
Kết quả đều từ lời chân thật.
Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:
-Bốn lỗi của miệng, có năm nghiệp ác:
Một là: Kẻ nói dối láo thường chê bai người; không nghe nói nghe, không chứng đạo quả, nói mình chứng đạo, không thấy nói thấy. Người xấu như thế, dầu không mắc bệnh, cũng chẳng khác gì chó mang bệnh ghẻ.
Đức Thế Tôn liền nói lên bài tụng:
Trong khắp tất cả chốn trời người,
Dầu có lửa lớn nung sắt chảy,
Đốt phá hết thảy bao nhiêu người,
Giặc này cũng chưa gọi là hơn,
Những gì là thứ giặc nguy hơn?
Chỉ có một số những hạng người
Nói năng lừa đảo không chơn thật.
Thà chịu lửa đốt khắp thân phần,
Xương thịt thành ra nước đồng cháy,
Ăn nuốt gươm dao nhiều như núi
Vạt nước, dao, cưa, xẻ nát thân,
Thân này nát vụn như đống lửa,
Khổ ấy chẳng là thứ khổ dữ,
Nói vọng mới là độc hại hơn,
Đốt phá phước đức chốn trời người,
Phải đi qua lại A Tỳ ngục,
Chân cẳng là những bánh xe đao,
Rắn sắt độc địa là lưỡi dài,
Lửa miệng đốt cháy cả trời đất,
Mắt như hoàn sắt vãi tứ tung,
Mưa xuống giọt sôi trong chảo lớn,
Đốt sạch hết thảy hoa rễ lành,
Rốt rồi phải đọa vào nẻo ác,
Trải qua không lường ngàn ức kiếp,
Muốn khỏi, không nhờ đâu thoát ra,
Người cực xấu ác như thế ấy,
Cựa thân nào khác núi lửa đời,
Đốt phá tất cả mầm giống thiện.
Hai là: Nói lời hung ác. Con người ác khẩu, dầu cho trong miệng có ngậm nước thơm, nhưng thúi không khác mùi của xác chết, thường ưa nói việc chẳng lành cho người. Miệng nhả lời gì, đều như chông, dao, như gươm, như kích, như phẩn, như tiểu, hoặc như dòi tửa.
Trong những mùi thơm cõi trời cõi người, không gì thơm qua lời nói đúng đắn.
Sự thối tha nhất trong khắp ba cõi, không gì hôi hơn miệng mồm ác độc.
Con người ác khẩu, phàm mở lời nào, không khác đám mưa những hoàn sắt nóng, đốt phá nhà người. Kẻ ấy tự muốn đến địa ngục lớn, sắt nóng đốt thân, uống toàn nước sắt. Giả sử kẻ ấy sanh chốn nhân gian, cũng làm thân chó, mắc chứng lở loét, hoặc làm thân người mang chứng bệnh hủi, trong vô lượng đời, thường ở những chỗ máu mủ tanh hôi, tâm chỉ nghĩ toàn những việc chẳng lành, hoặc những điều tương ứng với các nghiệp dữ.
Ba là: Nói lưỡi đôi chiều: Người nói hai lời, thật không khác gì lửa nóng nước lạnh. Không làm nói làm, người khác làm lành, ăn ngay nói thật, lại cứ bảo càn người ấy là quấy. Kẻ khác không làm, vẫn cứ nói bừa là họ có làm. Hết thảy người đời không mấy ai ưa kẻ nói đôi chiều. Người mà như thế, chắc chắn sẽ rơi vào đường cực xấu, cưa đồng xẻ lưỡi thành nhiều ngàn khúc.
Bốn là: Nói lời thêu dệt. Người nói thêu dệt, phản trên thành dưới, phản dưới thành trên, đùa bỡn vô phép, lời lẽ sắc sảo, nói năng vô bổ, nói chẳng lợi người, nói lời vô nghĩa, ca tụng thú vui năm thứ dục lạc. Tâm không biết rõ, vẫn cứ nói bừa. Lời nói đen tối, như gai như rừng, vướn móc nhiều người. Ác báo người này, sau khi mạng chung, sanh làm địa ngục Rừng rậm dùi sắt. Trăm ngàn dùi nhọn với những móc sắt, móc lưỡi tội nhơn thành trăm ngàn đoạn.
Năm là: Khen ngợi chấp tà. Người nhận thức tà, miệng như lửa hừng, đốt các rễ lành, không hề biết gì đến cha đến mẹ, bác bỏ tất cả, không Phật, không pháp, không tỳ kheo tăng, không A La Hán, không Bích Chi Phật, không thầy, không bạn, không thiện tri thức. Tâm như gió lốc, thổi ngã hết thảy gốc rễ cây lành, là kẻ đại bợm, bảo không nhơn quả, miệng như nước lụt chảy tràn ba cõi, dâm dục không chừng, chọc đùa với kẻ đồng tình đồng tính, tạo năm tội nghịch, cắt đứt trí tuệ, phạm bốn giới trọng, cho đến tạo tội vô gián địa ngục... Tất cả như thế, đều từ nhận thức tà bậy phát sanh, từ tâm xấu ác, điên đảo phát sanh, từ gió tà thổi. Miệng lưỡi độc dữ chẳng vừa, thì lửa ngục A Tỳ, và dùi sắt đâm lưỡi cũng phát sanh ngay đó.
Trên đây là những tội lỗi của người nói năng hư vọng, nói lời hung ác, nói lưỡi đôi chiều, nói lời thêu dệt và khen tà kiến.
Kẻ đại ác này, mặc dầu đang sống trên cảnh nhơn gian, thân thể đều do bốn đại hợp thành, năm ấm trang sức, nhưng nên biết rằng:
Địa đại chính là núi sắt rừng dao, là những cây gươm, trăm ngàn dùi sắt, vô số trùng sắt, các chim mỏ sắt, vành sắt, xe lao, cán thân người đó.
Nên biết, Thủy đại, hỏa đại chính là nước đồng nấu chảy, cùng với vô số vạt nước sắt sôi, những hoàn sắt nóng, phẩn tiểu vọt trào, là dòng sông sắt, chảy khắp đốt xương.
Nên biết rằng, những lóng đốt lớn nhỏ, tự nhiên giống như trụ đồng thẳng đứng, các thứ lửa dữ, từ nơi sáu căn, cùng lúc nổi dậy, đốt phá thân tâm, rơi vào ngục lớn.
Nên biết, Phong đại ngay đó, dường như mưa đá, với vô số rừng dao, trăm ngàn cây kiếm, quậy nơi tay chân, trong các lóng đốt, phát sanh từ trong kẻ ngách huyệt đạo, khắp cả châu thân.
Nên biết, Năm ấm chính là năm tên giặc cướp, mười tám giới là mười tám La sát, hệ thuộc giống ngục – dân chúng Diêm vương. Nghiệp thức tâm vương chính là sắt nóng, tướng trạng dường như nước đồng nấu chảy, tràn đầy cả ngục A Tỳ.
Tự cao tự đại, ỷ mình mạnh bạo, ỷ mình thế lực, rồi nói hung dữ, mắng nhiếc chê bai, hạ giá trị người, thì một ngày kia, sẽ tự đặt mình vào chỗ như vậy.
***
Đức Phật lại bảo ngài Xá Lợi Phất:
- Tội nói hung ác, nói lời hư vọng, nói lưỡi đôi chiều, nói lời thêu dệt và khen ngợi tà kiến, người này không những, làm kẻ bợm giặc cho một vài người, mà là đại bợm đối với loài người, cả đến chư thiên.
Ví như đám cướp, đầy đủ oai lực, tự do đốt phá cả một kinh thành, giết hết dân chúng, giết luôn nhân dân bốn châu thiên hạ, đám này mắc phải tội ác nhiều ít?
Xá Lợi Phất thưa:
- Kính bạch Thế Tôn! Tội đám giặc này, như núi Tu Di, không thể tính lường.
Đức Phật dạy rằng:
- Đám người làm giặc ấy, tuy mắc tội lớn, nhưng chẳng như kẻ vọng ngôn, ác khẩu, lưỡng thiệt, ỷ ngữ, tán thán tà kiến. Mặc dầu người này tạo tội chốc lát, nhưng lại chịu lấy quả báo cực nặng, sau khi chết rồi, đọa địa ngục lớn, trải vô lượng kiếp, chịu khổ vô cùng, trăm ngàn đức Phật, khó bề giải cứu.
Các đức Phật thấy, những người tạo tội, phỉ báng chánh pháp, hễ mười phương cõi, nơi có địa ngục, thì những người ấy cũng đồng sanh đến và cùng diệt đi, theo những địa ngục. Vì thế người trí, phải nên cẩn thận, thâu nhiếp thân miệng.
Đức Thế Tôn lại bảo Xá Lợi Phất:
Nếu người nào thọ, giữ mười thiện giới, là đã phá vỡ mười thứ nghiệp ác. Cao hơn hết là sanh cõi Phạm thiên, làm Phạm thiên vương. Thấp hơn là sanh ở chốn nhân gian, làm vua Chuyển luân, dùng mười nghiệp lành, giáo hóa chúng sanh, giả biệt vĩnh viễn, ba chốn ác đạo, nhất là vĩnh biệt tội báo địa ngục, cũng như dòng nước đã ra biển đại Niết Bàn.
Ngược lại, nếu hủy phạm mười giới lành trên đây, sẽ bị sa đọa vào địa ngục lớn, trải vô lượng kiếp, chịu nhiều đau khổ.
- Này Xá Lợi Phất! Ông hãy thọ trì kinh này, và ghi nhớ pháp yết ma truyền trao Thập thiện, để phá mười nghiệp chẳng lành.
Khi ấy tôn giả Xá Lợi Phất và khắp đại chúng, nghe lời Phật dạy, tất cả đều cùng hoan hỷ vâng làm.
KINH THẬP ÁC BÁO
(Còn gọi là kinh Thọ Thập Thiện Giới).
-Hết-
(Dịch vào năm 1986, từ rằm tháng 5 đến 28 tháng năm 1986)


thanhtinhtam
Bài viết: 520
Ngày: 30/05/11 20:38
Giới tính: Nam
Được cảm ơn: 1 time

Re: Ngữ Lục

Bài viết chưa xem gửi bởi thanhtinhtam »

Chiên Đàn (Candana, Sandalwood) là Đàn Hương. Chiên Đàn là loại Đàn Hương tốt nhất, cũng là một thứ trân bảo hết sức hiếm có trong thế gian này! Đối với loại hương nổi tiếng quý báu như thế, trong Phật giáo sử có ghi chép: Vào thời Đường, có một vị cao tăng Tây Vực đến Trung Quốc, khi gặp hoàng đế đã tặng một chút lễ vật. Sư tặng vua loại hương này, chỉ có bốn viên hương, [tức là bột hương] được vò thành hoàn, bốn hoàn thì cũng chẳng nhiều cho mấy, phân lượng rất ít. Khi ấy, trong triều đình quy định, hương liệu tấn cống tối thiểu là một cân. Phân lượng chưa tới một cân chẳng thể làm lễ vật biếu tặng hoàng đế, quá ít! Người Trung Quốc cũng chẳng biết rốt cuộc loại hương ấy có ưu điểm gì, vị pháp sư ấy chẳng có cách nào, quá ít, chỉ có bốn hoàn. Do vậy, Sư đốt một hoàn. Thủ đô khi đó là Trường An, Sư đốt một hoàn, cả Trường An đều ngửi thấy mùi, mới biết sự trân quý của hương ấy. Do vậy, nhà vua liền tiếp nhận. Thật sự là của báu, hương Chiên Đàn là bảo hương!
Pháp sư Tịnh Không giảng


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.20 khách