Xin Chào diễn đàn

Bạn có thể tạo cho mình một khu vườn nhỏ xinh đẹp với đủ hoa thơm cỏ lạ và mọi người có thể cùng bạn xây dựng khu vườn ấy. Xin hãy giữ khu vườn ấy thanh tịnh như tâm của bạn. Kính mời các bạn.

Điều hành viên: quang_tam3

nguynlinhtam
Bài viết: 1141
Ngày: 07/06/10 04:08
Giới tính: Nam

Re: Xin Chào diễn đàn

Bài viết chưa xem gửi bởi nguynlinhtam »

Không mình dẫn lời nói Tôi ở đây là trích từ bài giảng của PS Tịnh không sợ trích giữa chừng bài giảng dungphuong nói đó là ý của mình.
Mình là cư sĩ thôi không có chú tiểu gì đâu :-SS [-(


Nam Mô A Di Đà Phật
dung phuong
Bài viết: 393
Ngày: 28/08/10 00:27
Giới tính: Nữ
Đến từ: japan

Re: Xin Chào diễn đàn

Bài viết chưa xem gửi bởi dung phuong »

cho minh hõi tiếp nữa nè
đừng cười chê mình ko hiễu biết nha?
cư sĩ là nghĩa gì vậy bạn?


nguynlinhtam
Bài viết: 1141
Ngày: 07/06/10 04:08
Giới tính: Nam

Re: Xin Chào diễn đàn

Bài viết chưa xem gửi bởi nguynlinhtam »

Cư sĩ là người con Phật ở tại gia tu tại nhà :">
Tập tin đính kèm
chp_10_97_17620.jpg
chp_10_97_17620.jpg (71.46 KiB) Đã xem 1448 lần


Nam Mô A Di Đà Phật
dung phuong
Bài viết: 393
Ngày: 28/08/10 00:27
Giới tính: Nữ
Đến từ: japan

Re: Xin Chào diễn đàn

Bài viết chưa xem gửi bởi dung phuong »

cám ơn bạn. phượng hiễu rồi
hình bạn cho mình xem đó. bạn lấy ỡ đau vậy?trong chùa ha?
hay nơi bạn đi học tu vậy?
có gì hay hay. cho mình xem với
chắc mình làm phiền bạn hoài hoài đó
bây giờ ko hõi về yêu nữa mà hõi về tu. học đạo nè
chĩ dạy dùm nhe.
tuy mình lớn tuỗi hơn bạn. nhưng về đạo hạnh. mình ko biết bằng bạn
nên gọi bạn 1 tiếng sư huynh đó


dung phuong
Bài viết: 393
Ngày: 28/08/10 00:27
Giới tính: Nữ
Đến từ: japan

Re: Xin Chào diễn đàn

Bài viết chưa xem gửi bởi dung phuong »

bạn ơi. nhờ nghe bang kinh niệm phật . mà tâm cũa mình . rất là thãnh thơi
khó mà tã dc
rất vui và quyên hết buồn phiền
cám ơn bạn
cho phượng xin dc có mãi tâm trạng nầy
xin bồ tát phù hộ cho con mãi mãi có tâm trạng như hôm nay
khi bạn rãnh. nhớ đến phượng. đang mong mõi dc nghe kinh phật
thì bạn cho phượng xin nữa nha. nghe hay lắm đó


nguynlinhtam
Bài viết: 1141
Ngày: 07/06/10 04:08
Giới tính: Nam

Re: Xin Chào diễn đàn

Bài viết chưa xem gửi bởi nguynlinhtam »

http://www.dieuamucchau.com/pstinhkhong ... Week45.mp3
http://www.dieuamucchau.com/pstinhkhong ... Week97.mp3
http://thondida.com/V-PhapNgu.php#TrichKinhVoLuongTho
http://thondida.com/V-PhapNgu.php#KinhVoLuongThoTinhHoa
http://thondida.com/V-PhapNgu.php#KinhVoLuongTho
http://tinhkhongphapngu.net/phap-thoai/ ... th-15.html
http://tinhkhongphapngu.net/phap-thoai/ ... -th-1.html




http://tinhkhongphapngu.net/phap-thoai/ ... -tong.html
link xem trực tuyến chị click vào là xem được



và:











Chúc Chị tâm thanh tịnh an lành nghe pháp :">
Riêng em thì 1 đời này học 2 bộ Kinh là :Kinh Địa Tạng và Kinh VÔ Lượng Thọ:
http://niemphat.net/Kinh/voluongtho-adida_25K-PDF.pdf
http://niemphat.net/Luan/diatangiangky/dtgk.htm
http://niemphat.net/Luan/chugiaivoluongtho.htm
http://quangduc.com/kinhdien/244dtvoluongtho.html
http://daitangkinhvietnam.org/tieu-bo-k ... nguyn.html






HY VỌNG CHỊ THÂM NHẬP 1 MÔN TRƯỜNG KỲ HUÂN TU, THÂM NHẬP 1 BỘ KINH CHỌN 1 VỊ THẦY THEO HỌC SUỐT ĐỜI ĐỪNG HỌC NHIỀU BỘ KINH.Trích niemphat.net :Tôi khuyên hết thảy các vị đồng tu ở khắp nơi noi theo kinh Vô Lượng Thọ và làm đệ tử của A Di Ðà Phật một cách gọn tắt, ổn đáng. Lão cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập kinh Vô Lượng Thọ, nếu cụ Hạ không phải là A Di Ðà Phật tái lai thì phải là Quán Thế Âm Bồ Tát tái lai, nếu không thì chẳng thể hội tập bộ kinh này được hoàn hảo như vậy. Chúng ta biết ông Vương Long Thư hội tập lần đầu tiên vào triều nhà Tống, ông Ngụy Mặc Thâm hội tập lần thứ hai vào triều nhà Thanh, cả hai đều không hoàn hảo! Thời mạt pháp đích thực có nhu cầu phải hội tập kinh này nên cảm được Phật, Bồ Tát đến thị hiện. Quý vị không tin, nhưng tôi tin; ai tin thì được lợi ích. Chúng ta biết được những người y chiếu lời dạy trong bản kinh này để tu hành và khi vãng sanh có tướng lành trong những năm gần đây rất nhiều, những người chúng ta được nghe nói đến càng nhiều hơn. Nếu các bạn chẳng tin mà cứ nghe theo lời [rao truyền] của người ta thì không còn cách nào để nói nữa?
HY VỌNG CHỊ MỖI NGÀY NGHE KINH 8 GIỜ ĐỒNG HỒ NIỆM PHẬT 8 GIỜ ĐỒNG HỒ THÌ 3 HAY 4 NĂM SẼ NẮM CHẮC SỰ VÃNG SANH TỨC CHỨNG NIỆM PHẬT TAM MUỘI. NĂM XƯA ĐỨC THẾ TÔN NGÀY NGÀY GIẢNG KINH 2 THỜI, 1 THỜI TỨC LÀ 4 GIỜ HIỆN NAY. XIN TRÍCH KINH HOA NGHIÊM
Nhược ước biểu vị, thử trung chánh thị Phát Tâm Trụ thể. Dĩ bổn giải tánh văn huân chi lực, linh khai phát cố, danh quyết định giải.
(Nếu căn cứ theo sự biểu thị địa vị [để luận định] thì chỗ này chỉ thẳng vào cái Thể của địa vị Phát Tâm Trụ. Dùng sức Văn Huân của tánh hiểu biết sẵn có để khiến cho khai ngộ, phát tâm, nên gọi là quyết định giải)
Hôm qua vì thời gian bó buộc, câu này chỉ giảng được một nửa. Đây là câu thứ hai trong bốn câu. Dùng “trí quang chiếu diệu” (ánh sáng trí huệ rực sáng) để giải thích ý nghĩa của câu “quyết định giải” trong phần trước. Đoạn cuối cùng, nếu luận về sự biểu thị pháp; “nhược ước biểu vị”, Nhược (若) là giả thiết (ví như), ví như dùng sự biểu thị pháp để nói. “Vị” là năm mươi mốt địa vị của bậc Bồ Tát, tỳ-kheo Cát Tường Vân là đại biểu cho địa vị Sơ Trụ, tức bậc Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, Ngài đại diện cho địa vị này. “Thử trung chánh thị Phát Tâm Trụ thể”, câu này nhằm nói tới “trí quang chiếu diệu”, trí Quyết Định Giải chính là thể tướng của [địa vị] Phát Tâm Trụ (Sơ Trụ). “Phát tâm” chính là phát Bồ Đề tâm. Nếu không có trí huệ chân thật sẽ không khởi Bồ Đề tâm được! Vì thế, chỉ cần Bồ Đề tâm thật sự phát khởi thì người ấy sẽ là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, trí huệ sẽ thấu lộ ra.

Hai câu kế tiếp để giải thích. “Dĩ bổn giải tánh”, “bổn giải” chính là “trí quyết định giải” đã nói trong phần trước. “Giải” là thấu hiểu điều gì? Nói sơ sài, cạn cợt nhất thì là chân tướng của vũ trụ, nhân sinh, vị ấy đều hiểu rõ, đều hiểu rành, một mảy may nghi hoặc cũng không có. Đấy gọi là “quyết định giải”. Đấy là trí huệ chân thật. Do trí huệ ấy hiện tiền nên là Sơ Trụ Bồ Tát. Do vậy, “dùng sức Văn Huân của tánh hiểu biết sẵn có để khiến cho [Bồ Đề tâm] được mở mang, phát khởi”, câu “bổn giải tánh” (tánh hiểu biết sẵn có) rất ý vị. Do đây, biết rằng: Trí huệ chẳng phải là từ bên ngoài tới, nếu từ bên ngoài tới sẽ chẳng có năng lực ấy. “Bổn” là vốn đã có sẵn, đã sẵn trọn đủ trong tự tánh của chúng ta. Vốn sẵn trọn đủ, vì sao năng lực ấy chẳng hiện tiền nơi chúng ta? Đấy là vấn đề của Văn Huân. Chúng ta văn huân (huân tập do nghe pháp) không đủ, công phu Văn Huân chưa đến mức. Vì thế, “bổn giải tánh” chẳng tỏ lộ ra, cũng có nghĩa là trí huệ, đức năng vốn sẵn có trong bổn tánh chẳng thể hiện tiền. Nếu muốn cho nó được hiện tiền, hiện tiền là khởi tác dụng, nhất định phải dựa vào Văn Huân. Văn là nghe pháp, Huân là huân tập, chẳng những chỉ gồm Văn (nghe) mà còn phải bao gồm Tư, Tu, tức Bồ Tát phải học Tam Huệ Văn - Tư - Tu.

“Văn” là tiếp xúc, đối với người mới học, nghe pháp hết sức trọng yếu. Nếu như Văn Huân không trọng yếu như thế thì quý vị hãy suy nghĩ xem, lúc đức Thế Tôn tại thế, cần gì Phật phải giảng kinh thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm? Vì sao chẳng lập Niệm Phật Đường, dạy chúng ta thật thà niệm Phật? Hay lập Thiền Đường dạy chúng ta tu Thiền thất? Từ Đại Tạng Kinh chúng ta thấy: Suốt một đời đức Thế Tôn không làm những chuyện ấy. Mỗi một ngày, Ngài giảng kinh thuyết pháp cho đại chúng, nhưng trong số các đệ tử, chúng ta biết Thường Tùy Chúng là hai ngàn năm trăm năm mươi lăm vị. Những vị ấy chẳng rời khỏi Phật, Phật đi đến đâu họ liền theo đến đó. Nói cách khác, mỗi một vị đều nghe kinh suốt mấy chục năm. Ngày ngày nghe, nghe suốt mấy chục năm, Văn Huân đấy! Cũng có người trong số quý vị nghĩ họ có phước báo như thế, hằng ngày được nghe pháp từ nơi Phật, chúng ta không có phước. Thật ra, phước báo của con người chúng ta hiện thời chẳng kém phước báo của người thời ấy, có thể nói là còn lớn hơn họ nữa kia!

Trước kia không có máy thâu âm, không có máy thâu hình, nghe một lượt xong, không có cơ hội nghe lần thứ hai nữa. Suốt một đời Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh thuyết pháp, trừ Vô Lượng Thọ kinh ra, chưa hề giảng [kinh nào] hai lần. Vì thế Văn Huân đắc lực thật sự là chuyện rất khó. Do vậy, họ nghe quá nhiều, trọn chẳng chuyên nhất, hiệu quả đắc lực kém hơn rất nhiều. Hiện thời chúng ta có công cụ khoa học, nếu ưa thích Hoa Nghiêm thì mỗi ngày quý vị nghe kinh Hoa Nghiêm. Quý vị nghe trên mười năm hay tám năm, thâm nhập một môn so với những vị ấy theo Thích Ca Mâu Ni Phật suốt bốn mươi chín năm, hiệu quả còn thù thắng hơn nhiều! Nếu quý vị hỏi vì sao ư? Những vị ấy nghe nhiều quá, còn quý vị thì chuyên ròng một bộ. Nếu quý vị nghe Vô Lượng Thọ Kinh, nghe Di Đà Kinh, nghe hai trăm lượt, ba trăm lượt, sức Văn Huân chẳng thể nghĩ bàn. Vấn đề là chúng ta có làm được hay không? Có hiểu đạo lý ấy hay không? Có chịu làm như thế hay không? Kinh Di Đà gọi đó là “thiện căn, phước báo, nhân duyên”.

Thiện căn là hiểu rõ đạo lý này, thông đạt hiểu rõ là thiện căn, thật sự phát tâm là phước đức, duyên là cơ hội. Giống như trong ngôi đạo tràng nhỏ của chúng ta hiện thời, mỗi một ngày mở cửa cho mọi người niệm Phật tại đây, trong hai mươi bốn tiếng chẳng ngưng nghỉ, đấy là duyên, là cơ hội. Có cơ hội để mọi người niệm Phật tại đây, có cơ hội để mọi người mỗi ngày nghe kinh tại đây, đấy là nhân duyên. Thiện căn, phước đức, nhân duyên, ba điều kiện đều đầy đủ, đấy là đại phước báo! Phước báo thù thắng khôn sánh! Quý vị muốn thành tựu, không có lý nào chẳng thành tựu. Kinh giảng đến chỗ này, đại sư Thanh Lương dạy chúng ta: Vị Bồ Tát ấy chứng được địa vị Sơ Trụ là nhờ sức Văn Huân.

“Linh khai phát cố”: Chữ “khai phát” này là từ ngữ dùng trong nhà Thiền. Trong Thiền tông thường gọi là “minh tâm kiến tánh, khai ngộ”. “Khai” là khai ngộ, “phát” là phát tâm. Hễ khai ngộ sẽ phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, đấy là nhập địa vị Sơ Trụ, ý nghĩa ấy này được gọi là “quyết định giải”. Do vậy, dùng từ ngữ “trí quang chiếu diệu” để giải thích chữ “quyết định giải”.


Nam Mô A Di Đà Phật
dung phuong
Bài viết: 393
Ngày: 28/08/10 00:27
Giới tính: Nữ
Đến từ: japan

Re: Xin Chào diễn đàn

Bài viết chưa xem gửi bởi dung phuong »

thiệt là bạn tốt. ko biết nói gì hơn. cám ơn bãn nhiều
hôm nay phượng online cã đêm đễ xem kinh phật
nếu như có cơ duyên . gặp dc bạn
thi chat với phượng dc ko bạn?
phượng đợi bạn


nguynlinhtam
Bài viết: 1141
Ngày: 07/06/10 04:08
Giới tính: Nam

Re: Xin Chào diễn đàn

Bài viết chưa xem gửi bởi nguynlinhtam »

Chừng nào chị nghe xong rồi nói em đăng những bài giảng khác chị vào nghe nha :)



Thôi em không chat đâu bây giờ chị hết buồn lo tu hành là được rồi :">
http://niemphat.net/Luan/bonnguyen_np/bon_nguyen_np.htm
d. Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối. Năng chấp, sở chấp đều không thể đạt được.

Như thế nào mới gọi là chắc thật? Trong kinh Lăng Nghiêm, Ðại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta phương pháp niệm Phật: ‘Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối’ (Ðô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế), hết thảy chỉ có tám chữ. Nếu làm được tám chữ này thì đó tức là tiêu chuẩn của người chắc thật.

Nhiếp trọn sáu căn là gì? Nói thực ra Bồ Tát Quán Thế Âm đã dùng phương pháp này tu hành thành tựu. Bồ Tát Quán Thế Âm trong kinh Lăng Nghiêm, Chương Viên Thông có dạy: ‘Xoay trở lại nghe nơi tự tánh, tánh thành đạo vô thượng’ (Phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo). Ðây là tổng cương lãnh tu hành của Bồ Tát Quán Thế Âm. Phản văn tức là thâu nhiếp sáu căn. Phàm phu chúng ta khi mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, tâm cứ chạy nhảy bên ngoài, đều là phân biệt, chấp trước cảnh giới bên ngoài, như vậy là sai lầm. Sai ở chỗ nào? Kinh Kim Cang dạy chúng ta ‘Ba tâm không thể được’; tâm là gì, tâm tức là ý niệm, là tư tưởng.

Phật dạy: ‘Tâm quá khứ không thể đạt được’ tức là lúc trước không thể được, ‘tâm hiện nay không đạt được’, nói hiện nay thì hiện nay đã biến thành quá khứ; ‘tâm tương lai không đạt được’ tức là sau này không thể được. Ðiều này nói rõ ‘cái tâm mà bạn đạt được đó là hư vọng, chẳng phải thiệt’; tức là cái ý niệm mà bạn có thể chấp trước, phân biệt đó đều là hư vọng, chẳng phải chân thật. Bạn xem vật này thành chính mình, đó không phải là oan uổng sao! Ðức Phật gọi cảnh giới bên ngoài mà bạn tư duy là ‘pháp do nhân duyên sanh’. Không những pháp thế gian do nhân duyên sanh, Phật pháp xuất thế gian cũng do nhân duyên sanh. Phàm những gì do nhân duyên sanh thì bản thể vốn là không, trọn chẳng thể đạt được (đương thể tức không, liễu bất khả đắc). Nói cách khác, những gì bạn chấp đều không thể được, năng chấp (chủ thể chấp), sở chấp (cái được chấp) đều chẳng thể được, đây là chân tướng sự thật!

Hết thảy chúng sanh mê hoặc điên đảo, cứ tưởng mình có ‘chủ thể có thể chấp trước’, cảnh giới bên ngoài là ‘cái được mình chấp trước’, đó gọi là khởi vọng tưởng. Lúc khởi vọng tưởng thì biến thành lục đạo luân hồi, biến thành tam ác đạo, sẽ tạo nên rất nhiều thứ nghiệp. Cho nên trong kinh đức Phật gọi những người này là ‘những người đáng thương’, thiệt là tội nghiệp! Ðúng thiệt chỉ là một con số không, là mộng, huyễn, bọt, bóng – trong mộng, huyễn, bọt, bóng làm việc sinh nhai, trong mộng, huyễn, bọt, bóng tạo nghiệp, thọ tội; bạn nói như vậy chẳng phải oan uổng lắm sao?

Phật dạy chúng ta: ‘Pháp còn phải xả, huống chi là phi pháp’. Xả tức là không nên chấp trước. Phật pháp cũng không được chấp trước, huống chi là pháp thế gian? Việc này được giảng vô cùng thấu triệt; nếu bạn chẳng chấp trước gì hết thì tâm bạn sẽ thanh tịnh, tự tại. Ðó tức là câu ‘Tín tâm thanh tịnh, ắt sanh thật tướng’ trong kinh. Tự tánh Bát Nhã hiện tiền, lúc đó sẽ nhập Như Lai Ðịa. Tại sao chúng ta khởi vọng tưởng? Tại sao tự mình lại gây chuyện rắc rối cho mình? Hy vọng các bạn đồng tu đặc biệt chú ý điểm này, phải thường xuyên nhắc nhở chính mình: ‘lúc khởi tâm động niệm, hết thảy tạo tác, đừng gây rắc rối cho mình’.

Bạn có gây trở ngại cho người khác chăng? Nói cho quý vị biết tuyệt đối chẳng có. Nếu bạn có năng lực gây trở ngại cho người khác, chư Phật cũng tôn bạn làm thầy. Nguyên nhân là gì vậy? Hết thảy chư Phật chẳng có năng lực này! Bạn làm sao có năng lực này? Bạn nói có thể gây trở ngại cho người khác, đó đều là hảo hợp, nhân duyên [trùng hợp], đâu phải bạn có năng lực này? Ðây là khởi vọng tưởng. ‘Một miếng ăn, một hớp nước đều đã định sẵn từ trước’, đây là định luật nhân quả. Bạn làm sao có năng lực thay đổi nhân quả? Chẳng có đạo lý này. Ngay cả Phật, Bồ Tát cũng chẳng thể thay đổi nhân quả, trong kinh đã nói quá nhiều rồi, nêu thí dụ cũng rất nhiều. Nếu Phật có năng lực thay đổi nhân quả thì chúng ta đâu cần phải tu hành chi nữa? Nếu Phật chẳng độ chúng ta thành Phật thì Ngài đâu có từ bi? Nói thiệt ra Phật không có năng lực thay đổi nhân quả, nhất định là ‘tự mình làm, tự mình chịu’; tự bạn khởi lên vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, thì bạn phải đích thân đoạn trừ chấp trước, phân biệt, vọng tưởng. ‘Mở thắt gút vẫn phải do người buộc mở’, chuyện này bất cứ người nào khác cũng chẳng giúp được, đây là chân lý.


Nam Mô A Di Đà Phật
dung phuong
Bài viết: 393
Ngày: 28/08/10 00:27
Giới tính: Nữ
Đến từ: japan

Re: Xin Chào diễn đàn

Bài viết chưa xem gửi bởi dung phuong »

em cho chị nhiều như vậy. chị xem ko biết khi nào mới hết đó.cám ơn em
chị ban ngày đi làm. tối về xem tí xíu rồi đi ngũ
nên chĩ xem dc chút ít khi có thời gian
chị sẽ cố gắng tu hành. đễ ko phụ lòng tốt cũa các bạn diễn đàn đã 1 thời khuyên nhũ chị
và trong đó có em tốt bụng nữa đó
ko biết nói gì hơn. 2 chữ cám ơn tất cã các bạn và em
thôi chị đi làm nè
chào em


dung phuong
Bài viết: 393
Ngày: 28/08/10 00:27
Giới tính: Nữ
Đến từ: japan

Re: Xin Chào diễn đàn

Bài viết chưa xem gửi bởi dung phuong »

hôm nay. 1 ngày thứ 7 . đầy buồn và tức giận
nhưng mà mình biết đè nén dc.
sống . và tồn tạn. thật là khó
từ ngày mình dc biết diễn đàn đến hôm nay dc mới có 2 tháng
nhưng mà nhờ quen biết các bạn tốt. đã giúp cho mình rộng lòng thứ tha
và quên lãng những gì ko vui
từ ngày mình dc quen các bạn dạy cho mình biết nghe kinh phật và xem kinh phật
mình đã nằm mơ thấy phật. quan thế âm bồ tác 2 lần rồi đó
2 hom trước mình mới thấy nữa nè
thật tâm mình cám ơn diễn đàn và các bạn có tấm lòng từ bi. đã cứu mình ra khõi cãnh khỗ
mình cũng chúc cho ai có tâm trạng giống mình. sốm tiềm kiếm đến diễn đàn và tâm sẽ thãnh thơi như mình. và gát bõ hết buồn phiền. cám ơn nhiều . và cám ơn ai đã nghĩ dến mình
và cho mình xem những phim hay, kinh phật hay. mình ko còn buồn nữa, nếu các bạn có kinh phật phim phật. cho mình xin hết nha. cám ơn nhiều


nguynlinhtam
Bài viết: 1141
Ngày: 07/06/10 04:08
Giới tính: Nam

Re: Xin Chào diễn đàn

Bài viết chưa xem gửi bởi nguynlinhtam »

http://niemphat.net/Luan/niemphatthapyeu/chuong7.htm


Mục C. Cảnh Giới Phát Hiện

Tiết 49 Nội Cảnh Giới

Trên đường tu không tinh tấn dụng công thì thôi, nếu tinh tấn dụng công, nhứt định có cảnh giới. Cảnh giới này có trong và ngoài khác nhau. Trước tiên xin nói về phần trong tức là Nội cảnh giới.

Nội cảnh giới cũng gọi là “tự tâm cảnh giới”, vì cảnh giới này không phải từ bên ngoài vào, mà chính do nơi công dụng trong tâm phát hiện. Những người không hiểu rõ lý "muôn pháp do tâm" cho rằng tất cả cảnh giới đều từ bên ngoài đến, là lối nhận định sai lầm. Bởi khi hành giả dụng công đến mức tương ưng, dứt tuyệt ngoại duyên, thì chủng tử của các pháp tiềm tàng trong tạng thức liền phát sanh ra hiện hạnh. Với người niệm Phật trì chú, thì công năng của Phật hiệu và mật chú đi sâu vào nội tâm, tất gặp sự phản ứng của hạt giống thiện ác trong tạng thức, cảnh giới phát hiện rất là phức tạp. Các cảnh ấy thường hiện ra trong giấc mơ, hoặc ngay khi tỉnh thức đang dụng công niệm Phật. Nhà Phật gọi trạng thái này là "A lại da biến tướng."

* Trong giấc mơ, nếu do chủng tử ác phát hiện, hành giả hoặc thấy các loài sâu trong mình bò ra, hoặc thấy nơi thân có loại nhiều chân giống như bò cạp, rết, mỗi đêm mình gỡ ra năm bảy con; hoặc thấy các loài thú ma quái, cảnh tượng rất nhiều không tả xiết được! Đại khái người nhiều nghiệp tham nhiễm, bỏn sẻn, hiểm độc, thường thấy tướng nam nữ, rắn rết, hoặc dị loại sắc trắng. Người nhiều nghiệp sân hận, thường thường thấy cọp beo, hoặc dị loại sắc đỏ. Người nhiều nghiệp si mê, thường thấy loài súc vật, sò ốc, hoặc dị loại sắc đen. Tuy nhiên, đây chỉ nói với tánh cách ước lược, không phải tất cả đều nhứt định như thế.

Nếu do chủng tử lành phát hiện, hành giả thấy cây cao hoa lạ, thắng cảnh tươi tốt trang nghiêm, mành lưới châu ngọc; hoặc thấy mình ăn các thứ thơm ngon, mặc đồ trân phục, ở cung điện báu, hay nhẹ nhàng bay vượt lên hư không. Tóm lại, trong tâm của chúng sanh có đủ chủng tử mười pháp giới; chủng tử lành hiện thì thấy cảnh Phật, Bồ Tát, Nhơn, Thiên; chủng tử ác hiện, thấy cảnh tam đồ tội khổ. Như người kiếp trước có tu theo ngoại đạo, thường thấy mình phóng ra luồng điển, hoặc xuất hồn đi dạo chơi, tiếp xúc với các phần âm nói về chuyện thạnh suy, quốc sự. Hoặc có khi tâm thanh tịnh, trong giấc mơ thấy rõ việc xảy ra đôi ba ngày sau, hay năm bảy tháng sẽ đến. Đại khái người đời trước có tu, khi niệm Phật liền thấy cảnh giới lành. Còn kẻ nghiệp nhiều kém phước đức, khi mới niệm Phật thường thấy cảnh giới dữ; trì niệm lâu ngày ác tướng mới tiêu tan, lần lượt sẽ thấy điềm lành tốt.

* Về cảnh trong khi thức, nếu hành giả dụng công đến mức thuần thục, có lúc vọng tình thoạt nhiên tạm ngưng, thân ý tự tại. Có lúc niệm Phật đến bốn năm giờ, nhưng tự thấy thời gian rất ngắn chừng đôi ba phút. Có lúc đang trì niệm, các tướng tốt lạ hiện ra. Có lúc trong vô ý, tinh thần bỗng nhiên được đại khoái lạc. Có lúc trong một động, một tịnh, thấy tất cả tâm và cảnh đều không. Có lúc trong một phen thấy nghe, liền cảm ngộ lý khổ, không vô thường, vô ngã, dứt tuyệt tướng ta và người. Những tướng trạng như thế nhiều không thể tả xiết!

Có một Phật tử đang khi thức ngồi trong đêm tối niệm Phật, thoạt thấy dưới đất khắp nền nhà mọc lên hai loại hoa đỏ trắng cao tới thành giường, trên hư không hoa rơi xuống như mưa. Có vị đang khi quì niệm Phật, bỗng thấy trước bàn Phật hiện ra đóa hoa sen đỏ, từ búp lần lần nở tròn, độ mười lăm phút sau liền tan biến. Có một Phật tử đang khi niệm Phật, cảnh giới xung quanh bỗng ẩn mất, trước mắt hiện ra biển nước mênh mang, êm tịnh không sóng gió, trên mặt biển mọc lên vô số hoa sen nhiều màu đóa nào cũng to lớn; kế đó tướng biển ẩn mất, hiện ra cảnh núi non cỏ hoa tươi tốt, cổ thụ sum sê, có một ngôi chùa nguy nga tráng lệ; tiếp theo tướng chùa núi lại ẩn mất, hiện ra cảnh lưới châu, kết lại rồi đứt, đứt rồi lại kết. Đại loại có rất nhiều cảnh tướng như thế, do bút giả đã từng nghe những vị đồng tu trần thuật, nay chỉ kể ra đây ít chuyện để hiển minh.

* Những cảnh tướng như thế, gọi là Nội cảnh giới hay tự tâm cảnh giới, do một niệm khinh an hiện ra, hoặc do chủng tử lành của công đức niệm Phật trì chú biến hiện. Những cảnh này thoạt hiện liền mất, hành giả không nên chấp cho là thật có mà để tâm lưu luyến. Nếu sanh niệm luyến tiếc, nghĩ rằng cảnh giới ấy sao mà nhẹ nhàng an vui, sao mà trang nghiêm tốt đẹp, rồi mơ tưởng khó quên, mong cho lần sau lại được thấy nữa, đó là điểm sai lầm rất lớn. Cổ nhơn đã chỉ trích tâm niệm này là "gãi trước chờ ngứa." Bởi những cảnh tướng ấy do sự dụng công đắc lực tạm hiện mà thôi, chớ không có thật. Nên biết khi người tu dụng công đến trình độ nào, tự nhiên cảnh giới ấy sẽ hiện ra. Ví như người lữ hành mỗi khi đi qua một đoạn đường, tất lại có một đoạn cảnh vật sai khác hiển lộ. Nếu như kẻ lữ hành chưa đến nhà, mà tham luyến cảnh bên đường không chịu rời bước, tất có ngại đến cuộc hành trình, và bị bơ vơ giữa đường chẳng biết chừng nào mới về đến nhà an nghỉ. Người tu cũng thế, nếu tham luyến cảnh giới tạm, thì không làm sao chứng được cảnh giới thật. Thảng như mơ tưởng đến độ cuồng vọng, tất sẽ bị ma phá, làm hư hại cả một đời tu.

Kinh Kim Cang nói: "Phàm có những tướng đều là hư vọng; nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai" (Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng; nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai). "Có những tướng" không phải "những tướng có" thuộc về pháp hữu vi sanh diệt, bởi các tướng ấy chẳng tự bảo rằng mình có hay không, thật hay giả, chỉ do kẻ chưa ngộ đạo lý động niệm phân biệt, chấp cho là có, không, thật, giả, nên mới thành ra hư vọng. Đến như bậc tham thiền khi nhập định thấy định cảnh mênh mang rỗng không trong suốt, tự tại an nhàn, rồi sanh niệm ưa thích; hay khi tỏ ngộ được một đạo lý cao siêu, rồi vui mừng chấp giữ lấy, cũng đều thuộc về "có tướng." Và đã "có tướng" tức là có hư vọng. "Thấy các tướng" là thấy những tướng: lành, dữ, đẹp, xấu, dơ, sạch, có, không, Phật, chúng sanh, cho đến cảnh năm ấm, sáu trần v.v… "Chẳng phải tướng", nghĩa là thấy mà đừng chấp trước cũng đừng phủ nhận, cứ để cho nó tự nhiên. Tại sao không nên phủ nhận? - Bởi các tướng tuy hư huyễn, nhưng cũng chẳng phải là không; ví như bóng trăng đáy nước tuy không phải thật có, nhưng chẳng phải không có tướng hư huyễn của bóng trăng. Cho nên trong khi tu, nếu thấy các tướng hiện, đừng lưu ý cứ tiếp tục dụng công; ví như người lữ hành tuy thấy cảnh bên đường, nhưng vẫn tiến bước để mau về đến nhà. "Tức thấy Như Lai" là thấy bản tánh Phật, thấy được đạo vậy.

* Kết yếu lại, từ các tướng đã kể trên cho đến Sự nhứt tâm, Lý nhứt tâm, đều là Nội cảnh giới. Cảnh giới này có hai phương diện là: tương tợ và phần chứng. Cảnh tương tợ là tạm thấy rồi biến mất. Cảnh phần chứng là một khi được tất được vĩnh viễn, vì đã chứng ngộ được một phần Chân Như. Không luận Nội cảnh hay Ngoại cảnh, phàm tương tợ đều không phải Chân cảnh giới, mà gọi Thấu Tiêu Tức, nghĩa là thông thấu được một phần tin tức của chân tâm. Người thật phát lòng cầu giải thoát, chớ nên đem tướng Thấu Tiêu Tức nhận làm Chân cảnh giới. "Thấu Tiêu Tức" ví như cảnh trời âm u râm tối, hốt nhiên có trận gió thổi làm mây đen tạm phân khai, hé ra một chút ánh thái dương, kế đó mây đen lại che khuất. Lại như người xưa cọ cây lấy lửa, trước khi lửa bật lên, tất có tướng khói phát hiện. "Chân cảnh giới" ví như ánh thái dương sáng suốt giữa trời trong tạnh và như cọ cây đã lấy được lửa. Tuy nhiên, cũng đừng xem thường Thấu Tiêu Tức, vì được tướng này, mới chứng minh xác thật có Chân cảnh giới. Nên từ mức đó gia công tinh tấn, thì Chân cảnh giới cũng không xa.



Tiết 50 Ngoại Cảnh Giới

Ngoại cảnh giới là cảnh không phải do nội tâm hiện ra, mà từ bên ngoài đến. Hoặc có hành giả thấy Phật, Bồ Tát hiện thân thuyết pháp, khuyến tấn khen ngợi. Hoặc có hành giả đang khi niệm Phật, thoạt nhiên tâm khai, thấy ngay cõi Cực Lạc. Hoặc có hành giả đang tịnh niệm thấy chư thần tiên đến, chắp tay vi nhiễu xung quanh tỏ ý kính trọng, hoặc mời đi dạo chơi. Hoặc có hành giả thấy các vong đến cầu xin quy y. Hoặc có hành giả khi mức tu cao, bị ngoại ma đến thử thách khuấy nhiễu...

* Như khi xưa có một Phật tử căn tánh ngu tối, song thường kính niệm đức Quán Thế Âm. Một đêm nằm mơ thấy Bồ Tát đến bảo nên thường tham cứu bài kệ sau đây, lâu ngày sẽ được khai ngộ:

Đại trí phát nơi tâm
Nơi tâm chỗ nào tìm?
Thành tựu tất cả nghĩa
Không cổ cũng không kim!

* Như thời Trung Hoa Dân Quốc gần đây, có cư sĩ Giang Am Nam, vào tháng ba năm Nhâm Thân (1932), nhân khi bị bịnh được thấy cảnh Cực Lạc. Ông gượng đau viết thư cho anh là cư sĩ Giang Diệt Viên, đại khái như sau: "Em đau nặng. Vào khoảng ba giờ sáng ngày hai mươi lăm tháng ba, sau một cơn sấm sét mưa to, trời lại trong tạnh tỏ suốt như ban ngày. Nơi phương Tây, bỗng hiện ra chân cảnh thế giới Cực Lạc sáng mênh mang không ngằn mé. Em thấy bảy báu trang nghiêm, bảo thọ, bảo tháp, và vô số tướng trân kỳ. Phật ngồi giữa hư không, bảo em lên bái kiến. Nhưng khi em đến được trước Phật, kim tướng đức Di Đà Thế Tôn lần lần xa, tiếng nói vọng lại rất nhỏ, kế cảnh giới đều tan biến. Chắc là do định lực của em còn kém, nhưng từ đây em tin chắc cảnh Tây Phương Cực Lạc là xác thật..."

* Cũng trong thời Dân Quốc, có cư sĩ Lưu Khai Nan, biệt hiệu là Tây Tiều tiên sinh. Trước khi ông vãng sanh, chư thần mời đến cảnh U Minh xin nhậm quan chức; kế lại thấy chư thiên thỉnh lên cõi trời, cư sĩ đều nghiêm sắc khước từ, bảo: "Làm quan dễ tạo nghiệp, phước trời có lúc hết. Tôi chỉ nguyện sanh về Cực Lạc." Ít ngày sau cư sĩ vãng sanh.

* Một sư cô quen với bút giả tu ở gần vùng Đà Lạt. Sau thời trì chú, cô đang ngồi tịnh, bỗng thấy có hai sứ giả phong thái và cách trang phục như thần tiên, đến cung kính mời lên non viếng cảnh. Trong cơn định, sư cô hỏi: "Non cao, sức yếu, làm sao đi được" Một sứ giả đáp: "Không ngại, tôi đã có cách." Liền lấy cành cây tợ nhánh dương liễu, đập nhẹ vào mình sư cô và bảo đi theo. Cô bỗng thấy thân thể mình lâng lâng bay lướt trên đầu ngọn cỏ, giây phút sau cùng tiến lên non. Đến đây thấy cảnh tòng bá thanh u, công xòe, hạc múa, xa xa có một cung điện lầu các. Vừa khi ấy, cô thị giả ở nhà sau làm rớt đồ vật có tiếng động mạnh. Sư cô liền chợt giác tỉnh, cảnh giới tan mất, cảm thấy hai bắp đùi còn mỏi đau.

Những tướng trạng lược kể như trên, đều gọi là Ngoại cảnh giới. Có người hỏi: "Thấy Phật thấy hoa sen, có phải là cảnh ma chăng?" Xin đáp: "Nếu nhân quả phù hợp, không phải là cảnh ma. Bởi tông Tịnh Độ thuộc về "hữu môn", người niệm Phật khi mới phát tâm từ nơi tướng có mà đi vào, cầu được thấy thánh cảnh ở Tây Phương. Đến khi thấy hảo tướng đó là quả đến đáp nhân, nhân và quả hợp nhau, đâu phải cảnh ma? Trái lại, như Thiền Tông từ nơi "không môn" đi vào, khi phát tâm tu liền quét sạch tất cả tướng, cho đến tướng Phật tướng Pháp cũng đều bị phá trừ. Bậc Thiền Sĩ không cầu thấy Phật hoặc hoa sen, mà tướng Phật và hoa sen hiện ra, đó là nhân quả không phù hợp. Quả không có nhân mà phát hiện, đó mới chính thật là cảnh ma. Cho nên người tu thiền luôn luôn đưa cao gươm huệ, “ma đến giết ma, Phật đến giết Phật”, đi vào cảnh chân không, chẳng dung nạp một tướng nào cả.

Tuy nhiên, đó là chỉ nói những hành giả mới tu, riêng bậc tu thiền cao, có khi thấy các tướng song không phải là ma cảnh. Bởi những vị đã tu thiền nhiều kiếp, khi tâm địa khai thông, có thể thấy được cảnh ác đạo cùng thiên đường cho đến mười phương Tịnh Độ và Uế Độ; vì mười phương thế giới đều ở trong ánh sáng của chân tâm. Và người tu Tịnh Độ có khi thấy các tướng, nhưng lại là cảnh ma, mà đoạn Biện Ma Cảnh sau đây sẽ nói rõ.

Kết lại, Nội cảnh giới và Ngoại cảnh giới, là nói ước theo trình độ người còn đi trên bước đường tu tập. Đến như bậc đã chứng đạo quả, thì tâm tức cảnh, cảnh tức tâm, vạn vật cùng ta đồng một thể không có trong ngoài chi cả.



Tiết 51 Biện Ma Cảnh

Như trên đã nói, người niệm Phật có khi thấy các tướng song lại là ma cảnh; điều này chỉ cho trường hợp nhân quả không tương ứng. Chẳng hạn như người đang quán tướng Phật, hốt nhiên thấy tướng mỹ nữ. Kẻ tinh tấn niệm Phật mong thấy thắng cảnh ở Tây Phương, song chợt thấy một vùng nhà cửa ô tạp, nam nữ cùng loài súc vật đi qua chạy lại lăng xăng. Người mong thấy hoa sen báu, nhưng bỗng thấy một cỗ xe nhỏ. Do nhân quả không hợp nhau như thế, nên biết là cảnh ma. Có năm trường hợp để phân biệt là cảnh ma hay cảnh thật như sau:

1. Các cảnh nhân quả không phù hợp, quán tướng này song thấy tướng khác, cầu cảnh nọ mà lại hiện cảnh kia, như trên đã vừa nói. Và lại, cảnh hiện ra không giống như trong kinh diễn tả, đều là cảnh ma.

2. Chư Phật, Bồ Tát tâm từ bi trong sạch, cho nên dù hiện tướng quỷ thần đến thử thách, ta vẫn cảm thấy an nhiên thanh tịnh. Trái lại, bản nghiệp các loài ma là phiền não hiểm ác, nên dù hiện tướng Phật đến khuyên dạy, ta tự cảm thấy xao động nóng nảy không yên.

3. Ánh sáng của Phật làm cho ta cảm thấy êm dịu mát mẻ, lại không có bóng, không chói mắt. Ánh sáng của ma làm cho ta chói xót đôi mắt, bứt rứt không yên, và có bóng. Cho nên Kinh Lăng Già nói:

Phật địa là tối thắng
Trong sạch mầu trang nghiêm
Chiếu hiệu như lửa hừng
Ánh sáng đến khắp nơi
Rực rỡ không tổn mắt
Xoay vần độ ba cõi.

4. Lời thuyết pháp của Phật, Bồ Tát hợp với kinh điển, thuận theo chân lý. Lời của ma trái lẽ phải, không đúng với kinh Phật đã chỉ dạy.

5. Khi thắng tướng hiện ra, muốn khảo nghiệm, hành giả chỉ chánh ý tụng Bát Nhã Tâm Kinh, hoặc nhiếp tâm trì chú, niệm Phật. Nếu là thánh cảnh, càng niệm lại càng rõ ràng, vì vàng thật không sợ lửa. Nếu là ma cảnh, trì niệm một hồi nó liền ẩn mất, bởi tà không thể lấn chánh.

* Phải lấy cả năm điều như trên để xét nghiệm, chớ không thể chỉ một hai điều. Vì có những thiên ma hoặc thần tiên theo ngoại phái, muốn dắt dẫn ta hướng về đường lối của họ, nên giả hiện tướng Phật, Bồ Tát để thuyết pháp. Tuy môn tu của họ không phải là con đường cứu cánh giải thoát, song họ có nghiệp lành, hoặc sức Thiền Ðịnh khá cao, nên hào quang phát ra cũng làm cho ta được mát mẻ êm dịu. Lại lối thuyết pháp của họ đôi khi cũng khuyên làm lành giữ giới, ăn chay niệm Phật, song có một vài điểm sai khác không hợp với kinh Phật, phải nhận định kỹ và phải hiểu giáo lý mới biết được. Chẳng hạn như họ cũng khuyên ăn chay niệm Phật, nhưng lại dạy phải vận hành câu niệm Phật khắp châu thân gọi là "chuyển pháp luân" để khai thông mạch Nhâm, Đốc, và mở Nê Hoàn Cung. Đây là lối thuyết pháp của hàng ma ngoại đạo. Hoặc có loài ma hiện ra tướng cao tăng bảo: "Phật đồng, Phật xi măng không độ được nước, vì xuống nước phải chìm; Phật tượng, Phật gỗ không độ được lửa, vì gặp lửa phải bị cháy; chỉ có Phật tâm mới không bị vật chi làm hoại. Tu được Phật tâm thanh tịnh thì không cần tu thân và khẩu; cho nên dù ăn thịt uống rượu, có vợ con cũng vô hại. Lối tu thân và khẩu như giữ giới, ăn chay, tụng kinh, trì chú, niệm Phật, là những cách khổ hạnh bó buộc vô ích." Đây là lời thuyết pháp của hạng tinh mị lâu năm, hoặc loài ma ái dục. Có những hạng ma ngoại đạo công năng tu khá cao, có thể dùng sức Thiền Ðịnh gia bị, khiến cho hành giả thân tâm được an định trong vòng bảy ngày, hoặc hai mươi mốt ngày. Nhưng lối thuyết pháp của họ không siêu thoát, kết cuộc chỉ trong vòng ngã chấp.

* Cổ đức đã bảo: "Thấy ma không ma, ma liền tự hoại; thấy quái không quái, quái liền tự bại." Câu này có nghĩa: nếu thấy ma quái mà lòng không xao động sợ hãi, giữ chánh niệm được vững vàng, hoặc chí tâm niệm Phật, loài ma quái ấy không làm chi được, sẽ tự bỏ đi. Chẳng những khi thấy ma quái phải như thế, mà dù cho lúc tu hành được một phần kết quả, hay thấy thắng tướng, cũng đừng nên quá bi cảm, kinh ngạc hoặc vui mừng. Ví như ta có hạt châu làm rớt dưới đáy hồ, vì nước đục nên dò kiếm mãi vẫn mất tích. Nay nước lắng trong lại tìm thấy được, hạt châu ấy nguyên là của đã có, việc chi đến đỗi phải kinh ngạc, vui mừng? Người tu nếu tâm không bình tĩnh, quá bi thương, tất bị loài bi ma ám nhập làm cho thương khóc mãi chẳng thôi. Như quá vui mừng, cũng bị loài ma hoan hỷ ám nhập, làm cho cười mãi như điên cuồng. Lại, hành giả niệm Phật tuy cũng mong được thấy thánh cảnh, nhưng đừng quá mơ tưởng ước ao, bởi niệm tức là đã cầu rồi. Nên giữ tâm trạng điềm tĩnh, "cầu mà không cầu, không cầu mà cầu", mới không bị sự cầu mong làm xao động. Cứ chí tâm niệm Phật, lâu ngày niệm lực thanh tịnh đạo cảm ứng giao thông, tất thấy được thánh cảnh. Nếu mãi để lòng mong ước, đó tức là vọng tưởng, ma sẽ thừa cơ len lỏi vào để phá hoại.

* Vào khoảng Thanh mạt bước sang thời Dân Quốc, ở Trung Hoa có ông Ngụy Tịch Phủ vốn là thiền hữu của cư sĩ Dương Nhân Sơn, Ngụy Tịch Phủ tu tập Thiền Ðịnh gần ba mươi năm, một hôm bỗng được Thiên Nhãn Thông. Ban sơ, ông thấy những vật ngoài tường vách, kế lại thấy rõ những việc xung quanh vài ngoài mươi dặm như ở trước mắt. Biết mình đã đắc Thiên Nhãn, ông rất kinh ngạc vui mừng! Ban đầu chỉ thấy thôi, sau lại nghe rõ cả tiếng người và cầm thú ở ngoài xa. Đó là Thiên Nhĩ Thông tùy theo phát hiện. Lần hồi những sự vật ngoài mấy ngàn dặm, cũng đều thấy nghe được. Sau đó những việc chưa phát hiện, ông vẫn thấy nghe và hiểu biết rõ ràng. Đây là cảnh chứng của Túc Mạng Thông. Bấy giờ phe đảng của Hồng Tú Toàn thuộc nhóm Thái Bình Thiên Quốc chưa khởi sự đánh Thanh triều, nhưng Ngụy Tịch Phủ đã thấy trước chiến cuộc xảy ra ở Quảng Tây lần hồi đến Tô Châu, nhơn dân chết vô số. Bởi mục kích nhiều trạng thái chết chóc rất thê thảm, ông quá xúc động, gặp ai cũng thương khóc bảo: "Đại loạn sắp đến nơi rồi, dân chúng sẽ bị tàn lục khổ sở đáng thương xót, biết làm sao?" Lúc đó mọi người nghe ông nói thế, ai cũng cho là điên. Cư sĩ Dương Nhân Sơn bấy giờ ở kinh sư thường gần gũi ông, nên biết rõ việc ấy. Kế đó giặc xảy ra thật. Đến khi loạn bình rồi, Dương Nhân Sơn cư sĩ gặp Ngụy Tịch Phủ ở Dương Châu mấy lần, thấy ông vẫn còn khóc lóc. Sau Nhân Sơn gặp cư sĩ Đinh Phước Bảo, trần thuật lại sự việc và nói: "Đó là cảnh bi ma ám nhập. Phàm người tu đến lúc đắc lực, Thiên Nhãn Thông ngẫu nhiên phát hiện, nên soi về tự tánh, đừng để cho sắc trần làm lay chuyển. Nên biết các thần thông ta vẫn sẵn có, không nên quá mừng rỡ kinh ngạc cho là sự lạ kỳ."

* Trong Trúc Song Tùy Bút Lục, Liên Trì đại sư có thuật lại câu chuyện:

- Một thiền sư cất am tu gần khe suối. Đêm nọ đang lúc tĩnh tọa, sư nghe thấy hai con quỷ ngồi bên bờ suối nói với nhau rằng: "Ngày mai vào lúc xế chiều, có người đội mão sắt đi qua cầu suối này, tôi sẽ dìm cho chết đắm để thay thế." Con quỷ kia bảo: "Mừng giùm anh sẽ được thoát ly, tôi còn phải chịu lạnh lẽo chờ đến hai năm sau mới có người thế mạng." Thiền sư nghe xong lưu ý. Trưa hôm sau, một trận mưa to đổ xuống, nước dâng ngập cả suối cầu. Xế lại mưa còn lâm râm, quả nhiên có người đầu đội cái chảo gang, lần dò muốn vượt qua cầu suối về nhà. Sư liền đón lại thuật rõ sự việc nghe thấy. Người này cả kinh quay trở lại. Tối hôm đó, thiền giả nghe con quỷ nói: "Sắp được thoát ly mà bị ông thầy tu này phá hoại, đêm nay tôi phải báo thù mới được!" Sư nghe xong, liền nhiếp tâm nhập chánh định, thấy quỷ ra vào và đi xung quanh am mấy lượt như có ý tìm kiếm. Do sức chánh định, quỷ tìm mãi không thấy được thiền sư, sau cùng chán nản bỏ đi.

Trên đây là hai câu chuyện "bi ma" và "khước ma". Xin ghi lại cho chư liên hữu thêm phần ý thức trên đường tu niệm.



Tiết 52 Các Loại Ma

Ba tiết Nội Cảnh Giới, Ngoại Cảnh Giới, Biện Ma Cảnh vừa viết xong, có một liên hữu đến thăm thấy bút giả đang duyệt xem lại, liền xin đọc cho nghe. Sau khi nghe qua, vị này yêu cầu nói rõ thêm về các loại ma để những bạn đồng tu biết mà phòng ngừa. Thật ra, trong ba tiết trên đã nói khái quát về các cảnh giới, trong ấy có ma cảnh; nếu hành giả nắm được cương yếu, tự có thể giữ vững tâm và đối trị với mọi cảnh duyên phá hoại. Nhưng thể theo lời yêu cầu đó, nhân tiện cũng xin trình bày tổng quát về các loại ma như sau:

"Ma" tiếng Phạn gọi Ma La, Trung Hoa dịch là Sát, bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. "Ma" cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết Bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong vòng sống chết luân hồi, là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Ma tuy nhiều, nhưng kết yếu chỉ có ba loại là: Phiền Não Ma, Ngoại Ma và Thiên Ma.

* Phiền Não Ma chỉ cho các phiền não tham nhiễm, hờn giận, si, mê, khinh mạn, nghi ngờ, ác kiến; cho đến các thứ ma: năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới. Loại ma này cũng gọi là Nội ma, do lòng mê muội điên đảo sanh ra, nên phải dùng tâm chân chánh sáng suốt giác ngộ mà giải trừ. Phàm phu tự mình đã có những nghiệp riêng, lại do công nghiệp sống chung trong khung cảnh, mà người xung quanh phần nhiều tánh tình hiểm ác, nghiệp chướng lẫy lừng, nên dễ động sanh phiền não. Có kẻ không chịu đựng nổi sự lôi cuốn của ngũ trần, nên bị sa ngã. Có người vì nghịch cảnh, khiến cho bi thương sầu não, chí tiến thủ tiêu tan. Những sự việc này xui khiến người tu nhẹ thì ưu sầu, uất ức sanh đau bịnh; nặng thì chán nản bỏ đạo, hoặc phẫn chí tự tận; nguy hại hơn nữa, tất đến chỗ đối với hàng xuất gia, tại gia đều mất hết mỹ cảm, tránh xa chán ghét, sanh việc khinh rẻ, chê bai, không tin nhân quả, làm điều ác rồi phải đọa tam đồ.

Muốn đối trị thứ ma này, hành giả phải quán xét phiền não là hư huyễn, xao động, nóng bức, trói buộc, tối tăm, chỉ làm khổ cho người và mình. Dứt phiền não, ta sẽ trở về chân tâm tự tại giải thoát, mát lặng sáng trong, an vui mầu nhiệm. Đối với sự mê chấp từ năm ấm cho đến mười tám giới cũng nên quán như thế. Trong Kinh Pháp Hoa, đức Phật bảo: "Các ngươi chớ nên tham đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thô tệ. Nếu mê đắm tham trước, tất bị nó thiêu đốt." Khi xưa đức Văn Thù hỏi một vị thiên nữ: "Ngươi xem mười tám giới như thế nào?" Thiên nữ đáp: "Như thấy kiếp lửa đốt thế gian!" Đây là những lời cảnh giác để phá trừ loại ma phiền não.

Phiền Não Ma hay Nội Ma, nếu không chế phục được, tất sẽ chiêu cảm đến Ngoại Ma ở ngoài đến phá. Lời xưa nói: "Trong cửa có tiểu nhơn, ngoài cửa tiểu nhơn đến. Trong cửa có quân tử, ngoài cửa quân tử đến." Lại như khi ăn trộm đào ngách muốn vào nhà, gia chủ hay được tỏ ra bình tĩnh răn trách, tất nó phải sợ hãi bỏ đi. Nếu chủ nhà kinh sợ, rối rít năn nỉ, đó chính là thái độ khuyên rước trộm vào nhà vậy.

* Ngoại Ma là những loài quỷ thần, yêu mị bên ngoài. Người tu khi có đôi chút công phu, liền bị nó đến thử thách phá khuấy. Loài này có thể chia thành ba hạng là: Bố Ma, Ái Ma và Não Ma.

1. Bố Ma là loài ma ưa khủng bố làm cho người kinh sợ. Thứ ma này thường hóa hình cọp, sói, rắn, rít, hoặc các loài thú hung dữ kỳ lạ, hay hình ác quỷ ghê rợn để dọa nhát người tu. Những hình tướng này biến huyễn vô cùng, hoặc không đầu, nhiều đầu, nhiều tay, nhiều mắt; hoặc mình người đầu thú, mình thú đầu người, hoặc cầm khí giới, hoặc phun lửa đỏ. Nếu hành giả kinh hãi, liền bị nó phá làm mất chánh niệm, lắm khi sanh điên cuồng. Gặp cảnh này, nên nghĩ các tướng đều giả dối, ma chỉ có thể hủy diệt huyễn thân chớ không thể phá hoại được chân tâm. Suy xét như thế rồi liền bình tĩnh không sợ chết, an nhiên chuyên tâm niệm Phật hoặc trì chú, nó sẽ tự rút lui.

2. Ái Ma là loài ma khích động lòng ái dục cho đến tâm tham nhiễm cảnh ngũ trần. Chúng hóa hình nam, nữ lõa lồ xinh đẹp; hoặc hình cha mẹ, anh em, kẻ thân mến; cho đến thân Phật, Bồ Tát tướng tốt trang nghiêm để khuyến dụ. Nếu người thích ăn ngon, chúng hóa sơn hào, hải vị hương thơm ngào ngạt đem dâng; người ưa bảo vật, chúng hiện hình thú lạ ngậm châu ngọc đến hiến tặng. Tùy tâm niệm hành giả ưa thích điều chi, nó liền hiện ra thứ ấy. Chúng có thể dùng ma lực khiến cho người tu được tà định, tà trí, tài biện thuyết, phép thần thông biết quá khứ, vị lai. Những kẻ không hiểu cho là đã chứng đạo quả, thảy đều tin phục; song kỳ thật người kia trong tâm điên đảo, chuyên làm phép quỷ mê hoặc thế gian.

Có một nhà sư Việt Nam tu tại chùa Bàng Long bên Lào, trong khi Thiền Ðịnh thấy một nhóm mỹ nữ lõa lồ, nắm tay nhau nhảy múa. Sư trấn định tâm không nổi, liền thành khẩn niệm Phật, tướng ấy mới tan.

Khi xưa, ở chùa núi Chung Nam tại Trung Hoa, có một vị sư đang tham thiền, nhân khi trời lạnh bụng đói, động niệm tưởng ăn; bỗng thấy một thiếu phụ bưng thức ăn đến cúng dường. Thiếu phụ quì sớt đồ ăn vào bát, thỉnh sư nên dùng liền kẻo nguội lạnh, mất ngon. Sư vì đói muốn thọ dụng ngay, nhưng nghĩ chưa đến giờ thọ trai, nên nhẫn nại bảo hãy tạm để một bên, chờ đúng giờ rồi sẽ ăn. Thiếu phụ nghe nói, có vẻ hờn giận bỏ đi. Giây lâu sau đúng ngọ, sư giở bát ra thấy trong ấy toàn là giòi bò lúc nhúc. Chừng ấy ông mới tỉnh ngộ, biết vừa động sanh vọng niệm, liền rước lấy cảnh ma; may nhờ có chút định lực mới khỏi ăn đồ dơ và phạm giới sát.

Lại một vị sư cũng tu Thiền trong non, thấy mình lẻ loi cô quạnh, nên sanh vọng tưởng muốn được một ít người cùng ở cho vui. Vừa đâu có bà lão dẫn hai cô gái trẻ đẹp, bảo nhà ở dưới làng chân núi, tìm đến am tranh cầu xin dạy đạo. Vị tăng ban sơ không nghi ngờ, liền thuyết pháp khai thị. Tới lui như thế lâu ngày, một hôm bà lão thưa bạch xin cho hai cô gái làm thị giả lo việc giặt giũ, cơm nước để sư đỡ nhọc. Sư nghe nói thoáng sanh lòng ngờ lạ, liền nghiêm trách từ chối. Ba người đó có vẻ hờn thẹn bỏ đi. Sư lén theo dõi, qua một khúc quanh bỗng chợt mất bóng, đến xem thì đã cùng đường, lại không có nhà cửa chi cả, chỉ thấy ba gốc cổ thụ, một to, hai nhỏ. Ông suy nghĩ biết đây là yêu tinh cổ thụ làm quái; muốn đem búa chặt đốn hoặc nổi lửa thiêu đốt để dứt trừ hậu hoạn. Vừa nghĩ đến đó bỗng thấy ba người hiện ra cầu sám hối và xin tha mạng.

Thế nên biết, tâm yên cảnh lặng, vọng khởi ma sanh, người tu phải ghi nhớ điều này.

3. Não Ma là loại ma chuyên phá rối, làm não loạn người tu. Có giống tinh mị mỗi loài đến theo giờ của nó, đại khái mỗi giờ có ba loài, mười hai giờ thành ba mươi sáu loại tinh thú. Như giờ Dần đến, tất là loài cọp, beo, gấu; giờ Mẽo đến là loài mèo, thỏ, cáo; giờ Thìn đến là loài rồng, cá, thuồng luồng... Theo trong Tọa Thiền Chỉ Quán có thứ quỷ Du Lạp Kiết Chi, Trung Hoa gọi là Đôi Dịch, đầu mặt như cây đàn tỳ bà, bốn mắt, hai miệng, thường ưa khuấy động phá rối người tu. Chúng chờ khi người đang tụng niệm, hóa ra loài sâu trùng, hoặc bò lên khắp đầu mặt; hoặc chun vào miệng, lỗ mũi, mắt, lỗ tai; hoặc chui vào nách, bụng của hành giả mà cắn, chích. Đôi khi chúng kêu vang vào lỗ tai, làm thành tiếng ồn náo, nhức óc; hoặc chợt ôm giữ người, quơ tìm thì không đụng thấy. Chúng còn hóa ra cảnh ngũ trần hoặc thuận, hoặc nghịch, hoặc không thuận nghịch, biến huyễn khôn lường, làm cho hành giả loạn động chẳng biết đâu mà nhận thức, dễ mất định tâm. Muốn đối trị với ba mươi sáu loài tinh thú, cứ theo giờ kêu tên của nó mà quở trách; với ma Đôi Dịch, nên tụng Tam Quy, Ngũ Giới hoặc giới bổn, bởi chúng là thứ quỷ phạm tội phá giới. Làm như thế chúng liền ẩn mất. Hoặc cách đối trị tổng quát là nên nhiếp tâm vào chánh định, hay chuyên chí trì chú, niệm Phật, chúng sẽ biến tan.

Gặp cảnh ma chướng quá nhiều, người xưa còn có phương pháp là sắm hai mặt gương soi, rồi nhập thất bốn mươi chín ngày, chuyên tụng chú Đại Bi hoặc chú Chuẩn Đề gia trì vào trong gương. Xong, treo hai tấm gương trên cao chiếu nghiêng xuống nơi chỗ thường ngồi trì niệm, một để trước mặt, một ở sau lưng. Nếu loài ma đến liền bị thâu bắt hiện hình vào gương, chừng ấy hành giả muốn đuổi đi hay hành phạt gì tùy ý. Gương phép này lâu lâu phải dùng vải sạch lau chùi và gia trì thần chú một lần. Làm như thế nó chẳng những nhắc nhở cho sự trong sáng của tâm linh, mà còn tăng thêm phần ứng nghiệm. Đây là cách dùng gương để đối trị nội ma và ngoại ma theo kinh nghiệm của tiền nhơn.

Để nói rộng thêm, Ngoại Ma còn là những ma về bàng môn ngoại đạo. Theo chỗ nhận thấy của bút giả cùng nhiều đồng bạn, những vị kiếp trước hoặc kiếp này đã tu theo ngoại đạo, sau trở lại quy đầu Phật pháp; hoặc những vị tuy chỉ nương về Tam Bảo, nhưng xưa kia ông bà cha mẹ đều theo bàng môn, thường hay bị ngoại ma phá rối. Bởi lối tu của ngoại đạo đều không rời phiền não hữu lậu, còn trong vòng tự cao chấp ngã, tham đắm quyền danh, nên hàng ngoại đạo hay quy tụ bè phái, không muốn cho người có ít nhiều liên hệ với phe mình tu theo đạo khác. Bút giả có người bạn xuất gia, tánh nhu hòa hiền hậu, nhưng khi tu hành bị ngoại ma theo phá mãi. Tiếc vì ông bạn này còn vương hạt giống ngoại đạo, không chí tâm dùng Phật pháp đối trị với tà pháp. Trong lúc cùng quẫn vì ma phá, thầy đi nhiều nơi tìm sự cứu độ với các người tu theo ngoại phái. Kết cuộc thầy lạc hẳn về ngoại đạo, bề ngoài là hình thức tăng già, nhưng bên trong lại chuyên tu về luyện điển, bác phá sự lễ Phật tụng kinh, cho là chấp tướng.

Lại có một nữ Phật tử, tánh tình rất tốt, song thường lâm cảnh ngoại ma quấy nhiễu. Một độ nọ, trong lúc đang tu, cô bị ma ngoại đạo vây khổn, và nghe tiếng nói: "Ông cha mi đều là người tu theo phái Ngũ Hành của chúng ta, sao mi không trở về gốc cũ, lại đi theo đạo Phật?" Cô kinh hãi chí tâm niệm Phật, mỗi câu niệm Phật thấy có một làn ánh sáng phát ra che phủ thân mình, bọn ma không làm chi được. Chúng tức giận bảo: "Mi đừng cậy có phép Phật mà tự đắc tự kiêu, sẽ có người trưởng thượng của chúng ta đến đây cho mi biết thủ đoạn!" Nói xong, chúng liền rút lui. Khi ấy cô bỗng nghe tiếng một vị thiện thần bảo: "Bọn chúng ganh hờn vì cô quy y Tam Bảo, không theo đạo ông cha mà thờ cúng chúng nó. Ngay bây giờ cả hai tay cô nên kiết ấn Kim Cang quyền, bấm ngón tay cái vào lóng gốc ngón áp út và nắm chặt lại. Cứ giữ y như thế rồi thành tâm trì chú hoặc niệm Phật mãi, vì giây lát sẽ có người lớn của bọn chúng đến đây, dùng phép ngũ lôi đánh và bắt hồn cô. Vây cánh chúng rất đông, tôi chỉ giúp đỡ phần nào thôi, bởi cô thế không làm sao xua đuổi bọn nó nổi. Sức của cô cũng chỉ có hạn, sợ e lâu ngày chẳng kham chống trả, tốt hơn nên vào chùa tu mới tránh khỏi nạn." Cô liền y theo lời dặn, nắm tay lại kiết ấn và trì chú Đại Bi. Giây lát bỗng nghe tiếng ồn ào đông đảo, rồi có một làn chớp từ trên đánh xuống nặng nề như búa bổ, nóng rát, rêm nhức cả đầu. Cô liền buông bỏ tất cả ý niệm, liều mạng chí tâm trì chú, không còn biết cảnh giới bên ngoài ra sao, giây lâu nghe xung quanh lặng lẽ, thân tâm trở lại trong trạng thái yên ổn bình thường.

Sau đó, cô nương vào chùa, nhưng vì còn bà thân già hay đau yếu không ai săn sóc, nên bắt buộc phải về nhà lo phần sanh kế để phụng dưỡng. Một khoảng thời gian cách xa không gặp lại, bút giả nghe tin cô hay nói chuyện hư huyền, và xướng ra làm bịnh, biết cô chống không nổi nên đã bị ma ám nhập, chỉ riêng thầm thương xót thở than! Cho nên những vị trước kia có liên hệ với ngoại phái sau trở về tu Phật, nên nhìn gương trên mà lưu tâm cẩn thận.

* Thiên Ma là loại ma ở cõi Tha Hóa Tự Tại, thuộc tầng thứ sáu của trời Lục Dục. Loại ma này có phước báo, hưởng sự vui mầu nhiệm cao tột của ngũ trần, cho đó là cảnh khoái lạc tuyệt đối, nắm quyền hạn về dục nhiễm, không muốn ai thoát khỏi phạm vi ấy. Khi hành giả đạt đến mức tu khá cao, tâm quang phát lộ, ánh sáng chiếu thấu lên cõi trời Tha Hóa làm cho cung điện ma rung động, chúng liền phát giác và vì sợ e cho có người giải thoát, quyến thuộc mình sẽ bị giảm bớt đi, nên tìm cách phá hoại. Chúng hiện ra nhiều cảnh, hoặc hăm dọa, hoặc khuyến dụ, hoặc giúp cho sức tà định, tà trí cùng thần thông cốt để gạt gẫm; lại thay phiên nhau rình rập không giây phút nào xa rời để chờ cơ hội thuận tiện. Nếu hành giả có một niệm sơ hở, liền bị chúng ám nhập, xúi giục làm những điều trái đạo đức, đời tu kể như đã hư tàn. Trong Luận Khởi Tín, Mã Minh Đại Sĩ từng khuyên dạy:

"Trong khi hành giả tịnh tu, thường bị các thiên ma, ngoại đạo, hoặc quỷ thần làm não loạn. Chúng hiện các hình tướng ghê rợn để khủng bố, hoặc tướng nam nữ xinh đẹp mong quyến rũ. Có khi chúng hiện thân Phật, Bồ Tát hay chư Thiên đủ các tướng tốt trang nghiêm; hoặc nói các môn Đà Ra Ni; hoặc nói pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ; hoặc nói các pháp bình đẳng, không, vô tướng, vô nguyện, khen ngợi cảnh không oán không thân, không nhân không quả, cứu cánh rỗng không vắng lặng, bảo đó là chân Niết Bàn... Hoặc chúng làm cho hành giả biết đời trước của mình, suốt việc quá khứ vị lai (túc mạng thông), thấu rõ tâm niệm mọi người (tha tâm thông), cho đến được biện tài vô ngại. Chúng khiến người tu tham luyến danh lợi thế gian, tánh tình thất thường, hay giận, hay cười, ưa ngủ, nhiều bịnh, dễ xót thương xúc cảm, có khi rất tinh tấn, lắm lúc lại trễ nãi biếng lười. Hoặc chúng xui hành giả sanh tâm nghi ngờ không tin, nhiều lo nghĩ, bỏ pháp tu căn bản trở lại tu các tạp hạnh, đắm nhiễm những việc triền phược ở thế gian. Hoặc chúng làm cho hành giả được một ít phần tương tợ như Tam Muội, có thể ở trong định từ một ngày cho đến bảy ngày, thân tâm an vui không biết đói khát; song đó là do sức tà chứng của ngoại đạo gia bị, không phải thật Tam Muội. Hoặc lại khiến cho hành giả ăn uống không chừng độ, khi nhiều khi ít, sắc mặt biến đổi luôn. Khi gặp những cảnh như trên, người tu phải dùng trí huệ quán sát, gắng giữ chánh niệm, đừng sanh tâm chấp trước mà lạc vào lưới tà. Phải kiên trì như thế mới xa lìa được ma chướng."

* Kết lại, nếu nói ước lược hơn, chỉ có Nội ma và Ngoại ma; Thiên ma cũng nhiếp thuộc về loài Ngoại ma. Nhưng sở dĩ lập Thiên ma thành một loại riêng, là vì muốn cho hành giả lưu ý đến sự phá hoại nguy hiểm tinh vi của nó. Ngoài Phiền não ma, Ngoại ma, Thiên ma như trên, trong kinh còn có nói Bịnh ma và Tử ma. Bởi cơn đau bịnh thường làm cho hành giả tiêu giảm công phu, lại tu chưa đến đâu rồi chết có thể khiến người thối thất đạo quả, nên mới gọi là "ma". Nhưng Bịnh ma và Tử ma, đại ý chỉ cho sự chướng ngại của bịnh và chết thuộc thân tứ đại trên đường tu, không có tính cách phá hoại khuấy rối để giết hại đạo tâm theo nghĩa "ma" chân thật. Vì thế nên đây lược qua không đề cập đến.

Sức tu của người thời nay, phần nhiều bị Phiền Não ma hoặc Ngoại ma phá hoại, chưa đủ để cho Thiên ma phải ra tay. Loại ma này chỉ đến với những vị tu cao. Nếu Thiên ma quyết phá, những vị sức tu tầm thường khó có hy vọng thoát khỏi. Trong Kinh Lăng Nghiêm, vì thương đường tu nhiều hiểm nạn, đức Phật khuyên các hành giả tham thiền nên kiêm trì mật chú, để được nhờ thần lực gia hộ, thoát khỏi nạn ma thành tựu chánh định. Ấn Quang đại sư đã bảo: "Mới xem qua, dường như Kinh Lăng Nghiêm khác quan điểm với Tịnh Độ, nhưng xét nghĩ sâu mới thấy kinh này trong vô hình đã khen ngợi tuyên dương Tịnh Độ. Tại sao thế? Bởi bậc đã chứng đệ tam thánh quả A Na Hàm, còn có thể bị ma cảnh làm cho thối đọa; thì sự niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ càng nổi bật thêm tánh cách trọng yếu, trong ánh sáng nhiếp hộ của đức A Di Đà không còn nạn ma."

Cho nên xét luận trên đường hành đạo, khi chưa được sanh về Cực Lạc, thì tu Tịnh Độ cũng có thể bị ma chướng. Song phần nhiều đó là do hành giả không hiểu giáo lý, chẳng khéo trị tâm, để Nội ma phát khởi khiến chiêu cảm Ngoại ma đến phá hoại. Nếu giữ được tâm bình tĩnh, thì với oai lực công đức của câu hồng danh, ngoại ma không làm chi được, và phiền não cũng lần lần tiêu trừ. Vì thế người tu Tịnh Độ, ma cảnh nếu có cũng là phần ít. Trái lại, người tu thiền ma cảnh hiện nhiều, bởi chỉ nương vào tự lực. Bậc Thiền Sĩ phải đủ năm điều kiện sau đây, mới mong đường tu được thành tựu: Một, là giới hạnh tinh nghiêm; hai, căn tánh lẹ làng suốt sáng; thứ ba, phải hiểu rõ đạo lý, khéo phân biệt tướng chánh, tà, chân, vọng; bốn, ý chí mạnh mẽ vững bền, và năm, là phải nương bậc thiện tri thức thông kinh điển, đã có kinh nghiệm tu thiền nhiều năm, để nhờ sự hướng dẫn. Nếu thiếu năm điều kiện đó tất dễ bị ma nạn. Tiên đức đã bảo: "Khô mộc đường tiền thác lộ đa!" Câu này ý nói: trong cơ Thiền có rất nhiều duyên lạc lối. Vì thế tu thiền muốn được thành tựu, phải là bậc lợi trí thượng căn. Bậc tôn túc tông Thiền khi xưa, lúc truyền pháp cũng căn dặn: "Phi bậc thượng thượng căn. Đừng dễ dàng hứa nhận" (Phi thượng thượng căn. Thận vật khinh hứa). Lời nói này đủ chứng minh cho điều nhận xét trên.

Trong Luận Khởi Tín, sau khi kết hợp tổng quát về tinh yếu của pháp Đại Thừa, và trình bày xong đường lối tu tập, Mã Minh Bồ Tát lại bảo: "Cõi Ta Bà phiền não cang cường, chánh tín khó vững, không thường được gặp Phật nghe pháp, đường tu nhiều hiểm nạn chướng duyên. Nên biết Như Lai có phương tiện thù thắng, dạy cầu sanh về cõi Tịnh Độ ở tha phương. Như trong Khế kinh nói: Nếu chuyên tâm niệm Phật A Di Đà đem công đức tu hồi hướng cầu sanh Tây Phương, thì sẽ được về thế giới Cực Lạc, thường thấy Phật nghe pháp, không còn thối chuyển. Nếu hành giả y theo đường lối này tu tập, quyết định sẽ được vào chánh định tụ."

Như trên, ta thấy chuyên tâm niệm Phật là phương tiện mầu nhiệm để thoát khỏi nạn ma, mau thành tựu chánh định.


Nam Mô A Di Đà Phật
dung phuong
Bài viết: 393
Ngày: 28/08/10 00:27
Giới tính: Nữ
Đến từ: japan

Re: Xin Chào diễn đàn

Bài viết chưa xem gửi bởi dung phuong »

cám ơn em. chị đọc mà thấy sợ quá. cũng hên là chị ko mơ tháy những thứ như em tã
mà chị chĩ mơ tháy phật ba qun thế âm bồ tác
hy vọng chị dc như những gì em viết về giấc mơ cũa chị
chị yếu bóng vía lắm. ko ai dc hù chị. làm chị giụt mình chị chết thiệt đó
chị bị đau tim. ko phãi chị bệnh tim?
mà là cãm giác đó. người nhà cũa chị biết chị như vậy. nên ko có ai dám làm chị giựt mình
sợ kêu xe cứu thương đó em
chị rất sợ. ko dám xem máu. và những gì gọi là hung dũ. ghê gốm. đồ ăn chị cũng ko ăn những thứ mà sợ sợ
cám ơn em. chị sẽ đọc đi đọc lại đễ hiễu biết


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.31 khách