Bấy giờ đại Bồ tát Dược Quân từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt một vạt áo lên vai, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính hướng về đức Thế Tôn thưa rằng:
- Thưa Thế Tôn vì lý do gì mà những vị Thiên tử này lại hát bài kệ, thị hiện thần thông, dùng lời phong phú thiết tha tán dương công hạnh của Như Lai vậy?
Đức Phật bảo:
- Thiện nam tử, ông hãy nghe đây. Không phải họ tán dương Như Lai mà tán dương chính bản thân họ, Rồi họ sẽ đặt thân mình làm toà Pháp, sẽ đặt thân mình làm toà Pháp vô thượng, sẽ từ thân mình phóng ra ánh sáng, sẽ được tất cả Như Lai giữ gìn cho họ thành tựu vô thượng bồ đề, rồi chuyển pháp luân, giảng giải sâu rộng về chánh pháp thâm diệu.
Lúc ấy đại bồ tát Dược Quân thưa với đức Thế Tôn:
- Thưa Thế tôn, mỗi ngày đêm, có biết bao nhiêu chúng sinh được giải thoát, sao đến nay luân hồi vẫn chưa cạn?
Đức Thế Tôn đáp:
- Tốt lắm, Dược Quân, ông hỏi Như Lai như vậy là tốt lắm. Ông hãy nghe đây. Ví như có một phú ông, tiền rừng bạc biển. Người ấy có nhiều tiền, nhiều hạt, nhiều kho bồ, nhiều gia nô, tá điền. Lại có rất nhiều tài sản, ruộng vường, lúa mạch, lúa mì, lúa gạo, hạt mè, hạt đậu cả trăm giống loại đều dồi dào đầy đủ. Mùa Xuân gieo hạt, sang mùa Thu hạt chín gặt về chất vào kho. Hạt về tới kho, giống nào cất riêng giống nấy, ăn dần cho đến mùa xuân năm sau lại mang hạt ra cấy. Dược Quân, chúng sinh cũng vậy, trong quá khứ tạo được thiện nghiệp, luôn tìm phước điền để tạo thiện căn. Nhờ được thiện căn mà tinh tấn hành trì chánh pháp, khiến thiện căn tăng lên. Nhờ thiện pháp căn mà thâm tâm được hỉ lạc, tri túc, và nhờ đó mà trải qua hàng triệu kiếp thiện căn vẫn không bị phí uổng.
Dược Quân, Bồ tát mới phát tâm cũng vậy, nhờ phát tâm Bồ đề dũng mãnh mà thiện căn không hư hoại, nắm giữ các pháp trong dạng tinh túy nhất.
Dược Quân hỏi:
- Thưa Thế Tôn, Bồ tát mới phát tâm, trong mơ thường thấy gì?
Đức Thế Tôn đáp:
- Dược Quân, Bồ tát mới phát tâm trong mơ thường thấy cảnh dữ. Vì sao? Vì Bồ tát mới phát tâm đang giải nghiệp cũ. Dược Quân, gieo ác nghiệp rồi không thể tránh khỏi khổ đau. Nhưng Bồ tát thấy cảnh dữ trong mơ thì tâm không khiếp sợ.
Dược Quân lại hỏi:
- Thưa Thế Tôn, Bồ tát mới phát tâm, trong mơ thường thấy cảnh dữ gì?
Đức Thế Tôn đáp:
- Dược Quân, Bồ tát mới phát tâm, một là mơ thấy lửa cháy, khi ấy phải nghĩ rằng: "lửa này đốt tham dục". Dược Quân, hai là mơ thấy nước xoáy, Bồ tát mới phát tâm cũng không sợ hãi. Vì sao? Dược Quân, vì như vậy là có thể ném bỏ mọi ràng buộc từ vô minh, thanh tịnh ác nghiệp. Dược Quân, ba là mơ thấy cảnh cực kỳ dữ dằn.
Dược Quân hỏi:
- Là cảnh gì, thưa Thế Tôn?
Đức Thế Tôn đáp:
- Thấy đầu mình bị chém. Dược Quân, lúc ấy Bồ tát mới phát tâm cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì lúc ấy nghĩ rằng: "Tham, sân, si ta chặt lìa. Luân hồi sáu cõi, ta chiến thắng cả". Bồ tát mới phát tâm sẽ không bao giờ vào cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a tu la, rồng trời, mà chỉ sinh vào cõi Phật thanh tịnh. Dược Quân, trong tương lai, ở một thời về sau, nếu có ai có được niệm Bồ đề, phải nên thấy người ấy mang đại nguyện. Dược Quân, mặc dù người ấy sẽ bị trách móc, khinh rẻ. Dược Quân, khi Bồ tát đã phát tâm Bồ đề, không được sinh tâm buồn nản, chán chường.
BDược Quân, Pháp Như Lai dạy nhiều vô kể. Cả trăm ngàn lần vô số kiếp Như Lai siêng tu phạm hạnh. Dược Quân, việc khó làm, Như Lai đều làm được cả, không vì tiền tài thế lực, không vì mưu cầu hạnh phúc thế gian, cũng không vì thần thông, Dược Quân, việc khó làm Như Lai gánh hết, chỉ để hiểu được chân tướng của thực tại. Trước khi nghe được Chánh pháp Sanghata, Như Lai không được quả vô thượng Bồ đề. Ngay lúc nghe được Chánh pháp Sanghata, Như Lai đạt vô thượng Bồ đề.
Vậy ông phải biết Chánh pháp Sanghata là pháp cực kỳ sâu sa vi diệu. Dược Quân, cho dù cả trăm ngàn lần vô số kiếp cũng hiếm mà được nghe Chánh pháp Sanghata. Dược Quân, Như Lai xuất thế là điều cực kỳ hiếm hoi. Người thọ trì Chánh pháp Sanghata cũng cực kỳ hiếm hoi. Tất cả những ai được nghe chánh pháp này sẽ thành tựu vô thượng Bồ đề. Dược Quân, người ấy trong một trăm ngàn kiếp sẽ vượt thoát luân hồi, sẽ sinh vào cõi Phật thanh tịnh, sẽ đủ khả năng biết rõ các pháp Diệt và Đạo, biết rõ cội nguồn của chánh pháp, biết rõ thiện xứ, biết rõ và trực chứng thiện xứ, biết rõ thiện xứ và pháp diệt của thiện xứ. Dược Quân, ông có biết nói "diệt" là nghĩa gì?
Dược Quân đáp:
- Thưa Thế Tôn, "diệt" chính là pháp xứ.
Đức Thế Tôn lại hỏi:
- Pháp sứ là gì?
Dược Quân đáp:
- Thưa Thế Tôn, pháp xứ là "tinh tấn, trì giới", và "giới hạnh đầy đủ". Như vậy gọi là Pháp tạng, các pháp từ kho tàng chánh pháp này mà khởi sinh.
Đức Thế Tôn nói:
- Hay lắm, Dược Quân. Ông trước Như Lai đáp được nghĩa này, thật là hay lắm.
Dược Quân hỏi:
- Thưa Thế Tôn, vì lý do gì các đấng Như Lai xuất hiện cõi thế?
Đức Thế Tôn đáp:
- Dược Quân, người nào biết về kho tàng trí tuệ thí sẽ biết tướng hiện của Như Lai. Biết được tướng hiện của Như Lai thì biết tướng hiện của Như Lai là nơi an lạc thắng diệu. Rồi khi Như Lai xuất hiện cõi thế, người ấy sẽ thông đạt các pháp, nhờ khéo léo phương tiện mà biết rõ mọi việc thế gian và xuất thế gian, lại biết rõ được trí tuệ thế gian và xuất thế gian.
Dược Quân hỏi:
- Thưa Thế Tôn, được trí tuệ rồi, làm sao chứng Niết bàn?
Đức Thế Tôn đáp:
- Dược Quân, biết được chân tướng của các Pháp thì biết được Niết bàn. Dược Quân, tương tự như vậy, biết được chánh pháp trong dạng tinh túy nhất thì chứng ngộ đầu tiên khởi sinh. Giữ gìn chánh pháp trong tâm đúng như được nghe thì thu nhiếp được chánh pháp. Dược Quân, giống như một thương gia, đi xa làm giàu, thu góp vàng bạc của và của mình được ngàn nén vàng. Trước khi lên đường, cha mẹ dặn dò: "Con yêu quí, mang vàng bạc của mình và của người, nhiều những ngàn nén, phải thận trọng đừng để thất thoát uổng phí đi. Kiếm được nhiều lợi, phải giữ vàng cho cẩn thận. Đó là sẽ món lợi lớn cho chúng ta, cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc". Người con đáp: "con sẽ cẩn thận". Rồi mang vàng lên đường.
Thương gia mang vàng lên đường, chưa đầy tháng, số vàng đã phần mất phần phung phí, một nén cũng không còn.
Người ấy buồn rầu lo nghĩ, trái tim đau nhức bởi mũi tên sầu muộn. Quá lo lắng xấu hổ, người ấy không tìm về lại nhà. Cha mẹ ở nhà nghe tin trái tim đau nhức tuyệt vọng. Họ khóc vật vã, xé áo xé quần, nói rằng: "Thằng con bất hiếu! Vì nó mà cả nhà bị vạ lây! Đã không làm được gì cho cha mẹ, lại còn biến tất cả thành kẻ tôi đòi". Cha mẹ người ấy vì quá đau khổ tuyệt vọng nên qua đời. Người kia cũng quá đau khổ tuyệt vọng nên qua đời. Dược Quân, tương tự như vậy, mặc dù Như Lai đã có lời giải thích, nhưng đám người kia không tin lời Như Lai, đến nỗi tự mình tách lìa chính mình ra khỏi ngọc báu chánh pháp, tuyệt vọng mà tìm cái chết, khi lìa đời, trái tim đau nhức bởi mũi tên sầu muộn. Cũng như cha mẹ người kia, vì ham vàng mà khóc than vật vã, tâm thần xáo trộn tột bực, chỉ vì vàng bạc của mình và của người. Tương tự như vậy, Dược Quân, ai không tin lời Như Lai, tâm bất an, chịu đủ lại phiền não khi gần kề cái chết. Quá khứ làm được điều lành, đạt được cõi tái sinh tốt đẹp nhưng không biết tiếp tục tích lũy thiện nghiệp, để nghiệp báo cạn hết, tâm chìm trong phiền não. Bấy giờ thấy cảnh kinh hoàng cõi địa ngục, thai súc sinh và thế giới Diêm Vương, lai nghĩ "ai che chở cho tôi? để tôi khỏi thấy cảnh địa ngục, súc sinh, quỉ đói, cõi Diêm Vương, để tôi khỏi đớn đau nơi đó".
Người con lâm bệnh, thần trí mê sảng, trôi dần vào cõi chết. Cha mẹ nói:
- "Con yêu của cha mẹ,
Dù đau đớn tật bệnh
Là điều kinh hãi nhất
Nhưng con ơi đừng sợ
Con không thể nào chết.
Kẻ chết mới sợ bệnh
Con yêu hãy vững tin
Cho dù là tật bệnh
Hay sợ hãi tật bệnh
Rồi con sẽ thoát cả".
Người con đáp: "Thần thức mê mờ, thân thể nhức nhối, tứ chi đau đớn. Con thấy con đang chết. Mắt không thấy, tai không nghe, thân không cảm, tứ chi thúc đau như khúc gỗ vô tri. Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ nói cho con nghe, cái chết vẫn chưa đến đi mẹ!"
Người mẹ đáp: "Đừng nói vậy, con yêu. Con đừng làm mẹ sợ. Con chỉ sốt nóng mê sảng đó thôi".
Người con nói: "Con không cảm thấy thân con đang sốt, bệnh hay đau. Chỉ thấy cái chết bủa vây bức bách. Ai sẽ cứu con đây? Ai sẽ là người che chở cho con?"
Cha mẹ bảo rằng: "Con trai yêu ơi, con khổ như vậy chắc là vì thần linh đang giận giữ. Hay là đến cúng tế để xin họ che chở cho con?"
Người con nói: "Xin cha mẹ giúp cho con được yên ổn. Cha mẹ hãy đi nhanh, đến đền thờ cầu khẩn nhanh nhanh".
Cha mẹ người ấy đến đền thờ, cúng hương bái thần linh. Cúng hương rồi, người giữ đền nói: "Thần linh đang nổi giận với các người. Các người phải cúng tế đúng phép thì mới được yên. Cần phải giết một người để tế máu, con của các người sẽ khỏi bệnh". Khi ấy, cha mẹ người kia bàn với nhau: "Phải làm sao bây giờ? Chúng ta quá nghèo. Nếu thần linh không vui, con mình sẽ chết uổng, còn nếu khiến được thần linh vui, con mình sẽ được che chở. Thôi thì dù nghèo cũng nên kiếm cho ra một nạn nhân để tế thần". Bàn xong, họ vội chạy về nhà, có được chút gì, họ bán đi cả, vét hết tiền bạc, lịa đi vay thêm của người, hẹn mười ngày không trả được sẽ đến đợ thân trả nợ. Gom đủ vàng, họ liền mua một nạn nhân. Mua xong, nạn nhân ấy vẫn không biết mình sẽ thành vật tế thần. Cha mẹ người kia như cuồng như dại, không về nhà mà đi thẳng đến đền thờ, nói với người giữ đền: "Xin hãy chuẩn bị việc tế thần cho nhanh". Rồi tự tay giết nạn nhân, cướp đi mạng sống của người ấy. Người giữ đền đốt mỡ lên làm đồ cúng, bắt đầu lế tế thần. Lúc ấy thần linh giáng xuống, nói rằng: "Ta sẽ thâu nhận con trai các người". Cha mẹ người ấy vui mừng nhảy nhót, nói với nhau: "Vậy là con mình tai qua nạn khỏi, dù chúng ta có phải sống kiếp tôi đòi cũng cam tâm". Nói xong bái tạ thần linh, quay trở về nhà. Tới nhà thấy ngay con mình đã chết. Cha mẹ đau lòng quá độ, chết ngay tại chỗ. Dược Quân, cần phải thấy giao du với người bất thiện tai hại đến như vậy.
Dược Quân hỏi:
- Thưa Thế Tôn, xin cho con hỏi một điều.
Đức Thế Tôn nói:
- Dược Quân, ông cứ hỏi.
Dược Quân nói:
- Thưa Thế Tôn, những người kia chết rồi sinh về đâu?
Đức Phật nói:
- Thôi, Dược Quân, ông đừng hỏi việc ấy.
Dược Quân đáp:
- Xin đức Thế Tôn mở lòng từ bi nói cho chúng con được biết.
Đức Thế Tôn đáp:
- Dược Quân, người mẹ sinh vào địa ngục Khóc than (Hào Khiếu). Người cha sinh vào địa ngục Núi đè (Chúng hợp). Người con sinh vào địa ngục Nóng (Viêm nhiệt). Người giữ ngôi đền sinh vào địa ngục A tỳ.
Dược Quân hỏi:
- Thưa Thế Tôn, còn nạn nhân vô tội kia, sinh vào cõi nào?
Đức Thế Tôn đáp:
- Dược Quân, ông nên biết rằng người vô tội kia được sinh vào cõi trời Trayastrimsha (cõi trời Tam Thập Tam).
Dược Quân hỏi:
- Thưa Thế Tôn, nhờ nhân gì mà được sinh vào cõi trời Trayastrimsha?
Đức Thế Tôn đáp:
- Dược Quân ông hãy nghe đây. Lúc chết, lúc bị cướp đi mạng sống, người ấy nảy một niệm tin tưởng trong sáng nơi Như Lai, nói mấy chữ sau đây, "Nam mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri". Chỉ một lần thôi. Nhờ thiện căn này mà được sinh vào cõi trời ấy, sống an lạc sáu mươi kiếp. Biết được việc trong tám mươi kiếp về trước. Sinh ra ở đâu cũng không gặp phiền não. Sinh ra là phiền não tan đi. Chúng sinh ấy không thể làm cho phiền não tận diệt.
Nghe xong, đại Bồ tát Dược Quân hỏi:
- Thưa Thế Tôn, phải làm thế nào mới có thể làm cho phiền não tận diệt?
Đức Thế Tôn đáp:
- Dược Quân, cần phải tinh tấn vượt bực.
Dược Quân hỏi:
- Thưa Thế Tôn, phải tinh tấn vượt bực như thế nào?
Đức Thế Tôn đáp:
- Dược Quân, ông hãy nghe đây: tinh tấn là tướng hiện của quả. Cái gọi là "quả Tu đà hoàn", là chỗ hạnh của tinh tấn. Cái gọi là "quả Tư đà hàm", là chỗ hạnh của tinh tấn. Cái gọi là "quả A na hàm" là chỗ hạnh của tinh tấn. Cái gọi là "quả A la hán", và sự tịnh diệt của bậc A La Hán, là chỗ hạnh tinh tấn. Cái gọi là "quả Độc Giác" và trí tuệ của bậc Độc Giác, là chỗ hạnh của tinh tấn. Cái gọi là "quả Bồ tát" và đại giác ngộ, là chỗ hạnh của tinh tấn. Dược Quân, tất cả những điều nói trên đều được gọi là "chỗ của hạnh tinh tấn".
Dược Quân hỏi:
- Thưa Thế Tôn, Tu đà hoàn và quả Tu đà hoàn có tướng hiện như thế nào?
Đức Thế Tôn nói:
- Dược Quân, ví như có người trồng cây, vừa trống xuống, cây đã đâm chồi chỉa nhánh sum suê. Nội một ngày rễ sâu một do tuần. Lại cũng có người trồng cây, khi trồng gặp gió lớn, cây chẳng lên được chồi xanh nào. Người ấy bứng cây đi. Người kia thấy vậy lên tiếng: "Vì sao ông đào đất của tôi?" Trong lúc cả hai đang dằng co với nhau, nhà vua đi ngang, thấy có trận cãi vã liền bảo quần thần: "Gọi hai người ấy đến đây cho ta".
Quần thần vâng lời, chạy nhanh đến nói: "Đại Vương truyền gọi hai ông".
Nghe vậy, một người hoảng hốt sợ sệt, còn một người vẫn điềm tĩnh an nhiên. Cả hai đến trước mặt vua. Vua hỏi: "Vì cớ gì hai ngươi dằng co cãi vã với nhau?"
Một trong hai người đứng lên thưa: "Thưa Đại Vương, tôi không có ruộng vườn, chỉ mượn được mảnh đất này trồng cây. Trồng một ngày, cây đơm hoa kết trái, nửa sống nửa chín. Ngay ngày đó, người kia cũng đến trồng cây, nhưng trong khi trồng gặp gió lớn, cây không thể đâm chồi. Thưa Đại Vương, rễ cây của người ấy không sâu đủ một do tuần, vì vậy người ấy không vui đến kiếm chuyện sinh sự với tôi, nói rằng tất cả đều là lỗi của tôi. Xin Đại Vương xét cho, tôi hoàn toàn không có lỗi".
Khi ấy nhà vua triệu tập ba mươi triệu quần thần, phán rằng: "Các ông nói đi".
Quần thần thưa: "Tâu Đại Vương, nói điều gì?
Vua đáp: "Các ông có bao giờ từng nghe có ai trồng cây mà trong một ngày mọc lên đủ cành đủ lá, hoa trái sum suê, nửa sống nửa chín? Các ông nói thử xem có thể có chuyện như vậy được hay không?"
Quần thần đứng dậy, tâu rằng: "Tâu Đại Vương, chuyện này là phép lạ, chúng tôi không thể biết chắc được. Phải hỏi người kia kỹ hơn.
Nhà vua quay lại hỏi người kia: "Lời ngươi nói lúc nãy có thật không?"
Người ấy đáp: "Tâu Đại Vương, toàn là sự thật".
Vua nói: "Ta chưa từng nghe qua chuyện lạ như vậy. Ngươi nói rằng cây trồng một ngày, đơm hoa kết trái, thật là chuyện khó tin".
Người ấy chắp tay đáp: "Nếu Đại Vương không tin, xin cứ hãy đến đó đích thân trồng thử".
Vua bèn ra lệnh nhốt hai người kia vào ngục, tự mình dẫn ba mươi triệu quần thần ra mảnh đất nọ, lấy cây trồng thử. Cây không nảy mầm, không ra lá, chẳng đơm hoa, không kết trái. Vua nổi giận truyền lịnh: "Mang rìu lại đây". Quần thần đưa rìu lại, vua hạ lịnh đốn ngã gốc cây sum suê hoa trái người kia trồng. Thân cây ngã xuống, mười hai cây khác mọc lên. Vua lại bảo chặt. Mười hai cây ngã xuống, hai mươi bốn cây khác lại mọc, với đầy đủ gốc rễ hoa trái, chồi xanh mơn mởn, lấp lánh bảy thứ châu ngọc quí giá. Trên cây xuất hiện hai mươi bốn con chim mào vàng cánh ngọc, âm thanh trong suốt. Vua thấy vậy lại càng tức tối, tự tay đưa rìu bổ xuống gốc cây. Rìu phập vào thân cây, nước cam lồ tuôn ra. Bấy giờ nhà vua cảm thấy bất an, truyền lịnh: "Thả hai người kia ra khỏi ngục", quần thần dạ rang, tức tốc chạy về ngục dẫn hai người đến gặp vua.
Vua bấy giờ lên tiếng hỏi: "Ngươi trồng thứ cây gì, mà cứ đốn xuống thì lại mọc lên nhiều gấp bội, thành những hai mươi bốn cây, trong khi cây của ta chẳng ra mầm trổ lá, chẳng kết trái đơm hoa?"
Người kia thưa rằng: "Vì công đức người trồng không giống nhau".
Quần thần nghe xong, quì cả hai chân, nói với người kia: "Ông mới xứng là vua trị nước. Vua trước không xứng đáng".
Người kia bấy giờ nói:
- "Phước báu đế vương
Tôi chẳng mong cầu
Cũng không mong cầu
Tiền tài, của cải.
Chỉ tin nơi Phật.
Nguyện trở thành bậc
Tôn quí nhất trong
Các loài hai chân
Nguyện đến được nơi
Như Lai trú ở
Thanh tịnh Niết bàn.
Nguyện đem chánh pháp
Thuyết cho các ông
Cùng đến Niết bàn".
Người ấy xếp chân
Theo thế hoa sen
Và thú nhận rằng:
"Trong thời quá khứ
Tôi phạm ác nghiệp
Nên nay bị nhốt
Vào ngục của vua
Bây giờ tại đây
Phát tâm bồ đề
Nguyện tan nghiệp cũ".