KINH CHÁNH PHÁP SANGHATA

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

KINH CHÁNH PHÁP SANGHATA

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

sanghata.jpg
sanghata.jpg (393.28 KiB) Đã xem 2876 lần
KINH CHÁNH PHÁP
SANGHATA

Hồng Như chuyển Việt Ngữ
Hội Bảo Tồn Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa xuất bản
thubut.jpg
thubut.jpg (162.87 KiB) Đã xem 2878 lần
GIỚI THIỆU KINH CHÁNH PHÁP SANGHATA
Gần đây Lama Zopa Rinpoche đề nghị các trung tâm thuộc Hội Bảo Tồn Truyền Thống Phật Giáo Đại Thừa (FPMT) đọc tụng kinh Chánh Pháp Sanghata. Chỉ cần đọc tụng, thậm chí chỉ cần nghe thoáng qua tai, là gặt hái được cả một kho tàng công đức đồ sộ, vì vậy Lama Zopa Rinpoche khuyên Phật tử nên siêng năng đọc tụng để hồi hướng công đức cho Dự Án Phật Di Lặc, rồi chính Dự Án này sẽ mang công đức về cho khắp chúng sinh.

Kinh Chánh Pháp Sanghata do Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết trên đỉnh Linh Thứu tại thành Vương Xá. Cũng như mọi bộ kinh Đại thừa khác, Chánh Pháp Sanghata được đệ tử Phật ghi nhớ, chép lại bằng tiếng Phạn. Đặc điểm của kinh này là do đức Thích Ca Mâu Ni nhận từ đức Phật thời quá khứ, đồng thời tác dụng của kinh đối với người nghe hay đọc, tụng, cũng đặc biệt lớn lao.

Kinh Chánh Pháp Sanghata thuộc hệ kinh Đại Tập Bộ, có khả năng chuyển hóa tâm thức rất mạnh mẽ. Một trong những lợi ích lớn lao của kinh này là bất cứ ai đã từng đọc qua, đến khi chết sẽ được chư Phật đến an ủi tiếp dẫn trong quá trình vào cõi chết. Ngoài ra còn một lợi ích lớn lao khác, kinh văn có nêu rõ, đó là nơi nào có Chánh Pháp Sanghata thì đức Phật có mặt ngay nơi ấy. Do đó bộ kinh này còn có khả năng thanh tịnh hóa cảnh giới bên ngoài, ngay nơi chốn đang được đọc tụng.

Nói chung, đọc tụng kinh điển Đại thừa là một trong sáu phương pháp sám hối. Riêng kinh Chánh Pháp Sanghata đặc biệt có khả năng thanh tịnh nghiệp chướng nhiều đời. Phật giải thích phong phú trong kinh văn, rằng đọc tụng kinh này thì mọi chủng nghiệp phiền não đều đoạn diệt, gieo hạt giống an lạc cho tương lai, đến tận lúc thành Phật. Kinh này cũng giảng giải phong phú về quá trình hoại diệt của các thành phần tâm lý vật lý vào lúc mạng chung.

Khi xưa, kinh Chánh Pháp Sanghata đã từng là một trong những bộ kinh phổ biến nhất trong nhiều thế kỷ. Vào những năm 1930, các nhà khảo cổ đào phía Bắc nước Pakistan (thuộc địa Anh quốc), tìm được cả một kho kinh điển Phật giáo thuộc thế kỷ thứ năm sau công nguyên, xưa hơn những gì tìm thấy qua những cuộc khảo cổ về trước rất nhiều. Trong số những bộ kinh tìm thấy, kinh Chánh Pháp Sanghata được ghi chép nhiều nhất, nhiều hơn cả kinh Pháp Hoa, kinh Kim Cang, hay những bộ kinh thuộc hệ Bát Nhã hiện nay rất phổ biến. Kinh Chánh Pháp Sanghata vào thời phôi thai của Phật Giáo Đại thừa đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ, Hoa ngữ, Khotanese, Tạng ngữ, còn nguyên bản tiếng Phạn thì bị thất lạc. Phải đợi đến đợt khám phá thập niên 1930, nguyên văn tiếng Phạn mới được tìm thấy.

Gần đây, Lama Zopa Rinpoche ghé qua ngôi chùa do Geshe Sopa trụ trì ở Madison, đọc kinh Chánh Pháp Sanghata xong liền quyết định lấy mực vàng ròng chép lại bộ kinh, đồng thời khuyến khích đệ tử thường xuyên đọc tụng. Vào dịp tưởng niệm trận khủng bố New York ngày 11 tháng 9, Rinpoche yêu cầu đệ tử trên toàn thế giới đọc tụng càng nhiều càng tốt, hồi hướng công đức cầu nguyện cho nạn khủng bố chấm dứt.

Bộ kinh Chánh Pháp Sanghata có khả năng tác động mạnh mẽ lên tâm thức của người nghe và người đọc, giúp chúng ta cảm nhận được lòng từ bi vô hạn của đức Phật đối với chúng sinh. Phật thuyết Chánh Pháp Sanghata là để giúp chúng sinh mau chóng thành tựu vô thượng Bồ đề. Kinh văn có nhiều đoạn là lời nói trực tiếp của Phật, nên đọc kinh cũng là mang giọng nói của mình làm sống lại tiếng lời của Phật trong thế giới hôm nay. Đọc kinh này không những gặt hái được cho mình kho tàng công đức đồ sộ, mà còn trực tiếp góp phần bảo vệ hoằng dương chánh pháp. Đây cũng là điều cần thiết, giúp chúng sinh nhẹ bớt gánh nặng khổ đau.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
tuniemphat
Bài viết: 216
Ngày: 19/02/10 20:04
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Hà Nội, Việt Nam

Re: KINH CHÁNH PHÁP SANGHATA

Bài viết chưa xem gửi bởi tuniemphat »

Đệ thấy có hai Box trên diễn đàn này đã từng đăng bài về bộ kinh lớn này.
Đệ thấy bộ kinh này rất hiếm có đệ đã xem nó nhiều lần, và nghe đọc mp3 nó cũng rất nhiều lần. Cảm thấy mình thật may mắn khi gặp được kinh này.
Đây là đường link 2 box của kinh này:
http://diendan.daitangkinhvietnam.org/v ... =32&t=4395

http://diendan.daitangkinhvietnam.org/v ... =26&t=5256

Hôm nay mới được nhìn thây bìa cuốn kinh này do huynh Battinh đăng. Cảm ơn huynh rất nhiều!
Đệ thấy người thọ trì kinh này cuối cùng vẫn là về Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà. Trong kinh nhắc lại điều này rất nhiều lần.
A Di Đà Phật


[b]Nguyện đem tất cả công đức
Hồi hướng về Tây Phương Tịnh độ
Nguyện con cùng chúng sanh
Đều vãng sanh Cực Lạc[/b]

[b]A Di Đà Phật[/b]
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: KINH CHÁNH PHÁP SANGHATA

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

tuniemphat đã viết: Đệ thấy người thọ trì kinh này cuối cùng vẫn là về Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà. Trong kinh nhắc lại điều này rất nhiều lần.
A Di Đà Phật
tangbong tangbong tangbong


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: KINH CHÁNH PHÁP SANGHATA

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

tuade.jpg
tuade.jpg (154.07 KiB) Đã xem 2831 lần
  • Kính lạy chư Phật, chư Bồ Tát khắp cả
    mười phương cùng tận không gian
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ở thành Vương Xá, đỉnh Linh Thứu, cùng với ba mươi hai ngàn vị đại Tỳ kheo, toàn là bậc đại A la hán, trong đó có:
  • Tôn giả A Nhã Kiểu Trần Như (Ajñanakaundinya).
    Tôn giả Đại Mục Kiền Liên (MahaMaudgalyayana).
    Tôn giả Xá Lợi Phất (Shariputra).
    Tôn giả Đại Ca Diếp (Mahakashyapa).
    Tôn giả La Hầu La (Rahula).
    Tôn giả Bạt Câu La (Bakkula).
    Tôn giả Hiện Hộ (Bhadrapāla).
    Tôn giả Hiền Kiết Tường (Bhadrashri).
    Tôn giả Chiên Đàn Kiết Tường (Chandranashri).
    Tôn giả Dăng Gu La (Jangula).
    Tôn giả Tu Bồ Đề (Subhuti).
    Tôn giả Li Bà Đa (Revata).
    Tôn giả Nan Đà Quân (Nandasenal).
    Tôn giả A Nan (Ananda)
Cùng với sáu mươi hai ngàn vị đại Bồ tát, trong đó có:
  • Đại Bồ tát Từ Thị (Maitreya).
    Đại Bồ tát Phổ Dũng (Sarvashura).
    Đại Bồ tát Đồng Tử Kiết Tường (Kumarashi).
    Đại Bồ tát Đồng Tử Trụ (Kumaravasin).
    Đại Bồ tát Đồng Tử Hiển (Kumarabhadra).
    Đại Bồ tát Anuna (A-nu-ná).
    Đại Bồ tát Văn Thù (Manjushri).
    Đại Bồ tát Phổ Hiền (Samantabhadra).
    Đại Bồ tát Thiện Kiến (Sudarshana).
    Đại Bồ tát Dược Quân (Bhaishajyasena).
    Đại Bồ tát Kim Cang Quân (Vajrasena).
Cùng với mười hai ngàn Thiên tử, trong đó có:
  • Thiên tử Arjuna (At-du-ná).
    Thiên tử Hiền (Bhadra).
    Thiên tử Thiện Hiền (Subhadra).
    Thiên tử Pháp Ấn (Dharmaruci).
    Thiên tử Chiên Đàn Tạng (Chandanagarbha)
    Thiên tử Hương Trụ (Chandanavasin)
    Thiên tử Chiên Đàn Hương (Chandana).
Cùng với tám ngàn Thiên nữ, trong đó có:
  • Thiên nữ Mrdamgini (Mờ-đăm-ghi-ní).
    Thiên nữ Prasadavati (Pra-da-đa-va-tí).
    Thiên nữ Mahatmasamprayukta (Mà-ha-ma-săm-pra-yuk-tá).
    Thiên nữ Kiết Tường Mục (Glorious Eye).
    Thiên nữ Prajapati vasini (Pra-da-pa-ti-va-si-ní).
    Thiên nữ Balini (Bà-linis).
    Thiên nữ Đại Thế Chủ.
    Thiên nữ Subahuyukta (Xù-ba-hu-yuk-tá)
Cùng với tám ngàn Long vương, trong đó có:
  • Long vương Apalala (À-pa-la-lá).
    Long vương Ưu Bát La (Elapatra = Ề-la-pa-trá).
    Long vương Timingila (Tì-min-ghi-lá).
    Long vương Kumbha-sara (Kùm-ba-da-rá).
    Long vương Kumbha-shirsha (Kùm-ha-ri-r-sá).
    Long vương Dũng Đức.
    Long vương Diệu Hỷ (Sunanda).
    Long vương Sushakha (Xù-sa-khá).
    Long vương Gava-shirsha (Ga-va-si-r-sá).
Tất cả đều đến đỉnh Linh Thứu, thành Vương Xá, hội tụ quanh đức Thế Tôn. Đến nơi, họ đem dỉnh đầu lạy ngang chân đức Thế Tôn, đi quanh đức Thế Tôn ba vòng theo chiều bên phải rồi lui về chỗ ngồi. Đức Thế Tôn bấy giờ vẫn im lặng.

Lúc ấy đại Bồ tát Phổ Dũng từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt một vạt áo lên vai, gối bên phải quì xuống chấm đất, hai tay chắp lại, hướng về đức Phật cung kính thưa:

- Thưa Thế Tôn, vô số chư thiên, thiên tử và thiên nữ, vô số Bồ tát, Thanh văn, cùng các Long vương, đều đã về tụ hội, mong được nghe Pháp. Vậy kính xin Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri hãy chỉ đường cho chúng con vào với chánh pháp, để lời giảng vừa thoáng qua tai, chúng sinh nhiều tuổi liền thoát nghiệp chướng, chúng sinh ít tuổi liền tinh tấn tu thiện pháp, đạt tâm vô thượng, thiện nghiệp không thoái chuyển và sẽ không bao giờ còn thoái chuyển.

Nghe xong, đức Thế Tôn đáp:

- Lành thay, Phổ Dũng, lời ông hỏi thật tốt lắm. Ông hãy nghe kỹ, nhớ kỹ, Như Lai sẽ nói cho.

Đại Bồ tát Phổ Dũng đáp:

- Con xin theo lời Như Lai, - rồi lui về chỗ ngồi trước mặt đức Thế Tôn.

Bấy giờ đức Thế Tôn dạy:

- Phổ Dũng, có Chánh pháp tên Sanghata, lưu hành trên cõi địa cầu. Ai được nghe chánh pháp này, đến năm nghiệp vô gián cũng đều tiêu diệt, không còn thoái chuyển trước vô thượng Bồ đề. Này Phổ Dũng, ý ông nghĩ thế nào? Nếu ông nghĩ rằng công đức của người nghe kinh Sanghata cũng nhiều như công đức của một đấng Như Lai, thì ông nên biết, nghĩ như vậy là không đúng với sự thật.

Bồ tát Phổ Dũng hỏi:

- Thưa Thế Tôn, phải nghĩ thế nào mới đúng với sự thật?

Đức Thế Tôn dạy:

- Phổ Dũng, sông Hằng có bao nhiêu cát, ngần ấy đại Bồ tát và Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri có được bao nhiêu công đức, so với công đức của người nghe Chánh pháp Sanghata thật không sai khác. Phổ Dũng, những ai đã nghe chánh pháp Sanghata, sẽ không thoái chuyển, sẽ thấy Như Lai, sẽ không bao giờ lìa xa Như Lai cho đến khi đạt vô thượng Bồ đề, thiện nghiệp không bị ma vương phá hoại. Phổ Dũng, tất cả những ai được nghe Chánh pháp Sanghata này, đối với lý sinh diệt sẽ đều biết rõ.

Bấy giờ tất cả Bồ tát có mặt trong Pháp hội, cùng đứng dậy, vắt một vạt áo lên vai, gối bên phải quì xuống sát đất, thưa rằng:

- Thưa Thế Tôn, công đức của một đấng Như Lai nhiều bao nhiêu?

Đức Thế Tôn trả lời:

- Này các thiện nam tử, các ông hãy lắng nghe, Như Lai sẽ nói cho các ông biết lượng công đức của một đấng Phật đà. Lấy ví dụ đại dương có bao nhiêu giọt nước, cõi thế gian có bao nhiêu hạt bụi, sông Hằng có bao nhiêu cát, công đức của ngần ấy Bồ tát thập địa vẫn không thể sánh với công đức của một đấng Như Lai. Và công đức của người nghe Chánh pháp Sanghata lại còn nhiều hơn gấp bội, không thể dùng toán số đếm biết được. Phổ Dũng, vào thời mạt pháp, người nào nghe pháp này mà sanh lòng hoan hỉ khát khao Phật pháp thì công đức vô lượng vô biên.

Khi ấy, đại Bồ tát Phổ Dũng hỏi:

- Thưa Thế Tôn, ai là người khao khát Phật pháp?

Đức Thế Tôn dạy:

- Đại Bồ tát Phổ Dũng, người khát khao Phật pháp có hai loại. Một là người khởi tâm bình đẳng đối với hết thảy chúng sanh; hai là người đúng như pháp nghe được, bình đẳng nói lại cho tất cả chúng sanh nghe.

Đại Bồ tát Phổ Dũng thưa:

- Thưa Thế Tôn, thế nào là người đúng như pháp nghe được, bình đẳng nói lại cho tất cả chúng sanh cùng nghe?

Đức Phật dạy:

- Cũng có hai loại, một là người nghe pháp rồi mang tâm mình hồi hướng giác ngộ Bồ đề, vì tâm hồi hướng giác ngộ Bồ đề nên sẽ vì lợi ích của chúng sinh mà khát khao Phật pháp. Phổ Dũng, hai là người bước vào Đại thừa, bao giờ cũng khát khao Phật pháp.

Lúc ấy, hàng triệu Thiên tử, rồng, người và Thiên nữ cùng đứng dạy, chắp tay hướng về đức Thế Tôn cung kính thưa:

- Thưa Thế Tôn, chúng con cũng hết lòng khát khao Phật pháp. Xin Thế Tôn cho chúng con và chúng sinh cùng được như nguyện.

Bấy giờ đức Thế Tôn mỉm miệng cười.

Đại Bồ tát Phổ Dũng đứng dậy, chắp tay cúi đầu hướng về đức Thế Tôn:

- Thưa Thế Tôn, vì nhân gì, vì duyên gì mà đức Thế Tôn mỉm cười?

Đức Thế Tôn nói với đại Bồ tát Phổ Dũng:

- Phổ Dũng, ông nên biết chúng sinh đến dự đại hội này, tất cả rồi sẽ đạt vô thượng Tam Miệu Tam Bồ Đề, sẽ thành tựu viên mãn diệu dụng Như Lai.

Đại Bồ tát Phổ Dũng hỏi:

- Thưa Thế Tôn, vì nhân gì, duyên gì mà tất cả chúng sinh đến đây rồi sẽ đạt vô thượng Tam Miệu Tam Bồ Đề?

Đức Phật bảo:

- Lành thay, Phổ Dũng, ông hỏi Như Lai như vậy là tốt lắm. Ông hãy lắng nghe, Như Lai sẽ nói về ý nghĩa hồi hướng Bồ đề.

Phổ Dũng, vào một thời quá khứ cách bây giờ vô số thời kỳ, có một đức Phật xuất thế với đầy đủ các hiệu: Bảo Kiết Tường (Ratnashri), Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Phổ Dũng, lúc bấy giờ Như Lai đang là người trẻ tuổi thuộc giai cấp Bà la môn, còn chúng sinh ngày nay được Như Lai dẫn dắt vào Phật trí, khi ấy hãy còn là những con thú hoang. Lúc bấy giờ Như Lai phát nguyện như sau: "Nguyện mọi thú hoang đang bị dày vò khổ não được siêu thoát về cõi Phật; nguyện tôi sẽ là người dẫn dắt họ đến với trí Phật". Những con thú hoang kia nghe xong, nảy một niệm hoan hỷ, mong mình được như vậy. Phổ Dũng, nhờ gốc rễ điều lành (thiện căn) ấy mà ngày nay chúng sinh tụ họp ở đây rồi sẽ đạt giác ngộ vô thượng Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Nghe đức Thế Tôn nói về điều lành ấy xong, đại Bồ tát Phổ Dũng cung kính hỏi:

- Thưa Thế Tôn, chúng sinh ấy thọ được bao lâu?

Đức Phật dạy:

- Chúng sinh ấy có thể thọ đến tám mươi ngàn kiếp.

Bồ tát Phổ Dũng lại hỏi:

- Thưa đức Thế Tôn, một kiếp dài bao lâu?

Đức Phật dạy:

- Thiện nam tử, ông hãy nghe Như Lai nói đây. Ví dụ có người xây một thành lớn, chu vi rộng mười hai do tuần, cao ba do tuần, bên trong chứa toàn hạt mè. Cứ mỗi một ngàn năm lấy một hạt mè vất đi. Cứ như vậy, cho đến khi nào hạt mè cạn hết, nền móng trong thành cũng hư hoại cả, bấy giờ vẫn chưa xong một kiếp.

Lại nữa Phổ Dũng, ví dụ có một ngọn núi sâu năm mươi do tuần và cao mười hai do tuần. Có người xây nhà bên sườn núi, cứ một trăm năm cầm vải lụa mỏng lau núi đá một lần, đến khi núi đá mòn hết, một kiếp vẫn chưa xong. Phổ Dũng, một kiếp dài đến như vậy đó.

Lúc ấy, đại Bồ tát Phổ Dũng đứng lên nói:

- Thưa Thế Tôn, chỉ một niệm hồi hướng Bồ đề mà thọ đến tám mươi ngàn kiếp an vui, huống chi hết lòng tôn kính phụng sự diệu pháp của Như Lai.

Đức Phật dạy:

- Thiện nam tử, ông hãy nghe cho rõ, chỉ cần nghe được Chánh pháp Sanghata, có thể thọ tám mươi bốn ngàn kiếp, huống chi nghe rồi ghi chép, đọc tụng. Phổ Dũng, làm được như vậy, công đức gặt hái đồ sộ vô cùng.

Phổ Dũng, nếu có ai đối với chánh pháp này có được tín tâm trong sáng, hết lòng đảnh lễ, sẽ nhớ được chín mươi chín kiếp trước của mình. Người ấy sẽ làm vua Chuyển Pháp Luân trong sáu mươi kiếp. Ngay trong đời sống hiện tại luôn được mọi người thương mến kính trọng. Phổ Dũng, người ấy sẽ không chết vì đao gươm, không chết vì thuốc đọc, không bị tà phép ám hại. Đến lúc mạng chung sẽ được chín mươi chín triệu Phật đà đích thân tiếp dẫn và, Phổ Dũng, các đấng Thế Tôn Phật đà sẽ nói với người ấy rằng: "nhờ ông nghe được Chánh pháp Sanghata mà có được công đức này". Và chín mươi chín triệu đức Phật Thế Tôn sẽ thọ ký nơi chốn người ấy thành Phật.

Phổ Dũng, huống chi là nghe Chánh pháp Sanghata từ đầu chí cuối, kỹ lưỡng trọn vẹn. Chư Phật sẽ an ủi cho người ấy, rằng "con đừng sợ hãi".

Nghe vậy Bồ tát Phổ Dũng hỏi đức Thế Tôn:

- Thưa Thế Tôn, con cũng sẽ nghe Chánh pháp Sanghata, vậy sẽ được bao nhiêu công đức?

Đức Phật trả lời:

- Phổ Dũng, bằng công đức của hằng sa Phật đà, Như Lai.

Bồ tát Phổ Dũng thưa:

- Thưa Thế Tôn, con nghe chánh pháp này, tâm không thấy đủ.

Đức Phật dạy:

- Phổ Dũng, tốt lắm. Đối với chánh pháp tâm không thấy đủ là rất tốt. Chính Như Lai đây, đối với chánh pháp cũng không thấy đủ, huống chi người thường.

Phổ Dũng, thiện nam thiện nữ nào đối với pháp Đại thừa mà có lòng tin tưởng trong sáng, một ngàn kiếp sẽ không sanh lầm đường; năm ngàn kiếp không sanh về cõi súc sinh; mười hai ngàn kiếp không nảy niệm ác; mười tám ngàn kiếp không sinh về miền biên giã; hai mươi ngàn kiếp làm vị đại thí chủ; hai mươi lăm ngàn kiếp sanh về cõi trời; ba mươi lăm ngàn kiếp nghiêm giữ phạm hạnh; bốn mươi ngàn kiếp ly gia xuất thế, năm mươi ngàn kiếp thọ trì chánh pháp; sau mươi lăm ngàn kiếp an trụ chánh định về cái chết. Phổ Dũng, những người như vậy ác nghiệp nhỏ không dấy lên, ma chướng không còn có cơ hội tác hại, sẽ không sanh từ thai mẹ. Phổ Dũng, nếu có người nào nghe chánh pháp Sanghata này, bất kể sanh ra ở đâu, trong chín mươi lăm lần vô lượng kiếp không sanh vào ác đạo, tám mươi ngàn kiếp những gì đã học đều không quên; một ngàn kiếp từ bỏ nghiệp sát; chín mươi chín ngàn kiếp từ bỏ nghiệp nói lời không thật; mười ba ngàn kiếp từ bỏ nghiệp nói lời chia rẻ.

Phổ Dũng, chúng sinh nghe được chánh pháp này thật khó mà gặp được.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: KINH CHÁNH PHÁP SANGHATA

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Lúc ấy Bồ tát Phổ Dũng đứng dậy, vắt vạt áo lên vai, gối bên phải quì xuống sát đất, chắp tay hướng về đức Phật, cung kính hỏi:

- Kính đức Thế Tôn, nếu có ai khinh rẻ từ bỏ chánh pháp này, sẽ tạo bao nhiêu nghiệp dữ?

Đức Phật dạy:

- Phổ Dũng, rất nhiều.

Bồ tát Phổ Dũng lại hỏi:

- Thưa đức Thế Tôn, rất nhiều, là bao nhiêu?

Đức Phật dạy:

- Phổ Dũng, thôi ông đừng hỏi. Đừng hỏi Như Lai người khinh rẻ từ bỏ chánh pháp này tạo bao nhiêu nghiệp dữ, Phổ Dũng, so với nghiệp dữ tạo ra bởi hành động phỉ báng các bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri nhiều bằng số cát của mười hai sông Hằng, phỉ báng Chánh pháp Sanghata này nghiệp chướng sâu nặng hơn rất nhiều. Phổ Dũng, nếu có ai đối với chánh pháp này mà sinh tâm phỉ báng, đó chính là phỉ báng Đại Thừa, nên tội chướng nhiều hơn gấp bội, những người như vậy tự tay thiêu cháy chính mình. Họ tự mình thiêu cháy chính mình.

Bồ tát Phổ Dũng hỏi:

- Thưa Thế Tôn, phải chăng không thể giúp họ giải thoát.

Đức Thế Tôn đáp:

- Phổ Dũng đúng như ông nói, không thể giúp họ giải thoát.

Phổ Dũng, ví dụ có người đầu bị chặt đứt, nếu lấy các loại mật, đường, bơ, mạch nha hay dược phẩm làm thuốc xoa dán, ông nghĩ thế nào? Người ấy có khả năng đứng dậy được nữa không?

Bồ tát Phổ Dũng thưa:

- Không, thưa Thế Tôn. Không thể nào đứng dậy được nữa.

Đức Phật dạy:

- Phổ Dũng, lại ví có người cầm vũ khí sắc bén chém vào người khác. Tuy chém một nhát không giết được nhau nhưng cũng đã bị thương. Lúc ấy nếu được thuốc chữa, vết thương còn có thể lành. Chừng đó, khi sống lại, nhớ nỗi đau đớn của vết thương lúc trước, có thể nghĩ rằng: "Nay tôi đã hiểu, tôi sẽ không bao giờ còn làm việc ác, tạo ác nghiệp". Nhờ suy nghĩ như vậy, Phổ Dũng, người ấy có thể vì nhớ khổ đau mà từ bo việc ác. Bấy giờ có thể thấy chánh pháp. Rồi nhờ thấy chánh pháp mà thành tựu được tất cả thiện pháp.

Phổ Dũng, sự thể là như vậy. Ví như bậc cha mẹ thấy con mình chết trong đớn đau khổ não nhưng vẫn không có khả năng che chở, tương tự như vậy. Phổ Dũng, người phàm phu không có khả năng cứu mình, cứu người. Như bậc cha mẹ hy vọng mất hết, chúng sinh phàm phu cũng vậy, hy vọng mất hết, đến khi chết chẳng còn nơi nương tựa.

Phổ Dũng, có hai loại người đến khi chết hy vọng mất hết. Một là người tự mình làm việc ác hay khiến người khác làm; hai là người từ bỏ khinh rẻ chánh pháp. Hai loại người này đến lúc mạng chung, không còn chút hy vọng.

Đại Bồ tát Phổ Dũng hỏi:

- Thưa Thế Tôn, từ bỏ khinh rẻ chánh pháp thì phải đọa cõi nào? Phải sanh về đâu?

Đức Phật dạy:

- Phổ Dũng, khinh rẻ chánh pháp thì phải tái sanh triền miên không giới hạn, vô lượng kiếp về sau trầm luân trong luân hồi. Phổ Dũng, từ bỏ chánh pháp thì chịu đau đớn một kiếp trong địa ngục Hào Khiếu; một kiếp trong địa ngục Đại Hào Khiếu; một kiếp trong địa nguc Chúng Hợp; một kiếp trong địa ngục Viêm Nhiệt; một kiếp trong địa ngục Đại Nhiệt; một kiếp trong địa ngục Hắc Thằng; một kiếp trong địa ngục A Tỳ; một kiếp trong địa ngục Đẳng Hoạt; và Phổ Dũng, họ phải chịu khổ đau trong tám đại địa ngục như vậy cho đến tám kiếp.

Lúc ấy, đại Bồ tát Phổ Dũng nói rằng:

- Thưa Thế Tôn, thật quá đau khổ. Thưa Thiện Thệ, thật quá đau khổ. Con không đành lòng nghe.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ:
  • "Như Lai kể cảnh tượng
    Chúng sanh trong địa ngục
    Khổ đau như thế nào
    Ông không đành lòng nghe.

    Nếu làm những điều lành
    Sẽ được quả an lạc
    Còn làm những điều dữ
    Sẽ gặp quả khổ đau.

    Không biết tạo nhân vui
    Thì sanh trong cõi đời
    Bị dày vò nỗi chết
    Ràng buộc trong đớn đau.

    Ai nhớ Phật tối thắng
    Cấy trồng được nhân vui
    Tin tưởng nơi Đại thừa
    Sẽ không sa ác đạo.

    Phổ Dũng, ông nên biết
    Nghiệp cũ không mất đi
    Việc lành dù bé nhỏ
    Quả tốt vẫn vô lường.

    Nơi ruộng phước của Phật
    Là ruộng phước tối thượng
    Dù chỉ gieo một hạt
    Thu hoạch cũng lớn lao.

    Hái được bao hoa trái
    Do trồng vài hạt mầm
    Ai hoan hỷ chánh pháp
    Sẽ luôn dược yên vui.

    Sẽ lìa bỏ việc ác
    Làm hết những điều lành
    Dù cũng dường Phật pháp
    Vỏn vẹn một mảy lông
    Đến tám mươi ngàn kiếp
    Tài sản luôn dồi dào
    Dù sanh ra ở đâu
    Cũng siêng năng bố thí
    Do cúng dường Phật Bảo
    Thiện nghiệp nhiều vô tận.
Đại Bồ tát Phổ Dũng nghe xong bài kệ, cung kính hỏi đức Phật Thế Tôn:

- Thưa Thế Tôn, nên nghe chánh pháp dạy như thế nào? Nghe chánh pháp này rồi, làm sao nắm giữ gốc rễ điều lành?

Đức Phật bảo:

- Phổ Dũng, công đức của người nghe Chánh pháp Sanghata này phải biết là nhiều bằng công đức của người đã từng cúng dường phụng sự Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri nhiều như số cát của mười hai sông Hằng.

Bồ tát Phổ Dũng thưa:

- Thưa Thế Tôn, làm cách nào cho thiện căn viên mãn?

Đức Phật dạy:

- Phổ Dũng, ông nên biết thiện căn vốn bình đẳng với Như lai.

Bồ tát Phổ Dũng hỏi:

- Thưa Thế Tôn, thế nào là thiện căn bình đẳng với Như lai?

Đức Phật dạy:

- Đạo Sư thuyết chánh pháp, bình đẳng với Như lai.

Bồ tát Phổ Dũng lại thưa:

- Thưa đức Thế Tôn, như thế nào là Đạo sư thuyết chánh pháp?

Đức Phật dạy:

- Bất cứ một ai đọc tụng Chánh pháp Sanghata này, gọi là Đạo sư thuyết chánh pháp.

Bồ tát Phổ Dũng nói:

- Dù chỉ nghe Chánh pháp Sanghata công đức cũng đã nhiều vô kể, huống chi ghi chép đọc tụng. Công đức như vậy, nhiều bao nhiêu?

Đức Thế Tôn nói:

- Phổ Dũng, ông hãy nghe đây. Ví như mỗi phương đều có các bậc Như lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri nhiều bằng số cát của mười hai sông Hằng, ngồi thuyết giảng chánh pháp trong thời gian dài mười hai kiếp, dù giải thích không ngưng nghỉ về công đức của người ghi chép kinh Sanghata, cũng vẫn không thể dùng lời nói cho cùng tận. Cho dù các bậc Như lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri nhiều bằng số cát có trong bốn mươi tám sông Hằng, cũng không thể diễn tả hết được công đức của người ghi chép chánh pháp này, huống chi công đức của người ghi chép rồi suy nghĩ triết lý, đọc tụng, học thuộc lòng. Người ấy sẽ là kho tàng chánh pháp.

Đại Bồ tát Phổ Dũng hỏi:

- Thưa Thế Tôn, vậy lượng công đức của người đọc kinh này ra sao?

Bấy giờ đức Thế tôn nói bài kệ:
  • "Nếu có người đọc tụng
    Chánh pháp Sanghata
    Dù chỉ được bốn câu
    Thì dù chư Như Lai.
    Nhiều như số cát của
    Tám bốn ngàn sông Hằng
    Diễn tả không ngừng nghỉ
    Cũng không thể nói hết.
    Công đức của người ấy
    Chánh pháp chư Phật dạy
    Thật khó mà gặp được
    Rộng vô lượng vô biên".
Bấy giờ có tám mươi bốn trăm ngàn triệu loài trời chắp tay đảnh lễ, hướng về nơi kinh Chánh pháp Sanghata đang được tuyên thuyết, đồng thanh tán dương:

- Thưa Thế tôn, cho dù vì lý do gì, đức Thể tôn truyền lại cho thế gian này kho tàng chánh pháp siêu việt như vậy, thật là một điều lành.

Khi ấy có mười tám trăm ngàn triệu người tu theo đạo khổ hạnh lõa thể kéo đến chỗ đức Thế Tôn đang đứng, nói rằng:

- Này Cù Đàm Khổ Hạnh, ông hãy là người chiến thắng!

Đức Thế Tôn đáp:

- Như Lai luôn là người chiến thắng. Các ông ngoại đạo lõa thể, làm sao chiến thắng được ai?

Họ đều nói:

- Chúc cho ông chiến thắng, này Cù Đàm Khổ Hạnh, chúc cho ông chiến thắng.

Đức Thế Tôn đáp:
  • "Như lai không thấy
    Trong số các ông
    Có ai là bậc
    Chiến thắng chân thật.
    Với cái thấy điên đảo
    Lấy gì mà chiến thắng?
    Này những người lõa thể
    Hãy lắng nghe cho kỹ.
    Như Lai sẽ nói lời
    Lợi ích cho các ông
    Trí của một đứa trẻ
    Không có gì an lạc.
    Lấy gì mà chiến thắng?
    Các ông nên biết rằng
    Như Lai dùng Phật nhãn
    Thuyết giảng pháp thậm thâm.
    Bình đẳng với tất cả
    Ai cần được nghe pháp
    Như lai sẽ nói cho".
Đoàn người tu lõa thể nghe xong nổi giận, sinh lòng bất tín đối với đức Thế Tôn. Vừa lúc ấy, Thiên Vương Đế Thích (Indra) giáng sấm sét xuống, mười tám triệu người khổ hạnh lõa thể đồng loạt kinh hãi, tuyệt vọng đớn đau. Họ khóc than, nước mắt chảy thành dòng. Đức Thế Tôn tàng ẩn thân hình. Đoàn người tu đạo lõa thể nước mắt đầm đìa. Tìm quanh không thấy đức Thế Tôn, họ thốt lên lời kệ:
  • "Bây giờ không còn ai
    Che chở cho chúng con
    Không cả cha lẫn mẹ
    Như lạc cõi hoang vu
    Không một căn nhà trống
    Biết về đâu trú thân?
    Dòng nước nay đã cạn
    Cá biết lội nơi đâu?
    Cây xanh giờ không có
    Chim biết đậu chốn nào?
    Không có ai che chở
    Đau khổ thật vô biên
    Không còn thấy Như Lai
    Khổ đau dài vô tận".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: KINH CHÁNH PHÁP SANGHATA

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Lúc ấy, mười tám triệu người khổ hạnh lõa thể đứng lên, cả hai chân quì chấm mặt đất, cất tiếng hát rằng:
  • "Như Lai, bậc từ bi
    Là đấng cao quí nhất
    Trong toàn cõi con người.
    Xin Như Lai độ giúp,
    Làm nơi chốn chở che
    Cho những người tuyệt vọng".
Khi ấy đức Thế Tôn mỉm miệng cười, nói với đại Bồ tát Phổ Dũng:

- Phổ Dũng, ông hãy thay Như Lai mà nói chánh pháp cho các vị khổ hạnh lõa thể này.

Bồ tát Phổ Dũng đáp:

- Thưa Thế Tôn, như ngọn Hắc Sơn nghiền đá của mình để xoay đỉnh về đảnh lễ núi Tu Di, vua của các núi. Con cũng vậy thôi, làm sao có thể nói pháp, khi Như Lai đang đứng ở đây, ngay trong Pháp hội này?

Đức Thế Tôn dạy:

- Thôi, ông đừng nói, thiện nam tử. Phương tiện thiện xảo của Như Lai có rất nhiều, vậy Phổ Dũng, ông hãy du hành mười phương thế giới, thử tìm xem nơi nào đang hiện các đấng Như Lai, nơi nào đang dựng pháp đàn. Còn Như Lai sẽ ở đây nói chánh pháp cho các vị khổ hạnh lõa thể ngoại đạo này.

Bồ tát Phổ Dũng hỏi:

- Thưa Thế Tôn, con phải đi bằng thần lực nào? Bằng thần lực của mình hay của Như Lai?

Đức Phật bảo:

- Khi đi ông hãy dùng thần lực của chính mình. Khi về hãy nương nhờ thần lực của Như Lai.

Bồ tát Phổ Dũng nghe xong đứng dậy, đi quanh đức Thế Tôn ba vòng theo chiều bên phải, rồi thân hình biến mất ngay nơi ấy.

Đức Thế Tôn lúc bấy giờ nói với đoàn người khổ hạnh lõa thể như sau:

- Các ông nên biết sanh là khổ. Chính sự sanh ra đã là khổ não. Vì có sanh nên có sợ. Vì sanh mà sợ bệnh. Vì bệnh mà sợ già. Vì già mà sợ chết.

- Thưa Thế Tôn, Thế Tôn nói: "Vì sanh mà phát sinh lòng sợ sanh", là nghĩa gì?

- Vì sanh làm người nên có lắm nỗi sợ. Vua sợ nỗi vua. Cướp lo nỗi cướp. Sợ lửa, sợ thuốc độc, sợ nước, sợ gió, sợ lốc xoáy, sợ nghiệp đã làm.

Đức Thế Tôn cứ như vậy thuyết giảng phong phú về pháp sanh. Vào lúc bấy giờ, đoàn người khổ hạnh lõa thể ngoại đạo trong tâm cực kỳ kinh hoảng, nói rằng:

- Từ nay về sau, chúng con sẽ thôi không khao khát được sanh ra nữa.

Khi đức Thế Tôn giải thích về Chánh pháp Sanghata, cả đoàn mười tám triệu người khổ hạnh lõa thể đều phát tâm vô thượng Bồ đề. Trong thành phần Tăng chúng của Phật, có mười tám ngàn Bồ tát Thập địa dùng thần thông hoá hiện thân ngựa, voi, báo, kim sí điểu, núi Tu Di, chữ vạn, cũng có vị hoá hiện thân cây. Các vị đều ngồi kiết già trên tòa sen.

Chín ngàn triệu Bồ tát ngồi lại phía bên phải của đức Thế Tôn, chín ngàn triệu vị ngồi lại phía bên trái. Trong suốt khoảng thời gian đó, Phật nhập chánh định, thuyết pháp bằng phương tiện thiện xảo. Đến ngày thứ bảy, đức Thế Tôn duỗi cánh tay, biết đại Bồ tát Phổ Dũng đang trở về từ cõi Phật Liên Hoa Thượng. Khi đi, đại Bồ tát Phổ Dũng dùng thần lực của chính mình, hết bảy ngày mới đến được cõi Phật Liên Hoa Thượng. Khi đức Thế Tôn duỗi cánh tay, Bồ tát Phổ Dũng đã về bên cạnh đức Thế Tôn ba vòng theo chiều bên phải, Bồ tát Phổ Dũng nghe tâm tràn đầy tin tưởng, chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà thưa:

- Thưa Thế Tôn, con đã viếng tất cả thế giới hệ của mười phương, con đã gặp chín mươi chín ngàn triệu cõi Phật. Bằng hai thành thần lực của mình, con đã thấy được một ngàn triệu đấng Thế Tôn. Cứ như vậy cho đến ngày thứ bảy, tới được cõi Phật Liên Hoa Thượng, trên đường đi con cũng thấy trăm ngàn triệu cõi Như Lai bất động.

Thưa Thế Tôn, vào lúc ấy chư Phật Thế Tôn dùng thần lực hoá hiện, vì chúng sinh mà nói chánh pháp trong chín mươi hai ngàn triệu cõi Phật. Con thấy được tám mươi ngàn triệu cõi Phật, tám mươi ngàn triệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện trong cõi thế. Sau khi đảnh lễ từng vị xong, con đi lại tiếp.

Thưa Thế Tôn, ngay ngày hôm ấy, con đi qua ba mươi chín ngàn triệu cõi Phật, và trong ba mươi chín ngàn triệu cõi Phật này, có ba mươi chín ngàn triệu Bồ tát sinh ra, và trong cùng một ngày, thành tựu vô thượng Bồ đề. Con đi quanh các đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ấy ba vòng theo chiều bên phải, rồi dùng thần thông làm thân mình biến mất.

Thưa Thế Tôn, con cũng thấy chư Phật Thế Tôn, trong sáu mươi triệu cõi Phật, Con quì đảnh lễ từng cõi Phật, từng vị Phật Thế Tôn, rồi đi tiếp.

Thưa Thế Tôn, con lại thấy tám triệu cõi Phật, Như Lai nhập Niết bàn để giáo hoá chúng sinh. Con đảnh lễ chư vị rồi đi tiếp.

Lại nữa, thưa Thế Tôn, có chín mươi lăm triệu cõi Phật, chánh pháp đều mất cả. Con cực kỳ xao xuyến, bật khóc xót thương. Ở đó, con lại thấy có các loài trời, rồng (nagas), dạ xoa (yakshas), la sát (rakshasas), cùng nhiều loại chúng sinh khác trong cõi Dục giới khóc than khắc khoải. Thưa Thế Tôn, con lại thấy trong các cõi Phật ấy sông ngòi đại dương, núi Tu Di cùng cỏ cây đất đai đều cháy rụi không sót lại chút gì. Con quì đảnh lễ, nghe lòng tuyệt vọng rồi lại đi tiếp.

Thưa Thế Tôn, con lên đến tận cõi Phật Liên Hoa Thượng, thấy có năm trăm ngàn triệu tòa sen được dựng lên. Ở phía Nam, có một trăm ngàn triệu tòa sen. Ở phía Bắc, có một trăm ngàn triệu tòa sen. Ở phía Tây có một trăm ngàn triệu tòa sen. Ở không gian phía trên có một trăm ngàn triệu tòa sen. Thưa Thế Tôn, tất cả tòa sen được dựng bằng bảy loại châu báu, trên mỗi tòa sen là một đấng Như Lai đang thuyết pháp. Con kinh ngạc, hướng về tất cả các đấng Như lai ấy hỏi: "Không biết đây là cõi Phật nào?"

Các đấng Như Lai dạy rằng: "Thiện nam tử, đây là cõi Phật Liên Hoa Thượng".

- Thưa Thế tôn, con đi quanh theo chiều bên phải của tất cả các vị Như Lai ấy, và hỏi hồng danh của đấng Như Lai hóa chủ cõi Phật này. Chư Như lai đáp: "Hóa chủ cõi Phật này là đức Liên Hoa Tạng (Padmagarbha) Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri.

Lúc ấy con lại hỏi: "Con thấy có hàng trăm ngàn triệu đấng Như Lai, nhưng lại không biết đấng hóa chủ Liên Hoa Tạng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri là vị nào. Xin chỉ giúp cho con, đấng hoá chủ nơi đây là vị nào?" Như Lai đáp: "Thiện nam tử, Như Lai sẽ chỉ cho ông thấy đâu là Liên Hoa Tạng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri".

Nói vừa xong, tất cả chư Như Lai đều biến đi, hiện tướng Bồ tát. Chỉ còn lại một đấng Như Lai. Con đến đảnh lễ, đặt đỉnh đầu ngang chân Như Lai. Khi con vừa đến, một tòa sen hiện lên, con bước lên tòa sen ấy. Thưa Thế Tôn, lúc ấy bỗng dưng có rất nhiều tòa sen hiện lên, nhưng không ai ngồi trên đó cả. Con mới hỏi Liên Hoa Tạng Như Lai: "Kính thưa Như Lai, vì sao tòa sen lại trống không, không ai ngồi?" Liên Hoa Tạng Như Lai đáp: "Chưa trồng gốc rễ điều lành thì không đủ thần lực lên ngồi các tòa sen ấy".

Con lại hỏi: "Kính thưa Thế Tôn, muốn ngồi toà sen ấy phải trồng gốc rễ điều lành nào?"

- Đức Liên Hoa Tạng Như Lai đáp: "Ông hãy nghe đây, Thiện nam tử. Chúng sinh nào nghe được Chánh pháp Sanghata sẽ nhờ gốc rễ điều lành này mà lên ngồi tòa sen kia, huống chi người ghi chép, đọc tụng. Phổ Dũng, vì ông đã từng nghe qua Chánh pháp Sanghata nên bây giờ có thể lên ngồi tòa sen ấy. Bằng không, chẳng làm sao đến được cõi Phật này".

Đức Thế Tôn nói xong, con lại hỏi: "Thưa Thế Tôn, công đức của người nghe Chánh pháp Sanghata này được bao nhiêu?"

Liên Hoa Tạng Như Lai mỉm miệng cười. Con lại hỏi "Thưa Thế Tôn, vì nhân gì, vì duyên gì, mà Như Lai mỉm miệng cười?"

Đức Thế Tôn nói: "Này Thiện nam tử, này đại Bồ tát Phổ Dũng, bậc thần thông trí tuệ vượt bậc, ông hãy nghe cho kỹ. Ví dụ có người là vua Chuyển Pháp Luân ấy lấy hạt mè trồng đầy bốn lục địa, ông nghĩ thế nào, sẽ thu hoạch được bao nhiêu?"

Con thưa rằng: "Nhiều, thưa Thế Tôn, nhiều lắm, thưa Thiện Thệ".

Đức Thế Tôn bảo: "Phổ Dũng, ví dụ được bao nhiêu hạt mè, gom thành một đống, lại có người ngồi lượm từng hạt mà đếm, xếp sang một bên. Ông nghĩ thế nào, có đếm hết được không?"

Con thưa: "Thưa Thế Tôn, không thể được. Thưa Thiện Thệ, không có cách gì có thể đếm hết được".

- Phổ Dũng, tương tự như vậy, trừ phi là Như Lai, không ai có thể đếm biết công đức của Chánh pháp Sanghata này. Phổ Dũng, cho dù các bậc Như Lai nhiều bằng số lượng mè thu hoach được, tất cả cùng nói về công đức của người nghe Chánh pháp Sanghata, công đức ấy vẫn không thể nói cho cùng, cũng không thể dùng ví dụ diễn tả huống chi là công đức của người biên chép, đọc tụng, hay nhờ người biên chép.

Con lại hỏi: "Biên chép Chánh pháp Sanghata sẽ được phước gì?"

Đức Thế Tôn nói: "Thiện nam tử, ông hãy nghe đây. Nếu có ai mang hết cỏ có trong một triệu thế giới, cắt thành từng khúc dài bằng bề rộng của một ngón tay, và, Phổ Dũng, hãy nghe thêm hai ví dụ này, nếu tất cả đất, đá, núi, tất cả các vi trần biến thành một vị vua Chuyển Pháp Luân, thống lãnh bốn lục địa. Công đức của ngần ấy vua Chuyển Pháp Luân, có thể dùng toán số đếm biết được không?"

Con thưa: "Ngoài Như Lai, không ai có thể đếm biết được".

- Phổ Dũng, công đức của người ghi chép Kinh Chánh pháp Sanghata này cũng vậy. Ngần ấy vua Chuyển Pháp Luân được bao nhiêu công đức, vẫn không thể sánh nổi với công đức của người ghi chép chánh pháp này, dù chỉ một chữ. Tuy công đức của vua Chuyển Pháp Luân rất đồ sộ, vẫn không thể sánh bằng. Phổ Dũng, bậc đại Bồ tát cũng vậy, trụ thế hộ trì và hành trì chánh pháp Đại Thừa, công đức không thể nghĩ bàn, dù là vua Chuyển Pháp Luân cũng không thể sánh bằng. Tương tự như vậy, không gì có thể ví bằng công đức của người ghi chép kinh Chánh pháp Sanghata. Phổ Dũng, kinh Sanghata này vén mở một kho tàng công đức, hàng phục phiền não, tỏa rạng ngọn đèn chánh pháp, chiến thắng ma vương, làm sáng ngời các cõi thanh tịnh Bồ tát, mang lại thành tựu viên mãn các Pháp.

Nghe đức Như Lai nói xong, con hỏi: "Thưa Thế Tôn, ở cõi thế gian này, phạm hạnh là điều khó giữ. Nếu có ai tự hỏi vì sao lại như vậy, thưa Thế Tôn, là vì đường tu của Như Lai khó gặp, nên phạm hạnh cũng khó gặp. Siêng tu phạm hạnh thì thấy Như Lai; ngày cũng như đêm, Như Lai luôn ở trước mặt. Bao giờ trực tiếp thấy được Như Lai, ngày đêm chiêm bái, thì thấy được cõi Phật. Thấy cõi Phật thì thấy được kho tàng chánh pháp. Đến lúc chết, sợ hãi cũng không sinh. Do đó không lo, không buồn, không bị tham dục ràng buộc".

Con nói xong, đức Thế Tôn dạy rằng: "Phổ Dũng, Như Lai xuất hiện cõi thế là việc hiếm hoi khó gặp".

Con nói: "Thưa Thế Tôn, rất hiếm hoi. Thưa Thiện Thệ, rất khó gặp".

Đức Thế tôn nói: "Phổ Dũng, Chánh pháp Sanghata cũng vậy, cũng rất khó gặp. Chánh pháp Sanghata này đi vào lỗ tai ai, người ấy sẽ nhớ chuyện tám mươi kiếp trước. Sáu mươi ngàn kiếp sẽ làm vua Chuyển Pháp Luân, tám ngàn kiếp thành bậc Đế thích, hai mươi ngàn kiếp giàu có như chư thiên cõi trời thanh tịnh, ba mươi tám ngàn kiếp sinh làm đại Bà la môn, chín mươi chín ngàn kiếp không tái sinh cõi dữ, một trăm kiếp không sinh làm quỷ đói, hai mươi tám ngàn kiếp không sinh cõi súc sinh, mười ba ngàn kiếp không sinh cõi a tu la, không chết vì vũ khí, hai mươi lăm ngàn kiếp trí tuệ không bị khuất lấp, bảy ngàn kiếp sáng dạ thông minh, chín ngàn kiếp dung mạo uy nghi dễ mến, giống như tướng tốt của sắc thân Như Lai, hai mươi lăm ngàn kiếp không mang thân nữ, mười sáu ngàn kiếp không mang thân bệnh tật, ba mươi lăm ngàn kiếp được nhãn thông, mười chín ngàn kiếp không sinh làm loài rồng, sáu mươi ngàn kiếp không bị sân hận tác động, bảu ngàn kiếp không sinh vào gia đình nghèo khó, tám mươi ngàn kiếp sinh trên hai lục địa. Đến khi phước báu cạn, cũng được những điều như sau: mười hai ngàn kiếp không sinh làm người mù, mười ba ngàn kiếp không sinh vào ba cõi ác đạo, mười một ngàn kiếp làm vị hiền giả dạy các pháp nhẫn.

Đến lúc lâm chung, khi thần thức cuối cùng ngưng lìa, vẫn không vướng vọng tâm điên đảo, không bị sân hận tác dụng. Phương Đông sẽ thấy chư Phật Thế Tôn nhiều như số cát của mười hai sông Hằng; phương Nam sẽ thấy chư Phật Thế Tôn nhiều như số cát của hai mươi sông Hằng; phương Tây sẽ thấy chư Phật Thế Tôn nhiều như số cát của hai mươi lăm sông Hằng; Phương Bắc sẽ trực tiếp thấy chư Phật Thế Tôn nhiều như số cát của tám mươi sông Hằng; không gian phía trên sẽ trực tiếp thấy được các chư Phật Thế Tôn nhiều như số cát của chín mươi triệu sông Hằng; không gian phía dưới sẽ trực tiếp thấy được chư Phật Thế Tôn nhiều như số cát của tám triệu sông Hằng, tất cả đều trực tiếp hiện ra trước mắt người ấy, nói với người ấy như sau: "Thiện Nam tử, vì ông đã từng nghe qua Chánh pháp Sanghata nên đời sau sẽ được nhiều an lạc hạnh phúc, vì vậy ông đừng sợ hãi". Nói như vậy rồi, chư Như Lai lại an ủi người ấy: "Thiện nam tử, ông có thấy các bậc Như Lai nhiều như cát của hàng trăm tỷ triệu con sông Hằng không?"

Người ấy đáp: "Thưa Thế Tôn, con có thấy. Thưa Thiện Thệ, con có thấy".

Như Lai nói: "Thiện nam tử, các bậc Như Lai này đến để gặp ông".

Người ấy hỏi: "Con nhờ công đức gì mà được Như Lai đến gặp ở đây?"

Như Lai đáp: "Thiện nam tử, ông hãy nghe đây. Nhờ ông có được thân người, tai lại tình cờ nghe được Chánh pháp Sanghata, vì vậy tạo được công đức lớn tới như vậy".

Người ấy nói: "Thưa Thế Tôn, chỉ tình cờ nghe qua mà được công đức nhiều như vậy, nói gì người nghe được hết từ đầu chí cuối".

Như Lai nói: "Ông đừng nói, ông đừng nói. Thiện nam tử, Như Lai sẽ nói cho ông nghe về công đức của một bài kệ bốn câu. Thiện Nam tử, so với công đức của các bậc Như lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri nhiều như số cát của mười ba sông Hằng, công đức của một bài kệ bốn câu nhiều hơn rất nhiều. So với công đức của người cúng dường các bậc Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri nhiều bằng số cát có trong mười ba sông Hằng thì công đức của người nghe chỉ một bài kệ bốn câu của Chánh Pháp Sanghata này nhiều hơn rất nhiều, huống chi nghe được trọn vẹn từ đầu chí cuối. Ví dụ có một thiên hà bao gồm hàng tỷ thế giới phủ toàn hạt mè, và số lượng của vua Chuyển Pháp Luân nhiều bằng số hạt mè ấy, rồi có người nhiều tiền lắm của, cúng dường rộng rãi tất cả những vị vua Chuyển Pháp Luân kia, công đức ấy vẫn không sánh bằng công đức cúng dường một vị Tu đà hoàn.

Nếu tất cả chúng sinh trong toàn cõi thiên hà bao gồm hàng tỷ thế giới hệ đều trở thành bậc Tu đà hoàn, công đức cúng dường ngần ấy Tu đà hoàn vẫn không sánh bằng công đức cúng dường một vị Tư đà hàm. Nếu tất cả chúng sinh trong toàn cõi thiên hà bao gồm hàng tỉ thế giới đều trợ thành bậc Tư đà hàm, công đức cúng dường ngần ấy Tư đà hàm vẫn không sánh bằng công đức cúng dường một vị A na hàm. Nếu tất cả chúng sinh trong toàn cõi thiên hà bao gồm hàng tỷ thế giới hệ đều trở thành bậc A na hàm, công đức cúng dường ngần ấy A na hàm vẫn không sánh bằng công đức cúng dường một vị A la hán. Nếu tất cả chúng sinh trong toàn cõi thiên hà bao gồm hàng tỷ thế giới hệ đều trở thành bậc A la hán, công đức cúng dường ngần ấy A la hán vẫn không sánh bằng công đức cúng dường một vị Bích Chi Phật. Nếu tất cả chúng sinh trong toàn cõi thiên hà bao gồm hàng tỉ thế giới hệ đều trở thành bậc Bích Chi Phật, công đức cúng dường ngần ấy Bích Chi Phật vẫn không sánh bằng công đức cúng dường một vị Bồ tát. Nếu tất cả chúng sinh trong toàn cõi thiên hà bao gồm hàng tỷ thế giới hệ đều trở thành bậc Bồ tát, công đức cúng dường ngần ấy Bồ tát vẫn không sánh bằng công đức của người phát khởi tín tâm nơi một Như Lai, không thể sánh bằng công đức của người phát khởi tín tâm trong sáng nơi hàng tỷ thế hệ đầy cả Như Lai, và không thể sánh bằng người nghe Chánh pháp Sanghata này. Chừng đó, Phổ Dũng, có cần phải giải thích về công đức của người biên chép, đọc tụng thuộc lòng, suy xét nghĩa lý của người nghe chánh pháp này hay không? Có cần phải giải thích về công đức của người đối trước kinh này mà lễ bài với lòng tin tưởng trong sáng hay không?


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: KINH CHÁNH PHÁP SANGHATA

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

- Phổ Dũng, ông nghĩ thế nào? Có người tự hỏi kẻ phàm phu ấu trĩ có thể nghe chánh pháp này được hay chăng, dù có được nghe, cũng không thể tin nhận.

Phổ Dũng, ông hãy nghe đây, kẻ phàm phu ấu trĩ muốn chạm đáy đại dương, liệu có khả năng làm được việc này hay không?"

Con đáp: "Thưa Thế Tôn, không thể".

Đức Thế Tôn lại hỏi: "Có kẻ muốn đưa tay múc cạn đại dương, liệu có khả năng làm được việc này hay không?"

Con đáp: "Thưa Thế Tôn, không thể được. Thưa Thiện Thệ, không thể được".

Như Lai nói: "Phổ Dũng, chúng sinh không có khả năng vớt cạn đại dương, người mang tâm nguyện nhỏ bé cũng vậy, không có khả năng tiếp nhận chánh pháp này. Phổ Dũng, chưa gặp đủ chư Như Lai nhiều như số cát có trong tám mươi sông Hằng thì chưa thể ghi chép Chánh pháp Sanghata. Chưa gặp đủ chư Như Lai nhiều như số cát có trong chín mươi sông Hằng thì chưa thể nghe Chánh pháp Sanghata. Chưa gặp đủ trăm ngàn triệu triệu Như Lai thì dù gặp được chánh pháp này cũng không thể tín nhận. Phổ Dũng, người nào gặp đủ hằng sa số Như Lai, khi nghe chánh pháp này sẽ có được lòng tin trong sáng. Người ấy sẽ vô cùng hoan hỉ, sẽ có được cái nhìn đúng với sự thật (như thật tri kiến), sẽ tin nhận Chánh pháp Sanghata này mà không sinh lòng khinh rẻ".

- Phổ Dũng, ông hãy nghe đây, người nào ghi chép chỉ một bài kệ bốn câu của Chánh pháp Sanghata, sau khi đi qua chín mươi lăm ngàn triệu thế giới hệ thì cõi Phật của người ấy sẽ giống như cõi Tịnh Độ A Di Đà. Phổ Dũng, thọ mạng của chúng sinh ấy sẽ dài tám mươi bốn ngàn kiếp.

Phổ Dũng, ông hãy nghe đây, nếu có ai vướng nghiệp ngũ nghịch, hoặc tự mình làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy người làm mà lòng mừng theo, khi nghe được bài kệ bốn câu của Chánh pháp Sanghata này, tội chướng đều tiêu tan cả.

Phổ Dũng, ông hãy nghe, Như Lai sẽ nói thêm về diệu dụng của chánh pháp này. Ví dị có người phá huỷ tháp Phật, phá Tăng hoà hợp, quấy nhiễu chánh định của Bồ tát, hoại chánh trí Như Lai, giết cha giết mẹ. Nghiệp gây ra rồi lại hối hận, buồn bã nghĩ rằng "Thân này đã hỏng, đời sau cũng hỏng theo. Thật vô tích sự". Nghĩ rồi tâm sinh sầu thảm, đau đớn vô bờ. Phổ Dũng, người ấy bị người khác hắt hủi khinh rẻ. Đối với chuyện thế gian cũng như xuất thế đều trở nên vô dụng. Như thanh củi đã cháy thành tro, người ấy kiếp kiếp cũng đều như vậy. Như rường cột của căn nhà huy hoàng tráng lệ, lửa cháy rồi trông thật thê lương. Người ấy cũng vậy, trông thật thảm thương, ở đâu, chỗ nào cũng bị đánh đập chê trách; khổ sở đói khát bức bách, một miếng cũng không có mà ăn. Càng chịu khổ lớn, càng bị hành hạ đói khát, lại càng nhớ nghiệp pháp huỷ tháp Phật và năm nghiệp ngũ nghịch đã làm. Khi nhớ lại việc làm xưa, người ấy nghĩ rằng "rồi ta sẽ về đâu? Ai sẽ là người che chở cho ta?" Càng nghĩ càng tuyệt vọng "Đã không còn nơi nương dựa, thôi lên núi cao nhảy xuống vực cho xong". Người ấy nói:
  • "Nghiệp dữ đã tạo
    Nay như tro tàn
    Muôn đời lửa cháy
    Kiếp này không vẹn
    Kiếp sau không tròn
    Trong thân không an
    Ngoài thân không ổn
    Vì tâm mê lầm
    Nên tạo nghiệp ác
    Nghiệp ác phạm rồi
    Sẽ đoạ ác đạo
    Sinh đâu cũng vậy
    Cũng khổ như nhau"

    Người ấy nghĩ rồi
    Khóc than vật vã ,
    Tiếng khóc kinh động
    Đến cả chư thiên:

    "Bóng tối trước mặt
    Hy vọng không còn,
    Thôi ta đành phải
    Đoạ vào ác đạo".
Chư thiên lên tiếng bảo:
  • "Tâm trạng khổ đau
    Ngươi giữ làm gì?
    Hãy vứt hết xuống
    Thong thả mà đi".
Người ấy trả lời:
  • "Tôi giết cha mẹ
    Nghiệp ngũ nghịch vướng rồi
    Không còn nơi nương dựa
    Khổ đau làm sao chánh?
    Thôi tìm đỉnh núi cao
    Ném thân mình xuống vực".
Chư Thiên liền khuyên,
  • "Ngươi thật quá điên rồ
    Chớ làm điều dạo dột!
    Đã tạo nhiều ác nghiệp
    Đừng tự buộc thêm vào
    Ai tự hại chính mình
    Sẽ lạc sâu địa ngục
    Ở đó phải khóc gào
    Phải rơi nhào xuống đất
    Cố gắng kiều như vậy
    Chẳng thể thành Phật đà
    Chẳng thể thành Bồ tát
    Chẳng thể thành Thanh văn
    Phải tìm hướng đi khác
    Mà gắng sức vượt lên
    Ở trên ngọn núi kia
    Có một vị thánh nhân
    Ngươi ráng lên tìm gặp".

    Người kia lên đỉnh núi
    Gặp được đại thánh nhân
    Bỗng sinh lòng kính ngưỡng
    Liền quì xuống đê đầu:

    "Con nay khổ đã nhiều
    Lắm sợ hãi đau thương
    Xin thánh nhân che chở
    Cho con về nương dựa
    Cho con được nghe Pháp
    Dù chỉ chốc lát thôi
    Cho con được sám hối
    Những tội lỗi đã làm
    Xin thánh nhân hãy nói
    Với con một lời thôi".
Vị thánh nhân an ủi,
  • "Ông nay khóc đã nhiều
    Chịu bao nhiêu khổ não
    Đói khát và tuyệt vọng
    Trong ba cõi luân hồi.

    Vậy ông hãy vào đây
    Ăn uống rồi ngơi nghỉ
    Bao giờ thân bình an
    Bấy giờ hẵng nghe Pháp".

    Bao nhiêu món ăn ngon
    Người ấy ăn hết cả
    Ăn xong đi rửa tay
    Đi nhiễu quanh thánh hiền
    Rồi xếp chân tĩnh toạ.

    "Con giết mẹ giết cha
    Huỷ báng tháp của Phật
    Phá hoại hợp chúng Tăng
    Ngăn bồ tát thành đạo".

    Nghe xong những lời ấy
    Vị thánh nhân nói rằng:
    "Ông tạo nên nghiệp dữ
    Làm lắm việc tày trời
    Bây giờ phải sám hối
    Những việc ác đã làm
    Hay đã bảo người làm".

    Nghe thánh nhân nói vậy
    Tim người ấy rụng rời
    Tâm kinh hoàng tuyệt vọng:
    "Ai che chở cho con?
    Việc ác kia đã làm
    Khổ đau ắt phải chịu!"

    Người ấy cả hai chân
    Quì xuống chấm mặt đất.
    "Những tội ác sâu nặng,
    Đã làm hay bảo làm,
    Con xin sám hối cả.
    Nguyện đừng thành quả dữ,
    Nguyện đừng chịu khổ đau.
    Bây giờ con ở đây,
    Xin thánh nhân che chở,
    Xin cho con nương tựa,
    Xin giúp con sám hối,
    Cho tội chướng tiêu tan".
Lúc bấy giờ vị thánh nhân cất lời trấn an: "Ta sẽ làm nơi nương dựa. Ta sẽ nâng đỡ ông. Ta sẽ là người bạn che chở cho ông. Ông chớ nên lo sợ, hãy lắng nghe cho kỹ. Phật có một chánh pháp tên gọi là Sanghata, ông đã từng nghe qua bao giờ chưa".

Người ấy thưa: "Con chưa từng được nghe qua".

Thánh nhân nói:

- Thật là tội nghiệp. Nếu không trú ở lòng từ bi, có ai mang chánh pháp ra nói cho người bị lửa đốt bao giờ. Thiên nam tử, ông hãy nghe câu chuyện này. Ở một thời xa xưa, vô lượng kiếp về trước, có một vị Pháp Vương tên gọi Vô Cấu Nguyệt. Lúc bấy giờ vua Vô Cấu Nguyệt sinh được người con trai, liền mời các vị bà la môn rành xem tướng tới hỏi rằng: "Các ông xem tướng đứa bé này ra sao". Tất cả đều nói: "Thật chẳng lành. Đứa bé mới ra đời này, thật chẳng lành". Vua hỏi: "Đức bé lớn lên sẽ ra sao?" Tất cả đều nói: "Đứa bé này khi bảy tuổi sẽ làm hại tính mạng cha mẹ mình". Bấy giờ vua nói: "Dù đứa bé có sẽ hại mạng ta, nhưng nó vẫn là con ta, ta sẽ không hại nó, Huống chi thân người trong cõi thế gian này thật vô cùng quý hiếm, ta nhất định sẽ không giết hại bất cứ một ai".

Đứa bé lớn thật nhanh, qua một tháng đã lớn bằng trẻ hai tuổi. Thấy đứa bé lớn nhanh, vua biết đều là do nghiệp báo của mình, nên sớm trao lại ngôi báu cho đứa trẻ, dặn dò kỹ lưỡng: "Giang sơn này ta giao lại cho con. Con hãy là một vị vua tốt, hãy dùng chánh pháp mà trị dân, chuyện gì trái với chánh pháp, đừng bao giờ làm". Truyền ngôi xong, vua rũ bỏ mọi quyền hành của người trị nước.

Hàng triệu quan đại thần kép về cạnh vua Vô Cấu Nguyệt, thưa rằng: "Đại vương, vì lý do gì mà ngài dứt bỏ giang sơn, thôi không trị nước?"

Vua đáp: "Cho dù từ nhiều lần vô lượng kiếp ta luôn được làm vua với đầy đủ giang sơn, tài sản, quyền hành nhưng vẫn không thấy mãn nguyện".

Chẳng bao lâu sau, đứa con trai cướp đi mạng sống của cha mẹ, vướng nghiệp vô gián.

Ông có biết, ta còn nhớ khi vị vua trẻ giết cha mẹ mình rồi, cũng cảm thấy hối hận, cũng khóc than vật vã. Ta thấy vậy phát tâm đại từ bi, đến nói chánh pháp cho người ấy nghe. Người ấy nghe xong, nghiệp vô gián tiêu diệt nhanh chóng, không còn dấu vết.

Vị thánh nhân nói tiếp: "Chánh pháp Sanghata là chúa tể của mọi kinh, chư đại khổ hạnh nghe được rồi sẽ nắm được cội nguồn chánh pháp vô lượng, xoá tan mọi nghiệp chướng, tiêu diệt mọi phiền não thác loạn.
  • Đường dẫn đến giải thoát
    Ta sẽ nói ở đây
    Ông hãy nghe cho kỹ.

    Một bài kệ bốn câu
    Nếu được giảng liên tục
    Sẽ diệt mọi nghiệp chướng
    Đạt quả Tu đà hoàn
    Giải thoát mọi ác nghiệp.

    Khi lời này nói ra
    Chúng sinh bị ràng buộc
    Trong địa ngục kinh hoàng
    Đều được giải thoát cả.

    Người ấy nghe xong rồi
    Từ chỗ ngồi đứng dậy,
    Hai bàn tay chắp lại,
    Đảnh lễ dưới chân thầy:

    "Lành thay, ôi lành thay!
    Lành thay, thiện tri thức,
    Lành thay, đấng đạo sư,
    Vạch lối đi vi diệu,
    Chánh pháp Sanghata,
    Chiến thắng mọi nghiệp dữ.
    Lành thay cho những ai
    Được nghe chánh pháp này!"
Sửa lần cuối bởi battinh vào ngày 01/07/14 16:14 với 1 lần sửa.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: KINH CHÁNH PHÁP SANGHATA

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Vào lúc bấy giờ, ở khoảng không gian phía trên, mười hai ngàn thiên tử cùng chắp tay, tiến đến trước mặt thánh nhân, quì xuống đảnh lễ, nói rằng: "Thượng nhân, thượng nhân biết được bao nhiêu kiếp về trước?". Đồng thời có bốn triệu Long vương và mười tám ngàn La sát vương cũng đến. Tất cả chắp tay hướng về thánh nhân, cung kính cúi đầu đảnh lễ như sau: "Thượng nhân, thượng nhân biết được bao nhiêu kiếp về trước". Vị thánh nhân đáp: "Hàng trăm triệu thời kỳ vô số".

Tất cả cùng hỏi: "Nhờ thiện nghiệp nào mà ác nghiệp có thể tức thì tẩy sạch?"

Thánh nhân đáp: "Nhờ nghe Chánh pháp Sanghata. Trong số chúng sinh đến đây ngày hôm nay, tất cả những ai có lòng tin tưởng khi nghe chánh pháp này, sẽ được thọ ký vô thượng Bồ đề. Người nào vướng năm nghiệp vô gián, chỉ cần nghe nói đến Chánh pháp tên Sanghata, nghiệp chướng tức thì tiêu diệt. Hàng trăm triệu thời kỳ vô số vô lượng kiếp, cửa vào ác nghiệp sẽ khép kín, ba mươi hai chánh cửa dẫn vào các tầng trời sẽ mở ra. Gốc rễ điều lành của người chỉ nghe một bài kệ bốn câu đã đồ sộ như vậy, huống chi mang lòng tin tưởng tôn kính, cúng dường chánh pháp ấy bằng hoa, vòng hoa, hương đốt, hương xoa, hương bột, y phục, màn trướng, tràng phan, hay người dùng nhạc cụ tấu nhạc cúng dường, phát sinh một niệm hoan hỉ tán dương, ‘lành thay, lành thay".

Đại Bồ tát Phổ Dũng kể lại với đức Thế Tôn:

- Thưa Thế Tôn, còn những người khi nghe tuyên thuyết Chánh pháp Sanghata mà đảnh lễ bằng cách chắp tay cung kính, họ được công đức gì?

Đức Thế Tôn đáp:

- Thiện nam tử, ông hãy nghe đây, Bất cứ một ai vướng nghiệp vô gián, tự mình làm, bảo người làm, hay thấy người làm mà lòng mừng theo, khi nghe bài kệ bốn câu của Chánh pháp Sanghata mà biết đảnh lễ bằng cách chắp tay cung kính, Phổ Dũng, ông nên biết tội chướng vô gián của người ấy đều tiêu diệt cảm huống gì nghe được trọn vẹn Chánh pháp Sanghata, công đức lại nhiều hơn gấp bội. Thiện nam tử, Như Lai sẽ giải thích ý nghĩa này cho ông. Ví dụ cung điện long vương trong hồ Vô Nhiệt Não, nơi đó mặt trời không soi sáng, lại có năm con sông lớn, nước chảy xiết vô cùng tận. Có người muốn đếm từng giọt nước trong năm con sông lớn kia, Phổ Dũng, ông nghĩ thế nào, có đếm hết được không?

Phổ Dũng thưa:

- Không thể, thưa Thế Tôn.

Đức Thế Tôn nói:

- Phổ Dũng, gốc rễ điều lành của Chánh pháp Sanghata này cũng vậy, dù có đếm hàng trăm, hàng ngàn kiếp cũng không thể nào đếm hết. Phổ Dũng, nếu ông thắc mắc vì sao lại như vậy, Như lai hỏi ông, người tuyên thuyết Chánh Pháp Sanghata trong một phút giây, có nhọc công hay không?

Phổ Dũng đáp:

- Dạ có, thưa Như lai.

Đức Thế Tôn nói:

- Phổ Dũng, người nào có khả năng tuyên thuyết Chánh pháp Sanghata phải nhọc công còn hơn như vậy nữa. Ví như đếm nước trong năm con sông lớn chảy từ hồ Vô Nhiệt Não, không thể nào cùng.

Bồ tát Phổ Dũng thưa:

- Thưa Thế Tôn, năm con sông lớn ấy tên gọi là gì?

Đức Thế tôn đáp:

- Đó là sông Ganges, sông Sita, Sông Vakshu, sông Yamuna và sông Chandrabhaga. Năm con sông lớn này đổ ra đại dương. Mỗi con sông đều có năm trăm nhánh sông đổ vào. Phổ Dũng, năm trăm nhánh sông này từ trời chảy về, mỗi nhánh sông lại có hàng ngàn nhánh sông nhỏ, nhờ vào đó, mọi loài chúng sinh đều được lợi ích.

Phổ Dũng thưa:

- Hàng ngàn nhánh sông nhỏ đó là gì?

Đức Thế Tôn đáp:

- Sundari có hàng ngàn nhánh sông, Shamkha có hàng ngàn nhánh sông, Vahanti có hàng ngàn nhánh sông, Chitra-sena có hàng ngàn nhánh sông, Dharma-vritta có hàng ngàn nhánh sông. Những con sông lớn này đều có hàng ngàn nhánh sông, làm thành suối mưa trên cõi địa cầu. Phổ Dũng, suối mưa rơi xuống tạo hoa màu, cây trái, vụ mùa. Khi rớt trên cõi địa cầu thì thành nước. Nhờ nước mà đồng ruộng vườn tược đều được thoả thuê, xanh tốt. Phổ Dũng, ví như toàn thể thế giới có một vị luân vương nắm giữ thiên hạ, làm cho ai cũng được hạnh phúc. Chánh pháp Sanghata cũng vậy được tuyên thuyết trong thế giới hệ này là để chúng sinh cùng được lợi ích hạnh phúc. Chư thiên cõi trời Trayastrimsha (cõi trời Tam Thập Tam) sống rất thọ, nhưng loài người thì không được như vậy, Nếu ông hỏi cõi trời Trayastrimsha là cõi trời nào, ông phải biết dó là cõi của thiên vương Đế Thích (Indra).

Phổ Dũng, có những người khẩu nghiệp thanh tịnh, công đức nhiều không thể ví dụ được, Lại có những người khẩu nghiệp nặng nề, sinh vào địa ngục và súc sinh. Chúng sinh đau khổ trong ba cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh không có nơi nương tựa, hy vọng đứt đoạn, ấy là vì ảnh hưởng của thầy bạn không tốt. Còn kẻ khẩu nghiệp thanh tịnh, công đức không thể ví dụ, ấy là nhờ ảnh hưởng của thầy bạn tốt. Thầy bạn tốt là thiện tri thức, gặp thiện tri thức là gặp Như lai. Gặp Như lai thì ác nghiệp đều tiêu tan cả, Vua mà làm lợi ích cho chúng sinh, chúng sinh vui mừng không thể ví dụ.

Phổ Dũng, Chánh pháp Sanghata cũng vậy, mang đầy đủ chức năng của đấng Như Lai trong thế giới này. Ai không được nghe Chánh pháp Sanghata thì không thể thành tựu vô thượng Bồ đề, không thể chuyển pháp luân, không thể đánh trống đại pháp, không thể ngồi toà Sư tử chánh pháp, không thể nhập cõi Niết bàn, không thể phóng vô lượng ánh sáng. Phổ Dũng, không nghe Chánh pháp Sanghata này thì không có khả năng ngồi trong tim của giác ngộ

Phổ Dũng hỏi:

- Thưa Thế Tôn, con có điều thắc mắc, thưa Thiện Thệ, con có thể hỏi được chăng?

Đức Thế Tôn đáp:

- Phổ Dũng, ông có thắc mắc gì, Như lai sẽ vì ông mà giải đáp.

Phổ Dũng nói:

- Thưa Thế tôn, đức Liên Hoa Tạng Như Lai có nói về vị thánh nhân giúp nhiều chúng sinh diệt nghiệp vô gián, rồi đặt từng người vào thánh vị Tu đà hoàn. Vậy vị thánh nhân đó là ai?

Đức Thế tôn đáp:
  • "Phổ Dũng đại Bồ tát
    Lời nói của Như lai
    Rất thâm sâu vi diệu
    Ông hãy nghe cho kỹ.

    Chính kinh Sanghata
    Là Pháp sư giảng pháp
    Hóa hiện làm thánh nhân
    Hóa hiện thân Phật đà
    Nhiều như cát sông Hằng.

    Sắc tướng thật phong phú
    Thân Phật nói pháp Phật
    Vén mở cả kho tàng
    Tinh túy của chánh pháp.

    Nếu có chúng sinh nào
    Khao khát gặp đức Phật
    Thấy được Sanghata
    Là thấy được Như lai.
    Sanghata ở đâu
    Như lai ngay nơi ấy".
Đức Phật lại nói:

- Thiện nam tử, ông hãy nghe đây. Trong quá khứ, chín mươi chín thời kỳ vô số về trước, có mười hay triệu Phật đà cùng tên Ratnottama. Như Lai lúc ấy đang là vị đại thí chủ, chí tâm cúng dường mười hai triệu Phật đà tên Chandra, mang đồ ăn thức uống, hương thơm, hương xoa, vòng hoa, tất cả những gì có thể làm vui lòng Phật, Như lai đều cúng dường đủ cả. Bấy giờ Như Lai được thọ ký sẽ thành tựu vô thượng bồ đề.

Phổ Dũng, Như Lai còn nhớ trong kiếp quá khứ có mười tám triệu Phật đà tên gọi Ratnavabhasa, Như Lai lúc bấy giờ cũng đang là vị đại thí chủ, đã cúng dường mười tám triệu Như Lai tên gọi Garbha-sena với đầy đủ vòng hoa, hương xoa, vật trang trí, và tRang sức, cứ điều gì thích hợp với vị Phật nào, Như Lai đều cúng dường đủ cả. Bấy giờ Như Lai được thọ ký sẽ thành tựu vô lượng bồ đề.

Phổ Dũng, Như Lai còn nhớ hai mươi triệu đức Phật cùng mang tên Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri Shikhi-sambhava. Phổ Dũng, Như Lai cũng nhớ hai mươi triệu đức Phật cùng mang tên Kashyapa, lúc bấy giờ Như Lai cũng đang là vị đại thí chủ, cúng dường chư Phật với hương liệu, vòng hoa, hương xoa, hết lòng tôn kính phụng sực, Bấy giờ Như Lai được thọ ký sẽ thành tựu vô lượng Bồ đề.

Phổ Dũng, lại có mười sáu triệu đức Phật cùng tên là Vô Cấu Quang (Vimala-prabhasa), lúc ấy Như Lai đang là một vị đại trưởng giả, tiền của rất nhiêu. Như Lai mang hết tài sản cúng dường chư Phật, và được thọ ký tương lai sẽ thành bậc chánh giác. Tuy nhiên tương lai vẫn chưa chín mùi.

Phổ Dũng, ông hãy nghe đây. Lại có chín lăm triệu đức Phật sinh ra trong thế giới, cùng tên là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri Shakyamuni. Lúc ấy Như Lai đang là vị quốc vương, mang hương thơm, vòng hoa, hương hoa, y phục, trang sức, hương đốt, tràng phan, và được thọ ký sẽ thành tựu vô thượng Bồ đề. Như Lai hãy còn nhớ rất rõ.

Phổ Dũng, lại có chín mươi triệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri cùng tên là Krakutsanda. Lúc ấy Như Lai đang là một thanh niên thuộc giai cấp bà la môn, nhiều tiền lắm của, mang hết của cải ra cúng dường chư Như Lai, với hương thơm, vòng hoa, hương xoa, y phục, trang sức, và đích thân phụng sự cho từng vị Như lai, bấy giờ được thọ ký sẽ thành tựu vô thượng Bồ đề. Như Lai còn nhớ. Nhưng thời gian vẫn chưa chín mùi.

Phổ Dũng, lại có mười tám triệu Phật đà, cùng tên là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri Kanakamuni. Lúc ấy Như Lai đang là vị đại thí chủ, cúng dường tất cả các bậc Như lai. Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ấy, và được thọ ký sẽ thành tựu vô thượng Bồ đề. Nhưng thời gian vẫn chưa chín mùi.

Phổ Dũng, lại có mười ba triệu Phật đà, cùng tên là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri Avabhasashri. Lúc ấy Như Lai cúng dường chư Phật ấy với y phục, trang sức, hương thơm, vòng hoa, hương xoa, chăn mền và trang trí. Cần phụng sự cúng dường ra sao, Như Lai đều chu toàn đầy đủ. Các đức Như Lai ấy giải thích rộng rãi về ý nghĩa của chánh pháp cho các đệ tử, và Như Lai lúc ấy được thọ ký trong tương lai sẽ thành tựu vô thượng Bồ đề. Nhưng thời gian vẫn chưa chín mùi.

Phổ Dũng, lại có hai mươi lăm triệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri cùng tên là Diệu Hoa (Pushya). Lúc ấy Như Lai đang là người xuất gia, cung kính cúng dường tất cả các đấng Như Lai ấy, làm những việc tôn giả A Nan ngày nay làm cho Như Lai, không sai khác. Lúc ấy Như Lai cũng được thọ ký sẽ thành tựu vô thượng Bồ đề. Nhưng Như Lai còn nhớ, thời gian lúc ấy vẫn chưa chín mùi.

Phổ Dũng, lại có mười hai triệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri cùng tên là Vipashyin. Như Lai lúc bấy giờ cúng dường các bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ấy với y phục, trang sức, hương thơm, vòng hoa, hương xoa. Các đấng Như Lai ấy cần gì. Như Lai đều chi toàn đầy đủ. Vào lúc ấy, Như Lai đang là người xuất gia, và ngay lúc ấy Như Lai còn nhớ đã được thọ ký sẽ thành tựu vô thượng Bồ đề. Khi đức Phật Vipashyin cuối cùng nói về Chánh pháp Sanghata, Như Lai nghe qua đã hiểu. Ngay lúc ấy, trên trời mưa xuống bảy loại châu bàu quí giá, cõi thế gian không còn kẻ bần cùng, và cũng ngay lúc ấy, Như Lai lại được thọ ký sẽ thành tựu vô thượng Bồ đề. Từ đấy về sau, trải qua một thời gian dài, Như Lai không còn nhận được sự thọ ký.

Bồ tát Phổ Dũng hỏi:

- Thưa Như Lai, thời gian ấy là thời gian gì? Duyên ấy là duyên gì?

Đức Thế Tôn đáp:

- Phổ Dũng, ông hãy nghe đây. Một thời kỳ vô số sau ngày hôm ấy, có đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri Nhiên Đăng, xuất hiện trên cõi thế gian, lúc ấy, Như Lai đang là một thanh niên thuộc giai cấp Bà la môn tên là Megha. Khi Như Lai Nhiên Đăng nhập thế, Như Lai đang tu phạm hạnh dưới dạng Bà la môn. Khi gặp Như Lai Nhiên Đăng, thanh niên ấy rải bảy nhánh hoa ưu đàm cúng dường, hồi hướng vô thượng Bồ đề. Bấy giờ Như Lai Nhiên Đăng thọ ký cho thanh niên ấy sẽ thành đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri tên Thích Ca Mâu Ni.

Phổ Dũng, khi ấy, Như Lai ngồi trong không gian, cao bằng mười hau cây đa la, đạt vô sinh pháp nhẫn. Như Lai nhớ rõ như mới ngày hôm qua, Như Lai thấy rất rõ tất cả những gốc rễ điều lành mà Như Lai đã cấy trồng từ khi xuất gia tu phạm hạnh tải qua vô số kiếp, và đạt được những đức tính hoàn hảo. Phổ Dũng, ngay từ thời gian ấy Như Lai đối cới vo số lần trăm ngàn triệu tỉ chúng sinh, đã phát nguyện dẫn dắt từng người vào với chánh pháp, huống chi bây giờ Như Lai đã thành tựu vô lượng Bồ đề, sẽ vì chúng sinh mà tạo lợi ích lớn lao. Phổ Dũng, Như Lai sẽ dạy cho chúng sinh Phật Pháp vi diệu thậm thâm, Chúng sinh có nhu cầu gì, Như Lai sẽ dạy Phật Pháp phù hợp với nhu cầu ấy. Ở cõi trời, Như Lai dùng thân trời để dạy Phật Pháp. Ở cõi rồng, Như Lai dùng thân rồng để dạy Phật pháp. Ở cõi dạ xoa, Như Lai dùng thân dạ xoa để dạy Phật pháp. Ở cõi quỷ đói, Như Lai dùng thân quỉ đói để dạy Phật Pháp. Ở cõi người, Như Lai dùng thân người để dạy Phật Pháp. Chúng sinh nào cần được dạy dỗ, Như Lai liền hiện thân Phật để dạy dỗ. Chúng sinh nào cần Bồ tát dạy dỗ, Như Lai liền hiện thân Bồ tát để dạy dỗ. Bất cứ chúng sinh cần gì, Phật hoá hiện thân ấy để dạy Phật Pháp. Phổ Dũng, Như Lai dùng đủ loại sắc tướng để dẫn dắt chúng sinh.

Phổ Dũng, vì sao Như Lai lại dùng nhiều sắc tướng như vậy? Là vì để chúng sinh tích luỹ nhiều loại thiện că. Chúng sinh sẽ tu hạnh thí, tạo công đức, quên cả nghỉ ngơi để tự cứu mình, sẽ hành thiền, sẽ không quên sinh tử, thiện nghiệp nào có thể làm được, họ đều làm đủ. Nhờ nghe chánh pháp, họ sẽ nhớ lại gốc rễ điều lành đã làm trong quá khứ. Làm như vậy là để nhắm vào lợi lạc lâu dài trong cõi trời và người.

Phổ Dũng, chúng sinh ấy khi được nghe Chánh pháp Sanghata, mọi đức tính, mọi lợi lạc, mọi thiện căn sẽ tức thì trở nên không giới hạn.

Lúc bấy giờ, chúng sinh ấy sẽ nói với nhau như sau: "Với những việc đã làm, đã thu thập, nhất định phải có một pháp hiển lộ thành tựu chánh đẳng giác, và quả lành là tâm nguyện lợi lạc chúng sinh sẽ thành thục viên mãn".

Chúng sinh tin tưởng trong sáng nơi Phật Pháp, sẽ nói: "Có một Pháp hoàn toàn phù hợp với thực tướng của sự vật", từ đó mà phát sinh quả lành là đại lạc vô thượng của chánh pháp. Còn chúng sinh nào mê muội điên rồ,nói rằng các pháp không có, và cũng không có gì siệu việt các pháp, từ đó mà phát sinh quả dữ là đoạ vào ác đạo, đời đời kiếp kiếp đâm đầu vào cõi dữ. Tám kiếp chịu khổ đau địa ngục. Mười hai kiếp chịu khổ đau quỷ đói. Mười sáu kiếp sinh cõi a tu la. Chín ngàn kiếp sinh làm ác quỷ yêu tinh. Quả dữ cạn rồi lại sinh vào loài người, nhưng mười bốn ngàn kiếp sinh ra không lưỡi. Mười sáu ngàn kiếp chết trong thai mẹ. Mười hai ngàn kiếp sinh làm hòn thịt. Mười một ngàn kiếp sinh làm người mù, chịu mọi khổ đau, khiến cha mẹ nghĩ rằng: "Thật phí công sinh dưỡng, sinh ra đứa con này chẳng để làm gì, mang nặng chín tháng, chỉ hoài công". Phải chịu nóng lạnh, đói khát, khổ đau, bức bách. Dù có được một đứa con mà bậc cha mẹ vẫn cảm thấy tuyệt vọng, không chút niềm vui.

Phổ Dũng, chúng sinh nào từ bỏ chánh pháp, phải chịu luân hồi trong cõi địa ngục và súc sinh. Đến lúc mạng chunG phải chịu đớn đau cơn hấp hối. Phổ Dũng, người nào nói rằng: "Các pháp có thật, và có người siêu việt các pháp". Nhờ thiện căn đó mà sinh vào cõi phương Bắc Uttara-kurus. Hai mươi lăm ngàn kiếp sinh vào cõi trời Trayastrumsha (cõi trời Tâm Thập Tam), khi quả báo ấy cạn thì lại sinh vào phương Bắc cõi Uttara-kurus, sẽ không sinh từ thai mẹ sẽ thấy một trăm ngàn thế giới, đều là cõi Sukhavati (Tịnh độ), sẽ thấy tất cả các cõi Phật, an trú nơi ấy, tại nơi ấy thành tựu vô thượng Bồ đề.

Phổ Dũng, diệu dụng của kinh Chánh pháp Sanghata là vậy, Chúng sinh vào tin tưởng sâu xa kinh này sẽ không bao giờ chết trong sự sợ hãi, sẽ đầy đủ đức hạnh.

Phổ Dũng, có người tự hỏi: "Như Lai ngày đêm giải thoát vô lượng chúng sinh, vậy mà số lượng chúng sinh trong cõi luân hồi vẫn không giảm. Có nhiều người giác ngộ, hoặc sinh vào cõi trời, hoặc được nguồn an lạc, vậy tại sao chúng sinh luân hồi vẫn không giảm bớt?"

Lại có những tu sĩ ngoại đạo, khất sĩ lang thang, khổ hạnh lõa thể, có ý nghĩ như sau: "Chúng ta phải đến chất vấn Cồ Đàm về điều này". Tám mươi bốn ngàn bà la môn tu sĩ ngoại đạo, khất sĩ lang thang cung hàng trăm người khổ hạnh lõa thể cùng kéo đến thành Vương Xá. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn mỉm miệng cười.


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: KINH CHÁNH PHÁP SANGHATA

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Thấy vậy, đại Bồ tát Di Lặc từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt một vạt áo lên vai gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính hướng về đức Thế Tôn, thưa rằng:

- Thưa Thế Tôn, vì lý do gì mà Thế Tôn mỉm miệng cười? Không phải vô cớ mà đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri lại mỉm miệng cười như vậy.

Đức Thế tôn nói:

- Thiện nam tử, ông hãy nghe đây. Ngày hôm nay, có một đoàn người rất đông sẽ tiến tới thành Vương Xá này.

Bồ tát Di Lặc hỏi:

- Thưa Thế Tôn, ai sẽ đến đây? Trời, rồng, dạ xoa, loài người hay loài không phải người (phi nhân)?

Đức Thế Tôn đáp:

- Di lặc, tất cả trời, rồng, dạ xoa, loài người và loài không phải người đều sẽ đến đây ngày hôm nay. Cả tám mươi bốn ngàn Bà la môn cũng sẽ đến, chín mươi ngàn triệu tu sĩ ngoại đạo, khất sĩ, lang thang khổ hạnh lõa thể cũng sẽ đến đây chất vấn Như Lai. Như Lai sẽ nói Pháp cho họ nghe, khiến tan biến mọi hý luận, nghi hoặc. Các vị Bà la môn sẽ phát tâm vô thượng Bồ đề, chín ngàn triệu tu sĩ ngoại đạo, khất sĩ lang thang, khổ hạnh lõa thể sẽ đạt quả Tu đà hoàn. Mười tám ngàn triệu Long vương sẽ đến, nghe Như Lai thuyết pháp. Nghe xong, họ sẽ phát tâm vô thượng Bồ đề. Sáu mươi ngàn triệu Thiên tử cõi trời Thanh tịnh sẽ đến. Ba mươi ngàn triệu Thiên ma cùng tùy tùng sẽ đến. Mười hai ngàn triệu A tu la vương sẽ đến. Các vị đại vương. Tất cả có năm trăm, cùng tùy tùng cũng sẽ đến nghe pháp. Tất cả sau khi nghe Như Lai thuyết Pháp, đều sẽ phát tâm vô thượng Bồ đề.

Nghe vậy, đại Bồ tát Di Lặc mang đỉnh đầu lạy ngang chân đức Thế Tôn, theo hướng bên phải của đức Thế Tôn đi quanh ba vòng, rồi thân hình biến mất ngay nơi ấy.

Đại Bồ tát Phổ Dũng lúc ấy từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt một vạt áo lên vai, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính hướng về đức Thế Tôn, thưa rằng:

- Thưa Thế Tôn, năm trăm vị đại vương sẽ đến đây, đại danh của họ là gì?
  • Đại vương Hoan Hỉ (Nanda)
    Đại vương Diệu Hỷ (Sunanda)
    Đại vương Tối thượng Hỷ (Upananda)
    Đại vương Nhân Tiên (Jinarsabha)
    Đại vương Tịnh Quân (Brahma-sena)
    Đại vương Phạm Ân (Brahma-ghosha)
    Đại vương Thiện Kiến (Sudarshana)
    Đại vương Thắng Quân (Jayasena)
    Đại vương Hỷ Quân (Nanda-sena)
    Đại vương Tần Bà Sa La (Bimbi-sara)
    Đại vương Ba Tư Nặc (Prasena-jit)
    Đại vương Tăng Trưởng (Virudhaka).
Các vị đại vương nói trên cùng nhiều vị khác, tất cả năm trăm vị, mỗi vị dẫn theo một trăm ngàn triệu tuỳ tùng. Tất cả đều hướng tới vô thượng Bồ đề, ngoại trừ vị đại vương Tăng Trưởng.

Ba mươi triệu ngàn Bồ tát đang đến từ phương Đông. Năm mươi ngàn triệu Bồ tát đang đến từ phương Nam. Sáu mươi ngàn triệu Bồ tát đang đến từ phương Tây. Tám mươi ngàn triệu Bồ tát đang đến từ phương Bắc. Chín mươi ngàn triệu Bồ tát đang đến từ không gian phía dưới. Một trăm ngàn triệu Bồ tát đang đến từ không gian phía trên, các vị Bồ tát này đều an trú thập địa, từ mười phương tiến về thành Vương Xá, đỉnh Linh Thứu, để hội diện cùng đức Thế Tôn. Tất cả các vị Bồ tát này đều mang tâm hướng về vô thượng Bồ đề.

Lúc ấy Phật bảo đại Bồ tát Phổ Dũng:

- Phổ Dũng, ông hãy đến mười phương thế giới, báo với tất cả các vị Bồ tát rằng: "Hôm nay, tại thành Vương Xá, Như Lai sẽ tuyên thuyết chánh pháp, mời tất cả những ai trú trong mười phương thế giới hãy hoan hỉ tùy thuận, chắp tay đảnh lễ". Ông hãy khéo đi nhanh, rồi về đây nghe Pháp.

Nghe xong, đại Bồ tát Phổ Dũng từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn, đi quanh đức Thế Tôn ba vòng theo chiều bên phải rồi vận dụng thần thông làm cho thân hình biến mất ngay nơi ấy.

Đại Bồ tát Phổ Dũng theo lời đức Thế Tôn, đi đến mười phương thế giới báo tin cho các vị Bồ tát:

- Hôm nay Như Lai sẽ nói chánh pháp nơi thành Vương Xá. Xin quí Bồ tát hãy tuỳ thuận hoan hỉ, cất lời tán thán "Lành thay", nhờ vào đó ngày hôm nay chư vị sẽ được thành tựu đại lạc.

Bồ tát Phổ Dũng đi như vậy khắp cả mười phương thế giới, cung thỉnh vấn an mọi đấng Phật đà, báo tin cho chư Bồ tát, chỉ trong thời gian một búng tay đã trở về lại thành Vương Xá, cạnh đức Thế Tôn.

Tất cả Bà la môn, tu sĩ ngoại đạo, khất sĩ lang thang khổ hạnh lõa thể đều về tụ họp. Các loài trời, rồng, loài người, và loài không phải người, cùng năm trăm vị đại vương và tùy tùng. Ba mươi ba ngàn triệu ma vương ác hiểm cũng tụ họp cùng tùy tùng.

Lúc bấy giờ thành Vương Xá chấn động, trên trời mưa xuống bụi trầm hương thơm ngát, lại mưa xuống những đóa hoa trời, kết thành cung điện nguy nga trên chóp đỉnh đức Thế Tôn. Cũng vào lúc ấy, Thiên vương Đế Thích thả sấm sét xuống trước mặt Như Tai. Bốn ngọn gió lớn thổi lên từ bốn hướng, quét sạch bụi uế trong thành. Mười phương thế giới mưa xuống những hạt nước thơm, rồi lại mưa xuống hoa ưu đàm, hoa sen (padmas), hoa sen vàng (kumudas), hoa sen trên đầu chư vị trong Pháp hội, lại kết thành tám mươi bốn ngàn lầu thành bất động ngày trên đỉnh đầu đức Như Lai. Nơi tám mươi bốn ngàn lầu thành kết bằng hoa quí ấy có tám mươi bốn ngàn pháp đàn kết bằng bảy loại ngọc báu. Trên mỗi pháp đàn có một đấng Như Lai đang thuyết giảng chánh pháp. Khi ấy tam thiên đại thế giới chấn động sáu sách.

Đại Bồ tát Phổ Dũng thấy vậy chắp tay cung kính hướng về đức Thế Tôn hỏi:

- Thưa Thế Tôn, vì lý do gì mà thành Vương Xá hôm nay lại có điềm lành hy hữu như vậy?

Đức Thế Tôn nói:

- Ví dụ có lần vua xoa đầu một người tâm trí bất định, kiêu ngạo, ích kỷ, xem vật gì cũng là của mình, lại rất nghèo. Người ấy đến trước cung vua, nhất định đòi vào cung. Quan quân bắt lại, dánh đập thê thảm. Ngay lúc ây, vua nghe có người khăng khăng đòi vào cấm điện, nghĩ rằng: "Người này muốn giết ta". Nghĩ vậy vua nổi giận, nói với quần thần: "Hãy mang hắn lên núi giết quách đi. Giết luôn tất cả những gì thuộc về hắn, cha mẹ, con cái, tôi tớ giúp việc". Theo lịnh vua, cả gia tộc người kia bị giết, cả thân nhân rơi vào cảnh ngộ cực kỳ bi thảm. Phổ Dũng, tương tự như vậy. Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biên Tri vừa tuyên thuyết chánh pháp cho chúng sanh. Kẻ phàm phu ấu trĩ cũng như kẻ kiêu ngạo điên rồ kia, thấy được sắc tướng bên ngoài, hình dạng, màu sắc, giới phái, dung mạo lại cho rằng đây chính là thân Phật. Người như vậy nghe càng nhiều Phật pháp thì lại càng kiêu mạn, ham nói lời vô nghĩa. Dần dà chỉ còn biết có mình, ích kỷ thiện cận, tự mình không nghe chánh pháp, lại càng không thể thuyết chánh pháp. Nếu có ai nói kinh, dù chỉ một bài kệ bốn câu, họ cũng chẳng chú ý nghe, chẳng cố gắng hiểu, cho rằng "ta thừa biết rồi". Vì sao? Vì kiêu mạn, thấy mình học rộng nên quay lại chiêm ngưỡng trí tuệ của chính mình. Những người ngao du với kẻ phàm phu ấu trĩ như vậy sẽ không sống thuận theo chánh pháp, sẽ không nghe được lời thuận với chánh pháp, vì biết nên trở thành kiêu mạn. Lại hay viết thi kệ, kinh điển, tự viết lời giới thiệu. Họ mang bất hạnh lớn đến cho người khác và cho chính mình. Họ cũng ăn đồ cúng dường của khách thập phương, ăn rồi không tiêu hóa nổi. Đến lúc gần chết, chịu nỗi sợ hãi lớn lao. Người xung quanh mới hỏi: "Ông đã dùng trí tuệ tinh xảo, dẫn dắt nhiều người, nay sao không thể an định cho chính mình?". Người ấy nói: "Này các đạo hữu, nay tôi không thể an định cho chính mình". Khi ấy mọi người mới kinh hoàng khóc than đủ cách. Vì hành động của một người mà thân nhân quyến thuộc vô tội bị họa lây. Tương tự như vậy, những người kia khi gần chết cất tiếng khóc than, thấy mình bị trói buộc vào cõi địa ngục, vào thai súc sinh, tát cả chỉ vì lầm lẫn noi theo bạn đạo không tốt.

Vì vậy, Như Lai nói với các ông, hỡi các vị Bà la môn, tu sĩ ngoại đạo, các ông đừng khinh mạn. Chim non chưa mọc cánh, chưa thể vượt trời rộng bay đến cõi trời. Các ông cũng vậy, không thể đạt Niết Bàn. Thần lực ấy, các ông chưa có. Vì sao? Vì xét về nghiệp quả, nghiệp của các ông so với nghiệp sinh vào kiếp chim chẳng khác, thân xác chẳng bao lâu sẽ rã trong cái chết. Đến khi gần chết, vị giác mất cả, chỉ còn nỗi sợ hãi lớn lao, nghĩ rằng: "Vì sao ta lại bám giữ xác thân này, đã không vui được nỗi vui của trời và của người, lại không thể trú ở Niết Bàn, bám giữ thân này vô ích như vậy, rồi tương lai sẽ tái sinh cõi nào? Đâu sẽ là nơi cho ta nương tựa? Rồi ta sẽ sinh vào đâu, và diệt về đâu?"

Đức Thế Tôn lại nói với những người tu sĩ ngoại đạo, khất sĩ lang thang, khổ hạnh lõa thể và Bà la môn:

- Các ông đối với cõi Diêm Phù đủ bảy loại ngọc báu đừng bao giờ tuyệt vọng. Đừng tự loại mình ra khỏi kho tàng chánh pháp. Có gì nghi hoặc, các ông hãy hỏi Như Lai, Như Lai sẽ toàn thành mọi ước nguyện cho các ông.”

Lúc bấy giờ, các vị Bà la môn, tu sĩ ngoại đạo, khất sĩ lang thang, và khổ hạnh lõa thể, đứng lên từ chỗ ngồi, lấy tay áo che vai, chắp tay hỏi đức Thế tôn:

- Đức Thế Tôn ngày đêm nào cũng giải thoát chúng sinh ra khỏi luân hồi không ngơi nghỉ, vậy tại sao số lượng của chúng sinh trong luân hồi vẫn không tăng giảm? Thưa Thế Tôn vì nhân duyên gì mà chúng sinh vẫn triền miên sinh diệt không hề giảm?

Lúc ấy, đức Thế tôn nói với đại bồ tát Dược Quân:

- Dược Quân, người ngoại đạo mặc áo giáp tinh tấn, nêu lên vấn đề hệ trọng, có khả năng xua tan phiền não, thắp sáng ngọn đèn chánh pháp. Đúng thật như vậy, Dược Quân, sau này chúng sinh nhiều tuổi hay ít tuổi sẽ hiểu được cảnh sinh diệt luân hồi. Dược Quân, cũng có chúng sinh nhiều tuổi, giống như người ít tuổi, mê muội chẳng biết gì.

Dược Quân, ví như có người gội đầu, mặc áo mới, bước ra đường. Ai thấy cũng khen đẹp. Lại có người cũng gội đầu, giặt áo cũ. Đầu tuy gội, nhưng áo cũ đã không đẹp. Dược Quân, người nhiều tuổi cũng như áo cũ, không thể làm đẹp cõi Diêm Phù. Còn người ít tuổi lại hiện tướng sinh diệt.

Lúc ấy các Bà la môn, tu sĩ ngoại đạo, khất sĩ lang thang và khổ hạnh lõa thể đứng dậy hỏi đức Thế Tôn:

- Thưa Thế Tôn, trong chúng tôi, ai là người nhiều tuổi, ai là người ít tuổi?

Đức Thế Tôn đáp:

- Nhiều tuổi là chúng sinh triền miên trong cảnh khổ đau luân hồi ác đạo mà không thấy đủ, vật các ông đều là người nhiều tuổi.

Khi ấy, tất cả Bà la môn cùng các Long vương thưa với đức Thế Tôn:

- Thưa Thế Tôn, chúng tôi không còn ham thích phiền não khổ đau trong luân hồi.

Những người tu sĩ ngoại đạo, khất sĩ lang thang và khổ hạnh lõa thể lại nói:

- Trong số những người ít tuổi, không có ai lại có khả năng trực nhận chân tướng của thực tại.

Bồ tát Dược Quân lúc bấy giờ thưa cùng đức Thế Tôn:

- Thưa Thế Tôn, hãy xem họ kìa. Sao tinh tấn lại khó đến như vậy.

Đức Thế Tôn nói:

- Dược Quân, ông hãy lắng nghe. Bây giờ Như Lai sẽ thu nhiếp toàn bộ thế giới.

Lúc ấy, chín mươi bốn ngàn triệu người mới sinh đứng trước mặt Như Lai, không thưa, không chào, cũng không hỏi đáp gì với Như Lai, chỉ đứng yên lặng như vậy. Đại Bồ tát Dược Quân hỏi đức Như Lai:

- Kính thưa Như Lai, vì lý do gì mà họ đến trước mặt Như lai lại không thưa, không nói, không chào, không hỏi?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, những ai nói rằng "người ít tuổi không thể trực nhận chân tướng của thực tại" thì nên gặp những người ít tuổi này.

Những người ấy nói:

- Thưa Thiện Thệ, chúng con là người ít tuổi. Thưa Thiện Thệ, chúng con là người ít tuổi.

Đức Thế Tôn nói:

- Các ông hãy trực nhận thế giới này rồi dùng thân các ông để thị hiện phạm vi của thế giới.

Lúc ấy, chín mươi bốn ngàn triệu người ít tuổi không rời thân mình, trụ giữa không gian, an trú thập địa. Đại Bồ tát Dược Quân cất lời tán thán:

- Thưa Thế Tôn, những người này tinh tấn vượt bực, khéo đạt pháp diệt, khéo vượt sinh tử luân hồi. Thưa Thế Tôn, họ mới sinh ra hôm nay, cũng ngay trong ngày hôm nay, họ được giải thoát, bước vào Thập địa.

Khi ấy, các Bà la môn, tu sĩ ngoại đạo, khất sĩ lang thang, khổ hạnh lõa thể, các vị Long vương, ma vương, cũng tuỳ thuộc, lúc đầu toan đến phá rối, bây giờ đều cất tiếng nói với đức Thế Tôn:

- Thưa Thế Tôn, chúng con đến trước mặt Như Lai, nghe được chánh pháp này, sinh lòng tin tưởng trong sáng nơi Phật, Pháp. Nguyện an lạc như Như Lai an lạc, nguyện thành bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri trong thế giới này.

Đức Thế Tôn nói:

- Tốt lắm, tốt lắm! Bất luận các ông tới gặp Như Lai như thế nào, nghe được Chánh pháp Sanghata này rồi phát tâm vô thượng Bồ đề, nhờ gốc rễ điều lành ấy, các ông sẽ mau chóng thành tựu chánh đẳng chánh giác.”

Đức Thế Tôn nói xong, tất cả người ngoại đạo tức khắc đạt vô sinh pháp nhẫn, chứng quả Thập địa Bồ tát. Rồi cùng thăng lên không gian cao bằng bảy cây đa la, dùng thần lực hoá hiện lầu thành bảy loại ngọc quí, cúng dường Như Lai, thị hiện phong phú, thi triển thần thông. Họ trú lại trên đỉnh của đức Thế tôn, rai hoa quí lên mình Như Lai, chiêm bái Như laI, quán thân mình là thân Phật.

Bấy giờ,hàng trăm ngàn triệu tỷ Thiên tử đang đứng trên tầng không đồng loạt mang hoa báu rãi trên mình Như Lai, đọc bài kệ này:
  • "Sa môn Cồ Đàm
    Là bậc tối thắng
    Là đại phước điền
    Là đại cứu độ
    Thành tựu Tam Muội
    Trí biết cùng khắp
    Tròn đầy viên mãn
    Đối với chúng sinh
    Trầm luân luân hồi
    Ngài luôn vận dụng
    Phương tiện thiện xảo
    Lần lượt cứu độ
    Tất cả mọi loài
    Không sót một ai
    Dù chỉ một lời
    Cũng đủ giải thoát
    Sinh tử hữu tình".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: KINH CHÁNH PHÁP SANGHATA

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Bấy giờ đại Bồ tát Dược Quân từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt một vạt áo lên vai, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính hướng về đức Thế Tôn thưa rằng:

- Thưa Thế Tôn vì lý do gì mà những vị Thiên tử này lại hát bài kệ, thị hiện thần thông, dùng lời phong phú thiết tha tán dương công hạnh của Như Lai vậy?

Đức Phật bảo:

- Thiện nam tử, ông hãy nghe đây. Không phải họ tán dương Như Lai mà tán dương chính bản thân họ, Rồi họ sẽ đặt thân mình làm toà Pháp, sẽ đặt thân mình làm toà Pháp vô thượng, sẽ từ thân mình phóng ra ánh sáng, sẽ được tất cả Như Lai giữ gìn cho họ thành tựu vô thượng bồ đề, rồi chuyển pháp luân, giảng giải sâu rộng về chánh pháp thâm diệu.

Lúc ấy đại bồ tát Dược Quân thưa với đức Thế Tôn:

- Thưa Thế tôn, mỗi ngày đêm, có biết bao nhiêu chúng sinh được giải thoát, sao đến nay luân hồi vẫn chưa cạn?

Đức Thế Tôn đáp:

- Tốt lắm, Dược Quân, ông hỏi Như Lai như vậy là tốt lắm. Ông hãy nghe đây. Ví như có một phú ông, tiền rừng bạc biển. Người ấy có nhiều tiền, nhiều hạt, nhiều kho bồ, nhiều gia nô, tá điền. Lại có rất nhiều tài sản, ruộng vường, lúa mạch, lúa mì, lúa gạo, hạt mè, hạt đậu cả trăm giống loại đều dồi dào đầy đủ. Mùa Xuân gieo hạt, sang mùa Thu hạt chín gặt về chất vào kho. Hạt về tới kho, giống nào cất riêng giống nấy, ăn dần cho đến mùa xuân năm sau lại mang hạt ra cấy. Dược Quân, chúng sinh cũng vậy, trong quá khứ tạo được thiện nghiệp, luôn tìm phước điền để tạo thiện căn. Nhờ được thiện căn mà tinh tấn hành trì chánh pháp, khiến thiện căn tăng lên. Nhờ thiện pháp căn mà thâm tâm được hỉ lạc, tri túc, và nhờ đó mà trải qua hàng triệu kiếp thiện căn vẫn không bị phí uổng.

Dược Quân, Bồ tát mới phát tâm cũng vậy, nhờ phát tâm Bồ đề dũng mãnh mà thiện căn không hư hoại, nắm giữ các pháp trong dạng tinh túy nhất.

Dược Quân hỏi:

- Thưa Thế Tôn, Bồ tát mới phát tâm, trong mơ thường thấy gì?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, Bồ tát mới phát tâm trong mơ thường thấy cảnh dữ. Vì sao? Vì Bồ tát mới phát tâm đang giải nghiệp cũ. Dược Quân, gieo ác nghiệp rồi không thể tránh khỏi khổ đau. Nhưng Bồ tát thấy cảnh dữ trong mơ thì tâm không khiếp sợ.

Dược Quân lại hỏi:

- Thưa Thế Tôn, Bồ tát mới phát tâm, trong mơ thường thấy cảnh dữ gì?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, Bồ tát mới phát tâm, một là mơ thấy lửa cháy, khi ấy phải nghĩ rằng: "lửa này đốt tham dục". Dược Quân, hai là mơ thấy nước xoáy, Bồ tát mới phát tâm cũng không sợ hãi. Vì sao? Dược Quân, vì như vậy là có thể ném bỏ mọi ràng buộc từ vô minh, thanh tịnh ác nghiệp. Dược Quân, ba là mơ thấy cảnh cực kỳ dữ dằn.

Dược Quân hỏi:

- Là cảnh gì, thưa Thế Tôn?

Đức Thế Tôn đáp:

- Thấy đầu mình bị chém. Dược Quân, lúc ấy Bồ tát mới phát tâm cũng không sợ hãi. Vì sao? Vì lúc ấy nghĩ rằng: "Tham, sân, si ta chặt lìa. Luân hồi sáu cõi, ta chiến thắng cả". Bồ tát mới phát tâm sẽ không bao giờ vào cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a tu la, rồng trời, mà chỉ sinh vào cõi Phật thanh tịnh. Dược Quân, trong tương lai, ở một thời về sau, nếu có ai có được niệm Bồ đề, phải nên thấy người ấy mang đại nguyện. Dược Quân, mặc dù người ấy sẽ bị trách móc, khinh rẻ. Dược Quân, khi Bồ tát đã phát tâm Bồ đề, không được sinh tâm buồn nản, chán chường.

BDược Quân, Pháp Như Lai dạy nhiều vô kể. Cả trăm ngàn lần vô số kiếp Như Lai siêng tu phạm hạnh. Dược Quân, việc khó làm, Như Lai đều làm được cả, không vì tiền tài thế lực, không vì mưu cầu hạnh phúc thế gian, cũng không vì thần thông, Dược Quân, việc khó làm Như Lai gánh hết, chỉ để hiểu được chân tướng của thực tại. Trước khi nghe được Chánh pháp Sanghata, Như Lai không được quả vô thượng Bồ đề. Ngay lúc nghe được Chánh pháp Sanghata, Như Lai đạt vô thượng Bồ đề.

Vậy ông phải biết Chánh pháp Sanghata là pháp cực kỳ sâu sa vi diệu. Dược Quân, cho dù cả trăm ngàn lần vô số kiếp cũng hiếm mà được nghe Chánh pháp Sanghata. Dược Quân, Như Lai xuất thế là điều cực kỳ hiếm hoi. Người thọ trì Chánh pháp Sanghata cũng cực kỳ hiếm hoi. Tất cả những ai được nghe chánh pháp này sẽ thành tựu vô thượng Bồ đề. Dược Quân, người ấy trong một trăm ngàn kiếp sẽ vượt thoát luân hồi, sẽ sinh vào cõi Phật thanh tịnh, sẽ đủ khả năng biết rõ các pháp Diệt và Đạo, biết rõ cội nguồn của chánh pháp, biết rõ thiện xứ, biết rõ và trực chứng thiện xứ, biết rõ thiện xứ và pháp diệt của thiện xứ. Dược Quân, ông có biết nói "diệt" là nghĩa gì?

Dược Quân đáp:

- Thưa Thế Tôn, "diệt" chính là pháp xứ.

Đức Thế Tôn lại hỏi:

- Pháp sứ là gì?

Dược Quân đáp:

- Thưa Thế Tôn, pháp xứ là "tinh tấn, trì giới", và "giới hạnh đầy đủ". Như vậy gọi là Pháp tạng, các pháp từ kho tàng chánh pháp này mà khởi sinh.

Đức Thế Tôn nói:

- Hay lắm, Dược Quân. Ông trước Như Lai đáp được nghĩa này, thật là hay lắm.

Dược Quân hỏi:

- Thưa Thế Tôn, vì lý do gì các đấng Như Lai xuất hiện cõi thế?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, người nào biết về kho tàng trí tuệ thí sẽ biết tướng hiện của Như Lai. Biết được tướng hiện của Như Lai thì biết tướng hiện của Như Lai là nơi an lạc thắng diệu. Rồi khi Như Lai xuất hiện cõi thế, người ấy sẽ thông đạt các pháp, nhờ khéo léo phương tiện mà biết rõ mọi việc thế gian và xuất thế gian, lại biết rõ được trí tuệ thế gian và xuất thế gian.

Dược Quân hỏi:

- Thưa Thế Tôn, được trí tuệ rồi, làm sao chứng Niết bàn?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, biết được chân tướng của các Pháp thì biết được Niết bàn. Dược Quân, tương tự như vậy, biết được chánh pháp trong dạng tinh túy nhất thì chứng ngộ đầu tiên khởi sinh. Giữ gìn chánh pháp trong tâm đúng như được nghe thì thu nhiếp được chánh pháp. Dược Quân, giống như một thương gia, đi xa làm giàu, thu góp vàng bạc của và của mình được ngàn nén vàng. Trước khi lên đường, cha mẹ dặn dò: "Con yêu quí, mang vàng bạc của mình và của người, nhiều những ngàn nén, phải thận trọng đừng để thất thoát uổng phí đi. Kiếm được nhiều lợi, phải giữ vàng cho cẩn thận. Đó là sẽ món lợi lớn cho chúng ta, cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc". Người con đáp: "con sẽ cẩn thận". Rồi mang vàng lên đường.

Thương gia mang vàng lên đường, chưa đầy tháng, số vàng đã phần mất phần phung phí, một nén cũng không còn.
Người ấy buồn rầu lo nghĩ, trái tim đau nhức bởi mũi tên sầu muộn. Quá lo lắng xấu hổ, người ấy không tìm về lại nhà. Cha mẹ ở nhà nghe tin trái tim đau nhức tuyệt vọng. Họ khóc vật vã, xé áo xé quần, nói rằng: "Thằng con bất hiếu! Vì nó mà cả nhà bị vạ lây! Đã không làm được gì cho cha mẹ, lại còn biến tất cả thành kẻ tôi đòi". Cha mẹ người ấy vì quá đau khổ tuyệt vọng nên qua đời. Người kia cũng quá đau khổ tuyệt vọng nên qua đời. Dược Quân, tương tự như vậy, mặc dù Như Lai đã có lời giải thích, nhưng đám người kia không tin lời Như Lai, đến nỗi tự mình tách lìa chính mình ra khỏi ngọc báu chánh pháp, tuyệt vọng mà tìm cái chết, khi lìa đời, trái tim đau nhức bởi mũi tên sầu muộn. Cũng như cha mẹ người kia, vì ham vàng mà khóc than vật vã, tâm thần xáo trộn tột bực, chỉ vì vàng bạc của mình và của người. Tương tự như vậy, Dược Quân, ai không tin lời Như Lai, tâm bất an, chịu đủ lại phiền não khi gần kề cái chết. Quá khứ làm được điều lành, đạt được cõi tái sinh tốt đẹp nhưng không biết tiếp tục tích lũy thiện nghiệp, để nghiệp báo cạn hết, tâm chìm trong phiền não. Bấy giờ thấy cảnh kinh hoàng cõi địa ngục, thai súc sinh và thế giới Diêm Vương, lai nghĩ "ai che chở cho tôi? để tôi khỏi thấy cảnh địa ngục, súc sinh, quỉ đói, cõi Diêm Vương, để tôi khỏi đớn đau nơi đó".

Người con lâm bệnh, thần trí mê sảng, trôi dần vào cõi chết. Cha mẹ nói:
  • "Con yêu của cha mẹ,
    Dù đau đớn tật bệnh
    Là điều kinh hãi nhất
    Nhưng con ơi đừng sợ
    Con không thể nào chết.
    Kẻ chết mới sợ bệnh
    Con yêu hãy vững tin
    Cho dù là tật bệnh
    Hay sợ hãi tật bệnh
    Rồi con sẽ thoát cả".
Người con đáp: "Thần thức mê mờ, thân thể nhức nhối, tứ chi đau đớn. Con thấy con đang chết. Mắt không thấy, tai không nghe, thân không cảm, tứ chi thúc đau như khúc gỗ vô tri. Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ nói cho con nghe, cái chết vẫn chưa đến đi mẹ!"

Người mẹ đáp: "Đừng nói vậy, con yêu. Con đừng làm mẹ sợ. Con chỉ sốt nóng mê sảng đó thôi".

Người con nói: "Con không cảm thấy thân con đang sốt, bệnh hay đau. Chỉ thấy cái chết bủa vây bức bách. Ai sẽ cứu con đây? Ai sẽ là người che chở cho con?"

Cha mẹ bảo rằng: "Con trai yêu ơi, con khổ như vậy chắc là vì thần linh đang giận giữ. Hay là đến cúng tế để xin họ che chở cho con?"

Người con nói: "Xin cha mẹ giúp cho con được yên ổn. Cha mẹ hãy đi nhanh, đến đền thờ cầu khẩn nhanh nhanh".

Cha mẹ người ấy đến đền thờ, cúng hương bái thần linh. Cúng hương rồi, người giữ đền nói: "Thần linh đang nổi giận với các người. Các người phải cúng tế đúng phép thì mới được yên. Cần phải giết một người để tế máu, con của các người sẽ khỏi bệnh". Khi ấy, cha mẹ người kia bàn với nhau: "Phải làm sao bây giờ? Chúng ta quá nghèo. Nếu thần linh không vui, con mình sẽ chết uổng, còn nếu khiến được thần linh vui, con mình sẽ được che chở. Thôi thì dù nghèo cũng nên kiếm cho ra một nạn nhân để tế thần". Bàn xong, họ vội chạy về nhà, có được chút gì, họ bán đi cả, vét hết tiền bạc, lịa đi vay thêm của người, hẹn mười ngày không trả được sẽ đến đợ thân trả nợ. Gom đủ vàng, họ liền mua một nạn nhân. Mua xong, nạn nhân ấy vẫn không biết mình sẽ thành vật tế thần. Cha mẹ người kia như cuồng như dại, không về nhà mà đi thẳng đến đền thờ, nói với người giữ đền: "Xin hãy chuẩn bị việc tế thần cho nhanh". Rồi tự tay giết nạn nhân, cướp đi mạng sống của người ấy. Người giữ đền đốt mỡ lên làm đồ cúng, bắt đầu lế tế thần. Lúc ấy thần linh giáng xuống, nói rằng: "Ta sẽ thâu nhận con trai các người". Cha mẹ người ấy vui mừng nhảy nhót, nói với nhau: "Vậy là con mình tai qua nạn khỏi, dù chúng ta có phải sống kiếp tôi đòi cũng cam tâm". Nói xong bái tạ thần linh, quay trở về nhà. Tới nhà thấy ngay con mình đã chết. Cha mẹ đau lòng quá độ, chết ngay tại chỗ. Dược Quân, cần phải thấy giao du với người bất thiện tai hại đến như vậy.

Dược Quân hỏi:

- Thưa Thế Tôn, xin cho con hỏi một điều.

Đức Thế Tôn nói:

- Dược Quân, ông cứ hỏi.

Dược Quân nói:

- Thưa Thế Tôn, những người kia chết rồi sinh về đâu?

Đức Phật nói:

- Thôi, Dược Quân, ông đừng hỏi việc ấy.

Dược Quân đáp:

- Xin đức Thế Tôn mở lòng từ bi nói cho chúng con được biết.

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, người mẹ sinh vào địa ngục Khóc than (Hào Khiếu). Người cha sinh vào địa ngục Núi đè (Chúng hợp). Người con sinh vào địa ngục Nóng (Viêm nhiệt). Người giữ ngôi đền sinh vào địa ngục A tỳ.

Dược Quân hỏi:

- Thưa Thế Tôn, còn nạn nhân vô tội kia, sinh vào cõi nào?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, ông nên biết rằng người vô tội kia được sinh vào cõi trời Trayastrimsha (cõi trời Tam Thập Tam).

Dược Quân hỏi:

- Thưa Thế Tôn, nhờ nhân gì mà được sinh vào cõi trời Trayastrimsha?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân ông hãy nghe đây. Lúc chết, lúc bị cướp đi mạng sống, người ấy nảy một niệm tin tưởng trong sáng nơi Như Lai, nói mấy chữ sau đây, "Nam mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri". Chỉ một lần thôi. Nhờ thiện căn này mà được sinh vào cõi trời ấy, sống an lạc sáu mươi kiếp. Biết được việc trong tám mươi kiếp về trước. Sinh ra ở đâu cũng không gặp phiền não. Sinh ra là phiền não tan đi. Chúng sinh ấy không thể làm cho phiền não tận diệt.

Nghe xong, đại Bồ tát Dược Quân hỏi:

- Thưa Thế Tôn, phải làm thế nào mới có thể làm cho phiền não tận diệt?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, cần phải tinh tấn vượt bực.

Dược Quân hỏi:

- Thưa Thế Tôn, phải tinh tấn vượt bực như thế nào?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, ông hãy nghe đây: tinh tấn là tướng hiện của quả. Cái gọi là "quả Tu đà hoàn", là chỗ hạnh của tinh tấn. Cái gọi là "quả Tư đà hàm", là chỗ hạnh của tinh tấn. Cái gọi là "quả A na hàm" là chỗ hạnh của tinh tấn. Cái gọi là "quả A la hán", và sự tịnh diệt của bậc A La Hán, là chỗ hạnh tinh tấn. Cái gọi là "quả Độc Giác" và trí tuệ của bậc Độc Giác, là chỗ hạnh của tinh tấn. Cái gọi là "quả Bồ tát" và đại giác ngộ, là chỗ hạnh của tinh tấn. Dược Quân, tất cả những điều nói trên đều được gọi là "chỗ của hạnh tinh tấn".

Dược Quân hỏi:

- Thưa Thế Tôn, Tu đà hoàn và quả Tu đà hoàn có tướng hiện như thế nào?

Đức Thế Tôn nói:

- Dược Quân, ví như có người trồng cây, vừa trống xuống, cây đã đâm chồi chỉa nhánh sum suê. Nội một ngày rễ sâu một do tuần. Lại cũng có người trồng cây, khi trồng gặp gió lớn, cây chẳng lên được chồi xanh nào. Người ấy bứng cây đi. Người kia thấy vậy lên tiếng: "Vì sao ông đào đất của tôi?" Trong lúc cả hai đang dằng co với nhau, nhà vua đi ngang, thấy có trận cãi vã liền bảo quần thần: "Gọi hai người ấy đến đây cho ta".

Quần thần vâng lời, chạy nhanh đến nói: "Đại Vương truyền gọi hai ông".

Nghe vậy, một người hoảng hốt sợ sệt, còn một người vẫn điềm tĩnh an nhiên. Cả hai đến trước mặt vua. Vua hỏi: "Vì cớ gì hai ngươi dằng co cãi vã với nhau?"

Một trong hai người đứng lên thưa: "Thưa Đại Vương, tôi không có ruộng vườn, chỉ mượn được mảnh đất này trồng cây. Trồng một ngày, cây đơm hoa kết trái, nửa sống nửa chín. Ngay ngày đó, người kia cũng đến trồng cây, nhưng trong khi trồng gặp gió lớn, cây không thể đâm chồi. Thưa Đại Vương, rễ cây của người ấy không sâu đủ một do tuần, vì vậy người ấy không vui đến kiếm chuyện sinh sự với tôi, nói rằng tất cả đều là lỗi của tôi. Xin Đại Vương xét cho, tôi hoàn toàn không có lỗi".

Khi ấy nhà vua triệu tập ba mươi triệu quần thần, phán rằng: "Các ông nói đi".

Quần thần thưa: "Tâu Đại Vương, nói điều gì?

Vua đáp: "Các ông có bao giờ từng nghe có ai trồng cây mà trong một ngày mọc lên đủ cành đủ lá, hoa trái sum suê, nửa sống nửa chín? Các ông nói thử xem có thể có chuyện như vậy được hay không?"

Quần thần đứng dậy, tâu rằng: "Tâu Đại Vương, chuyện này là phép lạ, chúng tôi không thể biết chắc được. Phải hỏi người kia kỹ hơn.

Nhà vua quay lại hỏi người kia: "Lời ngươi nói lúc nãy có thật không?"

Người ấy đáp: "Tâu Đại Vương, toàn là sự thật".

Vua nói: "Ta chưa từng nghe qua chuyện lạ như vậy. Ngươi nói rằng cây trồng một ngày, đơm hoa kết trái, thật là chuyện khó tin".

Người ấy chắp tay đáp: "Nếu Đại Vương không tin, xin cứ hãy đến đó đích thân trồng thử".

Vua bèn ra lệnh nhốt hai người kia vào ngục, tự mình dẫn ba mươi triệu quần thần ra mảnh đất nọ, lấy cây trồng thử. Cây không nảy mầm, không ra lá, chẳng đơm hoa, không kết trái. Vua nổi giận truyền lịnh: "Mang rìu lại đây". Quần thần đưa rìu lại, vua hạ lịnh đốn ngã gốc cây sum suê hoa trái người kia trồng. Thân cây ngã xuống, mười hai cây khác mọc lên. Vua lại bảo chặt. Mười hai cây ngã xuống, hai mươi bốn cây khác lại mọc, với đầy đủ gốc rễ hoa trái, chồi xanh mơn mởn, lấp lánh bảy thứ châu ngọc quí giá. Trên cây xuất hiện hai mươi bốn con chim mào vàng cánh ngọc, âm thanh trong suốt. Vua thấy vậy lại càng tức tối, tự tay đưa rìu bổ xuống gốc cây. Rìu phập vào thân cây, nước cam lồ tuôn ra. Bấy giờ nhà vua cảm thấy bất an, truyền lịnh: "Thả hai người kia ra khỏi ngục", quần thần dạ rang, tức tốc chạy về ngục dẫn hai người đến gặp vua.

Vua bấy giờ lên tiếng hỏi: "Ngươi trồng thứ cây gì, mà cứ đốn xuống thì lại mọc lên nhiều gấp bội, thành những hai mươi bốn cây, trong khi cây của ta chẳng ra mầm trổ lá, chẳng kết trái đơm hoa?"

Người kia thưa rằng: "Vì công đức người trồng không giống nhau".

Quần thần nghe xong, quì cả hai chân, nói với người kia: "Ông mới xứng là vua trị nước. Vua trước không xứng đáng".

Người kia bấy giờ nói:
  • "Phước báu đế vương
    Tôi chẳng mong cầu
    Cũng không mong cầu
    Tiền tài, của cải.
    Chỉ tin nơi Phật.
    Nguyện trở thành bậc
    Tôn quí nhất trong
    Các loài hai chân
    Nguyện đến được nơi
    Như Lai trú ở
    Thanh tịnh Niết bàn.
    Nguyện đem chánh pháp
    Thuyết cho các ông
    Cùng đến Niết bàn".

    Người ấy xếp chân
    Theo thế hoa sen
    Và thú nhận rằng:
    "Trong thời quá khứ
    Tôi phạm ác nghiệp
    Nên nay bị nhốt
    Vào ngục của vua
    Bây giờ tại đây
    Phát tâm bồ đề
    Nguyện tan nghiệp cũ".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: KINH CHÁNH PHÁP SANGHATA

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Lúc ấy hai mươi bốn triệu con chim mỏ ngọc kim cương xướng lên âm thanh trong vắt. Lại có ba mươi hai ngàn tòa lầu hiện ra, mỗi tòa rộng hai mươi lăm do tuần, với hai mươi lăm triệu con chim mỏ vàng mào vàng, mặt vàng, cất tiếng người nói rằng: "Đại Vương chặt cây, gây quả ác. Hai mươi bốn cây trong số một trăm triệu cây, mọc sừng sững trước mặt Đại Vương. Vì việc làm bất thiện này mà Đại Vương sẽ gặp quả bất thiện. Đại Vương có biết người trồng cây ấy là ai chăng?"

Vua rằng:
  • Tôi thật không biết
    Xin nói cho tôi nghe
    Người trồng cây ấy
    Đích thật là ai?"
Chim đáp:
  • "Người ấy sẽ là
    Ngọn đèn thế giới
    Xuất hiện cõi trần
    Làm người dẫn dắt
    Toàn thể chúng sinh
    Ra khỏi ràng buộc
    Sinh tử luân hồi".
Vua hỏi:
  • "Vậy còn người kia
    Trồng cây không mọc
    Đã làm những gì
    Trong thời quá khứ?
    Xin chim giải thích
    Tôi nghe được chăng?"
Chim đáp:
  • "Đề Bà Đạt Đa
    Là tên người ấy
    Không chút căn lành
    Lấy gì cây mọc?"
Ngay lúc ấy, ba mươi triệu quần thần nghe chánh pháp này đồng loạt chứng quả thập địa, được trí huệ trong suốt, còn nhà vua an trụ thập địa rồi thành tựu thiện pháp.

Bồ tát Dược Quân nghe đức Thế Tôn kể xong, hỏi rằng:

- Thưa Thế Tôn, vì nhân gì, vì duyên gì mà ba mươi triệu quần thần đạt được trí tuệ trong suốt, an trụ thập địa?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, ông hãy nghe Như Lai giải thích đây.

Bấy giờ đức Thế Tôn mỉm miệng cười, từ miệng phóng ra tám mươi bốn ngàn tia sáng lớn, đủ cả trăm vạn sắc màu xen lẫn, xanh, vàng, đỏ, trắng, tía, pha lê, bạc, chiếu sáng rực rỡ thế giới vô lượng vô biên, rồi về lại cạnh đức Thế Tôn, vòng quanh ba vòng theo chiều bên phải rồi tan biến vào đỉnh đầu của Phật.

Lúc ấy đại Bồ tát Dược Quân từ chỗ ngồi đứng dậy, vắt một vạt áo lên vai, gối bên phải quì xuống chấm đất, chắp tay cung kính hướng về đức Thế Tôn mà nói:

- Thưa Thế tôn, vì lý do gì Thế tôn mỉm cười? Không phải vô cớ mà bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri lại mỉm cười.

Đức Thế Tôn nói:

- Dược Quân, ông có thấy vô số người từ bốn phương đang về đây tụ họp không?

Dược Quân đáp:

- Thưa không, con không thấy.

Đức Thế Tôn nói:

- Vậy ông nhìn lại cho kỹ, nhiều vô cùng tận.

Bấy giờ đại Bồ tát Dược Quân quan sát kỹ lưỡng, thấy phương Đông có một gốc đại thụ tỏa rộng đến bảy ngàn do tuần. Trên đó có hai mươi lăm ngàn triệu thân người tụ tập, không nói năng, không thưa hỏi, không trò truyện, không ăn, không đứng, không đi, chỉ ngồi chờ im lặng. Phương Nam có một gốc đại thụ tỏa rộng đến bảy ngàn do tuần. Trên đó có hai mươi lăm ngàn triệu thân người tụ tập, không nói năng, không thưa hỏi, không trò truyện, không ăn, không đứng, không đi, chỉ ngồi chờ im lặng. Phương Tây có một gốc đại thụ tỏa rộng đến bảy ngàn do tuần. Trên đó có hai mươi lăm ngàn triệu thân người tụ tập, không nói năng, không thưa hỏi, không trò truyện, không ăn, không đứng, không đi, chỉ ngồi chờ im lặng. Phương Bắc có một gốc đại thụ tỏa rộng đến bảy ngàn do tuần. Trên đó có hai mươi lăm ngàn triệu thân người tụ tập, không nói năng, không thưa hỏi, không trò truyện, không ăn, không đứng, không đi, chỉ ngồi chờ im lặng. Không gian phía dưới có một gốc đại thụ tỏa rộng đến bảy ngàn do tuần. Trên đó có hai mươi lăm ngàn triệu thân người tụ tập, không nói năng, không thưa hỏi, không trò truyện, không ăn, không đứng, không đi, chỉ ngồi chờ im lặng. Không gian phía trên có một gốc đại thụ tỏa rộng đến bảy ngàn do tuần. Trên đó có hai mươi lăm ngàn triệu thân người tụ tập, không nói năng, không thưa hỏi, không trò truyện, không ăn, không đứng, không đi, chỉ ngồi chờ im lặng.

Đại Bồ tát Dược Quân mới thưa đức Thế Tôn:

- Thưa Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, xin cho con hỏi một điều.

Đức Thế Tôn đáp:

- Ông có điều gì thắc mắc cứ hỏi, Như Lai sẽ vì ông mà trả lời tất cả.

Đại Bồ tát Dược Quân hỏi:

- Thưa Thế Tôn, vì sao vô số thân người như vậy từ bốn phương kéo đến và ngồi lại đây? Vì sao ở giữa không gian phía trên và phía dưới lại có năm mươi ngàn triệu người kéo đến, và ngồi lại? Thưa Thế tôn, vì nhân gì, vì duyên gì mà có việc như vậy?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, ông hãy tự mình đến thăm các đấng Như Lai trong mười phương thế giới, hỏi xem những thân người này đến từ cõi nào.

Dược Quân hỏi:

- Thưa Thế Tôn, con dùng thần lực nào để đi? Thần lực của Như Lai, hay thần lực của chính mình?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, ông hãy đi bằng thần lực của chính mình.

Đại Bồ tát Dược Quân nghe xong, theo hướng bên phải của đức Thế Tôn đi quanh ba vòng, rồi thân hình biến mất ngay nơi ấy. Sau khi đi qua hơn chín mươi sáu triệu thế giới, đại Bồ tát Dược Quân đến thế giới tên gọi Nguyệt Đăng (Chandrapradipa). Vị Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri của cõi ấy tên là Nguyệt Thượng Cảnh Giới (Chandravati-kshetra). Như Lai Nguyệt Thượng Cảnh Giới đang thuyết Pháp cho tám mươi ngàn triệu đại Bồ tát.

Khi ấy đại Bồ tát Dược Quân tới cõi Nguyệt Đăng, đến bên Phật, mang đỉnh đầu lạy ngang chân đức Thế Tôn Nguyệt Thượng Cảnh Giới, bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, rồi đứng dậy chắp tay cung kính hướng về đức Thế Tôn, nói rằng:

- Thưa Thế Tôn, con từ cõi Phật của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai, tại cõi Ta bà, đã vượt chín mươi sáu ngàn triệu thế giới để đến đây. Không nơi nào con thấy được nhiều thân người như con đã thấy ở cõi ấy. Thưa đức Thế Tôn, vì nguyên do gì trong Pháp hội của đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai tại cõi Ta bà lại có nhiều thân người từ mười phương về tụ họp đông đảo như vậy? Con chưa từng thấy số lượng thân người nhiều như số lượng thân người đang trú ở cõi Ta bà.

Đức Thế Tôn Nguyệt Thượng Cảnh Giới đáp:

- Dược Quân, ngay chính nơi ấy, họ thường lang thang và ở lại.

Dược Quân hỏi:

- Thưa Thế Tôn, vì sao lại như vậy?

Đức Thế Tôn đáp:

- Họ từ cây gỗ vô tri sinh ra.

Dược Quân nói:

- Con chưa từng nghe nói có chúng sinh nào lại từ cây gỗ vô tri sinh ra.

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, ông chưa từng nghe nói thật sao?

Dược Quân đáp:

- Thưa Thế Tôn, con chưa từng nghe qua, chưa từng được thấy.

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, ông muốn thấy không? Như Lai sẽ chỉ cho ông thấy.

Dược Quân thưa:

- Thưa Thế Tôn, con rất muốn. Thưa Thiện thệ, con rất muốn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn Nguyệt Thượng Cảnh Giới Như lai duỗi cánh tay. Từ cánh tay Phật sinh ra một trăm ngàn triệu thân người. Mỗi thân người duỗi ra một trăm cánh tay, rãi các loại hương hoa hương xoa cúng dường Như Lai. Khi ấy đức Thế Tôn Nguyệt Thượng Cảnh Giới Như Lai hỏi đại Bồ tát Dược Quân:

- Ông bây giờ thấy được chưa, Dược Quân? Có thấy thân người đang rãi hương hoa hương xoa cúng dường Như lai?

Dược Quân đáp:

- Thưa Thế Tôn, con có thấy, thưa Thiện Thệ, con có thấy.

Đức Thế Tôn dạy:

- Thế đó, thân người vô tri hiện ra. Thế đó, con người vô tri ra đời.

Một trăm triệu thân người, mỗi thân duỗi ra một trăm cánh tay, và đều rơi đọa. Dược Quân nói:

- Thưa Thế Tôn, vì sao lại như vậy? Thưa Thiện Thệ, vì sao trăm cánh tay mà trong khoảnh khắt có thể rơi đọa như vậy? Thưa Thế Tôn, cúng dường với hàng trăm cánh tay mà vẫn chưa giải thoát, vậy người chỉ có hai tay giải thoát được còn hiếm đến mức nào!

Đức Thế Tôn đáp:

- Ông nói đúng lắm, Dược Quân. Tương tự như vậy, thân người vô tri sinh, vô tri diệt. Dược Quân, ông nên biết xác thân này là vật vô tri, như mộng như huyễn.

Dược Quân hỏi:

- Thưa Thế Tôn, thân người ấy có phải cũng có kẻ ít tuổi, có kẻ nhiều tuổi?

Đức Thế Tôn đáp:

- Đúng vậy, Dược Quân, có kẻ ít tuổi, có kẻ nhiều tuổi.

Dược Quân lại hỏi:

- Thưa Thế Tôn, vậy ai là kẻ ít tuổi? ai là kẻ nhiều tuổi?

Đức Thế Tôn đáp:

- Những kẻ ông vừa thấy rơi đọa đó, là kẻ nhiều tuổi, còn những người do cây sinh ra là kẻ ít tuổi.

Dược Quân nói:

- Xin Thế Tôn cho con được gặp những người ít tuổi.

Bấy giờ Đức Thế Tôn Nguyệt Thượng Cảnh Giới đưa bàn tay phải ra; từ mười phương, một trăm ngàn triệu thân người tụ họp lại. Từ không gian phía trên và phía dưới, năm mươi triệu thân người tụ họp lại. Tất cả đều không quì đảnh lễ đức Thế tôn cũng không thưa gởi, chỉ đứng im lặng.

Khi ấy đại Bồ tát Dược Quân nói:

- Thưa Thế Tôn, vì sao những người này không nói năng mà chỉ đứng im lặng?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, ông không biết sao? Cõi này vô tri không nói, cũng không hiểu chánh pháp. Vì sao? Dược Quân, có những người ít tuổi trong Pháp hội này không biết sinh, không hiểu diệt. Dù có thấy khổ não lớn lao của già, bệnh, sầu muộn, khóc than, yêu phải xa, ghét phải gần, chết và chết không đúng kỳ, họ vẫn không xúc động, không chán ngán. Vậy họ lấy gì để hiểu? Dược Quân, họ là những người cần được giáo hóa luôn luôn.

Nghe xong đại Bồ tát Dược Quân nói:

- Thưa Thế Tôn, vậy những kẻ ít tuổi không biết chánh pháp ấy, họ đến từ đâu? đi về đâu? sẽ tái sinh về cõi nào?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, ông hãy nghe đây. Thân người họ có không phải là sản phẩm của thợ vàng, thợ hàn, thợ mộc, cũng không phải do thợ thủ công nắn đất mà thành. Thân ấy cũng không vì sợ vua mà hiện ra. Thân ấy do nghiệp mà thành, từ phối hợp nam nữ sinh ra. Kiếp này sang kiếp khác họ được dạy nhiều tiểu xảo, gặp lắm nỗi đau bén nhọn triền miên, toàn là kết quả của ác nghiệp đã làm trong quá khứ. Dược Quân, ở cõi này, những kẻ ít tuổi chưa tỉnh thức sẽ phải chịu nhiều khổ đau như vậy. Vì lý do ấy họ không nói năng trò chuyện. Họ không nói lời nào cả. Dược Quân, những người ít tuổi này không biết điều lành, không biết sinh, không biết diệt, nên sẽ không đạt được thân người. Dược Quân, những người như vậy được gọi là "người ít tuổi".

Dược Quân lại hỏi:

- Thưa Thế Tôn, vậy người ít tuổi sinh ra như thế nào? chết đi ra sao?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, giống như người cầm củi đưa vào trong lửa, củi sẽ bắt lửa cháy sáng. Thân thể con người cũng tương tự như vậy, đầu tiên sinh vào thân người. Sau khi sinh, thì có cảm xúc.

Dược Quân hỏi:

- Ở đây ai là người có sự sinh toàn hảo? Ai là người đã đạt Đại Niết bàn?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, đúng như ông hỏi, Phật đà có sự sinh toàn hảo, Như Lai đã đạt Đại Niết bàn. Ví như có người bị vua nhốt vào hầm tối. Vào hầm rồi nhìn đâu cũng chỉ thấy bóng tối thăm thẳm. Lại có người khi xưa đã từng chịu nhiều khổ não, nay thấy người này bị đưa vào chỗ tối, nghĩ rằng: "Người này chưa từng trải qua cảnh tối tăm như vậy, chắc chắn không thể thích nghi, e chết mất thôi". Nghĩ vậy mới đốt một ngọn lửa nhỏ phía sau nhà để khích lệ an ủi người đang bị nhốt. Không ngờ ngọn lửa tình cờ bốc lớn, lan rộng, cả tòa nhà bốc cháy, thiêu chết người. Nhà vua nghe tin có người chết, trong lòng xốn xang nghĩ rằng: "Từ nay ta sẽ thôi không nhốt người vào hầm tối". Rồi nói với người trong vương quốc: "Các người đừng sợ hãi, rồi các người sẽ được bình an. Từ nay về sau sẽ không còn ai đánh đập nhốt các người vào hầm tối. Ta sẽ không hại mạng sống của các người. Không cần phải sợ hãi nữa".

Dược Quân, tương tự như vậy, Như Lai là người đốt tan mọi phiền não, chữa lành mọi bịnh khổ. Như người kia nhà cháy thân cũng cháy, vì bình an phúc lạc của chúng sinh mà giải thoát tất cả ra khỏi vòng tù tội, Như Lai cũng vậy, xả bỏ mọi ô nhiễm tham sân si, xuất hiện trong cõi thế như ngọn đèn soi sáng chúng sinh, giải thoát tất cả ra khỏi địa ngục, ra khỏi thân súc sinh, quỉ đói (ngạ quỉ) hay a tu la. Chúng sinh ít tuổi hay nhiều tuổi, Như Lai đều giải thoát cả.

Khi ấy trên không rải xuống âm thanh hát lời kệ:
  • "Ruộng phước tuyệt hảo
    Ruộng phước tối thắng
    Đã khéo bày mở,
    Hạt giống gieo vào
    Không bị mất đi.

    Ruộng phước Phật đà,
    Cõi Phật thanh tịnh,
    Khai mở chánh pháp
    Của đấng Đại Hùng.

    Đạo sư vận dụng
    Kho tàng trí tuệ,
    Độ dẫn chúng sinh
    Vào cõi Niết bàn.
    Xuất hiện cõi thế,
    An lạc cõi trần,
    Thanh tịnh cõi Phật,
    Những người nhiều tuổi
    Cùng người ít tuổi
    Trong toàn ba cõi
    Đều được cứu thoát
    Ra khỏi luân hồi.

    Phật đóng tất cả
    Cửa vào địa ngục,
    Cửa vào súc sinh,
    Cửa vào ngạ quỉ,
    Nhờ đó thế gian
    Cùng cõi xuất thế
    Đều được thanh tịnh".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Hình đại diện của người dùng
battinh
Điều Hành Viên
Bài viết: 6106
Ngày: 14/11/11 07:58
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Tứ Đại
Được cảm ơn: 3 time

Re: KINH CHÁNH PHÁP SANGHATA

Bài viết chưa xem gửi bởi battinh »

Lúc ấy đức Như Lai Nguyệt Thượng Cảnh Giới mỉm miệng cười, nói rằng:
  • "Lành thay, thấy được bậc tối thắng
    Lành thay, thấy được đấng Phật đà
    Lành thay phước điền diệu pháp
    Lành thay Tăng gìa hòa hợp
    Lành thay Chánh pháp Sanghata được tuyên thuyết, là nơi tận diệt của ác pháp. Ai nghe được pháp này sẽ thành tựu đường tu tối thượng"
Khi ấy đại Bồ tát Dược Quân chắp tay cung kính hướng về đức Thế Tôn, thưa rằng:

- Thưa Thế Tôn, vì nhân gì, vì duyên gì mà đức Thế Tôn mỉm miệng cười?

Đức Thế Tôn đáp:

- Dược Quân, Thiện nam tử, ông có thấy những người ít tuổi kia không?

Dược Quân đáp:

- Thưa Thế Tôn, con có thấy. Thưa Thiện Thệ, con có thấy.

Đức Thế Tôn nói:

- Dược Quân, ngày hôm nay tất cả những người ấy sẽ thành tựu Thập địa Bồ tát.

Khi ấy đại Bồ tát Dược Quân bay lên không trung, cao tám mươi ngàn do tuần, lại có tám mươi ngàn triệu Thiên tử mưa xuống những đóa hoa rực rỡ, cúng dường đức Thế Tôn. Thấy đại Bồ tát Dược Quân, những người ít tuổi chắp tay đảnh lễ. Khi ấy đại Bồ tát Dược Quân đứng trong không trung, vận dụng âm thanh lớn rót vào tam thiên đại thiên thế giới. Chúng sanh trong ba mươi hai địa ngục lớn đều nghe, chúng sanh ba muơi hai tầng trời, đều nghe, tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách. Tám mươi bốn ngàn Long vương tận đáy đại dương cũng nghe rung chuyển, ba mươi ngàn triệu la sát lũ lượt kéo về, hai mươi lăm ngàn triệu quỷ đói, dạ xoa, lat sát từ vương quốc Adakavati kéo về trước mặt đức Thế Tôn Nguyệt Thượng Cảnh Giới, tụ họp đông đảo và một trăm triệu Bồ tât từ các thế giới mười phương cũng dùng thần lực kéo đến dự hội.

Khi ấy đại Bồ tát Dược Quân chắp tay cung kính hướng về đức Thế Tôn, nói rằng:

- Thưa Thế Tôn, rất nhiều đại Bồ tát đều đến tụ họp đông đảo, thưa Như Lai, các loài trời, thần, rồng cũng đều đến tụ họp đông đảo. Lại có rất nhiều dạ xoa, la sát, quỷ đói đến từ thế giới Adakavati, cũng về tụ họp đông đảo, mong được nghe pháp.

Khi ấy đức Thế Tôn nói với Bồ tát Dược Quân:

- Thiện nam tử, ông hãy về lại đây.

Đại Bồ tát Dược Quân dùng thần lực bay trở xuống từ tầng không, chắp taycung kính hướng về đức Thế Tôn thưa rằng:

- Tập hợp chánh pháp, thưa Thế Tôn, con được nghe nói về "Tập hợp chánh pháp". Vậy xin Thế Tôn cho con hỏi "Tậ[ hợp chánh pháp" nghĩa là gì?

Đức Thế Tôn đáp:

- Thiện nam tử, khi nào có người tu phạm hạnh thì gọi là "tập hợp chánh pháp". Vì gắng tu phạm hạnh, nên tránh điều bất thiện. Ông có thấy, Thiện nam tử, những người ít tuổi kia, việc gì không thích hợp với phạm hạnh, họ đều không làm. Họ sẽ nắm được năng lực Tổng trì, sẽ thu nhiếp được vạn pháp.

Dược Quân lại hỏi:

- Thưa Thế Tôn, nhờ đâu mà đông đảo chúng sanh về tụ hội nơi đây để nghe nói về "Tập hợp chánh pháp"?

Đức Thế Tôn nói:

- Dược Quân, có rất nhiều chúng sanh không biết rằng sanh chính là khổ, lão chính là khổ, bệnh chính là khổ, rằng sầu đau là khổ, khóc than là khổ, thương mà phải xa lìa là khổ, ghét mà phải ở gần là khổ, rồi sau biết bao nhiêu khổ đau như vậy, cái chết đến cướp ddi thân thể và tánh mạng. Dược Quân, tất cả những điều đó gọi là "khổ", nhưng có rất nhiều chúng sanh đối với ý nghĩa khổ đau này lại không nghe, không biết.

Người ít tuổi trong pháp hội nghe đức Phật dạy, chắp tay cung kính hướng về đức Thế Tôn, hri rằng:

- Thưa Thế Tôn, phải chăng chúng con cũng sẽ chết?

Đức Thế Tôn nói:

- Đúng vậy, Thiện nam tử, tất cả chúng sanh đễu chết.

Họ lại hỏi:

- Thưa Thế Tôn, cái chết đến như thế nào?

Đức Thế Tôn đáp:

- Thiện nam tử, ngay lúc chết, đến sát na cuối cùng của tâm thức, có ba luồng khí mang tên gọi "Khiến thức tận diệt", "khiến thức xao động", "khiến thức tán loạn". Thiện nam tử, vào lúc mạng chung, ba loại khí này sẽ khiến thần thức cuối cùng xáo trộn, chao động và tán loạn.

Họ lại hỏi:

- Thưa Thế Tôn, vào lúc mạng chung, có ba loại khí khiến thân thể hư hoại, ba loại khí ấy là gì?

Đức Thế Tôn nói:

- Khiến cho thân thể hư hoại có ba thứ, gọi là "vũ khí", "hấp dẫn" và "thương tổn".

Họ lại hỏi:

- Thưa Thế Tôn, cái gọi là "thân thể" thật ra là gì?

Đức Thế Tôn nói:

- Thân còn được gọi là "bốc sáng", là "lửa cháy, là "đờm dãi", là "phun ợ", là "viếng nghĩa trang", là "ngu muội", là "gánh nặng", là "khổ vì sanh", là "động vì sanh", là "khổ não vì sinh lực", là "mang lại cái chết và lìa người thân thương". Những sự như vậy đều là tên gọi của "thân".

Họ lại hỏi:

- Thế nào là sống? Thế nào là chết?

Đức Thế Tôn đáp:

- Này những người sống lâu, các ông nên biết, "thức" chết còn "nghiệp" trường tồn. Cái gọi là "thân", gắn liền với hàng triệu gân mạch, tám mươi bốn ngàn lỗ chân lông, mười hai ngàn chi và hơn ba trăm sáu mươi đốt xương. Lại có tám mươi bốn ngàn loại ký sinh trùng sống bên trong thân thể. Tất cả đều sẽ chết, đều đoạn diệt. Khi con người chết đi thì các loại trùng đều không còn hy vọng. Vì chúng kích động quay lại nhai nuốt lẫn nhau, nên khí trong thân thể bị xáo trộn. Vì vậy mà chúng phải chịu khổ não lớn lao, hoặc khổ vì con trai, hoặc khổ vì con gái, hoặc khổ vì chồng, vì vợ, tất cả những sinh vật này đều bị mũi tên phiền muộn đâm thủng, nhai nuốt lẫn nhau cho đến khi chết hết, chỉ còn lại hai con. Lại tranh đấu với nhau đến bảy ngày. Sau bảy ngày một con chết, một con thoát.

Này những người sống lâu, nếu các ông tự hỏi cái gì gọi là "Pháp". Các ông nghĩ sao? Cũng giống như các loài trùng kia đấu tranh, nhai nuốt lẫn nhau cho đến chết, chúng sanh phàm phu mê muôi cũng vậy, luôn tranh chấp, chém giết nhau, chẳng biết sợ sanh, sợ già, sợ bệnh, sợ chết. Cũng như hai con trùng kia đánh giết lẫn nhau, chúng sanh phàm phu mê muội cũng vậy, đánh giết lẫn nhau. Đến khi mạng chung, có thiện tri thức đến hỏi: "Này đạo hữu, các ông đặt lòng tin của mình ở đâu? Có biết sanh là khổ nạn? Có biết lão là khổ nạn? Có biết bệnh là khổ nạn? Có biết tử là khổ nạn?"

Người phàm phu đáp:

- Tôi đã thấy và biết sanh, lão, bệnh, tử là khổ.

Thiện tri thức lại hỏi:

- Vậy tại sao không từng cấy trồng gốc rễ điều lành? Sao không từng cấy trồng thiện căn, tập hợp chánh pháp, để đến với hạnh phúc của cả hai thế giới? Đạo hữu, cho chúng tôi hỏi thêm lần nữa, sao không tích tụ công đức để vượt thoát sanh tử? Sao không tìm hiểu đâu là nơi mình cần hướng tâm về? Sao không nghe tiếng trống đại pháp gióng lên trên toàn cõi thế? Sao không thấy việc cấy trồng hạnh lành nơi ruộng phước Nhai Lai,dâng các món hương thơm, vòng hoa, vòng đèn? Sao không thấy việc cúng dường ẩm thực cho Như Lai, cho bốn chúng thanh tịnh Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đang dốc lòng tu học Phật pháp?

Cứ như vậy họ nói lời lợi ích cho người sắp chết:

- Này vua, sao không làm được việc thiện dù nhỏ nhoi nào? Này người, sanh vào cõi Diêm Phù này, sao chỉ làm toàn việc bất thiện?

Lúc ấy, vị đại Pháp vương nói lời kệ, khích lệ người sắp chết:

"Gặp Như Lai xuất thế
Nghe tiếng trống quảng đại
Nhận kho tàng diệu pháp
Mở Niết Bàn an lạc
Gặp được thiện duyên này
Sao vẫn chưa tinh tấn".

Người ấy đáp rằng:

"Tâm tôi vốn mê muội
Lại không gặp bạn hiền
Nên chứa mầm ô nhiễm
Tâm vướng đầy tham ái
Tạo lắm nghiệp chẳng lành
Giết hại nhiều chúng sanh
Phá chúng Tăng hòa hợp
Dùng tâm lý chấp ngã
Đập phá tháp cùng chùa
Thường nói lời phỉ báng
Làm phiền lòng mẹ cha
Nay những đã tạo nghiệp
Tôi thấy rõ tất cả
Tôi thấy tôi sanh vào
Cõi địa ngục Hào Khiếu
Vào địa ngục Chúng Hợp
Chịu đau đớn không vùng
Rồi vào ngục Đại Nhiệt
Lại chìm cõi Vô Gián
Gào thét cõi Đại Liên
Sợ hãi cõi Hắc Thằng
Hằng trăm lần chưa hết
Chúng sanh cõi địa ngục
Bị lôi xuống không ngừng
Nên cứ hoài sợ hãi
Rơi trăm ngàn do tuần
Sâu thẳm trong nỗi sợ
Như tuột vào lòng phễu
Không tìm được lối ra
Hàng ngàn đao gươm bén
Trong cõi ngục Đạo binh (Kshura)
Trăm ngàn lần vô số
Rừng gươm và núi đao
Cắt thân hình đứt đoạn
Vì nghiệp cảm mà thành
Lại có cơn bão lớn
Xốc tung thân thể lên
Xốn xang không kể xiết
Chúng sanh nào cũng thấy
Thân tôi đầy đớn đau
Cướp tài sản người khác
Giữ hết làm của mình
Lại chẳng từng cho ai
Giữ con trai, con gái
Giữ cha mẹ, anh em
Giữ thân nhân, bằng hữu
Giữ gia đinh, nô tỳ
Giữ bò ngựa, gia súc
Tôi lạc lối lầm đường
Sa đọa cảnh giàu sang
Mang bạc vàng châu báu
Gấm vóc cùng ngọc ngà
Xây lầu thành nguy nga
Người ra vào tấp nập
Nhạc du dương không dứt
Tham đắm cùng âm thanh
Thân mình tắm nước thơm
Chẳng từng nghe thỏa mãn
Ôi thân thể tham lam
Vì thân mà lầm lạc
Chẳng còn nơi nương tựa
Bây giờ và tương lai
Khi bão lớn nổi lên
Thân xốc tung từng mảnh
Lưỡi quen nếm vị ngọt
Trên đầu quen kết hoa
Mắt mê mờ sắc đẹp
Không thể nương tựa vào
Mắt này đã nhiều lần
Là nhân tạo nghiệp dữ
Cũng như các nghiệp dữ
Vì tai mà sinh ra
Cánh tay mang vòng quí
Nhẫn đeo đầy ngón tai
Cổ lấp lánh trai ngọc
Trang sức nặng hai chân
Vòng vàng quanh mắt cá
Toàn thân phủ ngọc ngà
Đầy chuỗi vàng vòng bạc
Hưởng vô tận giàu sang
Tâm khoái lạc đam mê
Quen cảm giác êm dịu
Tham đắm cùng lụa là
Thảm đẹp với chăn êm
Nuông thân trong xa xỉ
Tẩm thân bằng nước quí
Xông ướp đủ loại hương
Trầm hương cùng chiên đàn
Không gian mùi tỏa ngát
Xạ hương, hương xoa quí
Xoa tẩm cả thân hình
Y phục toàn lụa mịn
Trắng thanh khiết tinh nguyên
Bước xuống từ lưng voi
Lại bước lên lưng ngựa
Tôi thấy tôi tôn quí
Như một vị đại vương
Những con người tầm thường
Gặp tôi là trốn chạy
Quanh tôi đầy mỹ nữ
Múa hát thật du dương
Súc vật kia vô hại
Tôi săn giết không chừa
Làm đủ điều bất thiện
Không biết chuyện đời sau
Nhai nuốt thịt chúng sanh
Nghiệp gây nên như vậy
Tự tạo lắm khổ đau
Không biết chết là gì
Quá nuông chìu bản thân
Bây giờ chết đã đến
Chẳng còn ai che chở.

Này người thân của tôi
Sao nhìn tôi như thế?
Vì sao xé áo y
Khóc than thật áo não
Bứt tóc rồi đấm ngực
Rải bụi dơ lên đầu
Tôi sống đời vô ích
Cảnh sống gia đình này
Lẽ ra phải từ bỏ
Sao các ngươi còn vẫn
Gắng mà buộc thêm vào?
Thân này rồi cầm thú
Loài soi, chó, quạ chim
Sẽ tha hồ rỉa rói
Nuông chiều thân thể này
Thật là quá uổng công
Rắn diệt tận đeo đuổi
Nên vẫn tái sanh hoài
Muốn thoát nỗi sợ này
Phải tìm cho đúng thuốc
Thầy thế gian cho thuốc
Chẳng thể chữa nọc tham
Đứng trước thềm sanh tử
Chỉ chánh pháp là cần
Đừng đưa tôi rượu thịt
Đừng nuông chìu thân tôi
Thân này rồi hoại diệt
Tốn công thêm làm gì?
Tích lũy thêm ác nghiệp
Có gúp được gì đâu!
Quá nuông chìu bản thân
Mà thân rồi sẽ diệt.

Này con trai, con gái
Sao đưa mắt nhìn cha?
Con mong cha hết bệnh
Phỏng được lợi ích gì?
Dừng khóc than vô ích
Hãy nghe kỹ lời cha
Đừng gây thêm nhiễu hại
Cha vì lo cho con
Đã cướp nhieefutieefn của
Nay trước thềm sanh tử
Tuyệt vọng ôi vô bờ
Cõi sanh là cõi sợ
Cõi tử là cõi đau
Cha cảm được pháp "xúc"
Cùng pháp "tưởng, thọ, hành"
Do ái thủ làm nhân
Kẻ phàm phu trôi lạc
Hái toàn quả phiền não
Sanh vào nhà bất thiện
Vướng kẹt trong khổ đau
Tưởng công đức không đáng
Gây hại lớn cho người
Xoay lưng với chánh pháp
Giới hạnh và bố thí
Cha đều làm không được
Lại không hiểu rằng sánh
Chính vì do nghiệp ái
Nọc độc của rắn Tham
Vướng phải mà không biết
Vì si mà trôi lạc
Vào nơi không nẻo thoát
Nghĩa giải thoát không hiểu
Làm lắm việc chẳng lành
Chạy theo lòng tham ái
Tâm tán loạn mê mờ
Mang đầy nỗi ràng buộc
Lửa phiền não chói chang
Thân lang thang vô dịnh
Chẳng lúc nào bình an
Cũng chẳng biết tìm đâu
Cho ra chốn an lạc
Chỉ có nơi cửa Phật
Là tìm được hạnh phúc.

Chánh pháp luân chính là
Liều thuốc công hiệu nhất
Giới hạnh cũng giới pháp
Là tiếng lời Như Lai".


Hình ảnh

Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.4 khách