KINH LĂNG NGHIÊM

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

A Nan liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật :
- Chúng con ngu độn, ham được đa văn, chưa cầu thoát ly nơi tâm phiền não, nhờ Phật từ bi dạy bảo, tu theo chánh pháp, được lợi ích lớn, thân tâm an lạc. Thế Tôn ! Nếu tu chứng pháp Tam Ma Địa, chưa đến Niết Bàn, thì thế nào gọi là chỗ Càn Huệ ? Nơi 44 tâm, tu đến cấp bậc nào và đến chỗ nào mới gọi là nhập Sơ Địa? Thế nào gọi là Đẳng Giác Bồ Tát ?

Nói xong năm vóc gieo sát đất, đại chúng đều nhất tâm chăm chú, mong đợi từ âm của Phật .
Bấy giờ Thế Tôn khen A Nan rằng :
- Lành thay! Lành thay! Các nguơi lại biết vì cả chúng trong hội này, và tất cả chúng sinh tu Tam Ma Địa, cầu pháp Đại Thừa trong đời mạt pháp, xin Ta chỉ rõ lối tu vô thượng chơn chánh, từ phàm phu đến Đại Niết Bàn. Nay các nguơi hãy lắng nghe, Ta sẽ vì các nguơi mà nói.

A Nan và đại chúng chắp tay, lắng lòng, yên lặng thọ giáo.
Phật bảo :
- A Nan nên biết ! Diệu tâm sáng tỏ, lìa những danh tướng, vốn chẳng có thế giới chúng sinh. Do vọng có sanh, do sanh có diệt, sanh diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chơn, ấy tức là Vô Thượng Bồ Đề và Đại Niết Bàn, cũng là hai hiệu chuyển y của Như Lai (Chuyển vọng giác thành Bồ Đề; chuyển sanh diệt thành Niết Bàn, gọi là hai hiệu chuyển y).
- A Nan ! Nguơi muốn tu chơn Tam Ma Địa, thẳng đến Đại Niết Bàn, trước hết phải biết hai nhân điên đảo của thế giới và chúng sanh. Nếu điên đảo chẳng sanh tức là chơn Tam Ma Địa của Như Lai.
- A Nan ! Sao gọi là chúng sanh điên đảo ?
Do tánh sáng tỏ nơi tâm, vì chấp tánh sáng tỏ , nên từ sáng tỏ ấy phát sanh vọng tánh. Tánh vọng thì kiến chấp sanh khởi. Từ tất cánh "Vô" thành cứu cánh "Hữu". Cái năng hữu, sở hữu này chẳng có tướng năng nhân-sở nhân, và năng trụ-sở trụ, trọn chẳng có nguồn gốc. Từ chỗ vô trụ này kiến lập thế giới và chúng sanh.
- Vì mê cái bổn tâm sáng tỏ, nên sanh ra hư vọng, tánh vọng chẳng tự thể, chẳng có chỗ nuơng tựa. Toan muốn trở về chơn, thì cái "muốn chơn" ấy đã chẳng phải chơn tánh của Chơn Như. Chẳng chơn mà cầu trở về chơn , rõ ràng thành phi tướng, phi sanh, phi trụ, phi tâm, phi pháp, xoay vần phát sanh, sanh mãi không thôi, huân tập thành nghiệp, đồng nghiệp cảm nhau, do sự cảm nghiệp, nên có tướng diệt, tướng sanh, do đó thành chúng sanh điên đảo.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- A Nan ! Sao gọi là thế giới điên đảo ?
Do năng hữu - sở hữu, phân đoạn vọng sanh, từ đó an lập Giới (không gian)
Từ chỗ chấp năng nhân - sở nhân, năng trụ - sở trụ, dời đổi chẳng ngừng,nên vọng lập Thế (thời gian).
Tam thế (thời gian), tứ phương (không gian) hòa hợp lẫn nhau, chúng sanh biến hóa thành 12 loài.
- Vì giác tri của chúng sanh, nên trong thế giới do động có Thanh, do Thanh có Sắc, do Sắc có Hương, do Hương có xúc, do Xúc có Vị, do Vị biết Pháp. sáu thứ vọng tưởng nhiễu loạn thành nghiệp tánh, nương theo tướng điên đảo luân chuyển này mà có 12 loài : Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, hoặc phi hữu sắc, hoặc phi vô sắc, hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng, lưu chuyển chẳng ngừng.

1- A Nan ! Bởi do thế giới có hư vọng, luân hồi, điên đảo về động, hòa hợp thành khối, vọng tưởng thăng trầm, vì thế có loài noãn sanh lưu chuyển nơi quốc độ như loài cá, chim, rùa rắn, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
2- Bởi thế giới có tạp nhiễm luân hồi, điên đảovề dục, hòa hợp thành sanh, vọng tưởng ngang dọc, vì thế nên có loài thai sanh lưu chuyển nơi quốc độ, như giống người, súc vật, rồng, tiên, đủ tám vạn bốn ngàn tràn đầy thế giới.
3- Bởi do thế giới có chấp trước luân hồi, hướng về điên đảo, hòa hợp thành noãn, vọng tưởng lăng xăng, vì thế nân có loài thấp sanh lưu chuyển nơi quốc độ, như loài côn trùng, sâu bọ, đủ tám vạn bốn ngàn , tràn đầy thế giới.
4- Bởi do thế giới có biến dịch luân hồi, điên đảo về giả, hòa hợp thành xúc, vọng tưởng mới cũ, vì thế nên có loài hóa sanh lưu chuyển nơi quốc độ, như loài thối xác phi hành, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

5- Bởi do thế giới có ngăn ngại luân hồi, điên đảo về chướng, hòa hợp thành trước (chấp), vọng tưởng tinh diệu, vì thế nên có loài hữu sắc lưu chuyển nơi quốc độ, như tất cả thần vật tinh sáng, đều hay dự đoán kiết hung, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
6- Bởi do thế giới có tiêu tán luân hồi, điên đảo về mê hoặc, hòa hợp thành ám (ám muội), vọng tưởng u ẩn, vì thế nên có loài vô sắc lưu chuyển nơi quốc đôh, như cõi vô sắc và Thần Hư Không, cho đến quỷ mị u ẩn, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
7- Bởi do thế giới có mường tượng luân hồi, điên đảo về ảnh, hòa hợp thành nhớ, vọng tưởng thầm kết, vì thế nên loài hữu tưỏng lưu chuyển nơi quốc độ, như loài quỷ thần linh tinh, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
8- Bởi do thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si, hòa hợp thành ngu, vọng tưởng khô khan, vì thế nên có loài vô tưởng lưu chuyển nơi quốc độ, tinh thần hóa ra đất, gỗ, kim thạch, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
9- Bởi do thế giới có đối đãi luân hồi, điên đảo về ngụy, hòa hợp thành nhiễm, vọng tưởng ỷ nhờ, vì thế nên có loài phi hữu sắc lưu chuyển nơi quốc độ, như loài thủy mấu, lấy tôm làm mắt, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
10- Bởi do thế giới có dẫn dụ luân hồi, điên đảo về tánh, hòa hợp thành chú, vọng tưởng kêu gọi, vì thế nên có loài phi vô sắc lưu chuyển nơi quốc độ, như loài chú nguyền rủa, yêu mị, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
11- Bởi do thế giới có hợp vọng luân hồi, điên đảo về mường tượng, hòa hợp thành dị, vọng tưởng xoay vòng, vì thế nên có loài phu hữu tưởng lưu chuyển nơi quốc độ, như loài tò vò, hay bắt con vật khác làm con mình, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.
12- Bởi do thế giới có oán hại luân hồi, điên đảo về sát (sát hại), hòa hợp thành quái, vọng tưởng ăn thịt cha mẹ, vì thế nên có loài phi vô tưởng lưu chuyển nơi quốc độ, như con chim thổ cưu và chim phá kính, ôm trái cây độc làm con, khi con lớn lên thì ăn thịt cả cha mẹ, đủ tám vạn bốn ngàn, tràn đầy thế giới.

Ấy gọi là mười hai loại chúng sanh.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

QUYỂN TÁM
- A Nan ! Như vậy chúng sinh trong mỗi loài đều gồm đủ 12 thứ điên đảo, cũng như dụi mắt thấy hoa đốm lăng xăng. Thảy đều từ Diệu Tâm sáng tỏ vọng sanh điên đảo, nên có đủ thứ tư tưởng hư vọng, tán loạn như thế. Nay người tu chứng Tam Ma Địa đối với Bản Nhân của tư tưởng tán loạn ấy, phải lập ba tiệm thứ, mới có thể diệt trừ, cũng như muốn trừ mật độc trong bình để đựng cam lộ thì phải dùng nước sôi và tro rửa sạch cái bình, rồi mới đụng cam lộ.
-Thế nào gọi là ba tiệm thứ ?
Một là tu tập trừ các trợ nhân
Hai là chơn tu, nạo sạch chánh tánh (sát, đạo, dâm)
Ba là tinh tấn, xoay ngược hiện nghiệp.

1- Sao gọi là trợ nhân ?
A Nan ! 12 loại chúng sanh trong thế giới chẳng thể tự sống, phải nhờ bốn cách ăn để tự nuôi dưỡng, ấy là :
- Ăn bằng cách nhai xé như con người,
- Ăn bằng cách ngửi hơi như quỷ thần
- Ăn bằng niệm tưởng như cõi Tứ Thiền
- Ăn bằng ý thức như cõi Tứ Không
Cho nên Phật nói tất cả đều nhờ ăn mà tồn tại.

- A Nan ! Tất cả chúng sanh, ăn ngọt thì sống, ăn độc thì chết. Vậy chúng sanh cầu Tam Ma Địa, nên dứt bỏ ngũ tân của thế giới. Ngũ tân này hễ ăn chín thì lòng phát dâm, ăn sống thì thêm sân hận. Những người ăn ngũ tân, dù biết giảng giải 12 bộ kinh, nhưng mười phuơng Thiên Tiên đều chê mùi hôi ấy mà tránh xa. Các loài ma quỷ thừa lúc đang ăn ngũ tân, liếm miệng của họ, người ây thường ở chung với quỷ, phước đức ngày càng tiêu mòn, chẳng được lợi ích.

- Người ăn ngũ tâm mà tu Tam Ma Địa thì Bồ Tát, Thiên Tiên,mười phuơng thiện thần chẳng đến hộ vệ. Đại lực ma vuơng có cơ hội hiện ra thân Phật, thuyết pháp cho họ, chê bai giới cấm, tán thán dâm dục và sân si. Người ấy chết thành quyến thuộc ma, khi hết phước báo của ma liền đọa địa ngục A Tỳ.
- A Nan ! Người tu đạo Bồ Đề phải dứt hẳn ngũ tân, ấy là tiệm thứ tu hành tinh tấn thứ nhất.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

2- Sao gọi là chánh tánh ? (Các tánh gây tạo nghiệp)
- A Nan ! chúng sanh muốn vào Tam Ma Địa, trước tiên phải giữ giới trong sạch, dứt hẳn lòng dâm, chẳng dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ nấu chín, chẳng ăn đồ sống.
- A Nan ! Người tu hành nếu chẳng dứt dâm dục và sát sanh,mà muốn ra khỏi ba cõi thì chẳng có chỗ đúng. Nên phải xem sự dâm dục như rắn độc, như kẻ thù.
- Trước tiên phải giữ gìn Tứ Khí, Bát khí của giới Thanh Văn, trì thân chẳng động, sau hành theo luật nghi trong sạch của Bồ Tát, trì tâm chẳng khởi. Giới cấm đã thành tựu, đối với thế gian, trọn chẳng còn những nghiệp tuơng sanh, tuơng sát. Đã chẳng trộm cắp thì chẳng mắc nợ nhau và khỏi phải trả nợ của thế gian.
- Người trong sạch ấy tu Tam Ma Địa, với cái thân của cha mẹ sanh, chẳng cần thiên nhãn, tự nhiên thấy được mười phuơng thế giới, gặp Phật, nghe pháp, vâng lãnh thành chỉ, được đại thần thông, dạo khắp cõi mười phuơng, túc mạng trong sạch, chẳng còn những điều khó khăn nguy hiểm. Ấy gọi là tiệm thứ tu hành tinh tấn thứ hai.

3- Sao gọi là hiện nghiệp ?
- A Nan ! Người giữ giới trong sạch như thế, tâm chẳng tham dâm thì chẳng rong ruổi theo lục trần bên ngoài, do sự chẳng rong ruổi, tự xoay về bản tánh. Đã chẳng duyên theo trần cảnh, thì lục căn chẳng có chỗ nuơng tựa, ngược dòng về MỘT, lục dục chẳng thành, mười phuơng quốc độ sáng suốt trong sạch, ví như lưu ly bên trong có trăng sáng (tự chiếu, vô năng-sở), thân tâm an lạc, diệu viên bình đẳng, được đại an ổn, tất cả mật viên, tịnh diệu của Như Lai đều hiên trong đó, người ấy liền được vô sanh pháp nhẫn. Từ đó dần dần tùy theo cấp bậc tu chứng an lập Thánh vị. Ấy gọi là tiệm thứ tu hành tinh tấn thứ ba.
- A Nan ! Thiện nam tử ấy, dục ái khô cạn, căn và cảnh chẳng duyên nhau. Cái báo thân hiện tiền này chẳng còn tiếp tục sanh nữa, giữ tâm rỗng sáng, thuần là trí tuệ. Tánh trí tuệ sáng suốt, chiếu mười phuơng cõi, chí có cái huệ khô cạn ấy, gọi là Càn Huệ Địa.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

THẬP TÍN
1 - Tập khí tham dục mới cạn, chưa nối được dòng pháp của Như Lai, tức dùng tâm này chảy vào trung đạo, tánh viên diệu được mở mang, từ chỗ chơn diệu viên lại phát ra chơn diệu, diệu tin thường trú, tất cả vọng tưởng đều dứt sạch, gọi là TÍN TÂM TRỤ

LƯỢC GIẢI
Khi tham dục mới cạn, chưa nối được dòng pháp cỉa Như Lai, tức dùng tâm này chảy vào trung đạo, chẳng nghiêng bên không, chẳng nghiêng bên giả, cũng chẳng trụ nơi trung đạo, từ đây khởi quán không, giả, trung, tam đế viên dung, gọi là VIÊN DIỆU. Ở đây tâm thức có thể đến. Khi giác quán đã thành, từ Chơn phát Diệu, khế hợp lý Viên, thì gọi là Diệu Viên, chỗ này tâm thức chẳng thể đến. Nếu trung đạo nuơng theo chơn, thì sự diệu chưa phải chơn, từ Chơn phát Diệu, diệu ấy mới là Chơn Diệu.
Diệu chưa phải chơn chẳng thể thường trụ, trung đạo thuần chơn, nên Diệu được thường trụ. Diệu đã thường trụ thì tất cả vọng tưởng chẳng có chỗ dựa. Nói Diệu là tự cảm thấy bất khả tư nghị, chẳng thể dùng ngôn ngữ tỏ bày, lòng tin tự tâm rất chơn thật, nên gọi là TÍN TÂM TRỤ.


2 - Chơn tính sáng tỏ, tất cả viên thông, ba thứ ấm, xứ, giới chẳng thể ngăn ngại, như thế cho đến trong vô số kiếp quá khứ, vị lai, tất cả tập khí xả thân, thọ thân, thảy đều hiện ra trước mắt và ghi nhớ chẳng quên, gọi là NIỆM TÂM TRỤ

3 - Thuần chơn diệu viên, tinh vi phát dụng, những tập khí từ vô thỉ đều hóa thành một tâm chơn tịnh, gọi là TINH TẤN TÂM.

4 - Tinh tấn tâm hiện tiền, thuần dùng trí tuệ, gọi là HUỆ TÂM TRỤ

5 - Trí huệ sáng tỏ, tịch lặng cùng khắp, tịch diệu thường định, gọi là ĐỊNH TÂM TRỤ.

6 - Từ định tâm trụ phát ra ánh sáng, tánh sáng sâu vào, tiến tới chẳng lui, gọi là BẤT THOÁI TÂM.

7 - Tâm an nhiên tiến tới, duy trì chẳng mất giao tiếp với tinh thần của mười phuơng Như Lai, gọi là HỘ PHÁP TÂM.

8 - Tánh sáng của Bổn Giác được duy trì, hay dùng diệu lực xoay từ quang của Phật về tự tánh, cũng như ánh sáng của hai guơng đối nhau trong đó, các bóng nhiệm màu trùng trùng vô tận, gọi là HỒI HƯỚNG TÂM.

9 - Với từ quang của bản tâm miên mật, an trụ nơi vô vị, vô thượng trong sạch, thường trụ của Phật, chẳng thể lạc mất, gọi là GIỚI TÂM TRỤ.

10 - Trụ giới tự tại, hay dạo khắp mười phuơng, ở đi tùy nguyện, gọi là NGUYỆN TÂM TRỤ.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

THẬP TRỤ

1- A Nan ! Thiện nam tử ấy do chân phuơng tiện phát ra mười bậc tín tâm kể trên, tâm tinh vi phát ra ánh sáng, mười thứ dụng xen lẫn nhau, viên dung thành một tâm, gọi là PHÁT TÂM TRỤ.

2-Trong tâm sáng suốt như lưu ly trong sạch, trong hiện vàng ròng tinh túy, dùng Diệu Tâm trước kia sửa sang thành đất địa để đi đứng (thực hành), gọi là TRỊ ĐỊA TRỤ.

3- Tâm địa biết khắp, tất cả rõ ràng, đi khắp mười phuơng, chẳng được ngăn ngại, gọi là TU HÀNH TRỤ.

4- Hạnh đồng với Phật, thọ tinh thần Phật, như cái thân trung ấm tự tìm cha mẹ, trung ấm dung thông với lòng tin, thầm nhập vào giống Như Lai, gọi là SANH QUÝ TRỤ.

5- Đã vào đạo thai, nối dòng của Phật, như thai đã thành hình, tướng người đầy đủ, gọi là PHUƠNG TIỆN CỤ TÚC TRỤ.

6- Dung mạo và tâm tướng đều giống như Phật, gọi là CHÁNH TÂM TRỤ.

7- Thân tâm dung hợp, ngày càng tăng trưởng, gọi là BẤT THỐI TRỤ.

8- Linh tướng của thập thân, nhất thời đầy đủ, gọi là ĐỒNG CHƠN TRỤ.

9- Hình đã thành, ra khỏi thai, làm con của Phật, gọi là PHÁP VUƠNG TỬ TRỤ.

10- Khi Pháp Vuơng Tử đã trưởng thành, ví như Thái tử vua Sát Lợi đến tuổi trưởng thành, sẽ được phụ vuơng ủy nhiệm việc nước, nên làm lễ quán đảnh (Lễ trưởng thành), gọi là QUÁN ĐẢNH TRỤ.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

THẬP HẠNH
1- A Nan ! Thiện nam tử ấy, đã thành con Phật, đầy đủ vô lượng diệu đức của Như Lai, tùy thuận mười phuơng chúng sanh, phuơng tiện tiếp dẫn, gọi là HOAN HỶ HẠNH.

2- Hay lợi ích cho tất cả chúng sanh, gọi là NHIÊU ÍCH HẠNH

3- Tự giác, giác tha, được chẳng chống trái, gọi là VÔ SÂN HẬN HẠNH

4- Tam thế bình đẳng, mười phuơng thông đạt, vì được "ý sanh thân", nên tùy mỗi loài chúng sanh mà hiên thân hóa độ cho đến cùng tột vị lai, gọi là VÔ TẬN HẠNH.

5- Nơi mỗi mỗi pháp môn, tất cả hòa đồng, được chẳng sai lầm, gọi là LY SI LOẠN HẠNH

6- Nơi tướng đồng hiện ra nhiều tướng dị. Nơi những tướng dị, mỗi mỗi thấy đồng, gọi là THIỆN HIỆN HẠNH.

7- Như thế cho đến vi trần đầy khắp mười phuơng hư không, , mỗi mỗi trần hiện mười phuơng cõi. Hiện trần, hiện cõi chẳng ngăn ngại nhau, gọi là VÔ TRƯỚC HẠNH.

8- Các thứ hiện tiền đều là đệ nhất Ba La Mật Đa, gọi là TÔN TRỌNG HẠNH.

9- Viên dung như thế, hay thành tựu quy tắc lợi sanh của mười phuơng chư Phật, gọi là THIỆN PHÁP HẠNH.

10- Mỗi mỗi đều trong sạch vô lậu, nhất chơn vô vị, Bản Tánh vốn như thế, gọi là CHƠN THẬT HẠNH.

THẬP HỒI HƯỚNG

1- A Nan ! Thiện nam tử ấy , thần thông đầy đủ, Phật sự đã thành. Tự tánh tinh túy thuần chơn, xa lìa các lỗi lầm, ngay khi hóa độ chúng sanh mà diệt tưởng năng độ, sở độ. Hồi tâm vô vi, hướng đạo Niết Bàn, gọi là CỨU HỘ NHẤT THIẾT CHÚNG SANH, LY CHÚNG SANH TƯỚNG HỒI HƯỚNG.

2- Hoại cái có thể hoại, tức xa lìa chúng sanh tướng, tướng xa lìa cũng phải lìa, vậy tướng hoại thì sở không, lìa cái lìa thì năng không. Năng sở đều không, Bản Giác bất hoại, gọi là BẤT HOẠI HỒI HƯỚNG.

3- Bản giác trạm nhiên, tâm giác đồng như Phật giác, gọi là ĐẲNG NHẤT THIẾT PHẬT HỒI HƯỚNG.

4- Tinh túy sáng tỏ, tâm địa đồng như Phật địa, gọi là CHÍ NHẤT THIẾT XỨ HỒI HƯỚNG.

5- Thế giới và Như Lai xen lộn lẫn nhau, được chẳng ngăn ngại, gọi là VÔ TẬN CÔNG ĐỨC TẠNG HỒI HƯỚNG.

6- Nơi đồng Phật địa, mỗi mỗi sanh ra cái nhân trong sạch, nuơng vào nhân ấy mà phát huy, vào đạo Niết Bàn, gọi là TÙY THUẬN BÌNH ĐẲNG THIỆN CĂN HỒI HƯỚNG.

7- Chơn thiện căn đã thành, thì mười phuơng chúng sanh đều là Bản Tánh của ta, thành tựu tánh tròn đầy, chẳng bỏ chúng sanh, gọi là TÙY THUẬN ĐẲNG QUÁN NHẤT THIẾT CHÚNG SINH HỒI HƯỚNG.

8- Tức nơi nhất thiết pháp, mà lìa nhất thiết tướng. Cái "tức" cái "lìa" , cả hai đều chẳng dính mắc, gọi là CHƠN NHƯ TƯỚNG HỒI HƯỚNG.

9- Thật đắc Chơn Như mười phuơng vô ngại, gọi là VÔ PHƯỢC GIẢI THOÁT HỒI HƯỚNG. (Phược là trói buộc)

10- Đức tánh viên mãn thành tựu, số lượng của pháp giới tiêu diệt, gọi là PHÁP GIỚI VÔ LƯỢNG HỒI HƯỚNG.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

TỨ GIA HẠNH
- A Nan ! Thện nam tử ấy đã tu xong 41 bậc tâm trong sạch, kế đó thành tựu bốn thứ gia hạnh diệu viên

1- Tức đem Phật Giác, dụng làm tự tâm, cũng như dùi cây lấy lửa, cây chưa đốt cháy, lửa sắp ra mà chưa ra, gọi là NOÃN ĐỊA

2- Lại dùng tâm mình thành chỗ hành của Phật, cũng như người đứng trên chót núi, toàn thân đã vào hư không, nhưng dưới chân đôi khi còn hơi dính đất, như có chỗ nuơng tựa mà chẳng phải nuơng tựa, gọi là ĐẢNH ĐỊA.

3- Tâm với Phật đồng, khéo đắc trung đạo, như người hay nhẫn nại, niệm chẳng phân biệt, phi hoài (chẳng nhớ) phi xuất (chẳng quên), chẳng thể nói ra, gọi là NHẪN ĐỊA.

4- Số lượng tiêu diệt mê, giác, và trung đạo đều chẳng thể gán tên, gọi là THẾ HỆ ĐỆ NHẤT ĐỊA.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

THẬP ĐỊA

1- A Nan ! Thiện nam tử ấy khéo được thông đạt nơi Đại Bồ Đề, chỗ giác ngộ thông với Như Lai, cùng tột cảnh giới của Phật, gọi là HOAN HỶ ĐỊA

2- Tánh dị nhập đồng, tánh đồng cũng diệt, gọi là LY CẤU ĐỊA.

3- Trong sạch thì phát ra ánh sáng. gọi là PHÁT QUANG ĐỊA.

4- Sáng tỏ thì giác tánh sung mãn, gọi là DIỆM HUỆ ĐIA.

5- Tất cả đồng dị đều chẳng thể đến, gọi là NAN THẮNG ĐỊA.

6- Tánh trong sạch hiển lộ, chơn như vô vi, gọi là HIỆN TIỀN ĐỊA.

7- Cùng tột bờ bến của chơn như, gọi là VIẼN HÀNH ĐỊA.

8- Nhất tâm chơn như, gọi là BẤT ĐỘNG ĐỊA.

9- Chơn như phát dụng, gọi là THIỆN HUỆ ĐỊA.

10- A Nan ! Công hạnh tu tập của Bồ Tát từ trước đến đây công đức viên mãn, cũng gọi địa này là TU TẬP VỊ, dùng đám mây nhiệm màu đầy đủ từ bi, trí tuệ che chở chúng sinh khắp biển Niết Bàn, gọi là PHÁP VÂN ĐỊA


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

ĐẲNG GIÁC

Như Lai ngược dòng từ quả vị trở lại nhân địa, cứu độ chúng sanh. Bồ tát thuận hành từ chúng sanh tu đến quả vị Phật. Thuận nghịch đều giao tiếp nơi Bổn Giác, gọi là ĐẲNG GIÁC

DIỆU GIÁC

- A Nan ! Từ Càn Huệ Tâm đến bậc Đẳng Giác rồi, giác ấy mới đuọc viên mãn nơi Tâm Kim Cang. Bắt đầu từ Càn Huệ Địa từng lớp tiến lên, trải qua 12 ngôi vị đơn và phức (1) mới đến DIỆU GIÁC, thành Vô Thượng Đạo.
- Mỗi mỗi địa ấy đều lấy trí Kim Cang quan sát mười thứ ví dụ như huyễn, dùng Xa Ma Tha (chỉ) và Tỳ Bà Xá Na (quán)của chư Như Lai tu chứng trong sạch lần lượt sâu vào.
- A Nan ! Như thế đều dùng ba tiệm thứ tiến tu nên khéo thành tựu 55 quả vị trong đạo Bồ Đề chơn thật, Quán như thế gọi là chánh quán, chẳng quán như thế gọi là tà quán.

Bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử ở trong chúng liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật:
-Thế Tôn ! Nên gọi kinh này là kinh gì ? con và chúng sinh phải phụng trì như thế nào ?
Phật bảo Văn Thù Sư Lợi :
- Kinh này gọi là "Đại Phật Đảnh Thuần Trắng Chẳng Ô Nhiễm, Vô Thượng Bảo Ấn, Mười Phương Như Lai Thanh Tịnh Hải Nhãn", cũng gọi là "Cứu Hộ Thân Nhân, Độ Thoát A Nan và Tánh Tỳ Kheo Ni trong hội này. Đắc Tâm Bồ Đề, Vào Biển Biến Tri", cũng gọi là "Như Lai Mật Nhân Tu Chững Liễu Nghĩa", cũng gọi là "Đại Phương Quảng Diệu Liên Hoa Vương, Mười phương Phật Mẫu Đà La Ni Chú", cũng gọi là Quán Đảnh Chương Cú Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm", các ngươi nên phụng trì.

GHI CHÚ
12 ngôi vị đơn và phức:
Năm ngôi vị phức, mỗi ngôi vị gồm mười cấp bậc là Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa
Bảy ngôi vị đơn là : Càn Huệ, Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất, Đẳng Giác và Diệu Giác


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Phật nói xong, tức thời A Nan và đại chúng nhờ Như Lai khai thị ý nghĩa "Mật Ấn Chẳng Ô Nhiễm" và được nghe những danh hiệu liễu nghĩa của kinh này, đốn ngộ diệu lý của Thiền Na, tiến tu các Thánh vị, tâm niệm rỗng lặng, dứt trừ sáu phẩm phiền não vi tế trong tam giới.

A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:
- Thế Tôn có oai đức lớn, từ âm vô ngại, khéo khai phá những mê hoặc vi tế của chúng sinh, khiến con hôm nay thân tâm an lạc, được lợi ích lớn.
- Thế Tôn ! Nếu Diệu Tâm sáng tỏ này vốn viên mãn cùng khắp, như thế cho đến đất đai, cỏ cây, sâu bọ, hàm linh, Bản Tánh Chơn Như, tức là chơn thể thành Phật của Như Lai. Vậy Phật thể chơn thật, tại sao lại có các đạo : địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la, loài người và trời ?Thế Tôn, lục đạo này vốn tự có hay là do tập khí hư vọng của chúng sanh mà sanh khởi ?
- Thế Tôn ! Như Tỳ Kheo Ni Bửu Liên Huơng trì giới Bồ Tát, lén hành dâm dục, vọng nói hành dâm chẳng phải sát sanh và trộm cắp, chẳng có nghiệp báo. Nói xong nơi nữ căn liền sanh ngọn lửa lớn, rồi từng đốt xuơng lại bùng cháy, đọa ngục A Tỳ.
- Như vua Lưu Ly và Tỳ Kheo Thiện Tinh Lưu Ly thì giết hại hết dòng họ Cù Đàm. Thiện Tinh thì vọng nói tất cả pháp đều Không, đang sống bị đọa vào ngục A Tỳ.
- Các địa ngục ấy, là có chỗ nhất định hay chẳng định ? Mỗi người gây nghiệp nhân, mỗi mỗi tự chịu nghiệp quả, hay tất cả là tự nhiên?
- Xin Phật rủ lòng đại từ, khai phá ngu dại, khiến tất cả chúng sanh trì giới , nghe nghĩa quyết định hoan hỷ phụng hành, giữ gìn chẳng phạm.
Phật bảo A Nan:
- Lành thay câu hỏi này khiến các chúng sanh chẳng mắc tà kiến, nay nguơi hãy lắng nghe, ta sẽ vì nguơi mà nói.
- A Nan ! Bản Tánh của chúng sanh vốn chơn thật trong sạch, vì vọng kiến mà vọng sanh tập khí, do đó chia thành nội phần và ngoại phần.
- A Nan ! Nội phần tức là phần trong của chúng sinh. Do lòng ái nhiễm phát khởi vọng tình, vọng tình tích chứa không thôi, sanh ra ái thủy, nên chúng sanh nghĩ đến thức ăn ngon thì chảy nước miếng. Nhớ đến người xưa hoặc thuơng, hoặc giận thì chảy nước mắt. Tham cầu của báu trong tâm ham muốn thì cả mình đều thấm nhuần nước tham. Tâm tham dâm dục thì hai căn nam nữ tự nhiên chảy dịch. A Nan, những ái dục ấy dù khác, nhưng sự chảy nước là đồng, tánh nước thấm ướt chẳng lên được, tự nhiên sa đọa, gọi là nội phần.

- A Nan ! Ngoại phần tức là phần ngoài của chúng sanh. Do lòng khao khát phát ra vọng tưởng vọng tưởng chứa mãi không thôi, sanh ra thắng khí. Nên chúng sanh hễ tâm giữ giới cấm thì cả thân nhẹ nhàng. Tâm trì chú ấn thì cử chỉ hùng dũng. Tâm muốn sanh cõi trời thì chiêm bao thấy bay lên. Tâm nhớ cõi Phật thì thắng cảnh thầm hiện. Phụng sự Thiên Tri Thức thì tự khinh thân mạng. A Nan, những vọng tưởng dù khác, nhưng sự nhẹ nhàng bay lên là đồng, bay bổng chẳng chìm tự nhiên vượt lên, gọi là ngoại phần.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.19 khách