KINH LĂNG NGHIÊM

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

9) Trong lúc thiền định, thọ ấm hư minh, chẳng lọt tà tưởng, bỗng trong tâm ham muốn nhập diệt, tham cầu đi sâu vào cái rỗng không. Khi ấy thiên ma được dịp nhập thân người khác để thuyết pháp, người đó chẳng biết đã bị ma nhập, tự nói đã được Vô Thượng Niết Bàn, đến chỗ người cầu rỗng không thuyết pháp cho họ. Trước mặt đại chúng, thân ma bỗng biến mất, chúng không trông thấy, lại từ hư không thình lình hiện ra, ở đi tự tại, hoặc hiện thân như lưu ly, hoặc duỗi chân tay bay mùi chiên đàn, hoặc đại tiểu tiện như đường phèn cứng chắc, phỉ báng giới luật, khinh bỉ người xuất gia. Ưa nói không có nhân quả, hễ chết rồi là diệt hẳn, chẳng có thân sau, và nói các phàm Thánh, dù đã được không tịch, nhưng vẫn còn lén hành tham dục, và người nào thọ sự dâm dục ấy cũng được tâm không. Đây là kim ngọc, chi thảo, hoặc con lân, phụng, rùa, hạc thu hút tinh khí của nhật nguyệt, trải qua ngàn vạn năm chẳng chết, thành tinh, tuổi già thành ma, nhiễu loạn người ấy, đến khi ma sanh lòng chán, rời khỏi thân thể, lúc ấy đệ tử lẫn thầy đều sa lưới pháp luật. Các người nên sớm giác ngộ, để khỏi bị luân hồi, nếu mê lầm chẳng biết sẽ bị đọa ngục A Tỳ.

10) Trong lúc thiền định, thọ ấm hư minh, chẳng lọt tà tưởng, bỗng trong tâm ham muốn sống lâu, vất vả nghiên cứu, tham cầu trường thọ chẳng diệt, Khi ấy thiên ma được dịp nhập thân người khác để thuyết pháp, người đó chẳng biết đã bị ma nhập, tự nói đã được Vô Thượng Niết Bàn, đến chỗ người cầu trường thọ thuyết pháp cho họ, hay nói đi lại từ nơi này đến nơi khác chẳng có ngăn ngại, hoặc trong chốc lát, từ muôn ngàn dặm đi liền trở lại, mang theo đồ vật của nơi đó. Hoặc ở trong nhà, người ấy đi vài bước từ vách tường bên đông sang vách tường bên tây, mà người ấy đi gấp suốt năm mà chẳng tới, khiến họ tin đó là Phật hiện tiền. Ma ưa nói tất cả chúng sinh đều là con ta, ta sanh ra chư Phật, sanh ra thế giới, là Phật nguyên thủy, tự nhiên ra đời, chẳng do tu được. Đây là Tự Tại Thiên Ma ở đời, sai khiến những quyến thuộc chưa phát tâm (kẻ đã phát tâm thì hộ trì chánh pháp) lợi dụng sự hư minh của họ, thu hút tinh khí của người. Người ấy không nhờ thầy mà tự mình thấy rõ, ma tự xưng Thần Hộ Pháp Kim Cang, cho người sống lâu. Hoặc hiện thân mỹ nữ, thịnh hành việc tham dục, khiến người ấy chưa đầy một năm mà gan, não đã khô kiệt, hay nói lẩm nhẩm một mình, nghe như yêu mị mà người khác chẳng hiểu. Các người nên sớm giác ngộ, để khỏi bị luân hồi, nếu mê lầm chẳng biết sẽ bị đọa ngục A Tỳ.

- A Nan phải biết ! Thời mạt pháp, mười thứ ma kể trên ở trong pháp Ta xuất gia tu hành. Hoặc nhập thân người khác, hoặc tự hiện hình, đều nói đã thành chánh biến tri, khen ngợi sự dâm dục, phá hoại giới luật. Ma và đệ tử họ truyền nhau làm việc dâm dục, tà ma như thế, mê hoặc tâm cang người từ chín đời cho tới cả trăm đời, khiến người tu hành đều thành quyến thuộc của họ, sau khi chết tất cả sẽ thành dân ma, lạc mất chánh biến tri, đọa ngục A Tỳ.

- Nay các nguơi dẫu đã được vô lậu, chưa nên sớm nhập Niết Bàn, phải nguyện ở lại, vào trong thời mạt pháp, khởi đại từ bi, cứu độ người phát chánh tâm tu hành, khiến đừng lạc vào tà ma, được chánh biến tri. Nay Ta đã độ các nguơi ra khỏi sanh tử, các nguơi hãy theo lời Phật dạy mà hành, gọi là báo ân Phật.
- A Nan ! Mười thứ cảnh giới thiền định trên đều do TƯỞNG ẤM và dụng tâm giao tranh lẫn nhau mà hiện ra, chúng sanh ngu mê chẳng tự xét kỹ, gặp nhân duyên này mà chẳng tự biết, nói là chứng Thánh, thành đại vọng ngữ, đọa ngục A Tỳ.
- Sau khi Như Lai nhập diệt, trong thời mạt pháp, các nguơi phải theo như lời dạy bảo trên khai thị cho người tu, hộ trì họ thành Vô Thượng Đạo, chớ để thiên ma được dịp quấy phá.

HẾT QUYỂN 9


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

MA HÀNH ẤM

- A Nan ! Người tu thiền định, khi dứt được Tưởng Ấm, những mộng tưởng bình thường tiêu sạch, thức ngủ thường như một, chẳng còn đuổi theo cảnh trần, cái giác minh vắng lặng như hư không, thấy các núi sông, đất đai của thế gian như bóng hiện trong guơng, tùy duyên soi chiếu, ở đi đều chẳng dính mắc, biết hết các tập khí xưa, cái nguồn gốc của sanh diệt từ đây được hiển lộ, thấy khắp 12 loại chúng sanh trong mười phuơng, dù chưa thông suốt manh mối của từng loại, nhưng đều từ một nguồn gốc phát sanh ra, giống như bụi trần lăng xăng, ấy là chỗ căn cứ địa của ngũ căn, đây gọi là phạm vi của Hành Ấm. Nhưng tánh của Hành Ấm vốn chẳng lăng xăng, sở dĩ lưu chuyển chẳng ngừng là do tập khí của nhiều kiếp, nếu tánh ấy trở về vắng lặng, tập khí dứt sạch, tướng lưu chuyển hết, như làn sóng lặng trở về nước yên, gọi là Hành Ấm hết, thì lúc ấy được siêu việt "chúng sanh trược". Nhưng quán xét nguyên nhân là do bởi U ẨN VỌNG TƯỞNG làm gốc.

GHI CHÚ :
Hành Ấm sao gọi là u ẩn vọng tưởng ? vì cái vọng tưởng của hành ấm u nhàn ẩn mật khó mà tự phát giác được, nên gọi là U Ẩn Vọng Tưởng.
Chúng Sanh Trược là sanh diệt chẳng ngừng, nghiệp báo thường lưu chuyển, luân hồi thành đủ thứ chúng sanh, dựa theo đó mà sanh ra tri kiến chấp thật, nên gọi là Chúng Sanh Trược.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

1) A Nan nên biết ! trong lúc thiền định, khi được chánh trí, chánh tâm sáng suốt, mười loại thiên ma chẳng còn được dịp quấy phá, mới được truy cứu cùng tột cội gốc sanh diệt của các loài. Quán xét cái cội gốc ấy mà khởi tâm so đo thì bị đọa và hai loại Vô Nhân Luận:
a - Thấy sự bắt đầu vô nhân. Tại sao vậy ? Người ấy đã dứt được tưởng sanh diệt, nhờ 800 công đức của nhãn căn, thấy được tất cả chúng sanh từ 8 vạn kiếp, theo nghiệp xoay vần, chết đây sanh đó, luân chuyển không ngừng, ngoài 8 vạn kiếp thì mịt mù chẳng thể thấy được, bèn cho là từ 8 vạn kiếp đến nay, mười phuơng chúng sanh trên thế giới vô nhân mà tự có. Do so đo này, tự làm mất chánh biến tri, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
b - Thấy sự cuối cùng vô nhân. Tại sao vậy ? Người sanh người, chim sanh chim, xưa nay con quạ vẫn đen, con cò vẫn trắng, trời người vẫn đứng thẳng, thú vật vẫn đứng ngang. Trắng chẳng do tẩy mà thành, đen chẳng do nhuộm mà nên, từ 8 vạn kiếp đến nay vẫn không dời đổi, nay đến tận hết hình thể này cũng vẫn như thế. Bổn lai ta chẳng thấy Bồ Đề, thì làm sao lại có sự tu hành thành Bồ Đề ! Vì mê lầm cho tất cả sự vật đều vốn vô nhân, do so đo này, làm mất chánh biến tri, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
Ấy gọi là ngoại đạo thứ nhất lập VÔ NHÂN LUẬN.

2) Trong lúc thiền định, chánh tâm sáng suốt, ma chẳng được dịp quấy phá, quán xét cùng tột cộ gốc của sanh diệt, thấy luôn luôn như vậy chẳng biến đổi, ngay đó nơi tâm so đo, chấp đó là thường, thì người ấy bị đọa vào bốn thứ chấp Thường Luận :
a - Người ấy xét thấy cùng tột Bản Tánh của tâm và cảnh, hai nơi đều không có nhân, do tu tập biết được tất cả sự sanh diệt của mười phuơng chúng sanh từ hai vạn kiếp đến nay vẫn lưu chuyển, không hètn mất, bèn chấp cho là Thường.
b - Người ấy xét cùng tột cội gốc của tứ đại, bốn thứ tánh ấy thường trụ, do tu tạp biết được tất cả sự sanh diệt của mười phuơng chúng sanh, từ bốn vạn kiếp đến nay cái thể vẫn thường còn, không hề tan mất, bèn chấp cho là thường.
c - Người ấy xét cùng tột cội gốc của lục căn, theo tánh chấp trụ của thức thứ bảy, trong tâm-ý-thức, chỗ nguồn gốc căn bản, tánh thường như vậy. do tu tập biết được tất cả chúng sanh từ tám vạn kiếp đến nay, dù có luân hồi, vốn là thường trụ, cuối cùng chẳng mất Bản Tánh, nên chấp cho là thường.
d - Người ấy dứt được Tưởng Ấm, chẳng còn cái tưởng sanh diệt cho là tâm sanh diệt, nay đã vĩnh diệt, tự nhiên thành chẳng sanh diệt, vì tâm so đo nên chấp cho là thường.
Do so đo này,tự làm mất chánh biến tri, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ hai lập VIÊN THƯỜNG LUẬN.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

3) Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, khởi tâm so đo giữa ta và người, người ấy bị đọa vào bốn thứ kiến chấp điên đảo, một phần vô thường, một phấn chấp thường luận :
a- Người ấy quán tâm diệu minh khắp cõi mười phuơng, cho là thần ngã chơn thật, từ đó sanh chấp, cho ta cùng khắp mười phuơng, trạm nhiên sáng suốt chẳng động, tất cả chúng sinh ở nơi tâm ta tự sanh tự diệt, vậy thì tâm tánh ta là thường, còn sự sanh diệt ấy là chơn vô thường.
b- Người ấy chẳng quán tự tâm mà quán khắp mười phuơng hằng sa quốc độ, thấy chỗ kiếp hoại (từ cõi Tam Thiền trở xuống) thì gọi là chủng tánh chơn vô thường, còn chỗ kiếp chẳng hoại được(Từ Tứ Thiền trở lên kiếp hoại chẳng đến được) thì gọi là chơn thường.
c- Người ấy chỉ quán riêng tâm mình, thấy tinh mật, vi tế như vi trần, lưu chuyển mười phuơng, khiến thân này liền sanh liền diệt mà tâm tánh không dời đổi, ngã tánh chẳng hoại, gọi Ta là tánh thường, sanh tử của tất cả chúng sanh từ Ta mà ra, gọi là tánh vô thường.
d- Người ấy đã dứt được Tưởng Ấm, thấy Hành Ấm lưu chuyển thường xuyên, gọi là tánh thường, Sắc-thọ-tưởng ấm đã diệt hết thì gọi là vô thường.

Do so đo này, một phần vô thường, một phần là thường, nên bị lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ ba lập MỘT PHẦN THƯỜNG LUẬN.

4) Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, trong phân vị (1) khởi tâm so đo, người ấy bị đọa vào bốn thứ Hữu Biên Luận:
a- Người ấy so đo cái gốc sanh lưu chuyển chẳng ngừng,chấp quá khứ-vị lai, gọi là hữu biên, chấp tâm tuơng tục gọi là vô biên.
b- Người ấy quán tâm từ tám vạn kiếp đến nay thì thấy có chúng sanh, từ tám vạn kiếp trở về trước thì chẳng thấy chẳng nghe, bèn cho chỗ chẳng thể thấy nghe đó gọi là vô biên, chỗ có chúng sanh gọi là hữu biên.
c- người ây chấp rằng ta biến cùng khắp, được tánh vô biên. Tất cả mọi người trong cái hay biết của ta ,mà ta chẳng từng biết tánh biết của họ, ấy gọi là họ chẳng được cái tâm vô biên, chỉ được tánh hữu biên mà thôi.
d- Người ấy quán đến cùng tột Hành Ấm rỗng không, , so đo trong tâm cái sở thấy của mình, cho là ở trong một thân của tất cả chúng sanh đều là phân nửa sanh, phân nửa diệt, cho đến tất cả hiện hữu trong thế giới này cũng đều phân nửa hữu biên, phân nửa vô biên.

- Do so đo này hữu biên-vô biên, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánhBoof Đề, ấy gọi là ngoai đạo thứ tư lập HỮU BIÊN LUẬN.

GHI CHÚ : Có bốn thứ Hữu biên luận nói về phân vị :
1- Phân vị tam tế : quá khứ-hiện tại-vị lai.
2- Phân vị kiến - văn
3- Phân vị nhân - ngã
4- Phân vị sanh - diệt
đều bị kẹt trong phân vị của Hành Ấm mà sanh ra vọng tâm so đo.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

5) Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, ở nơi tri kiến khởi tâm so đo, người ấy bị đọa vào bốn thứ :
a - Người ấy quán xét cội gốc của sự biến hóa thấy chỗ lưu chuyển thì gọi là biến, thấy chỗ nối nhau thì gọi là thường, thấy chỗ được thì gọi là sanh, thấy chỗ chẳng thấy được thì gọi là diệt, cái nhân nối nhau chẳng gián đoạn thì gọi là thêm, khi đang nối nhau ở giữa có chỗ gián đoạn thì gọi là bớt, chỗ sanh của mọi vật thì gọi là hữu, chỗ diệt của mọi vật thì gọi là vô. Dùng lý quán xét thì thấy đồng, dùng tâm thì thấy khác. Có người đến cầu pháp, hỏi nghĩa thì đáp : "Ta nay cũng sanh cũng diệt, cũng có cũng không, cũng thêm cũng bớt", bất cứ lúc nào cũng đều nói đảo loạn như thế, khiến người nghe rồi cũng như không nghe.
b - Người ấy quán xét thấy tâm họ đến chỗ VÔ, vì vậy nên chẳng có chứng đắc, hễ có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ VÔ, ngoài ra không nói gì cả.
c - Người ấy quán xét tâm họ đến chữ HỮU, vì vậy mà có sự chứng đắc, hễ có người đến hỏi thì chỉ đáp một chữ HỮU, ngoài ra không nói gì cả.
d - Người ấy hữu vô cùng thấy, do cảnh rời rạc nên tâm bị rối loạn, hễ có người đến hỏi thì nói "cũng có tức là cũng không, ở trong cũng không, chẳng phải cũng có". Tất cả càn loạn, chẳng thể hỏi ra kết quả.

Do so đo này , hư vô càn loạn, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, đây gọi là ngoại đạo thứ năm, chấp bốn thứ : ĐIÊN ĐẢO, BẤT TỬ, CÀN LOẠN, BIẾN KẾ HƯ LUẬN.

6) Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt vô tận, khởi tâm so đo, người ấy bị đọa vào tư tưởng điên đảo, chấp sau khi chết có tướng :
- hoặc tự giữ cái sắc thân, cho sắc thân là ta;
- hoặc thấy ta bao trùm khắp các cõi nước, thì cho ta có sắc;
- hoặc thấy duyên cảnh xưa theo ta luân hồi thì cho sắc thuộc về ta;
- hoặc thấy cái ta nuơng theo hành ấm mà tuơng tục, thì cho ta ở nơi sắc.
Xoay chuyển như vậy thành mười sáu tướng, từ đó sanh ra cái chấp "có phiền não thật", và "có Bồ Đề thật", hai tánh ấy đi song song, mà chẳng đụng chạm nhau.

Do so đo này , chấp sau khi chết có tướng, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ sáu trong ngũ ấn chấp sau khi chết có tướng, lập TÂM ĐIÊN ĐẢO LUẬN.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

7) Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, trong những chỗ sắc thọ, tưởng đã diệt từ trước, khởi tâm so đo, người ấy bị đọa vào tư tưởng điên đảo, chấp sau khi chết chẳng tướng. Thấy sắc diệt rồi thì hình thể chẳng có nhân, thấy tưởng diệt rồi thì tâm chẳng bó buộc thấy thọ diệt rồi thì chẳng còn chỗ nối liền, tánh ấm tiêu tan, dẫu có sự sanh mà chẳng có thọ-tưởng, đồng như cây cỏ, cái thể chất hiện hữu này còn bất khả đắc, huống chi chết rồi thì đâu còn hình tướng nào. Theo đó suy lường, xoay chuyển thành tám thứ vô tướng, cho rằng nhân quả, Niết Bàn, tất cả đều không, chỉ có danh tự, cuối cùng tất cả đều đoạn diệt. Do so đo này, lạc vào ngoại đạo thứ bảy trong ngũ ấm, chấp sau khi chết chẳng tướng lập TÂM ĐIÊN ĐẢO LUẬN.

8) Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, trong chỗ hành ấm còn mà thọ tưởng đã diệt, cho "Có - Không" đồng thời cùng hiện nên tự thể phá nhau, người ấy bị đọa vào điên đảo luận, chấp sau khi chết, chẳng phải "có" cũng chẳng phải "không" trong sắc-thọ-tưởng, thấy có chẳng phải là có, nơi hành ấm lưu chuyển thấy không chẳng phải là không, xoay chuyển như vậy cùng tận ấm giới, thành tám thứ tướng "chẳng phải có, chẳng phải không" , dù gặp một duyên nào cùng đều nói : sau khi chết cũng có tướng cũng không tướng. Lai chấp hành ấm tánh hay thay đổi, tâm phát thông ngộ, thấy "có-không" đều chẳng phải, hư và thật đều không chỗ căn cứ, do so đo này làm cho tâm mịt mù chẳng thể nói được, lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề ấy gọi là ngoại đạo thứ tám trong ngũ ấm, chấp sau khi chết, chẳng có cũng chẳng không, lập TÂM ĐIÊN ĐẢO LUẬN.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

9) Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, ở nơi Hậu -Hậu-Vô (1) khởi tâm so đo, người ấy bị đọa vào bảy thứ Đoạn Diệt Luận:
- Chấp cái thân diệt
- Chấp dục diệt tận
- Chấp Khổ diệt tận
- Chấp Cực Lạc diệt
- Chấp cực xả diệt
(còn 2 thứ ở đoạn 10)
Xoay chuyển như thế đến tận cùng bảy nơi , cái thân hiện tiền khi tiêu diệt rồi chẳng còn sanh nữa, do so đo này lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ chín trong ngũ ấm, chấp sau khi chết đoan diệt, lập TÂM ĐIÊN ĐẢO LUẬN.

10) Trong lúc thiền định, chánh tâm kiên cố, ma chẳng được dịp quấy phá, quán xét cùng tột cội gốc của sanh diệt, ở nơi Hậu-Hậu-Hữu (2) khởi tâm so đo người ấy bị đọa vào năm thứ Niết Bàn Luận :
- Nhận dục giới là nơi chánh chuyển y, vì thấy cảnh viên minh nên sanh tâm ái mộ
- Nhận sơ thiền vì tánh không còn lo
- Nhận nhị thiền vì tánh không còn khổ
- Nhận tam thiền vì rất vui đẹp
- Nhận tứ thiền vì khổ vui đều mất, chẳng bị luân hồi sanh diệt.
Mê lầm cõi trời hữu lậu cho là vô vi , năm nơi an ổn ấy là Thắng Tịnh Y, xoay chuyển ở năm chỗ này cho là cứu cánh, do so đo nay lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề, ấy gọi là ngoại đạo thứ mười trong ngũ ấm, chấp năm thứ Niết Bàn, lập ĐIÊN ĐẢO LUẬN.

- A Nan ! Mười thứ thiền định cuồng giải trên đều do HÀNH ẤM và dụng tâm giao tranh lẫn nhau mà hiện ra, chúng sanh ngu mê chẳng tự xét kỹ, gặp nhân duyên này mà chẳng tự biết, nhận sự mê lầm cho là giải thoát, tự nói chứng Thánh, thành đại vọng ngữ, đọa ngục A Tỳ.
- Sau khi Như Lai nhập diệt, nơi thời mạt pháp, các nguơi phải theo lời dạy bảo trên, khai thị khắp cả chúng sanh, khiến đều tỏ ngộ nghĩa này, chớ để cho tâm ma tự khởi nghiệp chướng, hộ trì cho họ dứt bỏ tà kiến, khiến tâm được mở mang, giác ngộ nghĩa chơn thật, thành Vô Thượng Đạo, chẳng bị lạc đường, chẳng được ítcho là đủ, làm biachir đường giải thoát của Phật.

GHI CHÚ :
Hậu-Hậu-Vô : Do thấy thân diệt, sắc, thọ, tưởng , hành đều diệt .
Thân diệt được cõi trời dục giới
Sắc (dục) diệt được cõi sơ thiền
Thọ (khổ) diệt được cõi nhị thiền
Tưởng (cực lạc) diệt được cõi tam thiền
Hành (xả cực) diệt được cõi tứ thiền

Hậu-Hậu-Hữu: Do hành ấm tạm ngưng, nên tánh viên minh hơi hiện, bèn cho là chẳng sanh diệt. Cái cội gốc lăng xăng (hành ấm) chưa diệt dứt chưa tịch diệt, mà vọng thấy diệt, nên nói chứng đắc., Niết Bàn. Do so đo thành ra có năm chỗ Niết Bàn.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

MA THỨC ẤM

- A Nan ! người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, các tánh sanh diệt lăng xăng chuyển động của thế gian bỗng tan rã, các nghiệp báo luân hồi, sự cảm ứng vi tế như chỉ tơ gần được đoạn dứt, sắp được minh ngộ nơi cõi Niết Bàn, như gà gáy lần chót, trời bắt đầu rạng đông. Lục căn hư tịnh, chẳng còn rong duổi cảnh trần, trong ngoài trạm nhiên sáng suốt, cho đến nhập vô sở nhập : thấu suốt cội gốc thọ mạng của 12 loại chúng sanh trong mười phuơng, chấp vào cái cội gốc đó, các loài chẳng đến với nhau, mà ở nơi mười phuơng đều đồng một cội gốc, sự phát hiện chỗ bí ẩn đó, như trời gần sáng mà chưa sáng, rạng đông kéo dài, đây gọi là phạm vi của THỨC ẤM. Nếu ở chỗ đồng ấy, nhờ sức thiền định mài dũa lục căn, đến thấy nghe thông nhau, sự dụng của lục căn muốn hợp lại hay tách ra đều được tự do thành tựu, trong ngoài sáng như lưu ly, gọi là thức ấm hết, thì lúc ấy được siêu việt Mệnh Trược. Nhưng quán xét nguyên nhân là do bởi VÕNG TƯỢNG, HƯ VÔ, ĐIÊN ĐẢO VỌNG TƯỞNG làm gốc.

GHI CHÚ :
Võng tượng là mường tượng. Võng là dường như không, tượng là hình như có.
Như có như không trở thành hư vô. Hư vô là thể của Chơn Như chẳng sanh chẳng diệt. Nay có võng tượng là bóng sanh diệt của thức thứ tám, thì gọi là vọng giác. Vì chấp cái võng tượng hư vô này nên thành điên đảo vọng tưởng.

Sinh mệnh do sự hô hấp, sức ấm của cơ thể và ý thức , ba thứ hòa hợp mà thành, dựa theo đó sinh ra tri kiến chấp thật, nên gọi là Mệnh trược.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

1) A Nan ! Người tu thiền định, khi dứt được HÀNH ẤM trở về chỗ cội gốc của THỨC ẤM, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, có thể khiến lục căn thông dụng lẫn nhau, cũng thông với các giác tri của các loài trong mười phuơng, do sự thông dụng ấy mới được đi vào chỗ cội gốc của THỨC ẤM. Nếu ở chỗ trở về mà lập cái nhơn Chơn Thường , sanh tâm thù thắng , thì đọa vào cái chấp "Năng nhân-sở nhân" làm bạn với ngoại đạo, nhận chỗ "căn bản vô minh" làm nơi sở qui, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là lập cái tâm sở đắc, thành cái quả sở quy, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống ngoại đạo thứ nhất.

2) Người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở chỗ cội gốc của Thức Ấm, ôm làm tự thể của mình, cho tất cả 12 loại chúng sanh khắp hư không đều xuất phát từ thân Ta, sanh tâm thù thắng, thì bị đọa vào cái chấp "Năng phi năng", làm bạn với bọn ma dân, hay hiện thân vô biên ở cõi sắc giới, mê lầm thành Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật, ấy gọi là lập cái tâm "năng vi", thành cái quả "năng sự", trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, sanh Đại Mạn Thiên, thành giống chấp ngã thiên viên thứ hai. (thiên viên chưa được viên thông, chỉ có một nửa)

3) Người tu thiền định, khi dứt được Hành Ấm, sanh diệt đã diệt, mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở chỗ cội gốc của Thức Ấm khởi tâm nuơng tựa, tự nghi thân tâm mình từ đó mà ra, mười phuơng hư không đều từ đó sanh khởi, bèn nhận chỗ đó làm thể chơn thường, là nơi chẳng sanh diệt. Ở chỗ sanh diệt chấp là thường trụ, chẳng những chẳng thấy tánh chơn bất diệt, mà con nhận lầm tánh sanh diệt hiện tại, an trụ chỗ mê lầm này, sanh tâm thù thắng, thì đọa vào cái chấp "thường phi thường" làm bạn với bọn ở cõi trời Tự Tại Thiên, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật, ấy gọi là lập cái tâm "nhân y"(cái nhân nuơng tựa), thành cái quả vọng kế (vọng chấp thường trụ), trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, sanh Đại Mạn Thiên, thành giống điên đảo viên thông thứ ba (nói viên thông mà chưa được viên thông).


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

4) Người tu thiền định , khi dứt được HÀNH ẤM, sinh diệt đã diệt, mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi sở tri, kiến lập tri giải, cho các loài cỏ cây mười phuơng đều là hữu tình, với người chẳng khác. Cây cỏ làm người , người chết lại thành cây cỏ, cho đến loài vô tình đều có sự giác tri. Hữu tình-vô tình chẳng có sự phân biệt, sanh tâm thù thắng, thì bị đọa vào cái chấp "Tri vô tri", làm bạn với hai thứ ngoại đạo Bà Tra và Tiện Ni, chấp tất cả đều có giác tri, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là lập cái tâm viên tri, thành cái quả hư vọng, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống Điên Đảo Tri thứ tư.

5) Người tu thiền định , khi dứt được HÀNH ẤM, sinh diệt đã diệt, mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi lục căn , dung thông lẫn nhau, đã được tùy thuận vô ngại, rồi nuơng theo viên dung này, cho là tứ đại hay biến hóa tất cả, nên từ tứ đại, ham cầu tánh sáng suốt của Hỏa, thích tánh trong sạch của Thủy, ưa tánh chu lưu của Phong, quán tánh thành tựu của Trần, mỗi mỗi đều tôn sùng, lấy các trần ấy nhận làm Bản Nhân, chấp cho là thường trụ, thì bị đọa vào cái chấp "Sanh vô sanh", làm bạn với bọn ngoại đạo Ca Diếp Ba và Bà La Môn, siêng tâm ép xác, thờ lửa, thờ nước, để cầu được ra khỏi sinh tử, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là chấp trước thờ phụng, mê tâm theo vật, lập cái nhân vọng cầu, cầu cái quả vọng mong, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống của Tạo Hóa Điên Đảo thứ năm.

6) Người tu thiền định , khi dứt được HÀNH ẤM, sinh diệt đã diệt, mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở trong viên minh chấp là hư vô, bác bỏ các sự tạo hóa, lấy cái vĩnh diệt làm chỗ quy y , sanh tâm thắng giải thì bị đọa vào cái chấp "Quy vô quy" (cho vô quy là quy), làm bạn với bọn Thuấn Nhã Đa (thần hư không)ở cõi Vô Tưởng Thiên, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là chấp cái tâm hư vô thành quả Không Vong, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống đoạn diệt thứ sáu.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

7) Người tu thiền định , khi dứt được HÀNH ẤM, sinh diệt đã diệt, mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, nếu ở nơi viên thường sanh lòng củng cố cái thân này, cho là thường trụ đồng với tánh ấy, mãi không tiêu diệt, sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào cái chấp "Tham phi tham" làm bạn với bọn A Tư Đà (chẳng ai bằng) , tham cầu trường thọ, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là chấp trước mạng căn, lập cái nhân Cố Vọng (kiên cố cái vọng thân), cầu quả thường trụ, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống vọng diên thứ bảy (vọng diên: vọng muốn kéo dài)

8) Người tu thiền định , khi dứt được HÀNH ẤM, sinh diệt đã diệt, mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, xét Thức Ấm là mạng căn của các loài , dung thông lẫn nhau, bỗng nhiên sợ tiêu diệt, muốn giữ lại trần lao, bèn ở chỗ đó ngồi cung liên hoa, hóa ra rất nhiều châu báu, mỹ nữ, buông lung tâm mình, sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào cái chấp "Chơn vô chơn" (cho vô chơn là chơn), làm bạn với cõi Tha Hóa Thiên, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là cái nhân tà tưởng, lập quả trần lao hưng thịnh, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống thiên ma thứ tám.

9) Người tu thiền định , khi dứt được HÀNH ẤM, sinh diệt đã diệt, mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, ở trong nguồn gốc của Thức Ấm khởi tâm phân biệt : tinh-thô, chơn-ngụy, nhân quả trả nhau, chỉ cầu sự cảm ứng, trái ngược đạo thanh tịnh, chấp cái "khổ, tập, diệt, đạo" của Tứ Thánh Đế, cho là đến chỗ diệt rồi là xong, chẳng cần tiến thêm, sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào định tánh Thanh Văn, làm bạn với kẻ tăng thượng mạn, như Tỳ Kheo Vô Văn, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là lập cái tâm cảm ứng tinh vi, thành quả tịch diệt, trái xa viên thông, ngược đạo Niết Bàn, thành giống Triền Không thứ chín. (Triền Không : bị ràng buộc ở chỗ Không).

10) Người tu thiền định , khi dứt được HÀNH ẤM, sinh diệt đã diệt, mà nơi tinh diệu của tịch diệt chưa được viên thông, ở nơi tánh giác minh, viên dung thanh tịnh, truy cứu sự thâm diệu, bèn chấp đó là Niết bàn, chẳng cầu tiến thêm, sanh tâm thắng giải, thì bị đọa vào định tánh Bích Chi, làm bạn với những người Duyên Giác và Độc Giác, chẳng biết hồi tâm hướng về Đại Thừa, mê lầm tánh Bồ Đề, lạc mất tri kiến Phật. Ấy gọi là lập cái tâm âm thầm hợp với viên giác (1) , thành cái quả Trạm Minh, trái xa viên thông, ngược đạo Niết bàn, sanh cái giác viên minh, thành giống Bất Hóa Viên thứ mười (Bất Hóa Viên : chấp vào nơi viên mà chẳng hóa giải được)

GHI CHÚ:
Lập tâm viên giác, thành cái quả trạm minh: Lấy cái giác làm viên minh. Cho là "viên" thì bị kẹt ở nơi viên, cho là "minh" thì bị kẹt ở nơi minh. Là "minh" thì chẳng mê ở nơi nhân quả cảm ứng, là "viên" thì chẳng mê ở chỗ "diệt rồi là xong". Từ đó truy cứu sự thâm diệu, đã thâm lại càng thâm, chẳng đọa nơi "hữu". Đã diệu lại càng diệu, chẳng đọa nơi "vô". Ở chỗ "phi hữu phi vô" này, lập cái Niết Bàn chẳng sanh chẳng diệt, cố chấp không thể hóa giải được, nên chẳng cầu tiến thêm, thành quả định tánh Bích Chi.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- A Nan ! Mười thứ cảnh giới thiền định trên, giữa chừng hóa điên là do nuơng theo mê hoặc, ở nơi chưa cứu cánh, chấp cho là đủ, ấy đều do Thức Ấm với dụng tâm giao tranh lẫn nhau mà hiên ra, chúng sanh ngu mê chẳng tự xét kỹ, gặp nhân duyên này hiện tiền, mỗi mỗi đều dùng tâm mê chấp những tập quán ưa thích cũ của mình, cho là cứu cánh mà dừng nghỉ tại đó, tự nói đã đầy đủ đạo Vô Thượng Bồ Đề , thành đại vọng ngữ, lạc vào tà ma ngoại đạo, khi hết nghiệp báo chiêu cảm, bị đọa ngục A Tỳ, còn hàng Thanh Văn, Duyên Giác thì chẳng cầu tiến thêm. Các nguơi đã phát tâm theo đạo Như Lai, sau khi Ta nhập diệt, nơi thời mạt pháp, phải đem pháp môn này truyền dậy cho đời sau, khiến cho tất cả chúng sanh đều biết rõ nghĩa này, chớ để cho kiến ma (tự chấp tri kiến của mình thành ma) tạo nghiệp chìm đắm, hộ trì họ dứt bỏ tà duyên, khiến thân tâm nhập tri kiến Phật, từ lúc bắt đầu đến khi thành tựu, chẳng bị lạc đường.

- Chư Phật trong quá khứ hằng hà sa kiếp đều nhờ pháp môn này mà khai ngộ, thành đạo Vô Thượng. Nếu dứt được Thức Ấm rồi thì lục căn các nguơi hổ dụng lẫn nhau, do hổ dụng này được vào cấp bậc Kim Cang Càn Huệ Bồ Tát, ở trong đó phát khởi chơn trí trong suốt như mặt trăng ở trong ngọc lưu ly, từ đó cho đến siêu việt thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, tứ gia hạnh và Kim Cang thập địa, Đẳng Giác viên minh vào trong biển Diệu Trang Nghiêm của Như Lai, Bồ Đề viên mãn quy về Vô Sở Đắc.

- Đây là những ma sự vi tế trong lúc tu tập thiền định mà chư Phật đã giác ngộ từ đời quá khứ. Cảnh ma hiện tiền, các nguơi nhận biết được, liền tẩy trừ tâm cấu nhiễm của mình, chẳng lọt vào tà kiến, thì ấm ma tiêu diệt, thiên ma vỡ nát, Đại lực quỷ thần hoảng sợ chạy trốn . Các loài yêu tinh lỵ mị chẳng còn sinh ra, những căn hạ liệt cũng được tinh tấn, tâm chẳng mê lầm nơi Đại Niết Bàn, thẳng đến Bồ Đề chẳng gì thiếu sót.

-Nếu các chúng sinh ngu độn trong đời mạt pháp chưa hiểu Thiền Na, chẳng biết Phật pháp mà ưa tu tam muội, e họ mắc phải tà kiến, nên một lòng khuyên họ trì chú Phật Đảnh Đà La Ni của Ta. Nếu chưa thể tụng trì thì viết nơi Thiền đường, hoặc đeo trong thân, như thế thì tất cả tà ma đều chẳng động đến được. Nguoi nên kính vâng lời dạy sau cùng về đường tu rốt ráo của mười phuơng Như Lai.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.16 khách