KINH LĂNG NGHIÊM

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

KINH LĂNG NGHIÊM
Dịch giả : Hòa thượng Thích Duy Lực

Lời dịch giả.

Tiếng Hán có văn ngôn và bạch thoại.
Văn ngôn đời xưa quá súc tích , thường hay có ý mà chẳng có lời.
Người xưa nói "Đọc chỗ chẳng có chữ" là vậy.
Chúng tôi gặp những trường hợp này thì thêm lời vào để sáng tỏ ý nghĩ ẩn trong câu văn.
Những danh từ tiếng Hán mà tiếng Việt ít dùng, lại không thể dịch ra tiếng Việt, thì chúng tôi ghi chú.
Còn những nghĩa lý thâm sâu khó hiểu thì chúng tôi lược giải thêm.

Chúng tôi muốn tránh chỗ tối nghĩa, để cho người đọc dễ hiểu, nên chẳng chú ý đến sự trau chuốt lời văn.
Xin độc giả hoan hỷ cho.

(Còn tiếp)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
QUYỂN MỘT

Tôi nghe như vầy : Lúc bấy giờ , tại tịnh xá Kỳ Hoàn, thành Thất La Phiệt, Đức Phật và chúng Đại Tỳ Kheo, một ngàn hai trăm năm muơi vị đều là Đại A La Hán, đã ra khỏi luân hồi, đầy đủ oai nghi, giúp Phật hoằng pháp nơi các quốc độ, trì giới thanh tịnh, làm mô phạm cho tam giới, ứng hiện vô số thân, hóa độ chúng sanh đến cùng tột vị lai ra khỏi trần lao.

Hàng đệ tử được phó chúc trụ trì Phật pháp gồm có : Đại Trí Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiều Liên, Ma Ha Câu Hy La, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, Ưu Ba Ni Sa Đà .v.v...là bậc thượng thủ, và có vô số Bích Chi Phật với môn đồ đồng đến nơi Phật và các Tỳ Kheo mãn hạ tự tứ. Khi ấy mười phuơng Bồ tát tuân theo lời Phật sẽ cầu Mật nghĩ, hỏi đạo để quyết nghi.

Bấy giờ , Như Lai trải tòa ngồi yên, vì đại chúng trong Hội, khai thị pháp chưa từng có, nghĩa lý thâm sâu, diệu âm thuyết pháp vang khắp mười phuơng thế giới, hằng sa Bồ tát đều đến tụ hợp, trong đó Văn Thù Sư Lợi là bậc Thượng thủ.

Khi ấy vua Ba Tư Nặc nhân ngày giỗ của phụ vuơng làm lễ trai tăng, sắm đủ các món ăn quí báu, đích thân đến thỉnh Phật và chư Đại Bồ tát vào cung thọ trai. Trong thành còn có nhiều trưởng giả, cư sĩ khác cũng cùng ngày thiết lễ trai tăng, thỉnh Phật đến thọ cúng dường. Phật sai Văn Thù dẫn đầu chư Bồ tát và A La Hán, chia thành nhiều nhóm, ứng lời mời đến thọ trai nơi các trai chủ. Chỉ có ngài A Nan được vị khác mời riêng, đi xa chưa về, không kịp cùng dự với Tăng chúng.

Lúc đó trên đường trở về, một mình A Nan chẳng có Thượng tọa và A Xà Lê cùng đi, ngày đó lại không ai mời cúng dường, trong tâm mong cầu gặp được vị trai chủ sau cùng. Trước kia A Nan đã từng nghe Phật quở Tu Bồ Đề và Đại Ca Diếp, là bậc A La Hán mà người chuyên chọn khất thực nhà giàu, người chuyên chọn khất thực nhà nghèo, tâm chẳng bình đẳng. A Nan quyết tuân theo pháp bình đẳng bất nhị của Như Lai, để tránh mọi sự chê bai và nghi hoặc, trong tâm cho rằng : Đối với trai chủ, chẳng kể quí tộc hay hèn hạ, thức ăn dơ sạch, phát tâm từ bi bình đẳng để thành tựu cho tất cả chúng sanh đều được gieo trồng vô lượng công đức. Vừa nghĩ như vậy, tay ôm bình bát, đi từng nhà, dọc theo đường phố, oai nghi nghiêm chỉnh, đúng pháp khất thực.
Lúc A Nan đang khất thực đi ngang nhà dâm, bị nàng huyễn thuật Ma Đăng Già dùng tà chú Phạm Thiên của ngoại đạo tóc vàng thu nhiếp vào nhà dâm, vuốt ve cám dỗ, sắp bị hoại giới thể.

Phật đã biết trước việc này, thọ trai xong liền về, Vua và đại thần, trưởng giả cư sĩ đều đi theo Phật, xin nghe pháp yếu.
Bấy giờ đảnh đầu Thế Tôn phóng ra hào quang bách bửu vô úy, trong hào quang nở ra bửu liên hoa ngàn cánh, trên đó có hóa thân Phật ngồi kiết già thuyết thần chú, sai Văn Thù đem chú đến cứu hộ, tà chú tiêu diệt, dắt A Nan và Ma Đăng Già về nơi Phật ở.
(trg 9)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

A Nan gặp Phật, đảnh lễ, rơi lệ, hối hận xưa nay chỉ ham học rộng nghe nhiều, chưa tròn đạo lực, nay ân cần thỉnh hỏi Như Lai về phuơng tiện đầu tiên của ba thứ Thiền quán : Samatha (Không quán) Tam ma đề (Giả quán) và Thiền na (Trung quán) mà mười phuơng Như Lai đã tu được thành chánh giác.
Khi đó có hằng sa các Bồ tát và các bậc Đại A La hán, Bích Chi Phật mười phuơng đều xin cùng nghe, im lặng ngồi yên để lãnh thọ pháp yếu của Phật.

Khi ấy Thế Tôn giơ tay, dịu dàng rờ đầu A Nan, nói với A Nan và đại chúng :
- Có pháp Tam Ma Đề gọi là ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM VUƠNG, bao hàm vạn hạnh, là đường lối vi diệu trang nghiêm, cũng là pháp môn đưa đến giải thoát cuối cùng của mười phuơng Như Lai, nay nguơi hãy chú ý nghe.

A Nan đảnh lễ, kính vâng lời Phật dạy. Phật bảo A Nan :
- Nguơi và ta là anh em, cùng một giống nòi, chẳng biết lúc mới phát tâm, ở nơi pháp Ta, nguơi thấy tướng thù thắng gì mà liền xả ân ái sâu nặng của thế gian ?
A Nan bạch Phật :
- Con thấy ba muơi hai tướng thù thắng tuyệt diệu của Như Lai, hình thể trong sáng như lưu ly, thường tự nghĩ tướng này chẳng phải do ái dục sinh ra. Tại sao ? Vì ái dục ô nhiễm xấu xa, cấu kết tinh huyết nhơ bẩn, chẳng thể sanh ra diệu tướng quang minh, thanh tịnh thù thắng như thế, do đó hâm mộ, theo Phật xuất gia.
Phật nói :
- Lành thay ! Này A Nan, các nguơi nên biết, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, sanh tử liên tục, chỉ vì chẳng biết chơn tâm thường trụ, thể tánh trong sạch sáng tỏ, lại nuơng theo vọng tưởng. Vọng tưởng chẳng chơn nên có luân hồi. Mười phuơng chư Phật cùng một đạo lìa khỏi sanh tử đều do trực tâm, vì tâm hạnh và lời nói ngay thẳng, như thế từ đầu đến cuối, cho đến các ngôi bậc, ở khoảng giữa chẳng có các tướng quanh co.
Nay nguơi muốn tham cứu Vô Thượng Bồ Đề, phát minh chơn tánh,hãy thực tâm mà trả lời câu hỏi của ta. A Nan , nay ta hỏi nguơi : Lúc nguơi phát tâm duyên theo ba muơi hai tướng của Như Lai, lấy gì để thấy ? Ai biết sự ham thích ?
- Bạch Thế Tôn ! dùng tâm và mắt của con thấy tướng thù thắng của Như Lai, sanh lòng ham thích nên phát tâm nguyện xả bỏ sinh tử.
Phật bảo :
- Như nguơi vừa nói, sự ham thích do nơi tâm và mắt. Nếu chẳng biết tâm và mắt ở đâu thì chẳng thể hàng phục được trần lao. Ví như đất nước có giặc, vua sai binh dẹp trừ, binh lính tất phải biết sào huyệt của giặc. Cái khiến nguơi bị luân chuyển ấy là lỗi tại tâm và mắt. Ta hỏi nguơi : Tâm và mắt của nguơi hiện nay ở đâu ?


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

BẢY CHỖ GẠN HỎI TÌM TÂM
1) PHÁ CHẤP TÂM Ở TRONG THÂN

- Bạch Thế Tôn ! Tất cả mười loại chúng sinh trên thế gian đều cho tâm thức ở trong thân. Nay con nhận thấy mắt con ở trên mặt con và tâm thức ở trong thân, như mắt Thanh Liên Hoa của Như Lai ở trên mặt Như Lai vậy.
Phật bảo :
- A Nan ! Nay nguơi ngồi trong giảng đường của Như Lai , nhìn thấy rừng Kỳ Đà ở chỗ nào ?
- Bạch Thế Tôn ! Giảng đường rộng rãi thanh tịnh này trong vườn Cấp Cô Độc, còn rừng Kỳ Đà thì ở ngoài giảng đường.
- A Nan ! Bây giờ nguơi ở trong giảng đường, trước tiên thấy gì ?
- Bạch Thế Tôn ! Con ở trong giảng đường trước tiên thấy Như Lai, sau thấy đại chúng, rồi nhìn ra ngoài mới thấy rừng cây.
- A Nan ! Nguơi thấy rừng cây, do nhân duyên nào được thấy ?
- Bạch Thế Tôn ! vì cửa sổ giảng đường mở trống nên con ở trong thấy suốt bên ngoài.
Phật bảo A Nan :
- Như nguơi vừa nói, thân ở trong giảng đường, nhờ cửa sổ mở trống nên thấy rừng cây. Mà có chúng sanh nào ở trong giảng đường chẳng thấy Như Lai, lại thấy rừng cây bên ngoài chăng ?
- Bạch Thế Tôn ! Ở trong giảng đường chẳng thấy Như Lai, lại thấy rừng cây bên ngoài thì chẳng đúng.
- A Nan ! Nguơi cũng như vậy, linh tâm của nguơi hoàn toàn sáng tỏ, nếu tâm sáng tỏ bây giờ của nguơi thật ở trong thân thì trước tiên phải thấy rõ trong thân. Vậy có chúng sinh nào trước thấy trong thân rồi mới thấy vật bên ngoài chăng? Dẫu chẳng thấy được tim, gan, tỳ, vị thì các chỗ : móng ra, tóc dài, gân chuyển cũng phải thấy chứ , sao lại chẳng thấy ? Nếu trong thân còn chẳng thấy thì làm sao thấy vật bên ngoài ? Cho nên nguơi nói "Cái tâm giác tri trụ ở trong thân" là chẳng đúng.
(GHI CHÚ: Tự tánh bất nhị, vốn chẳng có nghĩa đúng và chẳng đúng, chỉ vì trị bệnh chấp thật nên nói CHẲNG ĐÚNG)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

PHÁ CHẤP TÂM Ở NGOÀI THÂN

A Nan cúi đầu bạch Phật:
- Con nghe lời dạy của Như Lai, ngộ được tâm con ở ngoài thân. Tại sao ? Ví như đèn thắp trong phòng thì trước phải chiếu sáng trong phòng, rồi sau mới từ cửa rọi ra ngoài sân. Tất cả chúng sinh chẳng thấy trong thân, chỉ thấy ngoài thân, cũng như ngọn đèn ngoài phòng chẳng thể chiếu sáng trong phòng. nghĩa này rõ ràng, chẳng còn nghi ngờ, vậy so với nghĩa lý rốt ráo của Phật chẳng sai ư ?
Phật bảo A Nan :
- Các Tỳ Kheo vừa theo ta khất thực trong thành rồi trở về vườn Kỳ Đà. Ta đã thọ trai xong, nguơi thử nghĩ , trong số Tỳ Kheo, chỉ một người ăn mà các vị khác được no chăng ?
- Bạch Thế Tôn ! Không ạ ! Tại sao ? Dù các Tỳ Kheo đều là bậc A La Hán, nhưng cơ thể chẳng đồng, đâu thể một người ăn mà cả chúng đều no.
- A Nan ! Nếu tâm giác tri của nguơi thật ở ngoài thân, thì trong ngoài khác nhau, chẳng có liên quan. Nay ta đưa tay cho nguơi xem, trong lúc mắt thấy, tâm nguơi biết được chăng ?
- Bạch Thế Tôn ! vâng biết.
- A Nan ! Nếu thân và tâm cùng biết một lượt thì sao lại nói tâm ở ngoài thân ? Do dó biết rằng nguơi nói "Tâm giác tri trụ ở ngoài thân" là không đúng.

PHÁ CHẤP TÂM NÚP SAU CON MẮT

- Bạch Thế Tôn ! Như Lời Phật dạy, chẳng thấy bên trong nên chẳng ở trong thân. Thân tâm cùng biết một lượt chẳng thể rời nhau nên chẳng ở ngoài thân, nay con thiết nghĩ tâm ở một chỗ.
- Ở chỗ nào ?
- Tâm giác tri này đã chẳng biết trong mà thấy bên ngoài, theo con nghĩ là nó ẩn núp sau con mắt. Ví như có người lấy chén lưu ly úp vào hai con mắt, tuy có vật úp ở ngoài mà chẳng hại nhãn căn, tùy sự thấy liền phân biệt được. Tâm giác tri của con chẳng thấy bên trong vì ở nơi con mắt, thấy rõ ràng bên ngoài vì ẩn núp sau con mắt.
Phật bảo A Nan :
- Theo lời nguơi nói, tâm núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly, vậy thì lúc thấy núi sông, mắt thấy chén lưu ly chăng ?
- Bạch Thế Tôn ! Thấy chén lưu ly.
- A Nan ! con mắt núp sau chén lưu ly thì thấy chén lưu ly, còn tâm núp sau mắt sao chẳng thấy mắt ? Dù cho là thấy mắt, mắt tức là cảnh, cảnh làm sao thấy cảnh ? Do đó nếu chẳng thấy mắt thì nguơi nói "Tâm giác tri ẩn núp sau con mắt " là chẳng đúng.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

PHÁ CHẤP NHẮM MẮT THẤY TỐI LÀ THẤY TRONG THÂN

- Bạch Thế Tôn ! Nay con thiết nghĩ rằng thân thể của chúng sanh, tạng phủ ở trong, khiếu huyệt (ngũ căn) ở ngoài, nơi tạng thì tối, nơi khiếu thì sáng. Nay con ở trước mặt Phật, mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong thân. Nghĩa này thế nào ?
Phật bảo A Nan :
- Khi nguơi nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy là đối với mắt hay chẳng đối với mắt ? Nếu đối với mắt thì tối ở trước mắt, tức là ở ngoài thân, sao nói ở trong thân ? Giả sử cho tối là ở trong thân thì trong lúc phòng tối chẳng có ánh sáng, những gì trong phòng tối đều là tạng phủ của nguơi sao ? Còn nếu chẳng đối với mắt thì làm sao được thấy ? Nếu lìa sự thấy bên ngoài, thành lập sự thấy đối vào trong, khi nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong thân, vậy khi mở mắt thấy sáng sao chẳng thấy mặt ?
Lại nếu chẳng thấy mặt thì cái nghĩa "con mắt đối vào trong" chẳng thể thành lập. Nếu thấy mặt thì tâm giác tri và nhãn căn đều ở tại hư không, làm sao nói ở trong ?
Lại nếu ở ngoài hư không thì chẳng phải thân nguơi, tức hiện này Như Lai thấy mặt nguơi cũng là thân nguơi sao ? Vậy mắt nguơi thấy biết thì thân nguơi chẳng biết. Nếu nguơi cho thân và mắt biết cùng một lượt, thì phải có hai cái biết, tức một thân nguơi phải thành hai Phật ! Cho nên biết : nguơi nói "Thấy tối gọi là thấy trong thân" là chẳng đúng.

PHÁ CHẤP SỰ SUY NGHĨ LÀ TÂM

- Con đã từng nghe Phật khai thị tứ chúng rằng : "Tâm sanh nên các pháp sanh, pháp sanh nên các tâm sanh". Nay con suy nghĩ, chính cái suy nghĩ ấy là tâm của con. Tùy sự suy nghĩ tâm liền có, cũng chẳng ở trong, ngoài và chính giữa.
- A nan ! Nguơi nói pháp sanh nên các tâm sanh, tùy sự suy nghĩ tâm liền có. Tâm chẳng có tự thể thì chẳng thể suy nghĩ . Nếu chẳng có tự thể mà suy nghĩ được thì vô căn phải thấy được vô trần, nghĩa này chẳng đúng.
Nếu có tự thể thì nguơi thử dùng tay búng thân mình xem, cái tâm biết của nguơi từ trong ra hay từ bên ngoài ra ? Nếu từ bên trong ra thì phải thấy trong thân, nếu từ bên ngoài ra thì trước tiên phải thấy mặt.
- Mắt chủ sự thấy, tâm chủ sự biết, tâm không phải như mắt, nói tâm thấy là chẳng đúng nghĩa.
Phật bảo A Nan :
- Nếu thấy là con mắt thì nguơi ở trong phòng, cửa biết thấy chăng ? (phòng dụ cho thân, cửa dụ cho mắt). Như kẻ đã chết, con mắt vẫn còn, lẽ ra phải thấy được vật, nếu thấy được vật sao gọi là chết ?
Lại : Tâm hay biết của nguơi nếu thật có tự thể,là một thể hay nhiều thể ? Nay nơi thân nguơi tâm cùng khắp cơ thể hay chẳng cùng khắp ? Nếu nói một thể, khi tay nguơi búng một chi, lẽ ra tứ chi đều biết, nếu đều biết thì chỗ búng chẳng có, nếu có chỗ búng thì chẳng phải một thể. Nếu như nhiều thể thì thành nhiều người, vậy thể nào là của nguơi ?
Nếu nói khắp cả cơ thể thì đồng như sự búng kể trên, nếu chẳng khắp thì khi nguơi rờ đầu và chân, đầu biết chân phải không biết. Nhưng hiện nay nguơi lại chẳng phải như vậy. Cho nên biết : nguơi nói "Tùy sự suy nghĩ tâm liền có" là chẳng đúng.
18


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

PHÁ CHẤP TÂM Ở CHẶNG GIỮA

- Bạch Thế Tôn ! Khi Phật với Văn Thù và các Pháp Vuơng Tử luận về Thật Tướng , con nghe Phật nói tâm chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài. Theo như con nghĩ, vì chẳng biết trong nên chẳng phải ở trong thân, thân tâm cùng biết một lượt nên chẳng phải ở ngoài, vậy cùng biết một lượt mà chẳng thấy bên trong , tất phải ở giữa.
- Nguơi nói "ở giữa" thì cái chính giữa ấy phải rõ ràng, không phải không chỗ. Theo nguơi suy xét, giữa ở chỗ nào ? Ở nơi xứ hay ở nơi thân ? (có 12 xứ là lục căn và lục trần).
Nếu ở nơi thân, nơi ngoài da thì chẳng phải là ở giữa. vậy ở giữa thì đồng như ở trong.
Nếu ở nơi xứ, thì có thể nêu ra hay chẳng thể nêu ra ? Nếu chẳng thể nêu ra thì đồng như không có. Nếu có thể nêu ra lại chẳng định được chỗ nào. Tại sao ? Ví như có người cắm cây nêu làm chính giữa, nhìn từ phuơng Đông thì cây nêu ở phuơng Tây, nhìn từ phuơng Nam thì cây nêu ở phuơng Bắc, cái thể giữa được nêu ra đã lẫn lộn thì tâm cũng thành rối loạn, chẳng rõ ở đâu.
A Nan thưa :
- Con nói "chính giữa" chẳng phải hai thứ này. Như Thế Tôn nói : Nhãn căn và sắc trần duyên nhau sinh ra nhãn thức. Nhãn căn phân biệt, sắc trần vô tri, thức sanh ra nơi giữa,tức là tâm vậy.
Phật bảo :
- Nếu tâm nguơi ở giữa căn trần, vậy tâm thể này gồm cả hai hay chẳng gồm cả hai ? Nếu gồm cả hai thì vật và thể xen lộn, vật thì vô tri, thể thì có biết, thành hai thứ đối dịch, lấy gì làm giữa ? Nếu lìa biết (căn) và không biết (trần) thì chẳng có thể tánh, vậy lấy tướng nào làm chính giữa ? Cho nên biết Nguơi nói "Tâm ở chính giữa" là chẳng đúng.

PHÁ CHẤP "TẤT CẢ VÔ TRƯỚC" LÀ TÂM

- Bạch Thế Tôn ! Khi xưa con thấy Phật với bốn Đại Đệ Tử (Mục Kiều Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na, Xá Lợi Phất) cùng chuyển pháp luân, thường nói "cái tâm giác tri chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chặng giữa, chẳng ở chỗ nào cả, tất cả vô trước gọi là tâm". Vậy theo con vô trước được gọi là tâm chăng ?
Phật bảo A Nan
- Nguơi nói cái tâm giác tri chẳng ở chỗ nào cả, vậy các loài bay trên hư không, ở dưới nước và trên bờ gọi là tất cả vật tượng nơi thế gian mà nguơi vô trước đó là có hay không ? Không thì như lông rùa, sừng thỏ, nói gì vô trước. Nếu có sự vô trước thì chẳng thể gọi là không. Không tướng mới không, chẳng không thì có tướng, tâm đã chấp có tướng thì còn nói gì vô trước. Cho nên biết : nói "Tất cả vô trước là tâm giác tri" là chẳng đúng.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

LƯỢC GIẢI
Ở đây nêu lên bảy chỗ gạn hỏi , ý Phật là muốn đưa A Nan thẳng đến chỗ tự ngộ, lời Phật chẳng phải chơn lý. Phật chỉ dùng thuốc giả để trị bịnh giả của A nan.
Tại sao nói là bệnh giả ? Vì những kiến chấp của A Nan vốn chẳng thật.
Tại sao nói thuốc giả ? Vì lời phá chấp của Phật cũng chẳng thật.
Cũng như A Nan nói tâm ở trong thân, ở ngoài thân... cho đến nói vô trước là tâm, kỳ thật không phải có chỗ chẳng đúng hay chẳng sai, vì chấp nhất định ở một chỗ, nên Phật nói chẳng đúng.
Nếu bệnh chấp chưa hết thì có thể nêu ra vô số chỗ, chứ đâu phải chỉ có bảy chỗ ư ?
Nếu bệnh chấp đã hết thì một chỗ cũng chẳng có, nói gì bảy chỗ !

Tự tánh vốn bất nhị, nếu chấp theo lời Phật, cho "thật chẳng ở trong" là nhị, cho "thật chẳng ở ngoài" cũng là nhị, cho đến bất cứ có ở một chỗ nào, hay chẳng ở một chỗ nào đều là nhị.
Tại sao ?
Vì nếu ở một chỗ này thì chỗ kia không có, chỗ có chỗ không tức là nhị.
Nên Phật nói :"Phàm hữu ngôn thuyết, giai phi thật nghĩa" (Phàm nếu có lời nói đều chẳng phải nghĩa thật).


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Bấy giờ A Nan ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo tay phải, quì gối chân phải, chắp tay cung kính bạch Phật :
- Con là em út của Như Lai, được Phật thuơng mến, nay dù xuất gia nhưng còn ỷ lại nơi lòng thuơng yêu của Phật, chỉ ham học rộng nghe nhiều, chưa được vô lậu, chẳng uốn dẹp được tà chú, bị nhiếp vào nhà dâm, chỉ vì chẳng biết chỗ đến của chơn thật. Kính mong Thế Tôn từ bi thuơng xót, khai thị cho chúng con đường lối tu Thiền quán Sa Ma Tha khiến kẻ xiển đề xóa bỏ ác kiến.

Nói xong đảnh lễ, năm vóc gieo sát đất, cùng đại chúng khát khao kính nghe lời chỉ dạy.
Lúc ấy Thế Tôn từ trên mặt phóng ra đủ thứ hào quang, sáng lạng như trăm ngàn mặt trời, chiếu khắp các thế giới Phật, khiến thành sáu thứ rung động, mười phuơng quốc độ đồng thời hiện ra. Oai thần của Phật khiến các thế giới hợp thành một thế giới, tất các Đại Bồ tát trong thế giới đều an trụ nơi quốc độ của mình, chắp tay lắng nghe.

Phật bảo A Nan :
- Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, đủ thứ điên đảo tạo thành giống nghiệp, kết tụ nghiệp nhân thành quả luân hồi. Những người tu hành chẳng được chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, trở thành Thanh Văn, Duyên Giác hoặc thành cõi trời ngoại đạo, ma vuơng và quyến thuộc ma, đều do chẳng biết hai thứ căn bản, tu tập sai lầm, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm, dẫu cho trải qua nhiều kiếp cũng chẳng đắc đạo.
Thế nào là hai thứ căn bản ?
- Một là căn bản của sanh tử từ vô thỉ, tức là nay nhận tâm phan duyên làm tự tánh của nguơi và chúng sanh.
- Hai là Bản Thể vốn thanh tịnh của Bồ Đề Niết Bàn từ vô thỉ, tức là cái Bản Thức vốn sáng tỏ, hay sanh các duyên mà bị các duyên che khuất thành lạc mất của nguơi. Vì chúng sanh lạc mất Bản Thức sáng tỏ, dù hàng ngày sống trong Bản Thức mà chẳng tự biết, oan uổng vào lục đạo.
A Nan ! Nay nguơi muốn biết đường tu Thiền quán Sa Ma Tha , mong ra khỏi sanh tử, vậy ta hỏi nguơi.

Liền đó, Như Lai giơ cánh tay sắc vàng , co năm ngón tay, bảo A Nan :
- Nguơi có thấy chăng ?
A Nan đáp :
- Dạ Thấy.
Phật hỏi :
- Nguơi thấy cái gì ?
A Nan đáp :
- Con thấy Như lai giơ tay, co ngón thành nắm tay sáng ngời, chói tâm và mắt của con.
Phật lại bảo :
- Nguơi dùng cái gì để thấy ?
A Nan đáp :
- Con và đại chúng đều dùng mắt để thấy.
Phật bảo A Nan :
- Theo lời nguơi đáp, Như Lai co ngón tay, thành nắm tay sáng ngời, chói tâm và mắt của nguơi. Vậy lúc nắm tay ta chói rọi, mắt nguơi thấy được, lấy gì làm tâm ?
A Nan đáp :
- Nay Như Lai gạn hỏi tâm ở chỗ nào, con dùng tư tưởng suy tìm, thì cái hay suy tìm ấy, con cho là tâm.
Phật bảo :
- Sai rồi A Nan ! Cái ấy chẳng phải tâm nguơi.
A Nan giựt mình đứng dậy, chắp tay bạch Phật rằng :
- Cái ấy chẳng phải tâm con thì gọi là cái gì ?
Phật bảo A Nan :
- Ấy là tướng vọng tưởng của tiền trần, mê hoặc chơn tánh của nguơi. Do nguơi xưa nay nhận giặc làm con, lạc mất Bản Thức chơn thường nên bị luân chuyển.

GHI CHÚ : bản thức là bản tâm, bản kiến, bản văn, bản giác, bản tri. Đều là danh hiệu của tự tánh.
24


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

- Bạch Thế Tôn ! Con là em cưng của Phật, vì mến Phật nên xuất gia. Tâm con chẳng những cúng dường Như Lai, mà còn muốn trải khắp hằng sa quốc độ, phụng sự Phật và Thiện tri thức, phát tâm dũng mãnh, làm những Phật sự khó làm, đều dùng tâm này. Dẫu cho báng pháp, bỏ hẳn thiện căn cũng vì tâm này. Nếu Thế Tôn phát minh cái ấy chẳng phải tâm, vậy con thành ra không có tâm, đồng như gỗ đá, lìa giác tri này chẳng còn gì cả. Sao Như Lai nói cái ấy chẳng phải tâm ? Con thật kinh sợ, và cả đại chúng đều chẳng khỏi nghi hoặc. Kính mong Thế Tôn mở lòng từ bi, khai thị cho kẻ chưa ngộ.

Bấy giờ Thế Tôn muốn cho A Nan và đại chúng chứng nhập vô sanh pháp nhẫn, nơi tòa Sư Tử, xoa đầu A nan khai thị rằng :
- Như Lai thường nói : "Chư pháp sở sanh, duy tâm sở hiện". Tất cả nhơn quả, thế giới, vi trần đều do tâm này mới thành có thể tánh, dẫu cho hư không cũng có danh hiệu, huống là cái tánh trong sạch, sáng tỏ của tất cả tâm lại chẳng có tự thể ư ? Nếu nguơi chấp thật cái tánh giác tri, phân biệt cho là tâm, thì tâm này lìa tất cả sự vật lục trần phải riêng có tự thể (chẳng theo trần cảnh sanh diệt). Như ngươi hiện nay đang nghe thuyết pháp là do âm thanh nên có Phân biệt. dẫu cho diệt hết tất cả kiến, văn, giác, tri, trong giữ u nhàn, cũng còn là bóng phân biệt của pháp trần.

Ta chẳng bảo nguơi chấp thật phi tâm, nhưng nguơi hay xét kỹ nơi tâm: nếu lìa tiền trần mà có tự thể của tánh phân biệt, thì tức là chơn tâm của nguơi. Nếu tánh phân biệt lìa trần chẳng có tự thể, ấy là bóng phân biệt của tiền trần. Trần chẳng thường trụ, khi biến diệt thì tâm này đồng như lông rùa, sừng thỏ, vậy pháp thân nguơi thành ra đoạn diệt,còn ai tu chứng "vô sanh pháp nhẫn"?
(Trần cảnh có hai loại: đối với ngũ căn gọi là tiền trần, đối với ý căn gọi là pháp trần).

Tức thời A Nan cùng đại chúng im lặng, ngơ ngác,chẳng còn lý lẽ gì để nói nữa.
Phật bảo A nan :
- Tất cả người tu học trên thế gian, vì chưa dứt sạch tập khí phiền não, dù tu đến chín bậc thiền định, mà chẳng thành quả A La Hán, đều là do chấp trước sanh tử vọng tưởng, cho là chơn thật, nên dẫu nguơi được học rộng nghe nhiều, vẫn chẳng chứng thánh quả.
26


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

A Nan nghe rồi lại đau xót rơi lệ, năm vóc gieo sát đất, quì gối, chắp tay bạch Phật rằng :
- Từ khi con phát tâm xuất gia, ỷ cậy oai thần của Phật, thường nghĩ rằng chẳng nhọc tự tu, cho rằng Như Lai sẽ ban cho tam muội, không biết thân tâm vốn chẳng thể thay thế nhau được, nên lạc mất bản tâm. Thân dù xuất gia, tâm chẳng nhập đạo, như đứa con nghèo bỏ cha chạy trốn. Đến nay mới biết, dẫu cho học rộng nghe nhiều, nếu chẳng tu hành thì khác gì người chẳng nghe! Cũng như nói ăn mà không ăn thì làm sao được no.
Thế Tôn ! hiện nay chúng con bị hai chướng ràng buộc (phiền não chướng và sở tri chướng), vì chẳng biết tự tánh thường tịch, mong Như Lai thuơng xót kẻ khốn cùng, khai phát diệu tâm, sáng tỏ đạo nhãn cho chúng con.

Lúc ấy Như Lai từ chữ vạn trước ngực phóng ra hào quang,rực rỡ trăm ngàn màu sắc, đồng thời chiếu khắp mười phuơng vô số quốc độ Phật, soi khắp đỉnh đầu tất cả Như Lai trong mười phuơng bửu sát, rồi xoay về soi đầu A Nan cùng đại chúng, bảo A Nan rằng :
- Nay ta vì nguơi dựng đại pháp tràng ,khiến mười phuơng chúng sanh đều đươc Diệu Tâm sáng tỏ, pháp nhãn thanh tịnh. A nan ! trước nguơi trả lời thấy nắm tay chói sáng, vậy cái nắm tay này do đâu mà có ? Làm sao thành nắm tay ? Nguơi lấy gì để thấy ?
A nan đáp :
- Do tánh thanh tịnh sáng ngời như núi báu của thân Phật sinh ra hào quang, ngón tay Phật co lại, nắm thành nắm tay, chính mắt con thấy tướng nắm tay vậy.
Phật bảo A Nan :
- Hôm nay ta nói thật cho nghe : Những người có trí cũng phải nhờ thí dụ mới được khai ngộ. A Nan, ví như cái nắm tay của Ta, nếu chẳng có cánh tay thì chẳng thành nắm tay của Ta, nếu chẳng có con mắt của nguơi thì chẳng thành sự thấy của nguơi. Vậy lấy nhãn căn của nguơi so với nắm tay của Ta, hai nghĩa giống nhau chăng ?
- Bạch Thế Tôn ! Vâng giống. Nếu chẳng có con mắt thì chẳng thành sự thấy của con. Vậy đem nhãn căn của con so với nắm tay của Như Lai hai nghĩa giống nhau.
Phật bảo A Nan:
- Nguơi nói giống nhau, nghĩa này chẳng đúng. Tại sao ? Như người không có cánh tay thì tuyệt nhiên chẳng có nắm tay, nhưng người không có mắt thì chẳng phải không thấy. Vì sao ? Nguơi thử hỏi người mù xem có thấy gì chăng ? Người ấy ắt sẽ trả lời "Nay trước mắt tôi chỉ thấy tối đen, chẳng còn thấy gì khác". Xét theo nghĩa này thì tiền trần tự tối, sự thấy đâu có giảm bớt.
A nan nói :
- Những người mù trước mắt chỉ thấy tối đen, sao gọi là thấy ?
Phật bảo A Nan :
- Người mù không có mắt, chỉ thấy tối đen, so với người có mắt ở trong phòng tối, cũng chỉ thấy tối đen, hai thứ tối đen ấy có khác hay chẳng khác ?
- Bạch Thế Tôn ! Thật chẳng khác.
- A nan ! Nếu người không có mắt, thấy toàn tối đen, bỗng được sáng mắt, liền thấy các sắc tướng trước mắt, gọi là "mắt thấy", người ở trong phòng tối cũng toàn thấy tối đen, bỗng được đèn sáng, cũng thấy các sắc tướng trước mắt, thì phải gọi là "đèn thấy". Nếu đèn có thấy thì chẳng được gọi là đèn, lại đèn thấy thì có dính dáng gì đến nguơi ? Vậy thì biết : đèn chỉ hiển hiện các sắc tướng, sự thấy là mắt, chẳng phải đèn. Cũng vậy, mắt chỉ hiển hiện các sắc tướng, sự thấy là tâm, chẳng phải mắt.
29


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG NGHIÊM

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

A Nan và đại chúng dù nghe lời Phật nói vậy, miệng tuy im lặng, nhưng tâm vẫn chưa ngộ, mong được giảng rõ thêm, nên thành tâm chắp tay, đợi Phật dạy bảo.

Bấy giờ Thế tôn duỗi cánh tay sáng ngời, mở năm ngón tay, bảo A Nan và đại chúng :
- Lúc ta mới thành đạo nơi Lộc viên, có nói với năm vị Tỳ kheo và tứ chúng rằng : "Tất cả chúng sanh chẳng thành Bồ Đề và chứng quả A La Hán đều tại lầm theo phiền não khách trần". Lúc đó các nguơi do đâu được khai ngộ ?
Khi ấy Kiều Trần Như đứng dậy bạch Phật :
- Con là bậc Trưởng lão trong chúng, được gọi là hiểu rộng biết nhiều, vì ngộ hai chữ KHÁCH TRẦN nên được chứng quả. Thế Tôn ! Ví như người đi đường vào nghỉ ở khách sạn, ăn ngủ xong rồi lên đường đi tiếp, chẳng thể ở lại. Còn người chủ thì cư trú tại đó, chẳng cần đi đâu. Vậy chẳng trụ là khách, trụ gọi là chủ, do đó nên lấy sự "chẳng trụ" làm nghĩa chữ KHÁCH.
Cũng như mưa mới tạnh, ánh sáng mặt trời rọi qua kẽ hở, thấy rõ tướng bụi trần lăng xăng nơi hư không. TRẦN thì lay động, HƯ KHÔNG tịch nhiên. Vậy tịch lặng gọi là không, lay động gọi là trần, lấy sự lay động làm nghĩ chữ TRẦN.
Phật nói :
- Đúng thế.

Tức thời Như Lai ở trong đại chúng co năm ngón tay, nắm rồi lại mở, mở rồi lại nắm, hỏi A Nan :
- Nay nguơi thấy gì ?
A Nan đáp :
- Con thấy bàn tay Như Lai lúc mở lúc nắm.
Phật bảo A nan :
- Nguơi thấy tay Ta mở nắm, là tay Ta có mở có nắm, hay cái thấy của nguơi có mở có nắm ?
A nan đáp:
- Bàn tay của Như Lai tự mở nắm, chứ chẳng phải tánh thấy của con có mở nắm.
Phật hỏi :
- Cái nào động, cái nào tịnh ?
A nan đáp :
- Tay Phật chẳng trụ, còn tánh thấy của con tịnh còn chẳng có,làm sao có động !
(Bản kiến bất nhị, động tịnh đều chẳng nhiễm)
Phật nói :
- Đúng thế.
31


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Bing [Bot]22 khách