KINH DƯỢC SƯ

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Như ý Cát Tường
Bài viết: 499
Ngày: 13/03/13 20:24
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Được cảm ơn: 1 time

KINH DƯỢC SƯ

Bài viết chưa xem gửi bởi Như ý Cát Tường »

KINH DƯỢC SƯ

Dịch giả: Bồ Tát Tuệ Nhuận


* * * * * * *


Báo đức Tôn Sư


- Nam mô Đức Minh Tháp Ma ha Sa môn Bồ Tát giới pháp húy THÍCH TUỆ HẢI.
- Nam mô Ma ha Sa môn Bồ Tát giới pháp húy THÍCH ĐỘ LƯỢNG.
- Nam mô Ma ha Sa môn Bồ Tát giới pháp húy THÍCH THANH LONG.



CÔNG ĐỨC TRÌ CHÚ ĐẠI BI

Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng: “Lạy Đức Thế Tôn, nếu các chúng sinh tụng chú Đại Bi, mà còn sa vào ba ngã ác (Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh), con thề không thành chính giác; tụng chú Đại Bi nếu không được sinh sang cõi Phật, con thề không thành chính giác; tụng chú Đại Bi nếu không được tam muội hùng biện, con thề không thành chính giác; tụng chú Đại Bi trong đời này cầu gì chẳng được nấy, thì không thể gọi là chú Đại Bi được”.

Đọc đoạn trên trích trong Kinh đủ biết thần lực chú Đại Bi không thể xiết nghĩ, ai thành kính phát tâm nguyện tụng chú Đại Bi tất điều lợi cầu được như nguyện, đúng như trong Kinh đã nói.


KHÓA TỤNG

TỊNH PHÁP GIỚI CHÂN NGÔN
Úm lam. (21 lần)

VĂN THÙ HỘ THÂN CHÂN NGÔN
Úm si lâm bộ lâm. (7 lần)

LỤC TỰ ĐẠI MINH CHÂN NGÔN
Úm ma ni bát minh hồng. (7 lần)

ĐẠI PHẬT ĐỈNH THỦ LĂNG NGHIÊM CHÚ

Úm, a na lệ, tỳ sá đề,
Bề la bạt sà la đà lị,
Bàn đà bàn đà nễ,
Bạt sà la báng ni phắn,
Hổ hân đô lư ung phắn,
Sa bà ha. (7 lần)

ĐẠI BI CHÚ

THIÊN THỦ THIÊN NHỠN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI

Nam mô bát la đát na đá la dạ da,
Nam mô a lị da,
Bà lư yết đế thước bát la da,
Bồ đề tát đà bà da,
Ma ha tát đà bà da,
Ma ha ca lư ni ca da.
Úm, tát phàn la phạt duệ,
Số đát na đát tả,
Nam mô cất cát lị đỏa y mông a lị da,
(Đức Long Thụ Bồ Tát)
Bà lư cát đế thất Phật a lăng đà bà.
Nam mô na la cẩn trì.
Hê lị ma ha phàn đá sa mế,
Tát bà a tha đậm thâu bằng,
A thệ dựng,
(Bộ Dạ Xoa cầm kiếm hộ trì)
Tát bà tát đá na ma bà già,
Ma phạt đặc đậu, đát diệt tha,
Úm, A bà lư hê,
Lư ca dế, ca la đế,
Gi hê lị, ma ha bồ đề tát đỏa
Tát bà tát bà,
(Đức Quan Âm Hương Tích hiện thân)
Ma la ma la,
Ma hê ma hê lị đà dựng,
Câu lư câu lư yết mông,
Độ lư độ lư, phạt sà da đế,
Ma ha phạt sà da đế,
Đà la đà la,
(Đức Quan Âm hiện Đại trượng phu thân)
Địa lị ni, thất Phật la da,
Giá la giá la,
(Đức Tồi Toái Bồ Tát thủ bá kim luân)
Ma ma phạt ma la,
Mục đế lệ, y hê gi hê,
Thất na thất na
A la sấm Phật la sá lị,
Phạt sa phạt sấm, Phật la sá da,
Hô lư hô lư ma la,
Hô lư hô lư hê lị,
Sa la sa la, tất lị tất lị,
Tô lư tô lư,
Bồ đề dạ bồ đề dạ,
(Đức Quan Âm kết chúng sinh duyên)
Bồ đà dạ bồ đà dạ
(Đức Khải giáo Át Nan Đà)
Di đế lị dạ, na la cẩn trì,
Địa lị sắt ni na
Ba dạ ma na, sa bà ha
Tất đà dạ, sa bà ha,
Ma ha tất đà dạ, sa bà ha.
Tất đà dụ nghệ,
Thất phàn la da, sa bà ha,
Na la na cẩn trì, sa bà ha,
Ma la na la, sa bà ha,
Tất la tăng a mục dà da, sa bà ha.
(Đức Dược Vương Bồ Tát hành nguyện chư bệnh)
Sa bà ma ha a tất đà dạ, sa bà ha.
(Đức Dược Thượng Bồ Tát bản thân hành liệu chư bệnh)
Giả cát la a tất đà dạ, sa bà ha,
Ba đà ma yết tất đá dạ, sa bà ha,
Na la cẩn trì phàn già la da, sa bà ha,
Ma bà lị thắng yết la dạ, sa bà ha,
Nam mô hát la đát na đá la dạ da,
Nam mô a lị da,
Bà lư cát đế
Thước phàn la dạ,
Sa bà ha, Úm,
Tất điện đô, mãn đá la,
Bát đà da, sa bà ha.
(Đại Bi sám pháp lưu truyền bản hữu, Na ma bà tát đá, Ngũ tự nguyên tạng bản vô).


*******


DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI BẢN NGUYỆN CÔNG ĐỨC KINH



KINH NÓI VỀ CÔNG ĐỨC BẢN NGUYỆN CỦA ĐỨC DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI



Tôn giả Ananda chép lời Phật nói bằng chữ Phạn (Brahma Ấn Độ).
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu vua Đường (Trung Hoa) dịch ra chữ Hán.
Bồ Tát giới đệ tử Tuệ Nhuận dịch ra chữ Việt Nam.



BÀI KỆ

(Cầu Phật gia bị dịch Kinh đúng nghĩa)

Hạnh, nguyện của Phật khó nghĩa bàn.
Đưa hết chúng sinh lên cõi Tịnh;
Muốn lên phải tụng và phải tu,
Bỏ hẳn đường tà, theo đường chính.
Lạy Phật thêm sức phù hộ cho,
Con dịch được đúng nghĩa chân thực.
Để ai cũng hiểu tụng và tu,
Chuyển kiếp tai nạn, thành nước Phật.
TUỆ NHUẬN


*******



KHÓA LỄ DƯỢC SƯ


Nhất thiết cung kính.
(Lễ hội thì chủ sám đứng đọc, không người làm lễ đọc một mình).

Nhất tâm kính lễ Tam Bảo thường trụ khắp cả mười phương.
(Mọi người cùng đọc, lễ 3 lễ).


BÀI DÂNG HƯƠNG

(Mọi người cùng quỳ, chủ sám cầm hương hoa dâng, mọi người cùng đọc).

Con dâng hương Giới, hương Định, hương Tuệ, hương Giải thoát, hương Giải thoát Tri kiến.

Năm thức hương này kết thành đài mây, sáng chưng Pháp giới, cúng dàng mười phương thường trụ Tam Bảo.
(Mọi người yên lặng 1 phút).



CÚNG DÀNG RỒI, NHẤT THIẾT CUNG KÍNH
(Chủ sám đọc).

Nhất tâm kính lễ Tam Bảo thường trụ khắp cả mười phương.
(Mọi người cùng đọc, lễ 1 lễ).


BÀI TÁN PHẬT
(Mọi người cùng đứng cùng đọc)

Đấng Pháp vương ngôi báu tuyệt vời,
Khắp Tam giới không ai sánh kịp.
Thầy chỉ đường khắp cõi Nhân, Thiên,
Cha hiền cứu bốn loài đau khổ.
Con nay về nương tựa vào cha,
Ba nghiệp a tăng kỳ diệt hết.
Tán dương công đức Phật Thế Tôn,
Ức kiếp muôn đời khôn kể xiết.

ÁN PHẠ NHẬT LA VẬT
(Câu này đọc 3 lượt)

1. Nhất tâm kính lễ: Phật Thiện Danh Xưng Cát Tường Vương ở cõi Quang Thắng phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 lễ).

2. Nhất tâm kính lễ: Phật Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương ở cõi Diệu Bảo phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 lễ).


3. Nhất tâm kính lễ: Phật Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu ở cõi Viên Mãn Hương Tích phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 lễ).

4. Nhất tâm kính lễ: Phật Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường ở cõi Vô Ưu phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 lễ).


5. Nhất tâm kính lễ: Phật Pháp Hải Lôi Âm ở cõi Pháp Tràng phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 lễ).

6. Nhất tâm kính lễ: Phật Pháp Hải Thắng Tuệ Du Hý Thần Thông ở cõi Thiện Trụ Bảo Hải phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 lễ).


7. Nhất tâm kính lễ: Phật Dược Sư Lưu Ly Quang ở cõi Tịnh Lưu Ly phương Đông, cùng chư Phật ở khắp Pháp giới. (1 lễ).

8. Nhất tâm kính lễ: Kinh Bản Nguyện Công Đức của Phật Dược Sư và chú Quán Đỉnh cùng Tôn Pháp ở khắp Pháp giới. (1 lễ).


9. Nhất tâm kính lễ: Bồ Tát Nhật Quang Biến Chiếu ở cõi Tịnh Lưu Ly phương Đông, cùng chư Bồ Tát ở khắp Pháp giới. (1 lễ).

10. Nhất tâm kính lễ: Bồ Tát Nguyệt Quang Biến Chiếu ở cõi Tịnh Lưu Ly phương Đông, cùng chư Bồ Tát ở khắp Pháp giới. (1 lễ).


11. Nhất tâm kính lễ: Thánh chúng trong Hải hội Thanh tịnh ở cõi Tịnh Lưu Ly phương Đông, cùng Thánh chúng ở khắp Pháp giới. (1 lễ).

12. Con nay quy mệnh, sám hối thề nguyện đoạn trừ tất cả ba chướng cho pháp giới chúng sinh và tứ ân, tam hữu. (1 lễ).


BÀI SÁM HỐI

CHÍ TÂM SÁM HỐI
(Mọi người cùng quỳ cùng đọc).

Con xưa đã tạo bao nghiệp ác,
Đều vì vô thủy tham, sân, si.
Từ thân, miệng, ý phát sinh ra,
Hết thảy con nay đều sám hối,
Bao nhiêu nghiệp chướng sâu nhường ấy.
Thảy đều tiêu diệt sạch lầu lầu,
Niệm niệm trí soi khắp Pháp giới.
Độ hết chúng sinh đều chẳng thoái.
(Đọc xong cùng dập đầu xuống chiếu 3 lượt rồi cùng đứng dậy).

SÁM HỐI PHÁT NGUYỆN RỒI
(Chủ sám đọc)

Quy mệnh lễ Phật Dược Sư Lưu Ly Quang cùng hết thảy Tam Bảo ở khắp mười phương. (Cùng đọc, lễ 1 lễ).


BÀI TÁN HƯƠNG
(Mọi người cùng ngồi kết già cùng đọc).

Lư trầm vừa đốt, Pháp giới thơm lừng,
Xa đưa hải hội Phật đều mừng.
Đâu đâu cũng thấy kết tường vân,
Thành ý ân cần, chư Phật hiện toàn thân.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lượt).

CHÚ TỊNH KHẨU NGHIỆP
Tu lị tu lị, ma ha tu lị, tu tu lị, tát bà ha. (3 lượt).

CHÚ TỊNH THÂN NGHIỆP
Tu đa lị, tu đa lị, tu ma lị, sa bà ha. (3 lượt).

CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án, sa phạ bà phạ, truật đà sa phạ, đạt ma sa phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lượt).

CHÚ AN THỔ ĐỊA
Nam mô tam mãn đá, một đà nẫm, án độ rô độ rô, địa vĩ tát bà ha. (3 lượt).

CHÚ PHỔ CÚNG DÀNG
Án, nga nga nẵng, tam bà phạ, phạt nhật la hộc. (3 lượt).


BÀI TÁN KINH

Sa bà chẳng ở được lâu dài,
Sớm liệu tụng kinh cửa Phật đài,
Hai sáu nguyện vương tiêu tội hết,
Ba nghìn Hóa Phật dũ lòng soi:
Hoa sen Tây Trúc đầy thơm ngát,
Quả phúc Nam Diêm được tốt tươi.
Giải kết, tiêu tai, thêm tuổi thọ,
Vững vàng bản mệnh, được yên vui.


BÀI TÁN PHẬT

Mười hai nguyện lớn, Giáo chủ Đông phương.
Bốn chín đèn soi sáng đàn trường,
Bảy bảy đức chân thường, lễ bái tán dương,
Hết tai nạn được thọ trường.

Nam mô Dược Sư Hải Hội Phật Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lượt).


KỆ KHAI KINH

Pháp này mầu nhiệm rất cao sâu,
Ức kiếp muôn đời chưa dễ gặp,
Nay được thấy nghe, được thụ trì,
Con thề giải nghĩa chân như Phật.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lượt)

Nam mô Khai Bảo Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lượt)



KINH NÓI VỀ CÔNG ĐỨC BẢN NGUYỆN CỦA ĐỨC DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI




Đúng thực như thế, chính tôi được nghe:

Một thời bấy giờ. Đức Bạc Già Phạm đi độ các nước, đến thành Quảng Nghiêm. Ngài dừng lại ở, dưới cây âm nhạc, cùng với tám nghìn vị đại Bật Sô, ba vạn sáu nghìn, vị đại Bồ Tát, và các Quốc Vương, các quan Đại Thần, các Bà La Môn, các thầy Cư Sĩ, Thiên, Long, Bát Bộ, Nhân với Phi Nhân, đông không xiết kể, thảy đều cung kính, vây kín xung quanh, Đức Phật thuyết pháp.

Con đấng Pháp Vương, bấy giờ là Ngài Mạn Thù Sư Lợi, theo uy thần Phật, đương ngồi đứng đậy, hở một vai áo, đầu gối bên hữu, quỳ sát tận đất, nhìn Bạc Già Phạm, cúi mình, chắp tay, bạch rằng: Thế Tôn, xin Phật diễn thuyết, cũng giống như thế, diễn những danh hiệu, và những điều nguyện, căn bản lớn lao, công đức tuyệt vời, của các Đức Phật, cho những người nghe, tiêu hết nghiệp chướng, vì muốn lợi lạc, các loài hữu tình, khi Tượng Pháp chuyển.

Bây giờ Thế Tôn tán thán Đồng Tử, Mạn Thù Sư Lợi, Ngài khen ngợi rằng: “Hay lắm! Hay lắm! Mạn Thù Sư Rị, lòng đại bi ông, khuyến thỉnh ta nói, danh hiệu chư Phật, bản nguyện công đức, để bạt cho hết, nghiệp chướng ràng buộc, các loài hữu tình, và để làm cho, lợi ích an lạc, các loài hữu tình, khi Tượng Pháp chuyển”.

Ông hãy nghe kỹ, nghiền nghĩ thực khéo, ta sẽ nói đây.

Mạn Thù Sư Lợi, bạch rằng: Xin vâng, xin Thế Tôn nói, chúng con thích nghe.

Đức Phật bảo Ngài Mạn Thù Sư Lợi: Về phương Đông kia, cách đây xa nhiều vô số Phật độ, nhiều bằng mười số cát sông Găng Giờ, ở đấy có một thế giới gọi là cõi Tịnh Lưu Ly.

Đức Phật cõi ấy, hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác, Minh Hành Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm.

Ông Mạn Thù ơi, khi Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai còn đương hành đạo Bồ Tát. Ngài đã phát ra, mười hai nguyện lớn, khiến cho hữu tình, cầu gì cũng được.

NGUYỆN LỚN THỨ NHẤT

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo, A nốc đa la tam diễu tam bồ đề, thì tự thân ta, sáng chưng rực rỡ, soi suốt tất cả, vô số thế giới, vô lượng vô biên; dùng ba mươi hai, tướng Đại trượng phu, tám mươi tùy hình, để trang nghiêm thân, khiến cho hết thảy, các loài hữu tình, đều được tất cả, như ta không khác.

NGUYỆN LỚN THỨ HAI

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo, Vô thượng Bồ đề, thì tự thân ta, như ngọc Lưu Ly, trong ngoài sáng suốt, sạch không vết bẩn, quang minh rộng lớn, công đức cao vời; thân khéo ở yên, trong lưới tia sáng, trang nghiêm hơn cả, mặt trời, mặt trăng; chúng sinh tối tăm, đều được sáng bừng, đâu cũng làm được, mọi sự như ý.

NGUYỆN LỚN THỨ BA

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo, Vô thượng Bồ đề, ta dùng rất nhiều, trí tuệ phương tiện, vô lượng vô biên, khiến cho hữu tình, đều được mọi vật, thụ dụng vô cùng, chẳng để chúng sinh, có chỗ thiếu thốn.


NGUYỆN LỚN THỨ TƯ

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo, Vô thượng Bồ đề, nếu có hữu tình, tu hành tà đạo, thì ta khiến cho, đều được ở yên, trong đạo Bồ đề; nếu ai hành đạo, Thanh Văn, Độc Giác, thì ta cũng đều, lấy đạo Đại thừa, mà dựng cho yên.

NGUYỆN LỚN THỨ NĂM

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo, Vô thượng Bồ đề, nếu có vô lượng, vô biên hữu tình, tu hành phạm hạnh, trong pháp của ta, thì hết thảy đều được giới chẳng thiếu, đủ giới tam tụ, nếu có ai mà, trót đã phạm giới, nghe tên ta rồi, lại được tịnh giới, chẳng vào đường ác.

NGUYỆN LỚN THỨ SÁU

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo, Vô thượng Bồ đề, nếu những hữu tình thân thể hèn kém, mọi căn chẳng đủ, xấu xa, ngu ngốc, mù, điếc, ngọng, câm, què quặt, còng lưng, hóa hủi, điên cuồng, bao nhiêu bệnh khổ, nghe tên ta rồi, hết thảy đều được, đẹp đẽ sáng suốt, mọi căn hoàn toàn, không mọi tật khổ.

NGUYỆN LỚN THỨ BẢY

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo, Vô thượng Bồ đề, nếu những hữu tình, mắc mọi bệnh khổ, không ai cứu chữa, không chỗ nương thân, không người thân thiết, không cửa không nhà, bần cùng khốn khổ, một khi tên ta, nghe lọt vào tai, mọi bệnh đều hết, thân tâm yên vui, gia quyến tiền của, thảy đều phong túc, rồi tu đắc đạo, Vô thượng Bồ đề.

NGUYỆN LỚN THỨ TÁM

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo, Vô thượng Bồ đề, nếu có thân gái, thấy trăm nỗi xấu, bức bách khổ não, sinh lòng chán ngán, muốn bỏ thân gái, nghe tên ta rồi, thảy đều chuyển được thân gái thành trai, đủ tướng trượng phu, rồi tu đắc đạo, Vô thượng Bồ đề.

NGUYỆN LỚN THỨ CHÍN

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo, Vô thượng Bồ đề, khiến những hữu tình, thoát chài lưới ma, thoát được hết thảy, ngoại đạo ràng buộc; nếu lạc vào các, rừng rậm ác kiến, ta sẽ dắt dẫn, lên đường chính kiến, rồi tu tập dần mọi hạnh Bồ Tát; chóng chứng được đạo, Vô thượng Bồ đề.

NGUYỆN LỚN THỨ MƯỜI

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo, Vô thượng Bồ đề, nếu những hữu tình bị pháp luật bắt, trói buộc đánh đập, giam cầm lao ngục, hoặc bị tử hình, và còn rất nhiều, tai nạn khác nữa, lấn hiếp nhục nhã, lo sầu nung nấu, thân tâm chịu khổ, nếu mà được nghe, danh hiệu của ta, vì sức oai thần, phúc đức của ta, đều được giải thoát hết thảy lo khổ.

NGUYỆN LỚN THỨ MƯỜI MỘT

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo, Vô thượng Bồ đề, nếu những hữu tình, bị đói khát khổ, vì kiếm ăn mà, tạo mọi nghiệp ác, khi nghe tên ta, chuyên tâm trì niệm, thì ta hãy cho, ăn uống rất ngon, để no thân đã, rồi sau ta mới, cho ăn Pháp vị, để lập thành người, rốt ráo yên vui.

NGUYỆN LỚN THỨ MƯỜI HAI

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo, Vô thượng Bồ đề, nếu những hữu tình, nghèo không áo mặc, ruồi muỗi, bức rét, khổ suốt đêm ngày, khi nghe tên ta, chuyên tâm trì niệm, thì tâm muốn gì, liền được đủ thứ, áo mặc thật đẹp, được cả đồ dùng, quý báu trang nghiêm, đeo hoa ướp hương, âm nhạc múa hát, tùy tâm thích gì, đều được đầy đủ.

Ông Mạn Thù ơi, thế là mười hai, nguyện rất nhiệm mầu, của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác, khi Ngài còn đương, hành đạo Bồ Tát, Ngài đã phát ra.

Còn nữa, này ông Mạn Thù Sư Lợi, là những nguyện lớn, của Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ngài đã phát ra, khi Ngài còn đương, hành đạo Bồ Tát, và những công đức, trang nghiêm ở bên, cõi nước của Ngài, nếu ta nói ra, đến hết một kiếp, hay hơn một kiếp, cũng không hết được.

Nhưng có một điều: Ở nước Phật kia, một màu thanh tịnh, không có nữ nhân, không có ác thú, và những tiếng khổ; mặt đất thuần là ngọc phệ lưu ly; những thừng bằng vàng, chăng bên đường đi, thành khuyết, cung, các, hiên, cửa, mạng lưới, đều bằng thất bảo, cũng như thế giới, Cực Lạc phương Tây, công đức trang nghiêm, giống nhau không khác.

Trong nước có hai vị đại Bồ Tát: Một vị gọi là, Nhật Quang Biến Chiếu. Một vị gọi là, Nguyệt Quang Biến Chiếu, đứng đầu tất cả, vô số vô lượng, các vị Bồ Tát. Hai Ngài lần lượt, sẽ lên ngôi Phật, đều giữ vững được, kho báu Chính Pháp, của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.

Ông Mạn Thù ơi, bởi thế cho nên, những thiện nam tử, và thiện nữ nhân, có tín tâm rồi, thời nên phát nguyện, sinh sang thế giới, của Đức Phật kia.

Bấy giờ Thế Tôn, lại bảo Đồng Tử, Mạn Thù Sư Lợi: Này ông Mạn Thù, có những chúng sinh, chẳng biết thiện ác, chỉ ôm cái lòng, tham lam keo bẩn, chẳng biết bá thí, và những quả báo, về hạnh bá thí, ngu si không trí, thiếu mất tín căn, chứa nhiều của báu, cầu giữ lấy mãi, thấy kẻ xin đến, tâm họ chẳng mừng, khi bất đắc dĩ, họ phải bá thí, thì họ coi như, cắt miếng thịt họ, rất là đau tiếc. Lại có lắm kẻ, tham lam keo sẻn, tích trữ tiền của, đến ngay thân họ, còn chẳng tiêu dùng, huống lại dám cho, cha mẹ vợ con, tôi đòi sai khiến, và kẻ đến xin. Những hữu tình ấy, đến lúc mệnh chung, sinh làm ngã quỷ, hoặc làm bàng sinh, nhưng vì thuở xưa, ở đời từng được, tạm nghe danh hiệu của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nên đương khi ở, trong vòng ác thú, được tạm nhớ đến, danh hiệu của Ngài, ngay trong phút nghĩ, liền ra khỏi vòng, lại được làm người, nhớ được túc mệnh, sợ khổ ác thú, chẳng ham dục lạc, thích làm bá thí, và khen những người, hay làm bá thí; mình có những gì, đều không tham tiếc, dần dà đem cả, đầu mắt chân tay, máu thịt của mình, cho kẻ đến xin, huống còn tiếc gì, đến tài vật khác.

Còn nữa này ông, Mạn Thù Sư Lợi, nếu hữu tình, tùy theo Như Lai, nhận các chỗ học, mà phá thi la, lại có kẻ tuy chẳng phá thi la, mà phá quỹ tắc, kẻ giữ được cả, thi la, quỹ tắc, lại hủy chính kiến; lại có kẻ tuy chẳng hủy chính kiến, mà bỏ đa văn, chẳng thể hiểu rõ, nghĩa sâu trong kinh của Phật đã nói. Có kẻ đa văn, lại tăng thượng mạn vì tăng thượng mạn, che lấp tâm rồi, khen mình chê người, phỉ báng Chính Pháp, làm bạn với ma, người ngu như thế, tự mình đi vào, con đường tà kiến, lại còn làm cho, vô lượng ức triệu, hữu tình cùng theo, xuống hố hiểm sâu. Những hữu tình này, trôi quanh mãi mãi, trong vòng Địa ngục, Bàng sinh, Quỷ thú, nếu mà được nghe, danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, liền bỏ ác hạnh, tu mọi thiện Pháp, chẳng đọa ác thú, dù có kẻ nào, chẳng thể bỏ được, hết mọi ác hạnh, mà tu thiện Pháp, phải đọa ác thú, vì nhờ sức thần, bản nguyện của Phật, khiến họ hiện tiền, đã được tạm nghe, danh hiệu của Phật, họ sẽ thoát thân, nơi ác thú kia, lại được làm người, chính kiến tinh tiến, khéo điều hòa được, tâm ý yên vui, liền bỏ được nhà, đến chốn không nhà, chịu theo chỗ học, trong pháp Như Lai, không hề hủy phạm, chính kiến đa văn, hiểu nghĩa rất sâu, bỏ tăng thượng mạn, chẳng báng Chính Pháp, chẳng bạn với ma, dần dần tu hành, những hạnh Bồ Tát, chóng được vẹn tròn.

Còn nữa này ông, Mạn Thù Sư Lợi, nếu những hữu tình, sẻn tham ghen ghét, khen mình chê người, sẽ phải đọa vào, trong ba đường ác, mấy mươi nghìn năm, chịu mọi cực khổ, chịu cực khổ rồi, ở đấy mãn hạn, lại lên nhân gian, làm thân trâu ngựa, lừa và lạc đà, thường bị đòn đánh, đói khát khổ não, lại thường mang nặng, theo đường mà đi, hoặc được làm người, ở nơi hạ tiện, làm kẻ tôi đòi, bị người sai khiến, chẳng được tự tại, nếu xưa làm người, đã từng được nghe, danh hiệu Thế Tôn, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, bởi nhân lành ấy, nay lại nhớ đến, dốc lòng quy y, nhờ thần lực Phật, giải thoát mọi khổ, mọi căn thông lợi, trí tuệ đa văn, thường cầu Thắng Pháp, thường gặp bạn hiền, rứt hẳn lưới ma, đập vỡ cái xác, Vô minh bưng tối, gạn ròng phiền não, giải thoát hết thảy, sinh già bệnh chết, lo sầu khổ não.

Còn nữa này ông, Mạn Thù Sư Lợi, nếu những hữu tình, thích gây ngang ngược, đánh nhau kiện nhau, làm cho não loạn, cả mình cả người, đem thân, miệng, ý, tạo thêm mãi ra, bao nhiêu nghiệp ác, lần lượt thường làm, sự chẳng lợi ích, mưu hại lẫn nhau, đi gọi các thần, ở rừng ở núi, ở cây ở mả, rồi giết chúng sinh, lấy máu lấy thịt, cúng tế bọn quỷ, Dược xoa, La sát, viết tên kẻ thù, làm hình kẻ thù, làm bùa chú ác, để mà nguyền rủa; yểm bùa thành mị, nuôi trùng thành cổ, hô quỷ nhập vào, thây chết đứng dậy, sai đi giết hại, thân mệnh người ta; những hữu tình ấy, nếu mà được nghe, danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì ác sự kia, đều chẳng hại được; lần lượt hết thảy, đều khởi từ tâm, lợi ích yên vui, không còn có ý não hại hiềm thù, ai cũng vui mừng; mọi vật thụ dụng, tự cho là đủ, chẳng lấn của nhau, mà là cùng làm, lợi ích cho nhau.

Còn nữa này ông, Mạn Thù Sư Lợi, nếu có bốn chúng, Bật Sô, Bật Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca, và những tịnh tín, thiện nam thiện nữ, ai chịu giữ được, tám phần trai giới, hoặc suốt một năm, hoặc trong ba tháng, chịu theo chỗ học, để làm thiện căn, nguyện được sinh sang, thế giới Cực Lạc, ở bên phương Tây, đến chỗ Đức Phật Vô Lượng Thọ Quang, cầu nghe Chính Pháp, nhưng chưa quyết định, mà nếu được nghe, danh hiệu Thế Tôn, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời khi lâm chung, sẽ có tám vị, đại Bồ Tát là: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát, Vô Tận Ý Bồ Tát, Bảo Đàn Hoa Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, tám vị ấy sẽ, đi ở trên không, lại mà chỉ đường, tự nhiên thấy mình, hóa sinh ngay ở, bên thế giới kia, trong đám hoa báu, nhiều màu sắc đẹp.

Hoặc là nhân thế, được sinh lên trời, tuy sinh lên trời, mà căn lành cũ, cũng vẫn chưa hết, chẳng phải sinh vào, ác thú nào khác; trên trời tận số, thì xuống nhân gian, hoặc làm Luân vương, coi cả bốn châu, uy đức tự tại, giữ yên vô lượng, trăm nghìn hữu tình, ở trong thập thiện, hoặc sinh vào những, dòng Sát đế lị, dòng Bà la môn, Cư sĩ Đại gia, rất nhiều của báu, kho tàng đầy nất, hình tướng tốt đẹp, quyến thuộc đông đủ, thông minh trí tuệ, dũng kiện uy hùng, như đại lực sĩ.

Nếu là nữ nhân, được nghe danh hiệu, Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, dốc lòng trì niệm, thì sau chẳng phải làm thân gái nữa.

Còn nữa này ông, Mạn Thù Sư Lợi, khi Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đắc đạo Bồ đề, do sức bản nguyện, mà Ngài soi thấy, các loài hữu tình, mắc nhiều bệnh khổ, như là những bệnh, gầy còm, co quắp, khô héo, sốt vàng, hoặc bị trúng độc, ma mị trùng cổ, hoặc bị chết non, hoặc khi chết uổng. Ngài muốn khiến cho, những bệnh khổ ấy, đều được tiêu trừ, và có cầu gì, cũng được mãn nguyện, thời Ngài liền vào, cảnh Xa ma đề, gọi là cảnh Định, diệt hết khổ não, cho các chúng sinh.

Đã vào Định rồi, ở trong nhục kế, phóng đại quang minh, trong đại quang minh, diễn nói thần chú, Đại Đà la ni: “Nam mô Bạc già phạt đế bệ sái xã lũ rô, bệ lưu li, bát lạt bà, hát ra xà giã, đát đà yết đa gia, a ra hát đế. Tam diểu tam bột đà gia, đát diệt tha. Án, bệ sái thệ, bệ sái thệ, bệ sái xã, tam một yết đế sa ha”.
Khi trong quang minh, nói thần chú rồi, trái đất chấn động, phóng đại quang minh, hết thảy chúng sinh, bệnh khổ đều trừ, được vui yên ổn.

Ông Mạn Thù này! Thấy ai nam, nữ, nếu có bệnh khổ, thì nên nhất tâm, vì người bệnh ấy, tắm gội, súc miệng, sạch rồi tụng chú, một trăm tám lượt, vào một thức ăn, hoặc vào vị thuốc, hoặc vào nước lọc, không có vi trùng, rồi đem cho uống, thì bệnh khổ gì, cũng đều tiêu hết. Nếu có cầu gì, dốc lòng tụng niệm, cũng đều được cả; và lại còn được, sống lâu vô bệnh; sau khi mệnh chung, sinh sang cõi kia, được ngôi Bất thoái, cho đến tận khi, đắc đạo Bồ đề. Bởi thế cho nên, ông Mạn Thù ơi, nếu có nam tử, nữ nhân nào mà, dốc lòng tôn trọng, cung kính cúng dàng, Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nên thường trì chú, chớ để lãng quên.

Còn nữa này ông, Mạn Thù Sư Lợi, nếu có nam tử, nữ nhân tịnh tín, được nghe tất cả, danh hiệu của Ngài, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng, Chính Đẳng Giác, nghe rồi tụng trì; sáng sớm trở dậy, xỉa răng, tắm, gội, súc miệng thanh sạch, dâng các hoa thơm, hương đốt, hương bôi, và các âm nhạc, cúng dàng tượng Phật, đem kinh này ra, hoặc mình tự viết, hoặc bảo người viết, nhất tâm chịu nghe, chịu nhớ lấy nghĩa, đối với Pháp Sư, phải sắm hết thảy, các món cúng dàng, đủ để nuôi thân, thảy đều cấp cho, đừng để thiếu thốn; như thế liền được, chư Phật hộ niệm, cầu gì cũng được, và được cả đến, đạo quả Bồ đề…

Bấy giờ Đồng Tử, Mạn Thù Sư Lợi, bạch Đức Phật rằng: Lạy đức Thế Tôn, con thề đến khi, đời Tượng Pháp chuyển, con đem rất nhiều, các phép phương tiện, khiến người tịnh tín, thiện nam thiện nữ, được nghe danh hiệu, Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cả trong khi ngủ, cũng đem hiệu Phật, giác ngộ vào tai. Bạch Đức Thế Tôn, nếu ai thụ trì, đọc tụng kinh này, hoặc là diễn thuyết, khai thị cho người, hoặc tự mình viết, hoặc bảo người viết, hoặc là tôn trọng, cung kính kinh này, đem nhiều các thức, hương hoa, hương bột, hương đốt, hương bôi, tràng hoa, anh lạc, phướn lọng âm nhạc, để mà cúng dàng; lấy sợi ngũ sắc, làm túi đựng kinh, quét rửa chỗ sạch, thiết lập tòa cao, làm chỗ để kinh, bấy giờ sẽ có, bốn Đại Thiên Vương, cùng với quyến thuộc, và Thiên chúng khác, mấy mươi trăm nghìn, đều đến chỗ ấy, gìn giữ cúng dàng. Bạch Đức Thế Tôn: Nếu chỗ nào phát, kinh báu này ra, có người thụ trì, và nhờ công đức, bản nguyện của Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, được nghe danh hiệu, nên biết chỗ ấy, không còn có người, bị chết dữ dội, chẳng ai còn bị, bọn thần quỷ ác, hoạt mất tinh khí; ai bị đoạt rồi, lại được thân tâm, yên vui như cũ.

Đức Phật bảo Ngài, Mạn Thù Sư Lợi: Đúng thực như thế, đúng thực như thế! Ông nói đúng lắm! Ông Mạn Thù ơi, nếu có thiện nam, thiện nữ tịnh tín, mà muốn cúng dàng, Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, trước hết phải tạo, hình tượng của Ngài, lập tòa thanh tịnh, mà rước tượng lên, rắc các thứ hoa, đốt các thứ hương, dùng nhiều tràng phan, trang nghiêm chỗ ấy, bảy ngày, bảy đêm; chịu giữ được đủ, tám phần trai giới, ăn uống thanh tịnh, tắm gội sạch thơm, mặc áo thanh tịnh, tâm phải thanh tịnh, không chút vẩn đục, không chút giận dữ, não hại đến ai; đối với hết thảy, các loài hữu tình, phải khởi ra tâm, lợi ích yên vui, từ, bi, hỉ, xả, bình đẳng như nhau; đàn hát tán thán, nhiễu quanh tượng Phật, về bên tay hữu, lại phải nghĩ nhớ, công đức bản nguyện, của đức Phật kia, đọc tụng kinh này, suy nghĩ nghĩa kinh, rồi đem diễn thuyết, khai thị cho người.

Thế rồi tùy muốn, cầu gì cũng được: cầu sống lâu, được sống lâu; cầu giàu có, được giàu có; cầu quan chức, được quan chức; cầu con cái, được con cái.

Hoặc có người nào, bỗng thấy mộng ác, những hình tướng ác, hoặc chim quái ác, ở đâu đến đậu, hoặc có lắm sự, quái ác hiện ra, ở ngay chỗ ở, người ấy nếu đem, các thức nhiệm mầu, cung kính cúng dàng, đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời những mộng ác, những hình tướng ác, những điềm chẳng lành, đều biến mất hết, chẳng làm hại được.

Hoặc có sợ hãi, tai nạn thủy hỏa, binh đao độc ác, cheo leo hiểm nghèo, voi dữ, sư tử, hùm, sói, gấu bi, rắn, rết, độc ác, sâu, bọ, muỗi, ruồi nếu hay dốc lòng, niệm Đức Phật kia, cung kính cúng dàng, thời sợ hãi ấy, thải đều giải thoát.

Nếu có nước khác, xâm lấn quấy rối, giặc cướp phản loạn, thì người cung kính, niệm Đức Phật kia, cũng đều giải thoát.

Còn nữa này ông, Mạn Thù Sư Lợi, nếu có những người, thiện nam thiện nữ, lòng tin chân tịnh, cho đến hết đời, chẳng thờ thần khác, chỉ dốc một lòng, qui Phật Pháp Tăng, chịu giữ cấm giới: hoặc năm giới, mười giới, bốn trăm giới Bồ Tát, hai trăm năm mươi giới Bậc Sô, năm trăm giới Bậc Sô Ni, nhưng hoặc ở trong, những chỗ thụ giới, có ai hủy phạm, sợ đọa ác thú, mà hay chuyên niệm, danh hiệu Phật kia, cung kính cúng dàng, thì quyết chẳng sinh, vào ba đường ác.

Hoặc có đàn bà, tới khi sinh nở, chịu rất đau khổ, mà hay dốc lòng niệm danh hiệu Phật, lễ bái tán thán, cung kính cúng dàng, thì mọi đau khổ, đều trừ diệt hết; đứa con sinh ra, thân phận đầy đủ, hình sắc tốt đẹp, ai thấy cũng mừng, nhanh nhẹn thông minh yên ổn ít bệnh, không bị phi nhân, đoạt mất tinh khí.

Bấy giờ Thế Tôn, bảo Át Nan rằng: Như ta khen ngợi, công đức của đấng Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đó là những chỗ, hành vi rất sâu, của các Đức Phật, khó hiểu suốt lắm, ông có tin không? Át Nan bạch rằng: Đại Đức Thế Tôn, con đối với kinh, của Phật đã nói, chẳng dám nghi hoặc, là vì lẽ sao? Vì rằng ba nghiệp: Thân, ngữ, ý của hết thảy chư Phật, đều thanh tịnh cả. Lạy Đức Thế Tôn, vừng nhật, nguyệt kia, làm rơi xuống được, núi Diệu Cao Vương, làm nghiêng đổ được, lời chư Phật nói, không có khác được.

Bạch Đức Thế Tôn, có những chúng sinh, tín căn chẳng đủ, nghe nói những chỗ, hành vi rất sâu, của các Đức Phật, mà nghĩ ra rằng: Làm gì chỉ niệm, một danh hiệu Phật, của Ngài Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, mà được ngay những, thắng lợi công đức, nhiều đến như thế! Vì chẳng tin thế, sinh ra phỉ báng, người đó ở chỗ, đêm dài tối mịt, mất hết lợi lạc, đọa các đường ác, chuyển mãi không cùng.

Phật bảo Át Nan: Những hữu tình ấy, nếu nghe danh hiệu, Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, dốc lòng trì niệm, chẳng sinh nghi hoặc, thì không khi nào, phải đọa ác thú.

Ông Át Nan ơi, đó là những chỗ, hành vi rất sâu, của các Đức Phật, rất khó tin lắm, rất khó hiểu lắm, mà nay ông chịu, tin được như thế, thời nên biết là, đều nhờ uy lực, của Phật Như Lai. Này ông Át Nan, hết thảy các bậc, Thanh Văn, Độc Giác, và các Bồ Tát, còn chưa đăng địa, đều chẳng tin hiểu, được đúng như thực, chỉ trừ một hạng, các vị Bồ Tát, Nhất sinh sở hệ. Ông Át Nan ơi, làm được thân người, đã là khó lắm; được biết kính tin, tôn trọng Tam Bảo, cũng là khó lắm; được nghe danh hiệu, Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời lại khó hơn.

Ông Át Nan ơi, những hạnh Bồ Tát, những phép phương tiện, những nguyện lớn lao, của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; nếu ta nói ra, suốt trong một kiếp, hay hơn một kiếp, thì kiếp mau hết, mà những hạnh nguyện, phương tiện của Ngài, vẫn không thấy hết.

Trong chúng bấy giờ, có đại Bồ Tát, tên là Cứu Thoát, liền từ chỗ ngồi, đứng dậy kéo áo, hở vai bên hữu, quỳ gối bên hữu, sát xuống tận đất, cúi mình chắp tay, mà bạch Phật rằng: Đại Đức Thế Tôn, khi Tượng Pháp chuyển, có những chúng sinh, bị nhiều hoạn nạn, làm cho khốn khổ, ốm lâu gầy mòn, chẳng ăn uống được, cổ ráo môi khô, thấy các phương tối, tướng chết hiện ra; cha mẹ thân thuộc, bạn bè quen biết, xúm quanh than khóc; thân người ốm kia, vẫn nằm nguyên đấy, mà thấy Sứ giả, của vua Diêm ma, dẫn thần thức mình, đến trước cửa tòa Pháp vương Diêm ma; những loài hữu tình, người nào cũng có một Thần Câu sinh, người ấy làm gì, tội hay là phúc, Thần đều chép đủ, rồi đem trình hết, cho vua Diêm ma; bấy giờ vua liền, xét hỏi người ấy, tính toán mọi việc, người ấy đã làm, theo chỗ tội phúc, ấy mà xử đoán. Lúc đó những người, thân thuộc quen biết, của người ốm ấy, nếu hay quy y, Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cho người ốm ấy, thỉnh các chúng Tăng, chuyên đọc kinh này, đốt đèn bảy từng, treo lá phướn thần, năm sắc nối mệnh, thần thức người ấy, hoặc có chỗ đó, mà được trở về, tự thấy rõ ràng, như trong giấc mộng; hoặc quá bảy ngày, hoặc hăm mốt ngày, hoặc băm nhăm ngày, hoặc bốn chín ngày, thần thức người ấy, khi được trở về, như chiêm bao tỉnh, tự mình nhớ biết được các quả báo, của các nghiệp thiện, và nghiệp bất thiện; vì tự chứng lấy, quả báo của nghiệp, nên chừa cho đến, khi mắc nạn chết, cũng chẳng dám làm, những nghiệp ác nữa. Vì thế cho nên, những người tịnh tín, thiện nam thiện nữ, đều nên trì niệm, danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, tùy sức mình mà, cung kính cúng dàng.

Bấy giờ Át Nan, hỏi Ngài Cứu Thoát: Bạch Thiện nam tử, cung kính cúng dàng, Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, phải nên thế nào; đèn phướn nối mệnh, nên làm thế nào? Ngài Cứu Thoát nói: Bạch Đại Đức, nếu có người ốm, muốn thoát bệnh khổ, nên vì người ấy, bảy ngày, bảy đêm, chịu giữ cho đủ, tám phần trai giới; nên tùy lực sắm, các thức ăn uống, và các đồ dùng, cúng Bậc Sô Tăng; đêm ngày sáu buổi, lễ bái hành đạo, cung kính cúng dàng, Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, tụng đọc kinh này, bốn mươi chín lượt, thắp bốn chín đèn, tạo bảy pho tượng, Đức Như Lai kia; trước mỗi vị tượng, để bảy ngọn đèn, mỗi một đèn sáng, to bằng bánh xe, suốt bốn chín ngày, không lúc nào tắt; làm một lá phướn, ngũ sắc và dài, bốn chín gang tay; phải đem phóng sinh, các loài cho đủ, bốn mươi chín thứ, thời có thể qua, tai nạn nguy ách, chẳng bị chết uổng, quỷ ác hãm hại.

Này ông Át Nan, lại còn như khi, các vua Quán đỉnh, và Sát đế lỵ, tai nạn khởi lên, như là những nạn, nhân dân tật dịch, nước khác lấn bức, trong nước phản nghịch, sao lạ mọc ra, Nhật thực Nguyệt thực, mưa gió trái mùa, đến mùa chẳng mưa, các vua Quán đỉnh, và Sát đế lỵ, bấy giờ đối với, hết thảy hữu tình, khởi tâm từ bi, tha những tù tội, theo phép cúng dàng, trước đã nói kia, cung kính cúng dàng, Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nhờ thiện căn ấy, và sức bản nguyện, của Như Lai kia, khiến cho cả nước, liền được yên ổn, mưa gió thuận thời, lúa cấy được mùa, hết thảy hữu tình, vô bệnh mừng vui, ở trong nước ấy, không có những thần, bạo ác Dược xoa, não hại hữu tình, những hình tướng ác, thảy đều biến mất; các vua Quán đỉnh, và Sát đế lị, sống lâu mạnh khỏe, vô bệnh tự tại, lợi ích đều tăng.

Này ông Át Nan, nếu các Hoàng hậu, Hoàng phi, Công chúa, Thái tử, Vương tử, Đại thần, Tể tướng, Thế nữ trong cung, các quan và dân, có mắc bệnh khổ, và ách nạn gì, cũng nên dựng cây, phướn thần năm sắc, thắp đèn tiếp sáng, phóng sinh các loại, rắc các thứ hoa, đốt các hương thơm, bệnh được khỏi hết, nạn đều giải thoát.

Bấy giờ Át Nan, hỏi ngài Cứu Thoát:
- Bạch thiện nam tử, tại làm sao mà, mạng người đã hết, có thể tăng thêm?
Ngài Cứu Thoát nói:
- Bạch Đại Đức, Ngài há chẳng nghe, Như Lai nói có, chín thứ chết uổng? Bởi vậy khuyên làm, đèn phướn nối mệnh, tu mọi phúc đức; vì tu phúc nên, hết đời thọ mệnh, chẳng mắc nạn khổ.
Át Nan hỏi rằng:
- Chín thứ chết uổng, ấy là những gì?
Ngài Cứu Thoát nói:
- Nếu những hữu tình, bệnh tuy nhẹ mà, không thầy không thuốc, không người trông nom, hay có gặp thầy, lại cho trái thuốc, thực chẳng đáng chết, mà phải chết uổng, lại tin các thầy, tà ma ngoại đạo, yêu nghiệt thế gian, nói nhảm họa phúc, sinh ra sợ hãi, tâm chẳng được yên, xem bói thấy xấu, giết nhiều chúng sinh, khẩn vái thần thánh, phụ ma quỷ lên, ban cho hạnh phúc, muốn mong sống thêm, vẫn chẳng thể được; ngu si mê hoặc, mê tín tà kiến, thành ra chết uổng, đọa vào địa ngục, không có ngày ra, như thế gọi là, một thứ chết uổng. Hai là kẻ bị, vương pháp xử tử. Ba là những kẻ, săn bắn chơi bời, say đắm tửu sắc, rông rỡ quá độ, bị loài phi nhân, đoạt mất tinh khí, thành ra chết uổng. Bốn là chết cháy. Năm là chết đuối. Sáu là chết vì, các loài ác thú, cắn chết ăn thịt. Bảy là chết vì, ngã xuống sườn núi. Tám là chết vì, trúng phải thuốc độc, bùa chú nguyền rủa, thây ma đứng dậy, các thứ sát hại. Chín là bị đói, bị khát khốn khổ, chẳng được ăn uống, mà phải chết uổng. Đấy là Như Lai, nói qua chín thứ, chết uổng như thế, còn nhiều vô số, các thứ chết uổng, nói sao cho xiết.

Lại còn đây nữa, này ông Át Nan, vua Diêm ma kia, chủ lĩnh giữ sổ, ghi tên thế gian, nếu những hữu tình, phạm những tội như: Bất hiếu ngũ nghịch, phá nhục Tam Bảo, hoại pháp vua quan, hủy cả tín giới, thì vua Diêm ma, tùy tội nặng nhẹ, xét mà xử phạt: Vì thế ta nay, khuyên những hữu tình, thắp đèn treo phướn, phóng sinh tu phúc, cho thoát khổ ách, chẳng gặp tai nạn. Bấy giờ trong chúng, có mười hai vị, Đại tướng Dược xoa, đều ngồi ở hội, ấy là các vị: Đại tướng Cung tì la, Đại tướng Phạt chiết la, Đại tướng Mê si la, Đại tướng An đễ la, Đại tướng Át nễ la, Đại tướng San để la, Đại tướng Nhân đạt la, Đại tướng Ba di la, Đại tướng Ma hổ la, Đại tướng Chân đạt la, Đại tướng Chiêu đổ la, Đại tướng Tỳ yết la. Mười hai vị này, Đại tướng Dược xoa, mỗi vị đều có, bảy nghìn Dược xoa, để làm quyến thuộc, đồng thời lên tiếng, mà bạch Phật rằng: Lạy Đức Thế Tôn, chúng con ngày nay, nhờ uy lực Phật, được nghe danh hiệu, Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chẳng còn có sợ, những nơi ác thú, chúng con bảo nhau, đều cùng một lòng, quy Phật, Pháp, Tăng, cho đến hết đời, thề xin gánh vác, hết thảy hữu tình, làm việc nghĩa lợi, nhiều ích yên vui; bất cứ chỗ nào: trong các thôn quê, thành thị làng nước, rừng cây vẳng lặng, mà có kinh này, ban phát đến nơi, rồi có người nào, thụ trì danh hiệu, Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cung kính cúng dàng, quyến thuộc chúng con, hộ vệ người ấy, khiến cho giải thoát, hết thảy khổ nạn, có cầu nguyện gì, đều được đủ cả; hoặc có ai cầu, thoát khỏi bệnh tật, ách nạn cũng nên, đọc tụng kinh này, lấy chỉ ngũ sắc, mà kết thành chữ, tên của chúng con, được như nguyện rồi, sau hãy cởi ra.

Bấy giờ Thế Tôn, khen ngợi các vị, Đại tướng Dược xoa. Ngài liền nói rằng: Hay lắm! Hay lắm! Tướng Đại Dược xoa, trong đoàn các ông, vì nhớ báo ân, Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thường nên cứ làm, như thế cho được, lợi ích yên vui, hết thảy hữu tình.

Bấy giờ Át Nan, bạch Đức Phật rằng: Lạy Đức Thế Tôn, pháp môn này, nên đặt tên là gì, và chúng con phải, phụng trì thế nào? Phật bảo Át Nan: Pháp môn này, gọi là pháp nói những công đức bản nguyện, của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; cũng gọi là pháp, nói những thần chú, kết nguyện của mười hai vị Thần tướng, lợi ích hữu tình; cũng gọi là pháp, bạt trừ hết thảy, mọi thứ nghiệp chướng; nên phụng trì đúng, những nghĩa như thế.

Khi Bạt Già Phạm, nói lời ấy rồi, các đại Bồ Tát, và đại Thanh Văn, Quốc vương, Đại thần, Bà la môn, Cư sĩ, Thiên, Long, Dược xoa, Kiện thát phạ, A tố lạc, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già, Nhân và Phi nhân, hết thảy đại chúng, nghe lời Phật nói, đều cả vui mừng, tin chịu vâng làm.
KINH DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI BẢN NGUYỆN CÔNG ĐỨC (Xong)

BÀI TÁN CHUNG

Hải hội Dược Sư, sáng rực thần quang, tám vị Bồ Tát giáng cát tường, bảy vị Phật tuyên dương, nhật nguyệt hồi quang, ban phúc thọ an khang.
Dược Sư Phật, Dược Sư Phật.
Tiêu tai Duyên thọ Dược Sư Phật.


BÀI TÁN NHIỄU ĐÀN

Mười hai Đại tướng Dược xoa, giúp Phật tuyên truyền, chỉ ngũ sắc kết thành tên, cầu nguyện được chu viên, rửa sạch oan khiên, phúc thọ khang vẹn tuyền.

Nam mô Bạt già phạt đế, bệ sái xã lũ rô, bệ lưu ly bát lạt bà, hát ra xà giã, đát đà yết đa gia; a ra hát đế, sam diểu sam bột đà gia, đát điệt tha; án, bệ sái thệ, bệ sái thệ, bệ sái xã, sam một yết đế sa ha.


Giải kết, giải kết, giải oan kết,
Nghiệp chướng bao đời đều giải hết.
Rửa sạch lòng trần phát tâm thành kính,
Đối trước Phật đài cầu giải kết.
Dược Sư Phật, Dược Sư Phật.
Tiêu tai Duyên thọ Dược Sư Phật,
Tùy tâm mãn nguyện Dược Sư Phật.
Nam mô Tiêu Tai Duyên Thọ Dược Sư Phật. (3 lần)


BÀI NIỆM PHẬT

Mười hai nguyện lớn, Giáo chủ Đông phương.
Bốn chín đèn soi sáng đàn trường.
Bảy bảy đức chân thường, lễ bái tán dương.
Hết tai nạn được thọ trường.
Nam mô Dược Sư Hải Hội Phật Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam mô Tiêu Tai Duyên Thọ Dược Sư Phật. (1 tràng)
Nam mô Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát. (10 lần)
Nam mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát. (10 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (10 lần).


KINH TÂM YẾU

Nói về phép BÁT LẠT NHÃ BA LA MẬT ĐA
(PRASNA PARAMITA)

Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát
Tu hành tinh thâm phép
Bát lạt nhã Ba la mật đa
Thời Ngài soi thấy năm Uẩn
Đều không độ thoát hết thảy
Mọi sự khổ ách.
Xá Rị Tử ơi, sắc chẳng khác không
Không chẳng khác sắc,
Sắc tức là không,
Không tức là sắc, thụ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế.
Xá Rị Tử ơi, cái tướng chân
Không của các Pháp ấy,
Chẳng sinh chẳng diệt,
Chẳng bẩn, chẳng sạch,
Chẳng thêm chẳng bớt.
Bởi thế cho nên trong chân không ấy,
Không có sắc thụ tưởng, hành và thức;
Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý;
Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Nó cũng không có từ nhãn thức giới đến ý thức giới. Cũng không có từ chi vô minh, đến chi lão tử. Cũng lại không có từ vô minh tận đến lão tử tận. Không có khổ, tập, không có diệt, đạo, cũng không có trí cũng không có đắc, vì không có chi là sở đắc cả. Các vị Bồ Tát y vào Bát nhã Ba la mật đa, nên tâm các Ngài không hề quải ngại.
Vì không quải ngại.

Nên không sợ hãi xa lìa được hết mộng tưởng đảo điên.

Đi thẳng đến nơi Niết Bàn rốt ráo. Chư Phật ba đời y vào Bát nhã Ba la mật đa, nên mới chứng được A Nut Ta Ra, Sam Da Sam Bồ Đề.

Vậy biết Bát nhã Ba la mật đa là chú đại thần, là chú đại minh, là chú vô thượng, là chú vô đẳng đẳng trừ hết mọi khổ, đúng thực chẳng sai. Nên lại nói cả bài chú Bát nhã Ba la mật đa. Bài chú ấy là: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề sa bà ha”.

Ma ha Bát nhã Ba la mật đa. (3 lần)


CHÚ KIẾT TƯỜNG

Nguyện chú kiết tường dạ kiết tường,
Trú dạ lục thời hằng kiết tường,
Nhất thiết thời trung kiết tường giả,
Nguyện chư Thượng Sư ai nhiếp thọ.

Nguyện chú kiết tường dạ kiết tường,
Trú dạ lục thời hằng kiết tường,
Nhất thiết thời trung kiết tường giả,
Nguyện chư Tam Bảo ai nhiếp thọ.

Nguyện chú kiết tường dạ kiết tường,
Trú dạ lục thời hằng kiết tường,
Nhất thiết thời trung kiết tường giả,
Nguyện chư Hộ Pháp thường ủng hộ.

Nam mô Tăng Phước Thọ Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)


BÀI PHÁT NGUYỆN SÁM HỐI

Đệ tử chúng con từ vô thủy
Gây bao tội ác bởi lầm mê.
Đắm trong sanh tử đã bao lần,
Nay đến trước đài Vô thượng giác
Biển trần khổ lâu đời luân lạc
Với sinh linh vô số điêu tàn
Sống u hoài trong kiếp lầm than.
Con lạc lõng không nhìn phương hướng
Đàn con dại từ lâu vất vưởng
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng
Xin hướng về núp bóng từ quang
Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước
Bao tội khổ trong đường ác trược
Vì tham, sân, si, mạn gây nên
Con hôm nay giữ trọn lời nguyền
Xin sám hối để lòng thanh thoát
Trí tuệ quang minh như nhật nguyệt
Từ bi vô lượng cứu quần sinh
Ôi từ lâu, ba chốn ngục hình
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi
Theo gót Ngài vượt qua khổ ải
Thuyền từ bi vượt bể ái hà
Nhớ lời Ngài bờ giác không xa
Hành thập thiện cho đời tươi sáng
Bỏ việc ác để đời quang đãng
Đem phúc về gieo rắc phàm nhân
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng
Con nguyện được sống đời rộng rãi
Con niệm Phật để lòng nhớ mãi,
Hình bóng người cứu khổ chúng sinh
Để theo Ngài trên bước đường lành
Chúng con khổ nguyện xin cứu khổ
Chúng con khổ nguyện xin tự độ
Ngoài tham, sân, si, hận ngập trời
Phá si mê trí tuệ sáng ngời
Con nhớ đức Di Đà lạc quốc
Hư không kia quyết có ngày thay
Lòng thề nguyện hằng ngày vâng giữ
Đệ tử và tất cả chúng sinh
Đồng phát nguyện Phật đạo viên thành.


HỒI HƯỚNG

Phúng kinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện Pháp giới chư chúng sinh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sái.

Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chân minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ Tát đạo.

Nguyện sinh Tây phương Tịnh Độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh
Bất thoái Bồ Tát vi bạn lữ.

Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng sinh
Giai cộng thành Phật đạo.


TAM TỰ QUY Y

Con tự quy y Phật rồi,
Cầu cho hết thảy muôn loài chúng sinh,
Đều hiểu thấu rõ rành đạo cả,
Lòng Bồ Đề rộng mở từ đây. (1 lễ)

Con tự quy y Pháp rồi,
Cầu cho hết thảy muôn loài chúng sinh,
Hiểu thấu hết nghĩa Kinh, Luật, Luận,
Trí tuệ như bể lớn khôn lường. (1 lễ)

Con tự quy y Tăng rồi,
Cầu cho hết thảy muôn loài chúng sinh,
Tu sửa hết việc mình việc chúng,
Không hề còn chút chướng ngại chi. (1 lễ)

Nguyện trước Chư Phật Thánh Hiền,
Con xin đem hết mọi duyên phúc này,
Cầu cho khắp cả muôn loài,
Đều cùng thành Phật con nay ơn nhờ.
Sửa lần cuối bởi Như ý Cát Tường vào ngày 24/10/14 21:04 với 1 lần sửa.


Sau các Phật diệt độ
Nếu người lòng lành dịu
Các chúng sanh như thế
Đều đã thành Phật đạo.
(Trích Kinh Pháp Hoa)
Như ý Cát Tường
Bài viết: 499
Ngày: 13/03/13 20:24
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Được cảm ơn: 1 time

Re: KINH DƯỢC SƯ

Bài viết chưa xem gửi bởi Như ý Cát Tường »

Tiểu sử dịch giả Bồ Tát Tuệ Nhuận


Cư sĩ Văn Quang Thùy sinh ngày 17 tháng 3 năm Đinh Hợi 1887, tại tỉnh Hải Dương, thân phụ là cụ Văn Đức Khiêm. Thuở nhỏ, ông theo học chữ Hán. Người ta kể lại rằng ông chăm học, không lúc nào rời cuốn sách, đến nỗi trong xóm có vụ cháy nhà, mọi người đổ xô đi coi, ông vẫn ngồi yên học.

Sau khi việc thi cử bằng chữ Hán bị bãi bỏ, ông quay sang học tiếng Pháp và thi đỗ làm Thông phán tại Nha quan thuế Hà Nội.

Năm 1928, cụ thân sinh thất lộc, ông suy tư về kiếp sống vô thường, bắt đầu tìm hiểu và nghiên cứu kinh điển đạo Phật. Bẩm tính thông minh, lại thêm có vốn Hán học vững vàng, ông thâm nhập giáo lý Phật đà một cách nhanh chóng và uyên thâm, trở nên một cư sĩ Phật tử thuần thành.

Thời bấy giờ, sách báo thuộc loại tân thư như phong trào chấn hưng Phật giáo ở Trung Hoa và Nhật Bản thâm nhập vào nước ta qua đường dây của thương nhân Hoa kiều đã tác động vào tư tưởng của giới trí thức cựu học và các vị tôn túc Phật giáo Việt Nam. Do đó, phong trào chấn hưng Phật giáo ở trong nước cũng được khởi động khắp nơi. Đi tiên phong cho phong trào là Phật giáo Nam kỳ với các Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học, Hội Lưỡng Xuyên Phật học, Hội Phật học Kiêm tế; rồi đến Trung kỳ với Hội An Nam Phật học. Các hội này hoạt động rất mạnh, mở nhiều Phật học đường đào tạo Tăng Ni, xuất bản báo chí để phổ biến giáo lý Phật đà và tuyên truyền vận động cho phong trào ấy.

Hòa cùng nhiệt tình và nguyện vọng của đồng đạo Nam, Trung; các Hòa thượng Trí Hải, Mật Ứng, và Tâm Bảo cùng với nhà văn Sở Cuồng Lê Dư triệu tập một cuộc họp tại chùa Quán Sứ ở Hà Nội, có sự tham dự của chư tôn đức trong hàng giáo phẩm và các vị trí thức tên tuổi ở thủ đô như các ông Nguyễn Hữu Kha, Nguyễn Năng Quốc, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Cung Đình Bính, Trần Văn Giáp, Văn Quang Thùy, Nguyễn Can Mộng, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Văn Tố, Dương Bá Trạc, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Vĩnh v.v... Hội nghị đồng ý thành lập một tổ chức đặt tên là “Bắc Kỳ Phật Giáo hội” do ông Nguyễn Năng Quốc làm Hội trưởng. Cư sĩ Văn Quang Thùy và ông Nguyễn Văn Minh được cử làm Phó thư ký.

Từ đó, ông dành nhiều thời gian ngoài giờ công vụ, hoạt động cho phong trào chấn hưng Phật giáo trên miền Bắc. Ngoài việc tham gia giảng dạy giáo lý ở các trường Gia giáo của các chùa và các Phật học đường của Hội, ông còn đi giảng kinh cho đồng bào Phật tử tại chùa Quán Sứ, chùa Hòe Nhai và các chùa nhỏ quanh vùng Hà Nội. Chẳng những ở Hà Nội, mà các chùa ở tỉnh xa như Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng cũng thường mời ông đến giảng pháp, ông đều vui vẻ đáp ứng.

Mùa xuân năm Canh Thìn 1940, một phái đoàn Tăng sĩ Trung Hoa sang thăm Việt Nam, trong đó có hai Pháp sư Thái Hư và Đế Nhàn. Với Pháp sư Thái Hư, tuy đây là lần đầu tiên tới Việt Nam, nhưng pháp danh Ngài thì rất quen thuộc đối với Phật giáo Việt Nam trong mấy chục năm trước đó. Trong khi phái đoàn nghỉ tại khách sạn, Cư sĩ Văn Quang Thùy tìm đến cầu pháp tu thiền với Pháp sư Thái Hư. Pháp sư liền nói : “Tôi thấy Việt Nam toàn tu Tịnh độ, cư sĩ nên vâng theo”.

Sau đó, Pháp sư trao giới Bồ Tát cho ông, ban pháp danh là Tuệ Nhuận và tặng một mảnh giấy có hai câu thơ để làm kỷ niệm:

Nhập Như Lai tạng
Văn tự Quang minh Thùy vũ trụ
Phật ngôn Tuệ trạch Nhuận sinh linh.
Thời tại Canh Thìn niên xuân
Tam nguyệt nhị thập lục nhật
Lữ Hà Nội – Thái Hư

Từ năm 1935, ông xin nghỉ việc, dành trọn thời giờ để phụng sự Tam bảo. Ông đã dịch rất nhiều kinh sách bằng chữ Hán sang tiếng Việt. Kinh A Di Đà, Kinh Dược Sư, Kinh Hoa Nghiêm phẩm Phổ Hiền mang tên ông vẫn đang được lưu hành cho đến nay.

Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và mặt trận Hà Nội vỡ năm 1947, các hoạt động của Phật giáo ngưng trễ khắp nơi. Đến năm 1949 các Tăng sĩ và Cư sĩ mới lần lượt tập họp lại để thành lập Hội “Tăng Ni Chỉnh Lý Bắc Việt” và Hội “Việt Nam Phật giáo” tại chùa Quán Sứ và Hội “Phật tử Việt Nam” tại chùa Chân Tiên.

Về Hội “Phật tử Việt Nam” ở chùa Chân Tiên có sự đóng góp tích cực của Cư sĩ Văn Quang Thùy. Hội thường tổ chức diễn giảng tại chùa Chân Tiên, trong số các diễn giả có cư sĩ Văn Quang Thùy. Hội còn thành lập Ban Hoằng kinh để xuất bản các kinh sách Phật giáo, đặt trụ sở tại số 56 phố Hàng Trống, Hà Nội. Nhân dịp này hai bộ kinh lớn là Kinh Lăng Nghiêm và Kinh Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp do ông phiên dịch ra quốc ngữ cũng được xuất bản.

Ngoài ra, ông đã cùng với các bạn đồng chí hướng xuất bản tờ bán nguyệt san Bồ Đề để phổ biến Phật học. Báo này ra số đầu vào ngày 22 tháng 4 năm 1949, báo quán tại số 108 đường Boret Hà Nội, do ông làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút. Báo xuất bản liên tục đến tháng 5 năm 1954, đất nước bị chia đôi mới đình bản. Trên các trang báo này, ông đích thân phiên dịch, chú giải luận Duy Thức Tam Thập Tụng, Thập Mục Ngưu Đồ và viết nhiều bài giáo lý căn bản giúp cho việc học Phật của đọc giả. Cộng tác với ông có nhiều cây bút vững vàng như Nguyễn Xuân Chữ, Lê Văn Giáp, Hồng Liên, Đế Châu, Vũ Đình Mẫn, Trì Dung, Thanh Vân, Lê Văn Lương v.v.... Đặc biệt cây bút vui trẻ Cát Tường Lan đã chinh phục được sự mến chuộng giới độc giả trẻ tân học. Cô đã khéo dùng các kiến thức khoa học để chứng minh và giảng dạy Phật pháp, khiến lập luận được sáng tỏ và đầy thuyết phục.

Sau hiệp định Genève 1954, Cư sĩ Tuệ Nhuận-Văn Quang Thùy vào miền Nam, xin xuất gia làm đệ tử của Hòa thượng Thích Thiện Hòa. Từ đó ông lấy việc chuyên tu làm chính.

Ông mất năm Đinh Mùi 1967 tại Sài Gòn, hưởng thọ 80 tuổi, để lại cho kho tàng kinh sách Phật học Việt Nam nhiều tác phẩm dịch thuật giá trị.
Sửa lần cuối bởi Như ý Cát Tường vào ngày 24/10/14 21:06 với 1 lần sửa.


Sau các Phật diệt độ
Nếu người lòng lành dịu
Các chúng sanh như thế
Đều đã thành Phật đạo.
(Trích Kinh Pháp Hoa)
kennetsaron
Bài viết: 1
Ngày: 23/12/14 02:44
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: fgkijsd

Re: KINH DƯỢC SƯ

Bài viết chưa xem gửi bởi kennetsaron »

Very pleased to enter into your home.


Whiterose1
Bài viết: 1
Ngày: 07/01/15 22:48
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: aaaaaa

Re: KINH DƯỢC SƯ

Bài viết chưa xem gửi bởi Whiterose1 »

Lúc bấy giờ, đức Phật đang an trú tại vườn Anathapindika (Cấp Cô Độc), trong công viên Jeta (Kỳ Viên) gần thành Shravasti (Xá Vệ). Khi ấy, có một vị nữ cư sĩ tên Gangottara rời nơi cư ngụ của bà ở Shravasti đến gặp đức Phật. Bà cung kính đảnh lễ dưới chân đức Phật, rồi lui qua một bên và ngồi xuống.


_______________
You can join us for best ccna study materials dumps cisco ccna exam questions - pass-4sure oracle training solutions. Our network+ practice test contains all those you want to pass for real


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.21 khách