KINH ĐẠI THỪA KIM CANG

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI THỪA KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CÁC TỘI NGHIỆP – QUẢ BÁO
Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật : Hoặc có kẻ thiện nan, tín nữ căn tánh chậm tối, phước đức ít ỏi, tuy tin Phật tu hành mà trong lòng không sáng tỏ, công phu chưa tròn làm sao đặng độ mình và độ người?
Phật nói : Căn tánh tuy là chậm tối mà có tín tâm bền chặt , chân thật, chẳng bỏ trai giới, thường thường phát nguyện sám hối các tội trước, chẳng dám sai lầm, về sau đến chừng tai nạn, nghiệp chướng tan hết, lòng nguyện đủ rồi thì có huệ tánh phát ra hiện tiền, đặng sáng suốt tỏ ngộ thấy đặng tánh mình và đặng thành Phật.

Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Chúng sinh thấy Phật chẳng lạy, nghe pháp chẳng tin, gặp tăng chẳng kính, hủy báng người lành, phá người ăn chay giữ giới, chẳng tin nhân quả, khinh dể thánh hiền, lại tin tà quỷ, tạo nghiệp mãi mãi chẳng tu một chút lành, những người như vậy sau bị quả báo chi?
Đức Phật nói: Những chúng sanh đó đầy đủ tà kiến , hiện đời chẳng tin Tam bảo giáo hóa, sau chết quyết đọa tam đồ, chịu các khổ não lớn , cầu thoát ra chẳng đặng, dầu có ngàn Phật ra đời cũng không thể cứu độ đặng.

Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Hết thảy tội nghiệp, nghiệp nào lớn hơn hết?
Thế Tôn nói :
1) Thứ nhứt trong tội sát sanh ăn thịt, tội nghiệp rất nặng. Cớ sao vậy? như cắt một dao trả lại một dao, giết một mạng phải thường lại một mạng, trăm ngàn muôn đời ăn thịt lẫn nhau không dứt, cho nên người tu muốn khỏi luân hồi trả quả , thời trước hết phải học từ bi, chẳng ăn thịt , chẳng sát sanh.
2) Thứ hai : phạm tội trộm cắp, lấy của người giàu sang, hoặc vốn ít lời nhiều, trong ngàn muôn đời phải trả nợ. Cớ sao vậy? Như vật của người chẳng cho mà mình lấy ngang, một đồng tiền, một nắm gạo , kiếp sau đều phải trả nợ. Cho nên người tu muốn cầu giàu sang của tiền như ý mình thì trước phải bố thí mới đặng , hà huống trộm cắp của người.
3) Thứ ba : phạm tôi dâm dục, cái ái ân buộc ràng trong ngàn muôn đời chẳng đặng giải thoát. Cớ sao vậy? Vì dâm dục là hột giống, cội gốc đường sanh tử, cho nên người tu muốn ra khỏi sanh tử , trước phải đoạn trừ ái dục.
4) Thứ tư: phạm tội vọng ngữ, cái khẩu nghiệp nói dối trong ngàn muôn đời , phải, trái chống nhau, gạt nhau việc không nói có, việc có nói không. Cớ sao vậy? Oan oan tương báo, đời đời đền trả, cho nên người tu muốn cầu vào đạo trước phải học thành thật, trừ bỏ việc dối trá.
5) Thứ năm: Phạm tội uống rượu, làm hôn mê chân tánh, trong ngàn muôn đời tâm trí tối tăm. Cớ sao vậy? Vì tửu lực làm cho người mê muội, ngu si, thân thể nhơ nhớp, say sưa nghiêng ngả , cho nên người tu muốn cầu cho tâm tánh yên tịnh, trí huệ thông minh, thì phải dứt trừ cái nghiệp uống rượu.

Năm thứ nghiệp đó rất lớn, rất nặng, như người giữ trọn thì thành Thánh, bằng giữ chẳng trọn thì nhiều kiếp trầm luân đọa lạc. Hễ mất thân người muôn kiếp khó trở lại.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI THỪA KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

LỤC ĐẠO :

Cõi Trời
Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật : Tu phước nghiệp chi đặng sanh thiên đường?
Đức Phật nói : Nếu có chúng sanh tin theo nhân quả, thọ tam qui, ngũ giới, tu mười việc lành, hiếu dưỡng cha mẹ , dứt đoạn tà dâm, thường giữ chánh đạo, trai tăng cúng dường, tạo lập tịnh xá dâng cúng cho các vị chân thật tu hành giới đức trang nghiêm, bố thí phóng sanh, ấn tống kinh đại thừa, sơn phết hình tượng Phật rực rỡ, ủng hộ người lành, ngăn ngừa việc ác, gieo trồng ruộng phước, đến chừng mạng chung được sanh về cõi trời thứ ba mươi ba, thọ hưởng phước trời năm dục vui đẹp, tưởng ăn có ăn, tưởng mặc có mặc, đều là tự nhiên hóa ra , chẳng dụng sức người tạo tác. Trên trời một ngày, nhơn gian trăm năm, đầy đủ năm pháp thần thông, đặng khoái lạc tiêu diêu thong thả.
Đức Phật nói với Văn Thù Sư Lợi rằng :Trong thế gian có người tà sư ngoại đạo, chẳng biết việc lành, việc dữ nhơn quả ra sao, chẳng hiểu được sự ứng hiện của luân hồi quả báo, tâm cứ điên cuồng tin theo tà kiến, tôn thờ thần, quỉ , làm theo pháp tà mị phỉnh gạt người đời, giết hại bao nhiêu thân mạng, sanh linh: heo, dê, trâu, ngựa v v… tham ăn rượu thịt, bày đặt gọi là cúng tế trời đất, quỉ thần đặng cầu phước, cầu thọ , trấn giữ nhà cửa thân mạng, lấy cớ dâng cúng quỉ thần, lường gạt ăn của người, lại thêm vẽ bùa niệm chú truyền dạy người khác nói gạt rằng : Bùa chú này có năng lực độ người sanh về cõi trời ; mục đích chỉ vì ham muốn tài vật của người để nuôi dưỡng thân mạng, đều do tà kiến sanh ra.
Như giết mạng mà cứu được mạng thì vương hầu thường sống đời đời không chết. Như vẽ bùa niệm chú mà cứu độ đặng người thành đạo thời thầy tà đặng lên trời, có lẽ đâu như vậy? Trong đời người mê tin những tà mị, đồng dẫn nhau vào địa ngục. hễ mất thân người, muôn kiếp khó trở lại.
Cớ sao vậy? Cầu phước chẳng qua trai giới, bố thí. Cầu thọ chẳng qua giới sát, phóng sanh. Cầu huệ chẳng qua học rộng, nghe nhiều. Cầu an chẳng qua xét ngăn những việc phải quấy. Cho nên muốn cầu đạo chánh thì đừng tin thầy tà, muốn ra khỏi luân hồi thì đừng có phạm luật nhân quả. Bởi sự báo ứng của tội và phước như bóng theo hình, vì tà với chánh khác nhau, khổ và vui cách biệt.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI THỪA KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Ngạ quỉ
Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Tạo những nghiệp gì chịu quả báo làm ngạ quỉ?
Thế Tôn nói: Những chúng sinh ăn ở gắt gao, tiền của chẳng thí, tham mến ăn mặc, lường gạt lấy tiền của công đem thọ dụng riêng, có người nghèo khó xin ăn, một đồng chẳng thí, lại thêm mắng chửi , cứ lo cho mình ấm no, không thương người đói lạnh. Đến khi chết rồi quyết đọa trong đường ngã quỉ, chịu đói khổ mãi, cuống họng nhỏ như cây kim, nuốt ăn chẳng xuống , cái bụng lớn như cái trống, lớn như hòn núi. Thỉnh thoảng gặp đồ ăn uống , thì đồ ăn uống ấy hóa đồng sôi, sắt nóng, đói cho đến nỗi trong miệng ra lửa, lỗ mũi ra khói , hình thể ốm đen, đền đủ tội rồi mới hết nghiệp khổ.

Súc sanh:
Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Tạo những nghiệp gì đọa làm súc sanh?
Thế Tôn nói: Những chúng sinh tham ăn rượu thịt, giết hại cầm thú, bày tiệc ăn chơi, đờn ca vui sướng, nên phải trả quả làm súc sinh đền, thường mạng trước.
Lại có người vay mượn tiền bạc của người, đoạt lấy chẳng trả, quả báo làm súc vật, trả cái nợ cho người, trả hết cái nghiệp đó rồi mới hết nghiệp khổ.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI THỪA KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Người
Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Tu những phước nghiệp gì mà đặng làm người đàn ông?
Thế Tôn nói: Người biết cung kính Tam Bảo, thảo nuôi cha mẹ , thường làm mười việc lành, thọ trì năm giới, lòng ở công chánh (công bằng, chánh trực) quí mến người hiền lương. Tu những căn lành như vậy thời đặng làm đàn ông, nếu trong ba kiếp chẳng tu thời đọa làm đàn bà trong năm trăm năm được làm thân đàn ông một lần. Hoặc khi chuyển đổi cái thân, quên mất kiếp trước, gặp nhân duyên ác lại tạo ngiệp chẳng lành, quên mất thân đàn ông, muôn kiếp khó trở lại.
Lại nữa Văn Thù Sư Lợi, thân người đàn ông có đầy đủ bảy báu, thân người đàn bà có năm thứ lậu.
Sao tên là bảy báu ?
Một là cái báu có chí khí: đi dạo chơi chỗ nào cũng không lo sợ
Hai là cái báu làm chủ: Làm việc gì cũng được nắm giữ quyền hành.
Ba là cái báu tạo thành: tự mình hay sanh tài, lập nghiệp.
Bốn là cái báu an thân: Giúp vua, quan an thiên hạ, nuôi dưỡng cha mẹ.
Năm là cái báu Thánh Trí: xét đoán việc phải quấy.
Sáu là cái báu an bang: Nói ra lẽ phải, trên dưới đều nghe.
Bảy là cái báu định tánh: gần gũi người hiền, tôn thờ vị thánh.
Cho nên goi là người đàn ông trong mình có bảy báu.

Còn sao gọi là năm thứ lậu?
Một là chẳng đặng làm chủ cái thân
Hai là chẳng đặng làm chủ trong nhà
Ba là chẳng đặng làm chủ người khác.
Bốn là chẳng đặng làm chủ tài vật .
Năm là chẳng đặng làm chủ thánh nhơn.
Đây gọi là năm thứ lậu của người đàn bà.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI THỪA KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

A Tu La
Lại có người hay oán giận, tuy có phước đức cũng đọa a-Tu-La ác đạo. Bực trên là A-Tu-La vương, bực giữa là A Tu La dân, bậc dưới là a Tu La nữ. Loài này thường ham tranh đấu, chịu những lao khổ mãi mãi, một khi phước khí tiêu hết, tùy theo nghiệp luân hồi trả quả. Hễ một phen mất thân người, muôn kiếp khó trở lại.

Các nghiệp khác
Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Có người tuổi nhỏ tạo nhiều nghiệp dữ, đến khi già rồi mới tu hành, có đặng thành Phật không?
Đức Phật nói: Bể khổ không ngằn mé, nếu quay đầu thì thấy bờ bến sau lưng . Nếu có người hồi tâm phát nguyện tu hành, bỏ dữ làm lành, bỏ việc quấy, theo việc phải, trường trai, cữ rượu thịt, học hỏi chánh pháp thì bất kỳ già trẻ, nam nữ đều thành Phật đạo.

Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Có thiện nam, tín nữ một đời trai giới, gieo trồng các căn lành, đến già sa ngã, bỏ ăn chay , phạm giới cấm , sau bị quả báo chi?
Thế Tôn nói: Những chúng sanh như vậy tuy có căn lành mà không có nguyện lực lớn, không có chánh tri kiến, xa lìa thầy bạn, quên hết công lao khi trước tu hành, trở lại bị lục tặc lôi kéo, cướp đoạt công đức của mình, tâm sanh điên đảo không thành Phật đạo, đọa các đường sau:
1) Phạm việc ăn thịt , lạc vào thần đạo. Bực trên làm Quỉ vương, bực giữa làm dạ xoa, bực dưới làm la sát chịu ảnh hưởng của người cúng tế. Đến chừng phước khí tiêu hết , theo nghiệp luân hồi trả quả. Một phen mất thân người, muôn kiếp khó được lại.
2) Có người phạm tội uống rượu, thời đọa lạc về quỉ đạo. Bực trên làm tài quỉ. Bực giữa làm phong nguyệt quỉ, bực dưới làm tiêu tán quỉ. Phước hết, khí tiêu theo nghiệp luân hồi trả nghiệp, một phen mất thân người, muôn kiếp khó được lại.
3) Có người phạm dâm dục, thời lạc ma đạo. Bực trên làm ma vương, bực giữa làm ma dân, bực dưới làm ma nữ. Đến chừng phước khí tiêu hết, tùy nghiệp luân hồi trả quả. Một phen mất thân người, muôn kiếp khó được lại.
4) Phạm tôi trộm cắp đọa lạc vào tà ma. Bực trên làm Linh-Tinh, bực giữa làm yêu quái, bực dưới làm người tà. Khi tà khí tiêu hết, theo nghiệp luân hồi trả quả. Một phen mất thân người, muôn kiếp khó được lại.
5) Hoặc pham tội vọng ngữ, chưa đặng nói là đặng, chưa chứng nói là chứng, trong lòng tự cao nên phải đọa làm yêu tinh. Bực trên làm lỵ - mỵ, bực giữa làm vọng-lượng bực dưới thời phất phưởng gá nương cây cỏ. khi khí yêu tiêu hết, tùy nghiệp luân hồi trả quả. Một phen mất thân người, muôn kiếp khó được lại.

Nếu tu hành mà uống rượu mà muốn được thành đạo thì cũng như người uống thuốc độc mà muốn được an vui, không thể có được.
Nếu tu hành mà còn ăn thịt, muốn được thành đạo, cũng như người nhận kẻ oán thù là con của mình, muốn được thương yêu, không thể có được.
Nếu tu hành mà phạm tội trộm cắp , muốn được thành đạo cũng như lấy cái lu lủng đựng nước. muốn nước đầy mãi không thể được.
Nếu tu hành mà còn dâm dục, muốn được thành đạo cũng như nấu cát, muốn thành cơm, không thể có được.
Nếu tu hành mà chẳng dứt bỏ nói dối, lấy cái dối làm thiệt, muốn thành đạo cũng như thường dân mà xưng là quốc vương, muốn giàu sang không thể có được.
Nếu tu hành mà tâm hay giận hờn, tánh hay tranh hơn thua, thiếu lòng từ bi, bình đẳng mà muốn thành đạo cũng như đi chiếc ghe lủng, muốn qua biển lớn thì phải bị chìm. Tại nơi người muốn vậy nên phải bị đọa, chẳng phải Đức Phật chẳng cứu.

Nếu như muốn được cái kết quả tốt đẹp của đạo Bồ-Đề thì phải giữ gìn trai giới của đức Như Lai cho được thanh tịnh, thà là bỏ thân mạng, nhứt định không hủy phạm; Đức Phật nói người này chắc được thành Phật

Đức Phật nói cùng Văn Thù Sư Lợi rằng :
Ta từ chỗ phát tâm trai giới trong sạch mà đặng
Ta từ chỗ chân thật mãi mãi, không lui sụt mà đặng
Ta từ chỗ lập nguyện rộng lớn, nguyện ra khỏi thế gian mà đặng
Ta từ chỗ lập chí bình đẳng, chẳng luận bà con hay người dưng mà đặng.
Ta từ chỗ hạ tâm thấp hèn, cầu thầy chân chánh học hỏi mà đặng.
Ta từ chỗ Từ Bi, Nhẫn Nhục mà đặng
Ta từ chỗ tinh tấn, giải thoát mà đặng
Ta từ chỗ khó làm mà làm, khó bỏ mà bỏ, khó học mà học, cho đến
Ta cũng từ chỗ học hỏi hết thẩy các giống trí tuệ mà đặng.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI THỪA KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CẦU SIÊU
Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Như người ở đời không có trai giới hay làm phước bố thí cho đời. Sau khi chết rồi, có con cháu hiếu thuận hoặc trai hay gái, thỉnh thầy giới đức tinh nghiêm, trai tăng cúng dường cầu siêu độ cho vong linh, không biết vong linh có thể siêu độ đặng chăng?
Đức Phật nói: Nếu như người sanh tiền không tu phước thiện, chết rồi có con cháu làm công đức cầu siêu, bố thí bạc tiền thì mười phần công đức chỉ đặng ba phần. Cớ sao vậy ? vì lập công, làm phước không gì qua tiền bạc, của cải bố thí, nên người sống đem tiền bạc của mình trai tăng cúng dường, dâng tứ vật dụng trong chúng đồng phần thì người sống được phước lớn hơn người mất.
Còn như thỉnh nhằm thầy uống rượu, ăn thịt chẳng đặng trong sạch tụng kinh, Thiện thần chẳng giáng lâm, Phật thánh không đến trợ, lại vong linh ấy càng thêm tội lỗi.
Bằng như con có hiếu thuận chân chánh, cha mẹ chết rồi, trong mỗi tuần bảy ngày, cầu siêu bảy thất , hoặc trong ba năm, cả nhà ăn chay giữ giới, xuất tiền của trong sạch cầu thỉnh thầy tu hành đức hạnh, trai giới tinh nghiêm, cúng dường các đồ ăn trăm món, trái cây năm màu cùng tứ vật dụng như y , bát, giường, mùng, gối, nệm, chiếu, chăn, thau, chậu, khăn tay v v…thiết lập cỗ bàn nghiêm trang, xông hương, rải hoa y theo pháp cúng dường, có lòng thành kính thay thế cho vong hồn khỏi tội đặng phước. Nếu cầu siêu cúng dường như vậy vong linh mới đặng sanh lên cõi trời, người sống cũng đặng phước . Kẻ còn người mất đều an vui, người vui mừng, thần thánh cũng vui mừng như vậy mới thật là con cháu hiếu thuận.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI THỪA KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

BỐ THÍ BẢY BÁU
Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Sao kêu là một thân mà có bảy báu bố thí?
Đức Phật nói: Nếu chẳng tham là bố thí.
1) con mắt chẳng tham sắc tốt và các vật đẹp là sắc bửu bố thí
2) Lỗ tai chẳng tham nghe tiếng hay, đờn ca hát xướng là thanh bửu bố thí
3) Lỗ mũi chẳng ham ngửi hương thơm, vật lạ là hương bửu bố thí
4) Cái lưỡi chẳng tham vị ngon ngọt, bùi béo là vị bửu bố thí
5) Cái thân chẳng tham mặc quần áo tốt, chạm xúc êm dịu là xúc bửu bố thí
6) Ý chẳng tham danh lợi, yêu đương, dục tính là pháp bửu bố thí
7) Tánh chẳng tham những sự dục lạc thế gian là Phật bửu bố thí.

Bằng có người biết trong thân mình có bảy báu đem bố thí thì đặng phước đức hơn là đem bảy báu trong thế gian như kim, ngân, lưu ly, trân châu, mã não, san hô, hổ phách ra mà bố thí. Trăm ngàn muôn phần bố thí cũng chẳng bằng một phần, nhẫn đến không thể đem cái gì mà thí dụ, so sánh được.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI THỪA KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

VƯƠNG XÁ THÀNH
Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Sao kêu là Vương Xá Thành ?
Đức Thế Tôn nói:
- Cái tâm thí dụ là “ xá ”
- Cái tánh thí dụ là “Vương”
- Trai giới thí dụ “tường thành”
- Sáu căn thí du cho “sáu bộ quan lại”
- Sáu trần dụ cho “sáu mối giặc mạnh”
- Sáu thức dụ cho “Sáu cửa ra vào”
- Năm dục dụ cho năm con đường xấu, nhiều hầm hố
- Kiến, văn, giác, tri dụ cho “ bốn tướng phò tá Tánh Vương ”

Việc Vương xá thành cũng y như việc nhà, việc nước. Tánh vương ngồi ở chỗ Tâm xá, thường cùng sáu thần, bốn tướng bàn luận, nghị sự việc nước.

Như Tánh Vương có đạo có đức, chẳng vị tình riêng, có công thời thưởng, có tội thời phạt , lấy chánh lý hành đạo như vậy người chết cũng không oán hận. Hành chánh như vậy thì
• Bên ngoài Thành vách trai giới bền chắc, sáu cửa đóng kín, sáu giặc chẳng xâm phạm
• Bên trong thì sáu vị thần chân chánh, bốn tướng công bình , chẳng dám làm điều hư tệ
Trong ngoài như vậy thời tánh vương đặng thái bình.

Nếu như Tánh Vương không có đạo, nghe lời sàm tấu, thâu dụng nịnh thần , bỏ việc ngay, theo việc tư , thưởng phạt chẳng công bình, trên dưới nghịch lẫn.
• Bên trong sáu vị thần chống báng nhau, bốn tướng hư tệ
• Bên ngoài sáu cửa chẳng đóng, sáu giặc nổi loạn, công phá thành vách trai giới , vào trong nước, cướp đoạt hết công đức của Tánh Vương
Cái phước hết, cái pháp không còn, thân tâm sa ngã, chìm đắm mãi mãi .

Cho nên muốn trị thân thời phải có pháp luật, muốn trị tâm thời phải có đạo lý : nếu không công bình thời không làm, không chơn chánh thời không dùng, phải được trong ngoài giống nhau, trên dưới, quan dân không lỗi, chúa tôi phải đạo, tâm tánh sáng suốt thể dụng điều hòa thì Tánh vương, quan dân đều được thái bình vui vẻ, nên tên là “ Vương Xá Thành “


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI THỪA KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CÁC VẤN ĐỀ KHÁC

Tam bảo
Văn Thù Sư Lợi Bồ tát hỏi Phật :
- Thế nào là nhất thế tam bảo ?
Phật đáp :
- Tánh là Phật bảo, vì như như bất động.
- Tâm là Pháp bảo vì sáng suốt, quyết định.
- Thân là Tăng bảo vì trai giới thanh tịnh vậy.

Ba tịnh giới
Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật :
- Thế nào gọi là ba tịnh giới ?
Phật đáp :
- Thứ nhất bỏ hết ác tâm.
- Thứ hai đầy đủ thiện tâm.
- Thứ ba độ hết chúng sanh
Ấy là ba món tịnh giới của Bồ tát.

Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Sao gọi là Phật pháp của mình?
Thế Tôn nói:
Nếu hiểu rõ cái chân tánh của mình vốn có xưa nay tức là trong tâm có Phật.
Còn pháp thế gian và pháp xuất thế gian đều thông suốt chẳng lầm là trong thân có pháp.
Nên tâm cần có đạo lý nuôi dưỡng, Phật phải nhờ có giáo pháp phò trì .
Cho nên phẩm vật để nuôi dưỡng thân mạng, đạo lý để nuôi dưỡng huệ mạng.
Người nào ngộ đạo là thông suốt được đạo, tức là thành Phật.

Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Sao kêu là ba độc?
Đức Thế Tôn nói: Ngu si tà kiến là độc thứ nhất, tham lam chẳng biết đủ là độc thứ hai, sân nộ, tật đố là độc thứ ba. Ba độc này là hột giống cho ba đường dữ là địa ngục ngạ quỉ, súc sanh. Nếu ba độc này còn hoài thì người ấy phải đọa trong tam đồ, một khi mất thân người, muôn kiếp khó trở lại.

Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Sao kêu là tứ đại?
Thế Tôn nói: Đất có tánh cứng chắc, nước có tánh ướt, lửa có tánh nóng, gió có tánh động kêu là tứ đại. Trong thân người cũng có tứ đại hòa hiệp lại thành một thể: Da thịt, gân cốt hiệp thành cái thân là địa đại, nước miếng, nước tiểu, máu làm tươi nhuân cái thân là thủy đại, trong mình hơi ấm vận chuyển điều hòa cái thân là hỏa đại, chân tay co duỗi làm cho cái thân đi đứng tới lui là phong đại. Hễ tứ đại điều hòa thì cái thân an lạc, nếu như tứ đại chẳng hòa thì sanh bịnh khổ, nên địa ,thủy, hỏa, phong kêu là tứ đại.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI THỪA KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

BỒ - TÁT QUÁN – THẾ - ÂM

Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Quán -Thế - Âm Bồ-Tát sao lại có đến một ngàn con mắt, một ngàn cánh tay ?
Thế Tôn nói: Con mắt là biểu hiệu cho sự thấy được tự tánh của mình, cánh tay là biểu hiệu diệu dụng của tâm mình. Nếu như người nào hiểu được rốt ráo tự tánh của mình, thấy được tâm linh sáng suốt của mình, thì cũng đồng như một ngàn vị Phật minh tâm kiến tánh không khác. Như thế gọi là ngàn con mắt đồng phóng hào quang sáng ngời.
Lại tự tánh của mình phát sinh diệu dụng, cũng như công dụng nhiệm màu của ngàn vị Phật không khác, nên gọi là thiên thủ đồng tác động như Phật vậy. Cái thể và dụng hai pháp đều biểu lộ ra như thế thì gọi là “Viên Thông Giáo Chủ Quán-Thế-Âm Bồ-Tát”.


HIẾU THUẬN
Văn Thù Bồ-Tát hỏi Phật: Làm sao kêu là hiếu thuận?
Thế Tôn nói: Hiếu là lòng từ, thuận là chẳng nghịch chánh lý
Người có hiếu chẳng giết hại chúng sinh để nuôi sống mình.
Chẳng giữ lấy việc tư mà làm trái sự công bình
Tôn trọng Tam Bảo, kính trọng cha mẹ, chẳng sai chẳng dối, không yêu ghét riêng. Khuyên bảo trong nhà đồng tu phước huệ. Ở trong thì hòa thuận, ở ngoài thì cung kính. Cha mẹ hiện tiền thì an vui tâm thể, cha mẹ mãn số rồi đặng lìa tội khổ, đặng sanh cung trời, mới thiệt là thế gian nam, nữ hiếu thuận.
Còn như mỗi ngày sát sanh hại vật cúng dưng cha mẹ, ông bà là làm thêm tội nghiệp cho tổ tông. Thiệt người đại bất hiếu, hồi sống đồng tạo nghiệp, sau chết đồng đọa với cha mẹ, oan trái dẫn dắt nhau chung vào một chỗ, đồng đi luân hồi. hễ mất thân người , muôn kiếp khó trở lại.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI THỪA KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

HẢO TÂM
Văn Thù Bồ -Tát hỏi Phật: Sao kêu là hảo tâm ?
Thế Tôn nói: Hai chữ hảo tâm ít người làm đặng. Nếu có lòng hảo tâm, làm việc lợi ích cho người chẳng cần trả ơn. Làm việc giúp người chẳng cần quả báo, cúng dường cho người chẳng cần phước báo, làm ơn cho người chẳng cần ân báo, nhẫn đến hạ mình xuống làm cho lòng muốn của người được đầy đủ.
Khó xả bỏ mà xả bỏ đặng, khó nhịn mà nhịn đặng, khó làm mà làm đặng, khó cứu mà cứu đặng, chẳng luận bà con hay người dưng, lấy tâm bình đẳng cứu giúp làm đúng sự thật. chẳng phải miệng nói mà không thực hành.
Có người cái miệng nói hảo tâm mà lòng không làm từ thiện. Người tâm hiền thường làm những việc tốt mà miệng chẳng khoe khoang , trong ý chỉ nghĩ giúp ích cho người mà thôi, chẳng cần danh vọng cho mình, như vậy mới thật là hảo tâm. Không phải như những người bỏ ra có một tấc mà muốn lấy vô một thước, gieo giống ít mà muốn đặng trái nhiều. Như vậy đâu phải là hảo tâm.

PHƯƠNG TIỆN
Văn Thù Bồ -Tát hỏi Phật: Sao kêu rằng phương tiện?
Thế Tôn nói: Hai chữ phương tiện có nhiều nghĩa, nay ta lược nói đến có 15 nghĩa:
1) Phương tiện thứ nhất: chẳng nuôi, chẳng giết chúng sanh.
2) Phương tiện thứ hai: chẳng ăn thịt, uống rượu.
3) Phương tiện thứ ba: không nấu rượu.
4) Phương tiện thứ tư: Không xâm lấn hại nhau.
5) Phương tiện thứ năm: đừng chỉ lầm đường cho người.
6) Phương tiện thứ sáu: chẳng nên đốt rừng.
7) Phương tiện thứ bảy: đừng oán trách trời đất.
8) Phương tiện thứ tám đừng khinh khi thần thánh.
9) Phương tiện thứ chín: đừng nói những lời thô tục.
10) Phương tiện thứ mười:tích chứa nhơn nghĩa,ban bố phước đức.
11) Phương tiện thứ mười một: cần kiệm biết đủ, đừng tham lam.
12) Phương tiện thứ mười hai: kính người già cả, thương kẻ nghèo đói.
13) Phương tiện thứ mười ba: phải cứu giúp nhau khi có nạn.
14) Phương tiện thứ mười bốn:gieo nhân Bồ Đề quả Phật
15) Phương tiện thứ mười lăm: không có kẻ oán, người thân, bình đẳng tế độ như nhau.
Nếu người nào làm đặng mười lăm phương tiện này thì đặng mười lăm phước báo thanh tịnh. Thường sanh làm người hoặc đặng về cõi trời, hưởng những điều khoái lạc tiêu diêu.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI THỪA KIM CANG

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

NGƯỜI TRÍ, KẺ NGU, KẺ MÊ, NGƯỜI NGỘ
Văn Thù Bồ -Tát hỏi Phật: Sao gọi là người trí, sao kêu là người ngu? Sao kêu là người mê, sao kêu là người ngộ? xin Đức Phật từ bi giảng dạy.
Đức Phật nói:

Trí:
Chữ Trí là biết, người trí biết có đạo Phật cần phải tu, biết có thánh giáo cần phải học, biết có minh sư cần phải cầu, biết có phước cần phải làm, biết có tội cần phải sám hối cho đến biết rõ pháp thế gian, pháp xuất thế gian và sự luân hồi, quả báo như trên trời có mặt nhựt, như đêm tối có đèn. Được hiểu biết, được nghe, thấy sự báo ứng của việc lành, việc dữ. Hễ hiểu biết, nghe thấy rồi liền bỏ dữ theo lành, cải tà qui chánh, việc phi lý không bao giờ nói , ngoài phận sự không bao giờ làm, không phải đạo chánh không theo, không phải vật của mình không lấy , tư tưởng chơn chánh, mỗi mỗi chân thật, tích đức nêu danh lưu truyền đời sau . Như vậy gọi là người trí.

Ngu
Còn như ngu là tối, người ngu cái lòng tối tăm, chẳng biết cao thấp, lơn nhỏ, chẳng biết thiên đường, địa ngục, chẳng tin có tội, phước, luân hồi. Một bề tham luyến tửu sắc, sát sanh hại mạng đặng mà cung cấp cho miệng và bao tử. Trong một đời sát sanh trăm ngàn muôn súc vật, gây cái nợ oan trái trăm ngàn muôn ức tánh mạng, luân hồi gặp gỡ, ăn nuốt lẫn nhau, không biết bao giờ thôi dứt. Hết thảy trâu, bò, heo, dê, ngựa v v… đời trước đều là kẻ thân nhơn hoặc người thù oán , sau khi luân hồi thay hình đổi dạng làm súc sinh. Người si mê không biết, giết hại mà ăn cũng như giết cha mẹ của mình, hay ăn thịt bà con dòng họ của mình.Cha bị con giết, con bị cháu giết v v…trên đường luân hồi cha con chẳng biết nhau, giết nhau ăn thịt nhau không bao giờ dứt. Một khi mất thân người, muôn kiếp khó trở lại.


Người mê muội tham đắm tửu sắc, muốn được khoái lạc, buông lung sáu căn tham luyến sáu trần , tà mị nhiều cách, điên đảo đủ điều. Chỉ nhớ sự thọ dụng hiện tiền, không ngó lại thân sau chịu khổ, mê muội chơn linh, đuổi theo huyễn vọng bỏ xa tánh giác, phối hợp trần duyên . Ví dầu gặp bậc thánh hiền cũng không sao cứu độ đặng. Chìm sâu biển khổ, mất hẳn tánh linh , một khi đã vào luân hồi, muôn kiếp khó phục hồi đặng.

Ngộ
Chữ Ngộ là giác . người ngộ rồi tự hiểu biết tâm mình là Phật, mộ đạo tu hành , ba nghiệp không tạo , sáu căn thanh tịnh, đầy đủ phương tiện, không chấp ngã nhơn, độ người độ mình đều thành Phật đạo. Tuy ở thế gian mà chẳng nhiễm thế gian, ở trong trần lao mà chuyển đại pháp luân, giáo hóa cõi Ta-Bà thành Cực-Lạc, biến địa ngục thành thiên đường, chỉ dẫn những người mê đặng thấy Phật tánh, làm các việc Phật sự , độ thoát chúng hữu tình , chẳng bỏ lòng từ bi, thệ nguyện cứu độ tất cả. Nếu có chúng sinh nào biết cúng dường người này thì đặng phước đức như cúng dường chư Phật ba đời, công đức như nhau không khác. Vì sao vậy ? Vì mình giác ngộ rồi độ người đặng giác ngộ, thuyết pháp độ sanh, diệu dụng thần thông cùng Phật không khác, hay mở bày cho chúng sanh tri kiến của Phật, hay chỉ rõ cho chúng sanh tri kiến của Phật, hay dẫn dắt chúng sanh ngộ tri kiến như Phật , hay làm cho chúng sanh chứng nhập tri kiến của Phật.
Vì sao vậy ? Nếu có người nào đại ngộ thì đặng danh hiệu Bồ -Tát , đặng thông các pháp bí mật của Phật, chơn chánh truyền thọ cho người. Bằng có thiện nam, tín nữ nào đặng thấy, đặng nghe tin theo giáo pháp của người này chỉ dạy đều là chánh nhơn, đều đặng chánh quả.
Cho nên người còn nhỏ tu hành đặng chánh pháp liền thành Phật đạo, người 20 tuổi tu hành chánh pháp ấy cũng thành Phật đạo, người 30 tuổi, 40 tuổi, 50 tuổi, 60 tuổi, 70 tuổi, 80 tuổi tu hành chánh pháp ấy cũng thành Phật đạo. Thiện nam tử tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo, Thiện nữ nhơn tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo. Người giàu sang tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo, người nghèo khổ tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo, Đế vương tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo, Quan lại tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo, cho đến người và không phải loài người tu hành đặng chánh pháp cũng thành Phật đạo. Nên Thế Tôn nói bài kệ như vầy :

Nếu có nam hay nữ
Đặng gặp chơn minh sư
Tu hành đặng chánh pháp
Không ai chẳng thành Phật.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Đã khóa

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.13 khách