KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Đã thấy Vô Lượng Thọ Phật tỏ rõ phân minh rồi kế cũng nên quán Quán Thế Âm Bồ Tát.
Bồ Tát nầy thân cao tám mươi vạn ức na do tha do tuần, thân màu tử kim, đỉnh có nhục kế, cổ có viên quang mỗi phương diện đều trăm ngàn do tuần. trong viên quang có năm trăm Hoá Phật như Thích Ca Mâu Ni. Mỗi mỗi Hoá Phật có năm trăm Hóa Bồ Tát và vô lượng chư Thiên làm thị giả. Trong ánh sáng toàn thân hiện tất cả sắc tướng của chúng sanh trong ngũ đạo. Trên đỉnh có thiên quang bằng tỳ lăng gìa ma ni bửu. Trong thiên quang có một Hóa Phật đứng cao hai mươi lăm do tuần. mặt cúa Quan Thế Âm Bồ Tát như màu vàng diêm phù đàn. Lông trắng giữa hai mày đủ màu thất bửu chiếu ra tám vạn bốn ngàn thứ ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng có vô lượng vô số trăm ngàn Hóa Phật. Mỗi mỗi Hóa Phật có vô số hóa Bồ Tát làm thị giả biến hiện tự tại khắp thập phương thế giới. Cánh tay màu như hoa sen hồng có tám mươi ức ánh sáng vi diệu làm chuỗi đeo. Trong chuỗi đeo ánh sáng ấy khắp hiện tất cả trang nghiêm. Bàn tay màu năm trăm ức hoa sen đẹp. Bàn tay mười đầu ngón mỗi mỗi đầu ngón có tám vạn bốn ngàn lằn dường như ấn văn. Mỗi mỗi lằn có tám vạn bốn ngàn màu, mỗi mỗi màu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng, ánh sáng ấy mềm dịu chiếu khắp tất cả. Bồ Tát dùng tay báu nầy tiếp dẫn chúng sanh. Lúc Bồ Tát cất chưn lên, dưới lòng bàn chưn có tướng thiên bức luân tự nhiên hóa thành năm trăm ức đài quang minh. Lúc để chưn xuống có hoa kim cương ma ni rải rác tất cả không chỗ nào là chẳng đầy khắp. Các tướng khác nơi thân Bồ Tát đầy đủ những hình hảo như thân Phật không khác, chỉ có nhục kế trên đỉnh và vô kiến đảnh tướng chẳng bằng Thế Tôn. Đây là tướng sắc thân chơn thiệt của Quan Thế Âm Bồ Tát gọi là quán pháp thứ mười. Nếu người muốn thấy Quan Thế Âm Bồ Tát nên tu quán ấy. Tu quán ấy thì chẳng gặp các tai họa, trừ sạch nghiệp chướng, trừ tội sanh tử trong vô số kiếp. Quan Thế Âm Bồ Tát ấy chỉ nghe danh hiệu còn được phước vô lượng huống là quán kỹ. Nếu người muốn quán Quan Thế Âm Bồ Tát thì trước quán nhục kế sau quán thiên quang. Các tướng khác cũng theo thứ tự mà quán kỹ đều phải tỏ rõ như nhìn trong bàn tay. Quán như đây gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán.
Kế đó quán Đại Thế Chí Bồ Tát. Bồ Tát nầy thân tượng lớn nhỏ đều đồng như Quan Thế Âm Bồ Tát. Viên quang mỗi mặt đều một trăm hai mươi lăm do tuần chiếu hai trăm năm mươi do tuần. Ánh sáng toàn thân chiếu thập phương quốc độ màu tử kim. Chúng sanh có duyên thảy đều được thấy. Chỉ thấy ánh sáng một lỗ chân lông của Bồ Tát nầy liền thấy quang minh tịnh diệu vô lượng chư Phật mười phương, vì vậy nên đặt hiệu Bồ Tát nầy là Vô Biên Quang. Dùng ánh sáng trí huệ chiếu khắp tất cả khiến lìa tam đồ được vô thượng lực nên Bồ Tát nầy có tên là Đại Thế Chí.
Thiên quang của Đại Thế Chí Bồ Tát có năm trăm hoa báu, mỗi mỗi hoa báu có năm trăm đài báu, trong mỗi mỗi đài, tướng dài ngắn của quốc độ thanh tịnh vi diệu chư Phật mười phương đều hiện rõ. Nhục kế trên đỉnh như hoa bát đầu ma, trên nhục kế có một bình báu đựng các ánh sáng khắp hiện Phật sự. Các thân tướng khác như Quan Thế Âm không khác.
Lúc Đại Thế Chí Bồ Tát đi, thập phương thế giới tất cả chấn động. Đương lúc đất động có năm trăm ức hoa báu, mỗi mỗi hoa báu trang nghiêm cao rõ như Cực Lạc thế giới. Lúc Bồ Tát nầy ngồi, quốc độ thất bửu đồng thời dao động. Từ hạ phương Kim Quang Phật thế giới nhẫn đến thượng phương Quang Minh Vương Phật thế giới, trong khoảng giữa ấy vô lượng vô số phân thân Vô Lượng Thọ Phật, phân thân Quan Thế Âm Bồ Tát, phân thân Đại Thế Chí Bồ Tát thảy đều vân tập Cực Lạc thế giới chật đầy hư không ngồi tòa liên hoa diễn nói diệu pháp độ khổ chúng sanh. Tu pháp quán nầy gọi là quán thấy Đại Thế Chí Bồ Tát. Đây là quán thấy tướng sắc thân thiệt Đại Thế Chí gọi là pháp quán thứ mười một. Quán Đại Thế Chí Bồ Tát trừ vô số kiếp vô số tội sanh tử. Người tu quán nầy chẳng còn ở bào thai thường du hành quốc độ thanh tịnh vi diệu chư Phật.
Pháp quán nầy thành rồi gọi là đầy đủ quán Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.
Lúc thấy sự ấy rồi nên khởi tư tâm sanh nơi Tây phương Cực Lạc thế giới trong hoa sen ngồi kiết già, tưởng hoa sen búp lại, tưởng hoa sen nở ra. Lúc hoa sen nở có ánh sáng năm trăm màu chiếu đến thân. Tưởng mắt mở ra thấy Phật và Bồ Tát đầy cả hư không, nước chim cây rừng cùng chư Phật phát ra âm thanh đều diễn nói diệu pháp hiệp với mười hai bộ kinh. Lúc xuất định nhớ giữ không mất. Thấy sự nầy rồi gọi là thấy Vô Lượng Thọ Phật. Cực Lạc thế giới. Đây là phổ quán tưởng gọi là pháp quán thứ mười hai. Vô Lượng Thọ Phật hoá thân vô số cùng Quan Thế Âm Bồ Tát Đại Thế Chí Bồ Tát thường đến chỗ hành nhơn ấy”.
(2596) T9 P62


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người muốn chí tâm sanh Cực Lạc thế giới trước nên quán tượng Phật Vô Lượng Thọ cao một trượng sáu xích ở trên mặt nước ao báu.
Như trước đã nói Vô Lượng Thọ Phật thân lượng vô biên chẳng phải tâm lực của phàm phu kịp được. Nhưng do nguyện lực đời trước của đức Như Lai ấy nên ai có tâm nhớ tưởng thì ắt được thành tựu. Chỉ tưởng tượng Phật được phước vô lượng, huống là quán đủ thân tướng của Phật.
A Di Đà Phật thần thông như ý nơi mười phương quốc độ biến hiện tự tại. Hoặc hiện thân lớn đầy trong hư không, hoặc hiện thân nhỏ một trượng sáu xích. Thân hình Phật hiện ra đều màu chơn kim, viên quang Hoá Phật và hoa sen báu như đã nói ở trên. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát ở tất cả xứ thân đồng với chúng sanh. Chỉ quán tướng trên đầu biết là là Quan Thế Âm hay Đại Thế Chí. Hai đại Bồ Tát ấy trợ Phật A Di Đà khắp hóa độ tất cả. Đây là tạp tưởng quán gọi là pháp quán thứ mười ba”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người sanh Cực Lạc thế giới, bực thượng phẩm thượng sanh ấy. Nếu có chúng sanh nguyện sanh Cực Lạc thế giới phát ba thứ tâm liền được vãng sanh.
Những gì là ba tâm ?
Một là chí thành tâm. Hai là thâm tâm và ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Người đủ ba tâm này ắt sanh Cực Lạc thế giới.
Còn có ba hạng chúng sanh sẽ được vãng sanh.
Những gì là ba hạng ?
Một là từ tâm bất sát đủ các giới hạnh. Hai là đọc tụng kinh điển phương đẳng Đại thừa. Ba là tu hành lực niệm hồi hướng phát nguyện nguyện sanh Cực Lạc.
Người đủ các công đức nầy từ một ngày đến bảy ngày liền được vãng sanh.
Lúc sanh về nước ấy, vì người nầy tinh tiến dũng mãnh nên A Di Đà Như Lai cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số Hóa Phật, trăm ngàn Tỳ Kheo Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư Thiên, cung điện bảy báu. Quan Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cương cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đến trước hành nhơn. A Di Đà Phật phóng đại quang minh chiếu thân hành giả cùng các Bồ Tát trao tay nghinh tiếp. Quan Thế Âm, Đại Thế Chí cùng vô số Bồ Tát tán thán hành giả khuyến khích sách tiến tâm hành giả thấy rồi hoan hỷ dũng dước tự thấy thân mình ngồi đài kim cương đi theo sau Phật. Như khoảng khảy ngón tay vãng sanh nước Cực Lạc. Sanh nước Cực Lạc rồi thấy sắc thân Phật A Di Đà đầy đủ các tướng. Thấy chu Bồ Tát sắc tướng đầy đủ. Quang minh cây rừng báu diễn nói diệu p. nghe rồi liền ngộ Vô sanh pháp nhẫn. Trong thời gian giây lát đi khắp thập phương thế giới kính thờ chư Phật. Ở trước chư Phật thứ đệ thọ ký. Trở về bổn quốc được vô lượng trăm ngàn đà la ni. Đây gọi là người thượng phẩm thượng sanh.
Người thượng phẩm trung sanh ấy. Người nầy bất tất thọ trì đọc tụng kinh điển phương đẳng Đại thừa. Đem công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới. Người có công hạnh như vậy, lúc lâm chung, A Di Đà Phật cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí , vô lượng đại chúng vây quanh cầm đài tử kim đến trước hành giả khen rằng : Nầy Pháp tử ! Ngươi hành Đại thừa hiểu đệ nhứt nghĩa nên nay ta đến nghinh tiếp ngươi. Đức Phật A Di Đà cùng ngàn Hóa Phật đồng thời trao tay. Hành giả ấy tự thấy mình ngồi đài tử kim, chắp tay xếp cánh tán thán chư Phật. Như khoảng một niệm liền sanh nước Cực Lạc trong ao thất bửu,. Đài tử kim ấy như hoa sen lớn qua một đêm liền nở. Thân hành giả màu vàng tử ma, dưới chưn cũng có hoa sen bảy báu.
Phật và Bồ Tát đồng thời phóng quang chiếu thân hành giả mắt liền mở sáng. Nhơn túc tập trước nên khắp nghe ác âm thanh thuần nói thậm thâm đệ nhứt nghĩa đế. Hành giả ấy liền xuống kim đài lạy Phật chắp tay tán thán Thế Tôn, qua bảy ngày liền được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, liền có thể bay đi khắp mười phương kính thờ chư Phật, ở trước chư Phật tu các tam muội, qua một tiểu kiếp được Vô sanh nhẫn hiện tiến thọ ký. Đây gọi là người thượng phẩm trung sanh vậy.
Người thượng phẩm hạ sanh ấy. Người nầy cũng tin nhơn quả chẳng hủy báng Đại thừa, chỉ phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đem công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới.
Hành giả ấy lúc lâm chung, A Di Đà Phật cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí và chư Bồ Tát cầm hoa sen vàng hóa làm năm trăm Phật đến rước. Năm trăm Hóa Phật đồng thời trao tay khen rằng : Nầy Pháp tử. Nay ngươi thanh tịnh phát tâm Vô thượng Bồ đề, ta đến rước ngươi. Hành giả lúc thấy sự ấy liền tự thấy thân mình ngồi kim liên hoa. Ngồi rồi hoa búp lại theo sau Phật liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới trong ao thất bửu. Qua một ngày một đêm kim liên hoa mới nở. Qua bảy ngày mới được thấy Phật. Dầu thấy thân Phật mà chẳng thấy tỏ rõ các tướng hảo. Sau hai mươi mốt ngày mới thấy rõ hết. Nghe các âm thanh đều diễn diệu pháp, đi khắp mười phương cúng dường chư Phật. Ở trước chư Phật nghe thậm thâm pháp. Qua ba tiểu kiếp được bá pháp minh môn trụ bực Hoan hỉ địa. Đây gọi là người thượng phẩm hạ sanh vậy.
Đây gọi là pháp tưởng hàng thượng phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười bốn”.
(2598) T9 P62


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người trung phẩm thượng sanh ấy.
Nếu có chúng sanh thọ trì ngũ giới, trì bát giới trai, tu hành các giới chẳng tạo ngũ nghịch không có các tội lỗi. Đem thiện căn nầy nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới. Hành giả lúc lâm chung, A Nan Di Đà Phật cùng các Tỳ Kheo quyến thuộc vây quanh phóng ánh sáng kim sắc đến chỗ hành giả diễn nói khổ không vô thường vô ngã tán thán xuất gia được lìa các sự khổ. Hành giả thấy rồi lòng rất vui mừng tự thấy thân mình ngồi đài liên hoa quỳ dài chắp tay đảnh lễ Phật, lúc chưa cất đầu lên liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới, liên hoa liền nở. Lúc hoa sen nở nghe các âm thanh tán thán tứ đế liền được A La Hán đạo tam minh, lục thông, đủ bát giải thoát. Đây gọi là người trung phẩm thượng sanh vậy.
Người trung phẩm trung sanh ấy.
Nếu có chúng sanh hoặc một ngày một đêm trì bát giới trai, hoặc một ngày một đêm trì giới Sa di, hoặc một ngày một đêm trì Cụ Túc giới oai nghi không kém thiếu. Đem công đức nầy hồi hướng nguyện cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới.
Do giới hương huân tu, hành giả nầy lúc lâm chung thấy A Di Đà Phật cùng các quyến thuộc phóng kim sắc quang cầm bửu liên hoa đến trước hành giả. Hành giả tự nghe hư không có tiếng khen rằng : Nầy thiện nam tử ! Như ngươi hàng thiện nhơn tùy thuận lời dạy tam thế chư Phật nên ta đến rước. Hành giả tự thấy thân mình ngồi trên hoa sen, hoa sen liền búp lại sanh trong ao báu Tây phương Cực Lạc thế giới. Qua bảy ngày liên hoa mới nở. Hoa nở rồi mở mắt chắp tay tán thán Thế Tôn, nghe pháp hoan hỉ được quả Tu Đà Hoàn. Qua nửa kiếp thành bực A La Hán. Đây gọi là người trung phẩm trung sanh vậy.
Trung phẩm hạ sanh ấy.
Nếu có thiện nam thiện nữ hiếu dưỡng cha mẹ làm việc nhơn từ thế gian. Người nầy lúc lâm chung gặp thiện tri thức vì họ mà nói rộng những sự vui nơi quốc độ Phật A Di Đà cũng nói bốn mươi tám nguyện của Pháp Tạng Tỳ Kheo, nghe rồi liền chết. Ví như khoảng thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay, liền được vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Qua bảy ngày gặp Quan Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát, nghe pháp hoan hỷ được quả Tu Đà Hoàn. Qua một tiểu kiếp thành A La Hán. Đây gọi là người trung phẩm hạ sanh vậy.
Đây gọi là pháp tưởng hạng trung phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười lăm”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm thượng sanh ấy.
Hoặc có chúng sanh tạo những nghiệp ác. Người ngu như vậy dầu chẳng hủy báng kinh điển Phương đẳng Đại thừa mà tạo nhiều việc ác không có tàm quí. Người nầy lúc lâm chung gặp thiện tri thức vì họ mà nói mười hai bộ kinh Đại thừa danh tự đầu đề. Do nghe tên các kinh như vậy dứt trừ ngàn kiếp ác nghiệp cực trọng. Trí giả lại bảo chắp tay xếp cánh xưng Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trừ năm mươi ức kiếp tội sanh tử. Lúc ấy Phật A Di Đà liền sai Hóa Phật, hóa Quan Thế Âm, hóa Đại Thế Chí đến trước hành giả khen rằng : Nầy thiện nam tử ! Vì ngươi xưng danh hiệu Phật các tội tiêu diệt ta đến rước ngươi. Nghe nói lời ấy rồi, hành giả liền thấy quang minh của Hóa Phật chiếu sáng cả nhà. Thấy rồi hoan hỉ mạng chung ngồi bửu liên hoa theo sau Hoá Phật sanh trong ao báu Cực Lạc thế giới. Qua bốn mươi chín ngày hoa sen báu mới nở. Đương lúc hoa nở, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát phóng đại quang minh đứng trước người ấy, vì người ấy nói thậm thâm Thập nhị bộ kinh. Người ấy nghe rồi tin hiểu phát vô thượng đạo tâm. Qua mười tiểu kiếp đủ bá pháp minh môn được nhập bực Sơ địa. Đây gọi là người hạ phẩm thượng sanh vậy”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm trung sanh ấy.
Hoặc có chúng sanh hủy phạm ngũ giới bát giới và cụ túc giới. Người ngu nầy trộm của vật Tăng kỳ, trộm của vật hiện tiền Tăng, bất tịnh thuyết pháp, không có tàm quý, dùng các ác nghiệp để tự trang nghiêm. Người tội như đây do nghiệp ác phải đọa địa ngục, lúc lâm chung các lửa địa ngục đồng thời hiện đến. Gặp thiện tri thức vì lòng đại từ bi vì người ấy mà khen nói thập lục oai đức của đức Phật A Di Đà, rộng khen quang minh thần lực của đức Phật A Di Đà, cũng tán dương giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Người ấy nghe rồi trừ tám mươi ức kiếp tội sanh từ. Lửa mạnh địa ngục biến thành gió mát thổi các thiên hoa bay đến. Trên hoa đều có Hoá Phật, Hóa Bồ Tát tiếp rước người ấy. Trong khoảng một niệm liền được sanh trong hoa sen nơi ao báu Cực Lạc thế giới. Hoa sáu kiếp hoa sen mới nở. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng phạm âm thanh an úy người ấy, vì người ấy mà nói kinh điển Đại thừa thậm thâm. Nghe pháp ấy rồi, người ấy liền phát tâm vô thượng đạo. Đây gọi là người hạ phẩm trung sanh vậy”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm hạ sanh ấy.
Hoặc có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện ngũ nghịch, thập ác đủ các bất thiện. Người ngu như vậy, do ác nghiệp phải đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Người ngu ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủy vì nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật. Ngươi ấy bị khổ bức không rãnh niệm được. Thiện hữu bảo rằng nếu ngươi chẳng thể niệm Phật kia được thì ngươi nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, như vậy chí tâm khiến tiếng xưng danh chẳng dứt đủ mười niệm. Nên xưng như vầy : Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp tội sanh tử. Lúc mạng chung thấy kim liên hoa dường như mặt nhựt trụ trứơc người ấy. Như khoảng một niệm liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới ở trong hoa sen mãn mười hai đại kiếp hoa sen ấy mới nở. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng âm thanh đại bi vì người ấy diễn nói thiệt tướng các pháp, nói pháp trừ diệt tội. Người ấy nghe pháp rồi rất vui mừng liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là người hạ phẩm hạ sanh.
Đây gọi là pháp tưởng hạng hạ phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười sáu vậy”. Về mười sáu pháp quán ấy, liền lúc đó thấy tướng rộng lớn Cực Lạc thế giới. Được thấy sắc thân Phật A Di Đà và hai Bồ Tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, lòng rất hoan hỷ khen chưa từng có. Vi Đề Hi hoát nhiên đại ngộ được Vô sanh nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm Vô thượng Bồ đề nguyện sanh Cực Lạc thế giới. Đức Thế Tôn thọ ký đều sẽ vãng sanh. Sanh nước Cực Lạc rồi được chư Phật hiện tiền tam muội. Còn có vô lượng chư Thiên phát tâm vô thượng đạo.
Lúc bấy giờ Tôn gỉa A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Kinh nầy sẽ gọi tên là gì ? Pháp yếu nầy sẽ thọ trì như thế nào ?”.
Đức Phật nói : “Nầy A Nan ! kinh nầy tên là Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát.
Cũng có tên là Tịnh trừ nghiệp chướng sanh chư Phật tiền.
Ông nên thọ trì như vậy chớ để quên mất.
Người hành tam muội nầy thì thân hiện đời được thấy Vô Lượng Thọ Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nếu thiện nam, thiện nữ chỉ nghe danh hiệu Phật A Di Đà, nghe danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát, nghe danh hiệu Đại Thế Chí Bồ Tát thì trừ vô lượng kiếp tội sanh từ, huống là nhớ niệm.
Nếu là người niệm Phật, nên biết người ấy là hoa phân đà lợi trong loài người. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát là thắng hữu của người ấy. Người ấy sẽ ngồi đạo tràng sanh vào nhà chư Phật”.
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan : “Nầy A Nan ! Ngươi phải trì lời nầy cho tốt. Người trì lời nầy tức là trì danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật”.
Phật nói kinh nầy rồi, Tôn giả Mục Kiền Liên, Tôn giả A Nan và Vi Đề Hi cùng thị nữ quyến thuộc nghe lời đức Phật dạy tất cả đều rồi vui mừng.
Bấy giờ đức Thế Tôn chân đi trên hư không trở về núi Kỳ Xà Quật.
Tôn giả A Nan vì đại chúng nói rộng sự ấy. Vô lượng chư Thiên, Bát Bộ nghe lời Phật nói đều rất vui mừng lạy Phật lui ra.

PHÁP HỘI QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT
THỨ SÁU MƯƠI HAI
HẾT
Vi tính: Phật tử: Dương Thị Chính
Pháp danh: Diệu Phẩm
(2601) HẾT


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.20 khách