KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Các ác Long vừa muốn bay lên hư không mà không chuyển động được. Họ liền nói với đại thần rằng : “Kính phụng mạng lịnh vừa rồi muốn đi phá hoại Cù Đàm. Vừa sanh tâm ấy liền chẳng bay đi được”.
Đại thần nghe các ác Long Vương nói liền sanh lòng kinh sợ suy nghĩ rằng : Nay ta hiện ma đại lực khiến các ác Long sanh tâm giận dữ. Vì tâm rồng giận dữ thì có thể phá hoại thân Cù Đàm.
Bấy giờ cung rồng có hóa tử thi đầy khắp mọi nơi. Các rồng thấy vậy tự nơi cung thất mình lòng chẳng an vui suy nghĩ rằng : Đây là ai hóa làm những tử thi ấy.
Dầu có suy tìm mà chẳng biết là ai làm.
Trong tất cả tứ thiên hạ chư đại Long Vương và quyến thuộc nam nữ lớn nhỏ đều ra khỏi cung thất đến núi Khê La Kỳ. Núi ấy bằng phẳng ngang rộng bốn vạn do tuần, là chỗ ở của chư Thánh đời trước, có đẻ bảy báu.
Nhẫn đến Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương cũng bỏ cung điện mà đến núi ấy.
Trong tứ đại hải, bao nhiêu Long vương và quyến thuộc vô lượng vô biên, như là Y La Bạt Long Vương, Thiện Trụ Long Vương, Quy Long Vương, A Na Bà Đạt Đa Long V. Mục Chơn Lân Đà Long Vương, Đức Hải Long Vương, Thủy Đức Long Vương, Xá Đức Long Vương, Lạc Đức Long Vương, A Ba Na La Long Vương, Sơn Đức Long Vương, Ngưu Đức Long Vương, Y La Bạt Đa Long Vương, Trường Tý Long Vương, Trường Phát Long Vương, Tịnh Long Vương, Ca Yết La Long Vương, Thủy Phiêu Long Vương, Hắc Phát Long Vương, Kim Sắc Long Vương, Xá Câu Long Vương, Niệm Di Long Vương, Tượng Long Vương, Lợi Nha Long Vương, Hữu Hành Long Vương, Nghị Võng Long Vương, Trường Diện Long Vương, Xích Nhãn Long Vương, Lạc Kiến Long Vương.
Như vậy châu Diêm Phù Đề có tất cả Long Vương tám vạn và quyến thuộc, nhẫn đến bốn vạn bốn ngàn quốc độ tất cả Long Vương và quyến thuộc đều đến núi Khê La Kỳ.
Bắc Uất ĐơnViệt có hai Long Vương là Vô Biên Long Vương và Kim Thân Long Vương cùng vô lượng chúng quyến thuộc, nhẫn đến bốn vạn bốn ngàn quốc độ tất cả Long Vương và quyến thuộc đều đến núi Khê La Kỳ.
Đông Phất Bà Đề có hai Long Vương là Nguyệt Long Vương và Bà Tư Tra Long Vương cùng vô lượng quyến thuộc, nhẫn đến bốn vạn bốn ngàn quốc độ tất cả Long Vương cùng quyến thuộc đều đến núi Khê La Kỳ.
Tây Cù Gia Ni có hai Long Vương là Bữu Phát Long Vương và Quang Phát Long Vương cùng vô lượng quyến thuộc, nhẫn đến bốn vạn bốn ngàn quốc độ tất cả Long Vương cùng quyến thuộc đều đến trong núi Khê La Kỳ.
Và trong tứ thiên hạ hàng tứ sanh Long Vương cùng quyến thuộc cũng đến trong núi Khê La Kỳ. Các Long Vương nầy thân hình đều như củ thuốc bốn tấc, do vì giận dữ nên thân họ cao lớn như núi Tu Di.
Ba Tuần xem thấy chúng Long Vương như vậy rồi bảo quyến thuộc rằng : “Lắng nghe lắng nghe, do ma lực của ta làm cho các Long Vương như vậy từ cung thất ra đến Khê La sơn kia, họ đều mất thế lực chẳng phá hoại được Sa Môn Cù Đàm”.
Còn có ma đại thần tên là Giới Thê thưa ma vương rằng : “Đại Vương ! Các Long Vương như vậy vì muốn phá hoại thân Thích Ca nên tập hội một chỗ. Họ đều nghĩ rằng : Nay ta nên dùng phương tiện gì phá hoại thân Cù Đàm”.
Ba Tuần nói : “Nếu chắc có sự như vậy ngươi nên qua đó xem sao”.
Đại thần Giới Thê cùng trăm ngàn vạn quyến thuộc muốn đến núi Khê La Kỳ.
Lúc ấy đức Thế Tôn từ thiền định khởi ngồi một phía thị hiện thân bình thường.
Ma đại thần thấy thân thường Như Lai ở nước Ma Già Đà. Thấy rồi nghĩ rằng : Sa Môn Cù Đàm thối thất thần thông có lẽ sợ ta chẳng, hay muốn ta sanh đại ác chăng ? Ta nên trước đến chỗ Cù Đàm kia để cùng bàn luận.
Ma đại thần Giới Thê cùng đại chúng đến Phật nói kệ rằng :
Thân Ngài chưa qua biển sanh tử
Thế nào sẽ độ được chúng sanh
Cù Đàm chớ gạt các chúng sanh
Nói rằng sẽ được đại Niết bàn
Đức Như Lai nói kệ đáp :
Ta đã được qua biển sanh tử
Cũng được thoát hẳn tất cả cõi
Ta vì nhơn duyên đại từ bi
Nói rằng chúng sanh sẽ Niết bàn
Ngươi đã vô lượng đời thuở xưa
Phát khởi Vô thượng Bồ đề tâm
Đã từng cúng dường vô lượng số
Trăm ngàn vạn ức các Thế Tôn
Ngươi nay định sẽ được Phật đạo
Tại sao nói Phật gạt chúng sanh
Nay ta cho ngươi đại niệm lực
Bèn nên chí tâm quán bổn thân.
Ma đại thần Giới Thê nghe lời Phật tự quán sát quá khứ bổn thân thấy rõ ràng mình phát Bồ đề tâm cúng dường vô lượng vô biên chư Phật, thấy rồi tâm rất hổ thẹn ở trước Như Lai dập đầu mặt xuống đất sám hối tác lễ bạch đức Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi đã nhớ vô lượng đời phát tâm Bồ đề, đã từng cúng dường vô lượng ức Phật, ở chỗ chư Phật nghe học diệu pháp, đã được tu hành sáu Ba la mật.
Bạch đức Thế Tôn ! Thuở Phật Ca Diếp có một Tỳ Kheo nói Thanh Văn thừa. Tôi chẳng tư duy bèn nói lời ấy chẳng phải là lời Phật là lời nói của ma. Tỳ Kheo ấy đã phát tâm Bồ đề hành Bồ đề đạo. Vì nhơn duyên ấy nên Ca Diếp Như Lai chẳng thọ ký cho tôi. Tôi nhơn việc ấy sanh trong ma giới thọ thân nầy đến nay đã trải qua năm vạn bảy ngàn ức năm.
Bạch đức Thế Tôn ! Tôi thà đem những thân quá khứ ấy thọ khổ địa ngục chớ trọn chẳng thối tâm Bồ đề”.
Đức Phật nói : “Nầy đại thần ! Lành thay lành thay, nếu có người đem hoàng kim như núi Tu Di và các món vật bằng thất bữu trong vô lượng đời cúng dường chư Phật, phước ấy chẳng bằng phát tâm Bồ đề. Tại sao, vì phát tâm Bồ đề mới là cúng dường thập phương chư Phật”.
Lúc ấy Giới Thê Bồ Tát liền ở tại chỗ được như pháp nhẫn, bèn rời chỗ ngồi đầu mặt tác lễ nhiễu Phật ba vòng đem thượng y nơi thân cúng dường đức Phật, nhẫn đến quyến thuộc bốn vạn bốn ngàn đại chúng cũng cúng dường như vậy.
Ma vương Ba Tuần thấy đại thần của mình cùng đại chúng quyến thuộc đều quy y Phật, tâm rất khổ não, đóng chặt cửa nẻo ngồi yên một chỗ.
Đức Phật vì đại chúng nói ba thứ từ tâm đó là Chúng sanh duyên từ, Pháp duyên từ và Vô duyên từ tâm như trong hội Hư Không Mục đã tuyên nói.
Trong lúc ấy tất cả Long Vương đều tập hội núi Khê La Kỳ muốn động chẳng động được, muốn đi chẳng đi được, muốn hiện thân lớn cũng lại chẳng được. Họ bèn hướng về Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương mà nói rằng : “Đại Vương ! Trước kia hoá hiện tử thi trong cung thất là do Ba Tuần làm, vì vậy khiến chúng tôi đều đến núi nầy thọ thân nhỏ nhít. Nếu có thể quy y ma Ba Tuần thí có thể được giải thoát”.
Y la Bạt La Long Vương nói : “Nay ma vương đã thất bổn tâm và thần túc làm sao cứu tế các Ngài được”.
Các Long Vương ấy, hoặc có quy y Tứ Thiên Vương, hoặc có quy y Đao Lợi Thiên, hoặc có quy y Dạ Ma Thiên, hoặc Đâu Suất Thiên, hoặc Hoá Lạc Thiên. Hoặc có quy y Tha Hóa Tự Tại Thiên, hoặc có quy y Phạm Thiên.
Hải Long Vương nói : “Các Ngài chẳng thấy Thích Ca Như Lai được tất cả hiền thánh nhơn thiên tạp loại thiết đại cúng dường mà quy y đó ư!”.
Có các Long Vương quy y Na Trà tiên nhơn, hoặc Mã Tàng tiên nhơn, hoặc Quảng tiên nhơn, hoặc Quang Vị tiên nhơn, hoặc Bạt Già Bà Tiên Nhơn.
Các Long Vương quy y năm tiên nhơn như vậy. Năn tiên nhơn ấy đều được ngũ thông ở tại núi Tuyết đều đang nghe Quang Vị tiên nhơn tuyên nói chánh pháp. Quang Vị Bồ Tát cũng dùng vô lượng các thứ tán thán để tán thán đức Như Lai.
Các tiên nơn đều nghe âm thanh của tất cả Long Vương, liền bạch Quang Vị tiên nhơn rằng : “Ngài có nghe tiếng khóc kêu của các Long Vương chẳng ?”.
Quang Vị đáp : “Tôi có nghe”.
Chư Thiên nói : “Thưa Đại Sĩ ! Duy nguyện đến đó cứu khổ họ”.
Quang Vị nói : “Các Ngài nên đến đó, tôi đi chẳng được, tại sao, vì hiện nay có Đại Thiên muốn được nghe Vô duyên từ tâm vậy”.
Bốn tiên nhơn lễ lạy Quang Vị rồi đến núi Khê La Kỳ để cứu tế.
Chư Long Vương thấy bốn tiên liền cất tiếng cầu ai cứu tế.
Chư Tiên nói : “Ta chẳng cứu được. Trong núi Tuyết có một Bồ Tát tên là Quang Vị, người ấy có thể cứu. Các ngươi nên nhứt tâm cầu ai tác lễ”.
Chư Long Vương đều hướng về núi Tuyết làm lễ đồng thanh cầu cứu.
Quang Vị nghe tiếng ấy bèn cùng vô lượng chư Thiên cúng dường đến núi Khê La Kỳ.
Chư Long Vương thấy rồi đầu mặt lễ lạy : “Duy nguyện Đại Sĩ cứu khổ chúng tôi”.
Quang Vị Bồ Tát biết đã đến lúc, muốn nói tinh tú.
Hải Long Vương bạch rằng : “Bạch Đại Sĩ ! Tinh tú ấy của ai nói ? Ai làm đại tinh, ai làm tiểu tinh ? Ai làm nhựt nguyệt ? Trong ngày nào tinh nào ở trước ? Thế nào là mãn nguyệt ? Thế nào là thời giờ ?. Các tinh tú như vậy hệ thuộc Thiên nào, tánh là gì, tinh tú nào khinh, nào trọng, nào thiện, nào ác, nào thực, nào thí ? Ai tạo ngày ? Ai tạo đêm ? Bóng có mấy bộ gọi là chuyển, thế nào gọi là Nam chuyển. Thế nào gọi là Bắc chuyển ? Thưa Đại Sĩ ! Ngài ở trong hàng chư Tiên là đệ nhứt hơn cả, duy nguyện đầy đủ phân biệt giải nói”.
Quang Vị Bồ Tát bảo chư Long Vương rằng : “Nầy Đại Vương ! Đời quá khứ trước, ban sơ của Hiền kiếp, thành Chiên Đà Diên có vua tên là Vô Lượng Tịnh dùng chánh pháp trị nước. Vua ấy chẳng tham dục lạc, thường thích tịch tĩnh tài trí thông đạt. Vua có phu nhơn dục tâm phát động cùng vua du hành ở trong một khu rừng lòng tham dục nhìn vua liền có thai, đủ ngày sanh ra một con trai. Đứa trẻ ấy đầu tai mắt môi miệng cổ đều giống lừa, các phần khác giống người. Bà mẹ thấy rồi sợ quá ném nó vào nhà xí, thân nó chưa chạm đất được lủ quỷ ở trên không tiếp lấy đem đến núi Tuyết chăm sóc nuôi dưỡng như con đẻ. Trong núi Tuyết có thuốc ngọt ngon, lủ quỷ hái lấy cho trẻ ấy ăn. Trẻ ấy ăn rồi thân liền chuyển lạ có đại quang minh đầy đủ phước tướng có đại từ bi. Do cớ ấy nên được chư Thiên lễ bái cúng dường tán thán. Trẻ ấy tất cả thân tướng đều chuyển đổi chỉ có môi thì giống môi lừa, nên có tên là Lư Thần. Do phước lực của Lư Thần nên trong núi Tuyết sản xuất các thứ dưa quả và dược thảo.
Lư Thần tiên nhân suốt sáu vạn năm thọ trì cấm giới, thường co một chưn lên. Tất cả Phạm Thiên, Ma Thiên, Đế Thích đại thiết cúng dường để cúng dường đó và bạch Lư Thần tiên nhơn muốn cầu sự gì xin được nói cho, chúng tôi biết rồi nếu sức chúng tôi làm được sẽ ban cho Ngài.
Lư Thần tiên nhơn nói :
Nay tôi muốn biết tinh tú để lợi ích mọi người vì lòng tôi thương xót họ.
Tất cả chư Thiên nói :
Nếu vì thương xót tất cả chúng sanh mà muốn được biết, nguyện sẽ nói đó.
Lư Thần tiên nhơn nói :
Thưa Phạm Thiên ! Thiệt tôi chẳng hiểu tinh tú tối sơ v.v…”.
Lúc Quang Vị nói tinh tú ấy, chư đại Long Vương đối với Quang Vị Bồ Tát sanh tâm vui mừng.
Quang Vị Bồ Tát lại vì chư Long Vương phát âm thanh vi diệu tán thán Tam bửu rồi nói rằng : “Chư Đại Vương ! Nay ta thiệt chẳng thể cứu vớt khổ các Ngài. Chỉ có Thích Ca Như Lai Thế Tôn mới cứu được. Đức Thích Ca Như Lai vì muốn điều phục các chúng sanh, nên trong vô lượng đời xả bỏ sở hữu trân quý tu tập từ bi để cứu khổ não”.
Nghe lời ấy, tất cả Long Vương và quyến thuộc nam nữ lớn nhỏ đều chí tâm niệm Phật tán thán quy y : “Nam mô Phật Thế Tôn, ở trong tất cả chúng sanh rất là thù thắng, ở trong tất cả pháp tâm được tự tại, ở trong các pháp hải đã đến bờ kia, hay cứu tất cả chúng sanh khổ não ban cho họ an lạc bình đẳng không hai, thương xót tất cả, hay chỉ đường chánh ban cho chánh nhãn, được tất cả Thiên Long cúng dường, hay thọ cúng cụ vị diệu của tất cả nhơn thiên trong tất cả thế giới mười phương.
Chúng tôi thọ nhiều vô lượng khổ não, duy nguyện đức Thế Tôn từ bi thương cứu”.
Thành tâm niệm Phật rồi, tất cả chư Long tự thấy thân mình như cũ.
Quang Vị Bồ Tát bảo chư Long Vương rằng : “Như Lai công đức bất khả tư nghị, vì chúng sanh nên trong vô lượng đời Như Lai tu hành đầy đủ sáu Ba la mật, tuyên nói ba thứ từ bi điều phục chúng sanh, tuyên nói tất cả pháp vô ngã vô tác, tuyên nói ấm, nhập, giới, tứ, đại, các phiền não tuyên nói tánh phiền não, và tánh chúng sanh, tuyên nói tất cả pháp vô tánh, vô tướng, vô ngại, vô tác, vô cấu, vô tịnh, vô minh, vô ám, vô thủ, vô xả, vô hành, vô trụ, vô nhứ, vô nhị, tất cả ấm, nhập, giới tứ đại cũng đều như vậy. Đây gọi là Đệ nhứt nghĩa không.
Vì vậy nên Như Lai hay điều phục chúng sanh là đấng Vô Thượng Tôn. Vì vậy nên đức Như Lai có thể cưu vô lượng khổ não của các Ngài”.
Quang vị Bồ Tát cùng chư tiên nhơn tất cả Long Vương và quyến thuộc đồng đến chỗ đức Phật lễ bái cung kính hữu nhiễu rồi ngồi qua một phía.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Quang Vị Bồ Tát rằng : “Nầy Quang Vị ! Nay ông có muốn nghe nghiệp của chư Long chẳng ?”.
Quang Vị Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay đã đúng lúc, duy nguyện đức Như Lai tuyên nói đó”.
Đức Phật nói : “ Lành thay lành thay, lắng nghe, lắng nghe, nầy Quang Vị ! Phật sẽ vì ông mà diễn nói”.
(2501) T9 P60


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tất cả nhơn thiên dâng hương hoa tốt, phan lọng, kỹ nhạc cúng dường Phật.
Đức Thế Tôn cùng chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc, vô lượng Thanh Văn và Bồ Tát từ nước Ma Già Đà thẳng đến núi Tu Di.
Phạm Vương thiết toà thất bửu để chờ Như Lai, lại còn tạo làm đường thất bửu rồi bạch rằng : “Duy nguyện Như Lai đi trên đường nầy và ngồi tòa của tôi”.
Tha Hóa Tự Tại Thiên dùng diêm phù đàn na bửu làm tòa ngồi và đường đi cũng nguyện như trên.
Hóa Lạc Thiên dùng vàng cõi trời làm tòa ngồi và đường đi cũng ước nguyện như vậy.
Đâu Suất Đà Thiên dùng bạc cõi trời làm tòa ngồi và đường đi cũng cầu nguyện như vậy.
Dạ Ma Thiên dùng lưu ly làm tòa ngồi và đường đi cũng nguyện cầu như vậy.
Đao Lợi Thiên dùng chơn châu làm tòa ngồi và đường đi cũng cầu mong như vậy.
Tứ Thiên Vương dùng mã não làm tòa ngồi và đường đi cũng nguyện như vậy.
Tứ A Tu La Vương dùng chiên đàn làm tòa ngồi và đường đi cũng mong cầu như vậy.
Vì lòng lân mẫn, đức Thế Tôn hóa thân Phật khắp đi bảy đường, khắp ngồi bảy tỏa. Còn chơn thân Như Lai thì đi và ngồi đường và tòa của Phạm Vương sắp đặt. Mỗi mỗi Hoá Phật đều có vô lượng Thanh Văn và Bồ Tát làm quyến thuộc. Quang minh của mỗi Hoá Phật nhu ánh sáng của vô lượng nhựt nguyệt.
Chư Long Vương thấy Hoá Phật rồi lòng rất kính trọng đồng nói rằng : “Nay núi Tu Di bèn có trăm ngàn nhựt nguyệt như vậy chăng”.
Nan Đà, Bạt Nang Đà Long Vương nói : “Đức Như Lai Thế Tôn cùng vô lượng Pham Thiên đến núi Tu Di, đó là quang minh của Phật chớ chẳng phải nhựt nguyệt. Các Ngài nếu muốn giải thoát thì nên chí tâm chuyên niệm Như Lai, Như Lai Thế Tôn đã phá hết vô minh nên nay có quang minh như vậy”.
A Na Bà Đạt Đa Long Vương nói : “Quang minh ấy là của ma vương chẳng phải của Phật. Tại sao, vì tất cả Dục giới thuộc ma Ba Tuần, ma Ba Tuần hay làm điều ác ấy, nay vì thương xót nên có thể cứu khổ của chư Long Vương như vậy”.
Còn có Long Vương nói là của Hoá Tự Tại Thiên, còn có nói là của Hóa Lạc Thiên, Đâu Suất Thiên, Dạ Ma Thiên, Đao Lợi Thiên, Tứ Vương Thiên vì thương xót nên có thể cứu khổ chư Long Vương như vậy.
Thiện Trụ Long Vương nói : “Quang minh đó là của Quang Vị Bồ Tát vì thương xót nên có thể cứu khổ chư Long Vương như vậy”.
Bửu Kế Long Vương nói : “Quang minh ấy là của người đại đức xuất gia cạo bỏ râu tóc, vì thương xót nên có thể cứu khổ chư Long Vương như vậy”.
Hải Long Vương nói : “Quang minh ấy là của Như Lai. Tại sao, vì thương xót vậy, Như Lai Thế Tôn ở nơi các chúng sanh tu nhứt tư tưởng, hay cứu chúng sanh tất cả khổ não, trong vô lượng đời tu hành đầy đủ sáu Ba la mật chỉ vì cứu tế tất cả chúng sanh khổ não. Vì vậy nên chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc sắp đặt đại cúng cụ để cúng dường Phật”.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Thiên Đế Thích rằng : “Nầy Kiều Thi Ca ! Như ta đi trong thế giới Ta Bà để giáo hóa chúng sanh, cũng như Ngài ở Đao Lợi Thiên để độ chư Thiên”.
Đế Thích nói : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi chưa có vô biên trí, sao lại nói là tôi có thể hóa độ chư Thiên.
Bạch đức Thế Tôn ! Nay núi Tu Di nầy có vô lượng chư Thiên, vô lượng Phạm Thiên, vô lượng Quỷ Thần, vô lượng Càn Thác Bà, vô lượng Khẩn Na La, vô lượng Ca Lâu La, vô lượng A Tu La, vô lượng Ma Hầu La Già, vô lượng Chư Long, vô lượng Đại Tiên, vô lượng Thánh nhơn. Duy nguyện Như Lai thương xót hoá độ chúng sanh như vậy”.
Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười, từ miệng Phật phát xuất vô lượng sắc quang sanh vàng đỏ trắng pha lê nhiều màu chiếu khắp mười phương những chỗ tối tăm, hay phá hoại các ác nghiệp ma hơn hẳn quang minh của vô lượng ức Phạm Thiên, Đế Thích nhựt nguyệt.
Đức Phật nói với Thiên Đế Thích : “Nầy Kiều Thi Ca ! Tất cả núi trong Ta Bà thế giới, núi Tu Di là lớn hơn cả. Ta cũng vậy, là hơn hết trong tất cả chúng sanh”.
Chư Long Vương nghe lời ấy đều bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Duy nguyện xót thương cứu khổ chúng tôi”.
Đức Phật nói : “Chư Long Vương ! Các ngươi nên trước chí tâm niệm Phật, ta sẽ cứu cho”.
Đức Phật dùng âm thanh nghe khắp mười phương thế giới mà bảo Tôn giả Kiều Trần Như rằng : “Nầy Kiều Trần Như ! Tất cả các pháp đều vô thường, tất cả các pháp sanh trụ vô thường, tại sao, vì sanh nhơn duyên vậy. Tất cả nhơn duyên sanh pháp tức là khổ vậy. Nếu lúc pháp sanh tức là khổ, tức là nhọt ghẻ, tức là hữu chi, tức là sanh lão, tức là sanh diệt.
Nầy Kiều Trần Như ! Nhãn tức là vô thường khổ, nhãn sanh ấy tức là khổ, là nhọt ghẻ, là hữu chi, là sanh lão, tức là sanh diệt.
Như nhãn, nơi nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý cũng vậy.
Nầy Kiều Trần Như ! Nếu Nhãn diệt thì tức là sanh, lão, bịnh, tử diệt, tất cả hữu chi diệt, nhẫn đến ý cũng như vậy.
Vì chúng sanh chẳng biết nhãn sanh diệt nên lưu chuyển trong ngũ đạo.
Đức Như Lai vì giúp nhãn sanh diệt nên diễn thuyết pháp, cũng vì nói khổ đoạn khổ hành pháp.
Vì vậy nên Như Lai là Đại Phạm trong Phạm, là Đại Thiên trong Thiên, là Đại Tượng trong Tượng, là Đại Sa Môn trong Sa Môn, là Đại Bà La Môn trong Bà La Môn, là Đại Từ trong Từ, là Đại Bi trong Bi, là Vô Thượng Tôn, là Đại Trượng Phu, đã đến bờ kia của biển lớn sanh tử, là tối đại phước điền, là vô thắng thí chủ, tâm thường bình đẳng, là đại Pháp Vương trì đại cấm giới, là vô thượng tinh tiến khéo tu phạm hạnh, biết rõ chánh đạo làm đại Đạo Sư thông đạt các nghiệp khác.
Nầy Kiều Trần Như ! Vì khéo biết nhãn sanh diệt nhơn duyên nên gọi là Như Lai. Vì chẳng biết rõ nhãn sanh diệt nhơn duyên nên gọi là phàm phu.
Thế nào là chẳng biết mà gọi là phàm phu ?
Nầy Kiều Trần Như ! Tất cả chúng sanh đều nói có ngã, do đây nên chẳng biết tướng nhãn sanh diệt mà phải luân chuyển ngũ đạo.
Nầy Kiều Trần Như ! Có các nhà ngoại đạo nói rằng kiến là ngã, đến nói rằng tri ấy là ngã, nhãn ấy là nhơn duyên của ngã, đến ý ấy là nhơn duyên của ngã. Họ nói nhãn dụ như lỗ trống, ngã dụ như thấy. Nếu như vậy thì gọi là điên đảo, tại sao ? Vì thấy được nói đó là hoà hiệp, ở trong hòa hiệp mà cho là ngã nên là điên đảo.
Nếu nói lỗ trống dụ cho nhãn, còn thấy dụ cho ngã, nghĩa nầy chẳng đúng. Tại sao ? Vì trong lỗ trống mà thấy đó, cũng có thấy, cũng có nghe, cũng có biết, cũng cảm xúc mà nhãn thì không có như vậy. Vì vậy nên thấy ấy chẳng được gọi là ngã.
Lỗ trống dầu lâu cũ mà thấy vẫn tỏ rõ. Nhãn nếu lâu cũ thì chẳng được như vậy.
Ngã ấy gọi là thường. Nếu ngã là thấy là nghe thì ngã là vô thường. Đã vô thường đâu được gọi là ngã.
Nầy Kiều Trần Như ! Vì điên đảo nhơn duyên nên chúng sanh chẳng thấy tứ chơn đế. Như Lai thấu tướng điên đảo ấy nên gọi là chánh trí. Ngã ấy tức là Như Lai.
Nếu có người biết được Như Lai ngã ấy, người nầy có thể phá hoại tướng điên đảo. Nếu hoại điên đảo thì phá ma nghiệp. Nếu phá ma nghiệp, người nầy có thể cứu khổ chư Long.
Nầy Kiều Trần Như ! Vì vậy nên nay Phật có thể cứu khổ não chư Long Vương vậy”.
Nghe pháp ấy, tất cả chư Long Vương và quyến thuộc vui mừng hớn hở lòng khổ não liền trừ đồng kính lễ nhứt tâm quy hướng Tam bửu.
Phật nói pháp ấy rồi, tất cả đại chúng đều hoan hỉ tín thọ phụng hành.
PHÁP HỘI NHỰT MẬT BỒ TÁT
THỨ SÁU MƯƠI
HẾT
(2504) Hết tập 60


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

LXI
PHÁP HỘI VÔ TẬN Ý BỒ TÁT
THỨ SÁU MƯƠI MỐT
Hán dịch: Lưu Tống, Sa Môn Trí Nghiêm và Bửu Vân
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật du Vương Xá thành chỗ đi của Như Lai, ở tại nhà Bửu Trang Nghiêm Đường được tạo nên bởi đại công đức, là quả báo bổn hành tất cả pháp của Phật, hay dung chứa vô lượng chúng Bồ Tát, pháp được Phật giảng tuyên đều là vô lượng nghĩa thậm thâm, đều được Như Lai thần lực hộ trì, nhập vô ngại hành vi diệu pháp môn, tâm Phật hoan hỉ được niệm tiến ý, phân biệt trí huệ không có ai khinh huỷ, nếu có người muốn tán thán công đức của Phật thì tận vị lai thế chẳng cùng tận được. Như Lai chánh giác pháp bình đẳng, khéo chuyển pháp luân độ vô lượng chúng, được tự tại nơi tất cả pháp, biết tận nguồn gốc tâm ý của chúng sanh, khéo dứt các tập khí cho chúng sanh, dầu thường làm phật sự mà tâm không có sở tác, cùng đại Tỳ Kheo sáu trăm vạn người câu hội, đều là Như Lai Pháp Vương Tử, khéo được giải thoát dứt phiền não tập, hiểu rõ thậm thâm Vô sanh pháp nhẫn, thành tựu oai nghi đi đứng đoan nghiêm, kham thọ cúng dường làm phước điền cho đại chúng, khéo trì giáo giới của chư Phật dạy. Còn có đại Bồ Tát chúng số đông vô lượng chẳng xưng kể được, chẳng tư nghị được, chẳng tuyên nói được. Trong khoảng một niệm, chư Bồ Tát ấy có thể đi qua vô lượng vô biên Phật độ, đã từng cúng dường quá khứ chư Phật thưa học diệu pháp không có nhàm đủ, thương xuyên giáo hoá vô lượng chúng sanh, khéo hiểu phương tiện đầy đủ trí huệ, tâm các Ngài an trụ vô ngại giải thoát, khéo trừ ức tưởng thủ tướng hí luận, gần nhứt thiết trí đều là bực Bổ xứ. Tên các Ngài là: Điện Thiên Bồ Tát, Thắng Tranh Bồ Tát, Nhựt Tạng Bồ Tát, Dũng Kiện Bồ Tát, Ly Ác Bồ Tát, Du Hành Bồ Tát, Quán Nhãn Bồ Tát, Ly Ám Bồ Tát, vô lượng Bồ Tát Đại Sĩ đầy đủ công đức như vậy câu hội.
Bấy giờ đức Thế Tôn nhập chư Bồ Tát sở hành vô ngại chư pháp môn kinh. Đó là trang nghiêm chư Bồ Tát đạo Phật pháp thậm thâm, thập lực vô uý trí huệ thành tựu, chứng được ấn môn tự tại tổng trì, môn phân biệt biện tài đại thần thông, chuyển pháp môn vô sanh bất thối chuyển, thông đạt các pháp đồng nhứt tướng, nơi pháp nhứt tướng chẳng sanh phân biệt, biết rõ chúng sanh căn tánh vô ngại, khéo hay quán sát thiệt tướng của các pháp, phá hoại tất cả cảnh giới các ma, nhập môn thông đạt thiện tư duy, hay trừ tất cả phiền não các kiến chấp, vô ngại trí huệ thiện quyền phương tiện, tất cả Phật pháp bình đẳng vô nhị, thọ trì môn trí huệ của chư Phật, diễn thuyết các pháp như chơn thiệt tướng, ức tưởng thủ tướng nhập bình đẳng môn, thành tựu công đức nhập thâm nhơn duyên, trang nghiêm thân Phật thân khẩu ý nghiệp, niệm ý tiến trì hiển thị tứ đế, phân biệt diệu huệ vì giáo hoá hàng Thanh Văn , thân tâm tịch tĩnh vì giáo hoá Duyên Giác, được Nhứt thiết trí vì giáo hoá Đại thừa, nhập nhứt thiết pháp được tự tại trí vì tán thán các công đức Như Lai. Các môn như vậy đều được Thế Tôn tuyên nói khai thị dạy bảo chỉ dẫn phân biệt.
Lúc đức phật nói kinh Đại Tập nầy, phương Đông tự nhiên xuất hiện quang minh lớn màu chơn kim chiều khắp cả Đại Thiên thế giới nầy. Trừ Phật quang minh, tất cả quang minh của Phạm, Thích, Tứ Vương, Thiên, Long, Bát Bộ, nhựt, nguyệt đều chẳng còn hiện, các tường vách cây cối lùm rừng tất cả sông núi quốc độ đều được quang minh kim sắc ấy chiếu suốt cả. Bao nhiêu địa ngục ở cõi nầy đều được quang minh ấy chiếu đến, chúng sanh trong đó lúc quang minh chạm đến thân liền trừ tất cả khổ, thọ lạc vi diệu.
Trước mặt Phật, dưới đất tự nhiên mọc lên sáu mươi ức tịnh diệu liên hoa hương thơm lan khắp các thứ trang nghiêm nhiều màu làm vui đẹp lòng đại chúng. Hoa sen ấy có ức trăm ngàn cánh có lưới the báu giăng phía trên, chất hoa mềm dịu như thiên y, ai chạm đến đều thọ khoái lạc vi diệu. Các hơi hương của hoa sen ấy lan khắp Ta Bà thế giới làm nuốt mất tất cả hơi hương của Nhơn Thiên trong thế giới nầy. Hàng Thiên, Long, Bát Bộ, Quỷ Thần nghe hơi hương ấy đều được vui vi diệu lần lần lìa phiền não.
Tôn giả A Nan thấy quang minh kim sắc và các liên hoa ấy bèn bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Ai làm thoại ứng ấy, có quang minh kim sắc và các tịnh diệu liên hoa?”.
Đức phật nói: “Nầy A Nan! Có đại Bồ Tát tên là Vô Tận ý ở phương Đông cùng sáu mười ức chư Bồ Tát quyến thuộc muốn đến đây nên trước hiện thoại tướng ấy”.
Vô Tận Ý Bồ Tát dùng thần lực cảm động cõi nầy làm cả đại địa chấn động lớn, phóng vô lượng quang mưa các thứ hoa, vô lượng chư Thiên Nhơn trỗi thiên kỹ nhạc, cùng sáu mươi ức chúng Bồ Tát vây quanh đồng đến chỗ Phật. Đến rồi ở trước Phật dừng trên hư không cao bảy cây đa la chắp tay hướng về Phật phát âm thanh vi diệu khăp nghe cả Đại Thiên thế giới, nói kệ tụng tán thán Đức phật:
Thanh tịnh lìa hẳn các cấu nhiễm
Dũng kiện trừ diệt những tham dục
Có thể dứt hết các trần lao
Mà được thanh tịnh vi diệu nhãn
Ba cấu hoang vu uế trược thảy
Khéo hay đoạn dứt rửa sạch hết
Tất cả diệt hẳn không còn thừa
Nay tôi cúi lạy Đại Từ Giác
Trừ bỏ tất cả các bố uý
Khéo hay diệt dứt lưới vô minh
Thập lực Thánh chúa Đại Pháp Vương
Tất cả tà luận chẳng phục được
Các hàng ngoại đạo người dị kiến
Thảy đều có lòng rất kinh sợ
Như Lai dường như sư tử chúa
Riêng mình bước đi không có sợ
Như Lai chánh giác đại quang minh
Thanh tịnh vô cấu chói sáng khắp
Trong tất cả Nhơn Thiên thế gian
Có thể xa lìa tất cả tối
Trừ hết tất cả các tối tăm
Sáng suốt không còn lưới vô minh
Phật quang chiếu khắp thường minh tịnh
Dường như mặt nhựt ra khỏi mây
Chúng sanh già bịnh chết rất khổ
Không có được người cứu hộ họ
Như Lai xót thương vì độ họ
Mà vô lượng đời thọ khổ nhiều
Có thể sanh lòng từ bi vững
Chỉ có Như Lai Đẳng chánh giác
Như Lai cũng như đại Y Vương
Có thể chữa lành tất cả bịnh
Tất cả các pháp từ bổn lai
Tánh tất cả pháp không có ngã
Dường như tiếng vang trong hang núi
Đều từ các duyên hoà hiệp sanh
Tất cả chúng sanh bổn vô tánh
Không có tác giả không thọ giả
Như Lai có thể vì chúng ấy
Mà sanh khởi lòng đại từ bi
Các cõi dường như vực biển lớn
Vô minh tối tăm rất rộng sâu
Trong ấy có nhiều giác quán xấu
Cuồn cuộn sôi tràn những sóng mòi
Như Lai chẳng từ người nghe pháp
Tự nhiên giác ngộ đến bỉ ngạn
Dường như hoa sen mọc trong nước
Đi khắp thế gian chẳng nhiễm ô
Mùa thu cây cỏ đều héo úa
Hạn nóng suối sông đều khô cạn
Tỷ trí phân biệt biết thế pháp
Đổi dời chuyển động chẳng thường trụ
Chỗ thân cận của những người ngu
Là chỗ Thánh trí luôn quở bỏ
Biết rõ các pháp chẳng vững chắc
Riêng mình qua khỏi các hữu lưu
Như Lai mặt mắt rất rộng sáng
Ví như hoa quý Ưu đàm bát
Sáng rỡ vi diệu rất thanh tịnh
Hơn cả trăm ngàn mặt nhựt nguyệt
Tất cả bao nhiêu đời quá khứ
Cùng đời hiện tại các chúng sanh
Tất cả tán thán công đức lớn
Như Lai đều hay thọ được cả
Vì điều người chưa được điều phục
Trừ hết nhiệt não được thanh lương
Vì thế hôm nay tôi cung kính
Đầu mặt cúi lạy đấng Vô Thượng
Cứu độ thế gian phước tăng thượng
Như Lai công đức vô biên lượng
Tất cả các pháp đại Pháp Vương
Nay tôi đảnh lễ Phật phước điền.
(2508) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Vô Tận Ý Bồ Tát nói kệ tán thán Phật rồi từ hư không xuống đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu ba vòng, cùng chư Bồ Tát sáu mươi ức đến ngồi kiết già trên đài liên hoa.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Vô Tận Ý đại Bồ Tát từ xứ nào đến, Phật hiệu là gì, thế giới tên gì, cách đây bao xa?”.
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Ông nên hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát, sẽ được giải đáp”.
Tôn giả kính thuận Phật dạy hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát: “Bạch Đại Sĩ ! Ngài từ xứ nào đến, Phật hiệu là gì, thế giới tên là gì, cách đây bao xa?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Có tưởng đến ư?”.
Tôn giả nói: “Thưa Đại Sĩ ! Tôi biết tưởng rồi”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Nếu biết tưởng thì lẽ ra không có hai tướng, cớ gì lại hỏi từ xứ nào đến.
Thưa Tôn giả! Có lai khứ ấy là nghĩa hoà hiệp, như hoà hiệp tưởng là không hiệp không chẳng hiệp, không hiệp không chẳng hiệp tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai ấy là thánh hành xứ.
Thưa Tôn giả! Có khứ lai ấy tức là nghiệp tướng. Như nghiệp tướng ấy không có tác không chẳng tác. Không có tác không chẳng tác ấy tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai ấy là thánh hành xứ.
Thưa Tôn giả! Có khứ lai ấy tức là tướng quốc độ. Như tướng quốc độ ấy không có quốc độ không chẳng quốc độ tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai ấy tức là thánh hành xứ.
Thưa Tôn giả! Có khứ lai ấy tức là duyên tưởng. Như duyên tưởng ấy không duyên không chẳng duyên, không duyên không chẳng duyên ấy tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai ấy là thánh hành xứ.
Thưa Tôn giả! Có khứ lai ấy là nhơn v.v…sanh tướng. Như nhơn tướng ấy không có nhơn không chẳng nhơn, không nhơn không chẳng nhơn tức là chẳng khứ chẳng lai, chẳng khứ chẳng lai ấy tức là thánh hành xứ.
Thưa Tôn giả! Có khứ lai ấy tức là văn tự ngữ ngôn, như văn tự tướng ấy không có văn tự không chẳng văn tự. Không văn tự không chẳng văn tự ấy tức là chẳng khứ chẳng lai. Chẳng khứ chẳng lai ấy tức là thánh hành xứ”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: “Bạch Đại Sĩ! Nay Ngài nói sự tướng vi diệu, từ trước tôi chưa từng nghe. Vừa rồi tôi có chỗ hỏi, bây giờ tôi lại xin hỏi nữa.
Như người chủ ải, nếu thấy người đi không, hoặc thấy người mang gánh thì phải gạn hỏi: Ông mang gánh đó là những vật gì? Nếu biết là hột lúa giống thì phải thâu thuế.
Bạch Đại Sĩ! Chúng tôi cũng vậy, từ người khác nghe pháp theo âm thanh nhận hiểu để tự chiếu tâm, vì vậy nên nay tôi phải thưa hỏi.
Hàng Đại Sĩ các Ngài vì hộ Đại thừa xuất sanh vô lượng Thanh Văn, Duyên Giác.
Bạch Đại Sĩ! Xin Ngài phân biệt nói từ xứ nào đến”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Nay Ngài tự hỏi đức Như Lai, Phật sẽ nói cho Ngài hết nghi”.
Tôn giả bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Duy nguyện nói Bồ Tát ấy từ xứ nào đến, Phật hiệu là gì, thế giới tên là gì, cách đây bao xa? Nếu được nghe tên hiệu Phật và thế giới ấy, thì làm cho vô lượng vô biên Bồ Tát trang nghiêm Bồ đề”.
Đức Phật nói: “Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ đó, nay ta sẽ nói công đức cõi ấy và danh hiệu Phật. Lúc ông nghe chớ có nghi sợ phải nên nhứt tâm tín thọ phụng trì”.
Tôn giả nói: “Lành thay lành thay, bạch đức Thế Tôn! Nguyện phải thời tuyên nói, tôi sẽ nhứt tâm đảnh đới thọ trì”.
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Phương Đông cách đây chừng mười hằng hà sa quốc độ vi trần số thế giới, có thế giới tên là Bất Thuấn, Phật hiệu là Phổ Hiền Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn nay hiện tại thế.
Nầy Xá Lợi Phất! Cõi ấy không có Thanh Văn, Duyên Giác, nhẫn đến không nghe tên Nhị thừa. Tất cả Thánh chúng thuần là Bồ Tát đã lâu từ quá khứ tu đức bổn, thiện nghiệp thành xong đầy đủ bố thí, điều phục, tự thủ, phòng hộ, thí giới, đa văn, tâm không phóng dật an trụ công đức, oai nghi thành tựu nhẫn lực vô ngại, nơi vô thượng đạo kiên cố tinh tiến, các thiện căn được tu tất cả đều thành tựu chư thiền giải thoát tam muội, du hí thần thông trí huệ lớn chiếu sáng, khéo phân biệt biết rõ tất cả các pháp, lòng từ các Ngài bình đẳng như hư không, đại bi kiên cố cứu tế chúng sanh, thường hành hỉ tâm khiến người khác đồng vui, xả tâm các Ngài khéo dứt tắng ái, lưới ma tranh tụng dứt hết không thừa, khéo hiểu chúng sanh các căn lợi độn theo căn họ mà ban cho pháp tài. Tâm các Ngài bình đẳng như địa, thuỷ, hoả, phong, hay phá tất cả ngoại đạo dị luận, xô dẹp địch trận kiến lập thắng phan, nhập thâm Phật pháp Thập lực, Tứ vô sở uý, nơi các đại chúng tâm không có sợ, các Ngài thường quán thậm thâm thập nhị nhơn duyên, lìa hữu kiến, vô kiến thường hành trung đạo, không có các tướng ngã, ngã sở, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, tác giả, thọ giả, đoạn, thường, hữu, vô, tất cả các kiến chấp kiết phược nhơn duyên đều dứt chẳng còn khởi. Dùng tổng trì vương ấn để ấn đó. Từ biện phân biệt diễn giải của các Ngài na do tha kiếp nói chẳng hết được, có đại thần lực cảm động vô lượng vô biên Phật độ, khéo qua lại các Phật độ dứt trừ sân hận, bố uý, kiêu mạn, phóng dật. Các Ngài diễn thuyết như sư tử hống, với tất cả chúng sanh kẻ oán người thân thảy đều đặt để cứu cánh Niết bàn, mây pháp phủ trùm để nổi sấm chớp, tam minh giải thoát dùng làm chớp sáng, mưa pháp vô thượng dùng làm cam lộ, hay ban bố pháp tài để Tam bửu chẳng đoạn tuyệt, nội ngoại thanh tịnh dường như bửu châu, tướng hảo thù thắng tối thượng vô tỉ, dùng các thiện căn trang nghiêm thân mình, Phật pháp quán đảnh được vị bổ xứ, khéo có thể phân biệt các chúng sanh hành tuỳ thuận đều phục cho được giải thoát, hay tịnh đạo tràng ngồi toà sư tử, ở trong tất cả pháp được vô sở uý, hay tự biến hình như thân Phật, đều có thể thị hiện tất cả Phật sự, tâm được tự tại chuyển chánh pháp luân.
Nầy Xá Lợi Phất! Thế giới Bất Thuấn ấy thuần có chư đại Bồ Tát như vậy làm quyến thuộc”.
Đại chúng nghe đức Phật ca ngợi chư đại Bồ Tát ấy đầy đủ công đức trí huệ như vậy, đều hớn hở vui mừng đem các thứ hoa ưu bát la, hoa câu vật đầu, hoa ba đầu ma, hoa phân đà lợi, hoa mạn đà la rải cúng dường Vô Tận Ý Bồ Tát và sáu mười ức Bồ Tát rồi khác miệng đồng lời nói rằng: “Chúng tôi hôm nay vui mừng được lợi lành mà thấy các Chánh Sĩ như vậy để lễ bái cúng dường cung kính vây quanh. Nếu có chúng sanh nghe tên các Ngài cũng được vô lượng lợi lành như vậy, nếu nghe tán thán xưng dương công đức ấy đều phát tâm Vô thượng Bồ đề”.
Lúc nói lời ấy, trong đại chúng có ba trăm sáu mươi vạn chúng sanh phát Vô thượng Bồ đề tâm.
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Thế giới Bất Thuấn của Phật Phổ Hiền Như Lai không có ba ác đạo và tên gọi, cũng không có tên tà hành việt giới, cũng không có danh từ nữ nhơn, xan tham, tật đố, phá giới, sân hận, giải đãi, loạn tâm, ngu si, chướng ngại ấm cái. Các chúng sanh cõi ấy căn tánh đồng nhau không có thượng trung hạ thuần là nhứt thừa không có tên đại tiểu, Phật độ cũng không có tên tịnh hay uế, cũng không có danh xưng Tam bửu sai biệt, chẳng nghe tiếng đói khát ăn uống, chẳng có danh từ ngã, ngã sở, giá, hộ, ma võng, vọng kiến.
Thế giới Bất Thuấn của Phật Phổ Hiền Như Lai ấy bằng phẳng rộng lớn, một nhựt nguyệt chiếu giáp khắp sáu mươi ức trăm ngàn na do tha do tuần. Các sự hi hữu ấy đều do Bồ Tát cõi ấy bổn nguyện làm nên, lưu ly và các báu xen lẫn làm thành, đất mịn mềm như thiên y, người chạm đến thọ lạc vi diệu, cây báu trang nghiêm hàng ngũ tương đương, dây báu giăng nối để làm ranh tám ngả đường, tất cả các hoa đều tự nở, không có đá cát gai chông dơ dáy, tất cả đồi núi đều là các thứ báu trang sức, người và trời không có sai biệt, pháp hỉ thiền duyệt làm món ăn uống. Cõi Bất Thuấn ấy không có danh từ vua chúa, chỉ có Phổ Hiền Như Lai làm Đại Pháp Vương. Phổ Hiền Như Lai và chư Bồ Tát chẳng dùng văn tự để có nói. Chư Bồ Tát ấy chỉ tu quán Phật nhìn kỹ không nhàm mắt không hề nháy bèn có thể được niệm Phật tam muội ngộ Vô sanh nhẫn. Vì vậy cõi ấy có tên là Bất Thuấn thế giới.
Chư Bồ Tát ấy niệm Phật thế nào?
Đó là chẳng quán sắc tướng xuất sanh chủng tánh quá khứ tịnh nghiệp, lúc ấy trong tâm không có tự cao. Chẳng quán hiện tại ấm giới các nhập kiến văn giác tri tâm ý thức v.v…, không có tướng sanh trụ diệt hí luận, chẳng thủ chẳng xả chẳng niệm chẳng tư, chẳng quán tư tưởng và chẳng tư tưởng, chẳng phân biệt tưởng pháp tưởng kỷ tưởng, không có nhứt dị tưởng, cảnh giới công đức nội ngoại trung gian chẳng khởi niệm giác quán thỉ chung, chẳng quán hình mạo oai nghi pháp thức, chẳng quán giới, định, trí huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, thập lực, tứ vô sở uý, thập bát bất cộng pháp. Chánh niệm Phật ấy chẳng thể tư nghị. Chẳng tạo hành chẳng tác tưởng, vô đẳng đẳng lìa tư duy, vô sở niệm vô tư xứ, không có tưởng ấm giới nhập sanh trụ diệt, không có xứ sở chẳng phải không xứ sở, chẳng động chẳng trụ, chẳng sắc, chẳng thức, chẳng tưởng, chẳng thọ, chẳng hành. Nơi thức chẳng sanh thức tri, nơi địa thuỷ hoả phong chẳng sanh thức tri, nơi nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp cũng chẳng sanh thức tri.
Chăng duyên tất cả cảnh giới như vậy, chẳng sanh các tướng ngã và ngã sở, chẳng khởi tưởng kiến văn giác tri, cứu cánh có thể đến tất cả giải thoát, tâm và tâm số pháp diệt dứt chẳng tương tục, tịnh các ức tưởng chẳng ức tưởng, khéo trừ tham ái, sân khuể, ngu si nhơn duyên tướng, thử bỉ và trung gian đều dứt không thừa. Pháp ấy thanh tịnh vì không có văn tự vậy. Pháp ấy không có hoan hỉ vì không có động chuyển vậy. Pháp ấy không có khổ vì không có tham trước vậy. Pháp ấy không nhiệt não vì bổn tịch diệt vậy. Pháp ấy không giải thoát vì bổn xả ly vậy. Pháp ấy không có thân vì lìa sắc tướng vậy. Pháp ấy không có tướng thọ vì không có ngã vậy. Pháp ấy không có kiết phược vì tịch diệt vô tướng vậy. Pháp ấy vô vi vì không có sở tác vậy. Pháp ấy không có ngôn giáo vì không có thức tri vậy. Pháp ấy không có thỉ chung vì không có thủ xả vậy. Pháp ấy không dừng ở vì không có xứ sở vậy. Pháp ấy không có tác vì lìa thọ giả vậy. Pháp ấy không có diệt vì bổn vô sanh vậy.
Với tâm số tư duy sở duyên trụ pháp, chẳng lấy tướng nó chẳng sanh phân biệt, chẳng thọ chẳng trước chẳng nhiên chẳng diệt chẳng sanh chẳng xuất, pháp tánh bình đẳng như hư không, quá nơi nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp. Đây gọi là Bồ Tát niệm Phật tam muội.
(2512) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Bồ Tát được niệm Phật tam muội ấy, ở trong tất cả pháp được môn tự tại trí đà la ni, nghe Phật nói pháp đều có thể thọ trì hết chẳng quên mất, cũng được hiểu rõ tất cả chúng sanh ngôn tử âm thanh, được vô ngại biện tài.
Nầy Xá Lợi Phất! Phổ Hiền Như Lai kia chẳng như cõi nầy dùng hai nhơn duyên để diễn nói chánh kiến, đó là theo người khác nghe âm thanh và nội tâm chánh ức niệm.
Chư Bồ Tát kia lúc thấy Phật liền có thể phân biệt các nghĩa thâm diệu, đầy đủ thành tựu sáu Ba la mật. Tại sao vậy? Vì nếu chẳng lấy sắc tướng tức là đầy đủ Đàn Ba la mật. Nếu trừ sắc tướng tức là đầy đủ Thi Ba la mật. Nếu quán sắc tận tức là đầy đủ Nhẫn Ba la mật. Nếu thấy sắc tịch diệt tức là đầy đủ Tiến Ba la mật. Nếu chẳng duyên sắc tướng tức là đầy đủ Thiền Ba la mật. Nếu chẳng hí luận sắc tướng tức là đầy đủ Bát Nhã Ba la mật. Chư Bồ Tát ấy lúc quán Phật liền đầy đủ sáu Ba la mật như vậy được Vô sanh nhẫn.
Nầy Xá Lợi Phất! Chư Phật thế giới nghiêm tịnh vi diệu ít có như Phổ Hiền Như Lai thế giới Bất Thuấn ấy”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Mừng thay các Ngài ở thế giới kia được thấy Phổ Hiền Như Lai được vô lượng lợi lành”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Phải chăng các Ngài muốn được thấy thế giới Bất Thuấn Phổ Hiền Thế Tôn và đại chúng Bồ Tát chăng?”.
Tôn giả nói: “Vâng, chúng tôi muốn được thấy, để cho đại chúng đây tăng trưởng thiện căn”.
Vô Tận Ý Bồ Tát liền nhập Bồ Tát thị hiện nhứt thiết Phật độ tam muội. Nhập tam muội rồi làm cho đại chúng đây và Xá Lợi Phất đều thấy cõi kia Phổ Hiền Như Lai và đại chúng. Thấy rồi tất cả đại chúng đây đồng đứng dậy chắp tay vói kính lễ Phật Phổ Hiền và chúng Bồ Tát. Đại chúng đây nhờ thần lực Phật và Vô Tận Ý Bồ Tát nên đều được vi diệu hoa đời thật ít có. Hoa ấy màu sắc và hương vị chưa từng được thấy nghe, tự nhiên đầy nắm tay mỗi người, đồng vói rải qua phương Đông dùng cúng dường Phổ Hiền Như Lai. Hoa ấy liền khắp đến Phổ Hiền Như Lai và đại chúng.
Chư Bồ Tát kia thấy hoa ấy liền bạch Phổ Hiền Như Lai rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hoa nầy thơm đẹp đời rất ít có. Đây là từ xứ nào hoa đến đây?”.
Phổ Hiền Như Lai nói: “Đây là Vô Tận Ý ở tại Ta Bà thế giới, nơi đó cũng còn có mười phương chư Bồ Tát đến tụ tập chỗ Phật Thích Ca để cúng dường cung kính tôn trọng tán thán nghe Phật Thế Tôn nói kinh Đại Tập. Hoa nầy là của đại chúng ấy rải đến”.
Chư Bồ Tát kia lại bạch Phật Phổ Hiền rằng: “Ta Bà thế giới ở phương nào cách đây bao xa?”.
Phổ Hiền Như Lai nói: “Nầy các thiện nam tử! Phương Tây cách đây mười hằng hà sa số thế giới vi trần số quốc độ chư Phật, có thế giới tên là Ta Bà”.
Chư Bồ Tát kia lại nói: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi rất muốn được thấy Thích Ca Như Lai và đại chúng”.
Phổ Hiền Như Lai liền phóng đại quang minh chiếu khắp thế giới nầy. Nhơn Phật quang chư Bồ Tát kia đều được vói thấy Ta Bà thế giới Thích Ca Như Lai và đại chúng.
Thấy rồi đồng chắp tay cung kính nói rằng: “Hi hữu Thế Tôn! Cõi ấy Bồ Tát tất cả đại chúng từ chỗ nào đến tập hội đầy khắp mọi nơi không còn chỗ trống”.
Phổ Hiền Như Lai nói: “Nầy các thiện nam tử! Đại chúng kia từ mười phương vô lượng thế giới đến đó tập hội để thưa hỏi nghe học pháp thậm thâm vi diệu”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Ai đặt tên cho Ngài là Vô Tận Ý vậy?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Tất cả pháp nhơn duyên quả báo tên là Vô Tận Ý, tại sao, vì tất cả pháp chẳng thể tận được vậy”.
Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Mong Ngài diễn nói vô tận pháp môn”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Lúc sơ phát tâm Vô thượng Bồ đề đã chẳng thể tận được. Tại sao, phát Bồ đề tâm vì chẳng lìa phiền não vậy, phát tâm tương tục vì chẳng mong thừa khác vậy, phát tâm kiên cố vì chẳng xen ngoại luận vậy, phát tâm chẳng hư hoại vì ma chẳng trở ngại vậy, phát tâm hằng thuận vì thiện căn tăng trưởng vậy, phát tâm đến thường trú vì pháp hữu vi vô thường vậy, phát tâm chẳng động chuyển vì chư Phật an ủi hộ trợ vậy, phát tâm thắng diệu vì lìa suy tổn vậy, phát tâm ở yên vì chẳng hí luận vậy, phát tâm không ví dụ vì không có tương tự vậy, phát tâm kim cương vì phá các pháp vậy, phát tâm vô tận vì vô lượng công đức đều thành tựu vậy, phát tâm bình đẳng vì lợi ích chúng sanh vậy, phát tâm khắp che vì không có biệt dị vậy, phát tâm tươi sáng vì tánh thường thanh tịnh vậy, phát tâm vô cấu vì trí huệ sáng tỏ vậy, phát tâm thiện giải vì chẳng lìa cứu cánh vậy, phát tâm rộng sướng vì từ tâm như hư không vậy, phát tâm lớn trống vì dung thọ tất cả chúng sanh vậy, phát tâm vô ngại vì trí huệ thông đạt vậy, phát tâm đến khắp nơi vì đại bi chẳng dứt vậy, phát tâm chẳng đoạn dứt vì khéo hiểu lập nguyện vậy, phát tâm làm chỗ về vì được chư Phật khen vậy, phát tâm thù thắng vì nhị thừa tôn ngưỡng vậy, phát tâm thâm viễn vì tất cả chúng sanh chẳng biết được vậy, phát tâm chẳng bại vì chẳng phá Phật pháp vậy, phát tâm an ổn vì khéo cho chúng sanh những khoái lạc vậy, phát tâm trang nghiêm vì tất cả công đức đều thành tựu vậy, phát tâm khéo quán sát vì trí huệ thành tựu vậy, phát tâm tăng trưởng vì tuỳ ý ban cho vậy, phát tâm như nguyện vì giới thanh tịnh vậy, phát tâm Bồ đề đến khắp mọi loài vì với kẻ oán người thân có đủ nhẫn nhục vậy, phát tâm khó hư hoại vì có đủ tinh tiến vậy, phát tâm tịch diệt vì đủ thiền định vậy, phát tâm không bị huỷ báng vì đủ trí huệ vậy, phát tâm vô nguyện vì tăng trưởng đại từ vậy, phát tâm Bồ đề an trụ thiện căn vững chắc vì tăng trưởng đại bi vậy, phát tâm hoà duyệt vì tăng trưởng đại hỉ vậy, phát tâm bất động vì tăng trưởng đại xả vậy, phát tâm kham nhiệm gánh nặng vì được chư Phật dạy trao vậy, phát tâm chẳng tuyệt vì Tam bửu chẳng dứt đoạn vậy.
Thưa Tôn giả! Bồ Tát vì Nhứt thiết trí phát tâm Bồ đề như vậy há có thể cùng tận được ư!”.
Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Như hư không chẳng thể cùng tận, vì Nhứt thiết trí mà phát tâm Bồ đề cũng chẳng cùng tận”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Phật cấm giới vô tận, nhơn cấm giới phát Bồ đề tâm cũng vô tận. Phật chánh định vô tận, nhơn chánh định phát Bồ đề tâm cũng vô tận. Phật trí huệ vô tận, nhơn trí huệ phát tâm Bồ đề cũng vô tận. Phật giải thoát vô tận, nhơn giải thoát phát tâm cũng vô tận. Phật giải thoát tri kiến cũng vô tận, nhơn giải thoát tri kiến phát tâm cũng vô tận.
Thưa Tôn giả! Phật giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến tánh nó vô tận, nhơn năm tụ ấy mà phát Bồ đề tâm há lại có thể tận được ư!
Như Lai thập lực, tứ vô sở uý, thập bát bất cộng pháp vô tận, nhơn đó mà phát tâm Bồ đề cũng vô tận.
Tóm lại mà nói, Như Lai tất cả pháp thảy đều vô tận, nhơn đó để phát Bồ đề tâm cũng vô tận.
Tam bửu vì chẳng dứt nên vô tận. Vì chúng sanh tánh vô tận nên vô tận. Vì như thiệt trí vô tận nên vô tận. Vì tuỳ theo các chúng sanh vô lượng tâm hành trí vô tận nên vô tận. Vì hồi hướng vô thượng vô tận nên vô tận. Vì giáo hoá chúng sanh vô tận nên vô tận. Vì vô tận trí vô sanh nên vô tận. Vì lý tánh vô sanh nên vô tận. Vì biết tất cả pháp bổn tánh vô tận nên vô tận.
Đây gọi là Bồ Tát phát Bồ đề tâm chẳng thể tận được vậy.
(2515) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Còn nữa, thưa Tôn giả! Bồ Tát ấy tâm thanh tịnh vô tận, tâm thanh tịnh ấy là chẳng làm siểm khúc vậy. Chẳng làm siểm khúc ấy là không có gian trá vậy. Không có gian trá ấy là khéo phân biệt vậy. Khéo phân biệt ấy là không có tà mạng vậy. Không tà mạng ấy là tâm trong trắng vậy. Tâm trong trắng ấy là thường chánh nhứt vậy. Thường chánh nhứt ấy là tánh thù thắng vậy. Tánh thù thắng ấy là không có khinh huỷ vậy. Không có khinh huỷ ấy là diệt các cong vạy vậy. Diệt các cong vạy ấy là tâm chất trực vậy. Tâm chánh trực ấy là nhập bình chánh vậy. Nhập bình chánh ấy là tâm kiên thiệt vậy. Tâm kiên thiệt ấy là chẳng hư hoại được vậy. Chẳng hư hoại được ấy là tánh kiên cố vậy. Tánh kiên cố ấy là chẳng động được vậy. Chẳng động được ấy là không có sở y vậy. Không có sở y ấy là trừ ngã tâm vậy. Trừ ngã tâm ấy là không có đồng bạn vậy. Không có đồng bạn ấy là dứt chê khi vậy. Dứt chê khi ấy là làm thiện nghiệp vậy. Làm thiện nghiệp ấy là không có quở trách vậy. Không quở trách ấy là tiêu tội lỗi vậy. Tiêu tội lỗi ấy là chẳng nhiệt não vậy. Chẳng nhiệt não ấy là tánh chơn thiệt vậy. Tánh chơn thiệt ấy là không hư cuống vậy. Không hư cuống ấy là như thuyết hành. Như thuyết hành ấy là có thể khéo làm vậy. Hay khéo làm ấy là không có tỳ vết vậy. Không tỳ vết ấy là không có lộn lầm vậy. Không có lộn lầm ấy là không bị trệ ngại vậy. Không bị trệ ngại ấy là không thối chuyển vậy. Không thối chuyển ấy là quán chúng sanh vậy. Quán chúng sanh ấy là đại bi căn sâu vậy. Đại bi căn sâu ấy là khéo giáo hoá chúng sanh không có mỏi nhọc vậy. Khéo hoá độ chúng sanh không mỏi nhọc ấy là chẳng cầu lợi cho mình vậy. Chẳng cầu lợi lạc cho mình ấy là chẳng tham lợi dưỡng vậy. Chẳng tham lợi dưỡng ấy là chẳng ái nhiễm vậy. Chẳng nhiễm ái ấy là duyên các pháp vậy. Duyên các pháp ấy là quán kém yếu vậy. Quán kém yếu ấy là thấy chúng sanh vậy. Thấy chúng sanh ấy là thường ủng hộ vậy. Thường ủng hộ ấy là làm chỗ quy y vậy. Làm chỗ quy y ấy là không có cấu uế hệ luỵ vậy. Không có cấu luỵ ấy là khéo quán sát vậy. Khéo quán sát ấy là không có luận chê vậy. Không có luận chê ấy là tâm thuần thiện vậy. Tâm thuần thiện ấy là chẳng động dao vậy. Chẳng động dao ấy là thiện thanh tịnh vậy. Thiện thanh tịnh ấy là thường tinh tiến vậy. Thường tinh tiến ấy là nội thanh tịnh vậy. Nội thanh tịnh ấy là thường tươi sáng vậy. Thường tươi sáng ấy là không có cấu nhiễm vậy.
Thưa Tôn giả! Tâm thanh tịnh ấy hay đoạn dứt xan lẫn cũng giáo hoá người khiến họ dứt xan lẫn.
Tâm thanh tịnh ấy hay dứt phá giới cũng giáo hoá người khiến họ dứt phá giới.
Tâm thanh tịnh ấy hay dứt sân hận cũng giáo hoá người khiến họ dứt sân hận.
Tâm thanh tịnh ấy hay dứt giải đãi cũng giáo hoá người khiến họ dứt giải đãi.
Tâm thanh tịnh ấy hay dứt loạn tâm cũng giáo hoá người khiến họ dứt loạn tâm.
Tâm thanh tịnh ấy hay dứt ngu si cũng giáo hoá người khiến họ dứt ngu si.
Thưa Tôn giả! Tâm thanh tịnh có khả năng dứt tất cả pháp bất thiện như vậy, đặt chúng sanh ở trong thiện pháp. Vì vậy nên gọi là Bồ Tát tâm thanh tịnh chẳng thể cùng tận được.
Còn nữa, thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát tâm hành thanh tịnh cũng chẳng cùng tận được. Tại sao vậy?
Lúc Bồ Tát bố thí, tất cả đều thấy xả bỏ các sở hữu.
Bồ Tát lúc hành giới chẳng thể tận được, tất cả đều thấy trì các cấm giới đầu đà chánh hạnh oai nghi không có phạm.
Bồ Tát lúc hành nhẫn chẳng thể tận được, tất cả đều thấy với các chúng sanh tâm không sân hận trở ngại.
Bồ Tát lúc hành tinh tiến chẳng cùng tận được, tất cả đều thấy nơi các thiện pháp đều tinh cần tu tập.
Bồ Tát lúc hành thiền chẳng cùng tận được, tất cả đều thấy các thiền định không có lầm loạn.
Bồ Tát lúc hành huệ cũng chẳng cùng tận được, tất cả đều thấy tu tập đa văn.
Đây gọi là Bồ Tát hành thí, hành giới, hành nhẫn, hành tiến, hành định, hành huệ vậy.
Bồ Tát tu hành từ, bi, hỉ, xả cũng chẳng cùng tận được. Tất cả đều thấy cứu hết khổ hoan lạc dũng dước khéo dứt tham ái sân khuể vậy.
Đây gọi là Bồ Tát hành từ, bi, hỉ, xả.
Bồ Tát sở hành ba nghiệp thanh tịnh, lìa thân ba ác, lìa khẩu bốn ác, lìa ý ba ác là tham dục, sân khuể và tà kiến.
Bồ Tát tu học đa văn vô tận vì chẳng lẫn tiếc vậy. Vì Bồ Tát tu hành không lẫn tiếc nên tập họp Nhứt thiết trí vậy. Bồ Tát tu tập Nhứt thiết trí vì khuyên chư Bồ Tát khác phát đạo tâm vậy. Khuyên các Bồ Tát khác phát đạo tâm vì tu hành đặt ở thiện căn vậy. Tu hành đặt ở thiện căn vì hướng Vô thượng Bồ đề đạo vậy. Nguyện hướng Vô thượng Bồ đề đạo ấy là vì nhiếp lấy tất cả các Phật pháp vậy. Nhiếp lấy tất cả Phật pháp ấy là vì bốn sự nhiếp thủ vậy.
Bồ Tát tu hành bốn sự nhiếp thủ ấy là vì sám hối các tội vậy. Bồ Tát tu hành pháp sám hối ấy là vì phát lồ các sự ác vậy. Bồ Tát tu hành phát lồ sự ác là vì hồi hướng tất cả các công đức vậy. Bồ Tát hồi hướng các công đức ấy là vì tích tụ vô lượng trân bửu vậy. Bồ Tát tích tụ vô lượng trân bửu ấy là vì khuyến thỉnh chư Phật vậy. Bồ Tát khuyến thỉnh chư Phật ấy là vì nhiếp các pháp vậy. Bồ Tát nhiếp thủ các pháp ấy là vì hành Đại Sĩ pháp vậy. Bồ Tát hành Đại Sĩ pháp ấy là vì có thể vì chúng sanh mà làm trọng nhiệm vậy. Bồ Tát vì chúng sanh làm trọng nhiệm ấy là vì chẳng bỏ vững chắc các trang nghiêm vậy. Bồ Tát chẳng bỏ vững chắc các trang nghiêm ấy là vì thành tựu chúng sanh các thiện sự vậy!
Còn nữa thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát có bốn hành vô tận, đó là tâm hành vô tận, pháp thí vô tận, giáo hoá vô tận và thiện căn vô tận.
Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là thích ở rảnh rang nhiếp trì oai nghi không có nhàm đủ, thường thích tụ tập vô lượng công đức mà không nhàm đủ, cầu nhiều học vấn rộng biết các nghĩa mà không nhàm đủ và thường nguyện Vô thượng Bồ đề trí huệ mà không nhàm đủ.
Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là rõ so tính vô tận, rõ cân lường vô tận, rõ tư duy vô tận và rõ quán pháp vô tận.
Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là rõ cấu nhơn vô tận, rõ bạch pháp vô tận, quở các phiền não vô tận và tán thán bạch pháp vô tận.
Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là quán các ấm tận vô tận, quán các giới tận vô tận, quán các nhập tận vô tận và quán nhơn duyên tận vô tận.
Bồ Tát còn có bốn hành vô tận, đó là thuyết vô thường hành vô tận, thuyết khổ hành vô tận, thuyết vô ngã hành vô tận và thuyết tịch diệt Niết bàn vô tận.
Tóm lại để nói, Bồ Tát sở hành tất cả đều vô tận: hướng Nhứt thiết trí, tôn Nhứt thiết trí, ngưỡng Nhứt thiết trí. Vì Nhứt thiết trí vô tận nên Bồ Tát sở hành tất cả đều vô tận.
Đây gọi là Bồ Tát tâm hành vô tận vậy.
(2517) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Còn nữa thưa Tôn giả! Bồ Tát ấy tâm cứu cánh vô tận, tại sao, vì chỗ tư duy nhẫn đến nhứt niệm của Bồ Tát thường duyên Bồ đề lòng chẳng nhàm mỏi, chuyên đến các địa vì qua khỏi sanh tử vậy, cứu cánh tăng trưởng vì đến bỉ ngạn vậy, cứu cánh bổn hành vì càng tăng thượng hơn vậy, cứu cánh lìa mang nặng vì nhiếp thắng pháp vậy, cứu cánh không ngang bằng vì đầy đủ tất cả Phật pháp vậy, cứu cánh sở duyên vì tăng trưởng thiện pháp vậy, cứu cánh có thể đến vì vượt quá tâm hành xứ vậy, cứu cánh trang nghiêm vì không mỏi nhàm vậy, cứu cánh tu hành cát tường Bồ đề vì các thứ khổ hạnh đều thành tựu vậy, cứu cánh chẳng trông mong vì chẳng cầu vui cho mình vậy, cứu cánh tuỳ thuận vì không có các ác vậy, cứu cánh điều phục vì an trụ thánh pháp vậy, cứu cánh chẳng xen tạp vì lìa phiền não vậy, cứu cánh bố thí khó vì chẳng tiếc đầu mắt vậy, cứu cánh giới cấm khó vì ủng hộ phạm cấm vậy, cứu cánh nhẫn nhục khó vì nhẫn các quá ác không có thế lực vậy, cứu cánh tinh tiến khó vì chuyên tu khổ hạnh bỏ nhị thừa vậy, cứu cánh thiền định khó vì chẳng tham trước các thiền định vậy, cứu cánh huệ khó vì chẳng tham trước tất cả thiện căn vậy, phát hành liền có thể đến vì tất cả thiện sự đều thành tựu vậy, cứu cánh xa lìa vì khéo phân biệt những mạn mạn, tăng thượng mạn, thắng mạn, ngã mạn, hạ mạn, kiêu mạn, tà mạn vậy, cứu cánh có thể xả thí vì ban cho chúng sanh chẳng cầu quả báo vậy, cứu cánh chẳng kinh sợ vì sâu quán Phật pháp thậm thâm vậy, cứu cánh tăng tiến vì chẳng đình trệ vậy, cứu cánh vô tận vì thường tinh tiến vậy, cứu cánh chẳng hư cuống vì quyết chắc vì chúng sanh mà làm kẻ gánh nặng vậy.
Lại nữa, cứu cánh ấy là điều nhu chúng sanh, là thương che lợi ích người hiền thiện, là thương cứu kẻ làm ác, là tôn kính bậc tôn trưởng, là thủ hộ kẻ không được hộ, là chỗ về cho kẻ không chỗ về, là đuốc soi cho kẻ không ánh sáng, là chỗ nương cho kẻ không nơi nương, là bạn cho kẻ không có bạn, là thẳng cho kẻ cong, là lành cho kẻ chăng lành, là không gian cho kẻ gian, thanh tịnh kẻ tà mạng, làm ơn cho người ơn và kẻ không ơn cùng kẻ chẳng biết ơn, làm lợi cho kẻ chẳng được lợi, chơn thiệt cho kẻ dối khi, chẳng kiêu với kẻ kiêu, chẳng phá hư tác giả, lời dịu dàng dạy răn các kẻ làm ác, hộ kẻ tà hành, thấy hành phương tiện chẳng cho là lỗi, với người thọ lãnh tâm bình đẳng cung kính, với Bồ Tát khác thường khuyên dắt, dùng lời dịu dàng để giảng dạy, thích ở chỗ vắng tu hành thiện pháp, lìa các lợi dưỡng chẳng tiếc thân mạng, không có tà niệm vì tâm tịch diệt vậy, không có tà siểm vì nhiếp lỗi nơi miệng vậy, chẳng dùng tà nghiệp để cầu lợi ích, tâm thường thiểu dục vì tri túc vậy, tâm điều nhu hoà vì không cấu uế vậy, trở lại ở sanh tử vì đủ thiện căn vậy, hay nhẫn các sự khổ vì chúng sanh vậy.
Đây là Đại Sĩ sở hành tất cả đều cứu cánh mà chẳng tận được vậy.
Tâm Bồ Tát ấy, sanh từ phiền não vĩnh viễn không phá hoại được, tại sao, vì tâm ấy tăng trưởng các công đức vậy, vì chứa nhận tất cả chúng sanh vậy, vì thành tựu vô tận diệu trí huệ vậy.
Đây gọi là đại Bồ Tát cứu cánh vô tận”.
Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Chừng còn có pháp vô tận nữa chăng?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Có. Bồ Tát tu hành Đàn Ba la mật chẳng thể cùng tận. Tại sao, vì đại Bồ Tát hành bố thí vô lượng, với kẻ cần ăn thì cho ăn vì đầy đủ mạng biện sắc lực lạc, kẻ cần uống cho uống vì trừ khát ái vậy, kẻ cần mặc cho y phục vì thanh tịnh sắc ấm không có hổ thẹn vậy, kẻ cần xe cho xe vì được tất cả món vật vui thích thần thông vậy, kẻ cần đèn cho đèn vì đủ Phật nhãn thanh tịnh vậy, kẻ cần âm nhạc cho âm nhạc vì đầy đủ thiên nhĩ thanh tịnh vậy, kẻ cần hương cho hương thơm vì thân phát xuất đủ hơi hương vi diệu vậy, kẻ cần tràng hoa cho tràng hoa vì đầy đủ đà la ni thất giác hoa vậy, kẻ cần hương xoa hương bột đều cho đủ đó vì có đủ giới định huệ ướp thân vậy, kẻ cần các thứ mùi vị đều theo ý muốn mà cho đó vì tướng vị cam lộ thành tựu vậy, kẻ cần y chỉ thì cho y chỉ vì có thể vì chúng sanh đầy đủ cứu hộ làm nơi quy y vậy, kẻ cần nệm trải lót đều cho đủ đó vì đầy đủ cứu cánh dứt trừ ấm cái thành tựu Phạm Thiên, Hiền Thánh chư Phật những giường ghế vi diệu vậy, kẻ cần toà ngồi cho toà ngồi vì đầy đủ tam thiên Đại Thiên thế giới dùng làm đạo tràng chỗ kim cương toà đều thành tựu vậy, kẻ cần những món cần dùng đều cho đủ cả vì thành tựu những thứ cần cho Bồ đề vậy, theo bịnh cho thuốc được không già chết vì cam lộ pháp dược đều thành tựu vậy, kẻ cần bốc sứ đều cấp cho vì tự tại trí huệ được đầy đủ vậy, nếu dùng kim ngân thất bửu thí cho vì đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn vậy, hay đem các thứ anh lạc thí cho vì đầy đủ tám mươi tuỳ hình hảo vậy, hay đem các thứ xe cộ voi ngựa thí cho vì đầy đủ Đại thừa vậy, nếu đem vườn rừng bố thí là vì đầy đủ các thiền chi vậy, nếu đem vợ con bố thí là vì đầy đủ pháp ái vô thượng đạo vậy, nếu đem kho tàng thóc gạo của cải bố thí là vì đầy đủ các kho báu thiện pháp vậy, nếu đem Diêm Phù Đề hoặc cả tứ thiên hạ bố thí là vì đầy đủ Pháp Vương được tự tại vậy, nếu đem các vật thích dùng để bố thí là vì đầy đủ vô lượng pháp lạc vui thích vậy, nếu đem chưn cẳng bố thí là vì đầy đủ thành tựu chưn pháp tiến đến đạo tràng vậy, nếu bố thí cánh tay là vì đầy đủ tay pháp vỗ về chúng sanh khiến được an vui vậy, nếu đem tai mũi bố thí là vì đầy đủ các căn thông lợi vậy, nếu bố thí tròng mắt là vì muốn đầy đủ pháp nhãn vô ngại vậy, nếu bố thí đầu là vì ở trong tam giới đầy đủ tất cả trí huệ thù thắng vậy. Nếu đem máu thịt bố thí là đem vật chẳng bền chắc đổi vật bền chắc vậy, nếu đem tuỷ não bố thí là vì được thân kim cương bất hoại vậy.
Bồ Tát chẳng hành tà mạng cầu có tài vật rồi đem bố thí, chẳng bức ép chúng sanh cưỡng cầu tài vật để bố thí cho kẻ khác, không khủng bố thí cho, không tủi hổ bố thí cho, không lẫn tiếc thí cho, đúng như chỗ đã hứa lúc cho không bớt giảm, không có chẳng thương mà thí cho, cứu cánh thường thí cho, không có chẳng cứu cánh thí cho, không có dua gièm bố thí, không có gian trá bố thí, chẳng nghi nghiệp báo bố thí, không có tà mạng bố thí, không có ngu si bố thí, không có chẳng tin bố thí, không có chẳng hiểu bố thí, không có mỏi nhàm bố thí khó, không có dựa nương bố thí, không có lựa chọn bố thí, không có hiện dị tướng bố thí, chẳng câu người thọ nhận bố thí, không có chúng sanh kẻ chẳng kham nhận trì giới phạm giới không có tăng giảm bố thí, nơi người thọ nhận không có mong báo đáp bố thí, chẳng cầu danh bố thí, chẳng chê khen bố thí, không có kiêu mạn chẳng kiêu mạn bố thí, không có nhiệt não bố thí, tâm chẳng hối tiếc bố thí, chẳng tự khen bố thí, không có tạp uế bố thí, chẳng mong nghiệp báo bố thí, không định xứ bố thí, không có giận hờn ái nhiễm bố thí, có kẻ đến xin chẳng não hại bố thí, không khinh khi bố thí, không nhăn mặt bố thí, chẳng ném quăng bố thí, không có chẳng cố ý bố thí, không có tay chẳng trao bố thí, không có chẳng thường bố thí, không có đoạn tuỵêt bố thí, không có ganh ghét kiêu mạn bố thí, không có chừng hạn bố thí, đúng như chỗ đã hứa không có thay đổi bố thí, không có kham nhiệm chẳng kham nhiệm bố thí, không có chẳng phải phước điền bố thí, chẳng khinh ít bố thí, chẳng khen nhiều bố thí, chẳng tiêu hao bố thí, chẳng cầu đời sau bố thí, chẳng cầu quả báo Phạm, Thích, Tứ Vương, Chuyển Luân Vương bố thí, chẳng nguyện Thanh Văn, Duyên Giác thừa bố thí, chẳng cầu Vương tử được tự tại bố thí, chẳng vì một đời bố thí, chẳng nhàm đủ bố thí, không có chẳng hồi hướng Nhứt thiết trí bố thí, không có bất tịnh bố thí, không có đao độc bố thí, không có não hại chúng sanh bố thí.
Bồ Tát hành bố thí chẳng bị người trí khinh cười, tại sao, vì quán không tịch hành bố thí vì vậy nên vô tận, không làm có công ơn bố thí nên vô tận, ra khỏi tướng tam hữu bố thí nên vô tận, chẳng lấy chỗ nơi nên vô tận, vì quả giải thoát là bố thí vô tận, vì phục chúng ma là bố thí vô tận, vì dứt kiết ái là bố thí vô tận, vì tăng thượng bố thí nên vô tận, khéo phân biệt bố thí nên vô tận, trợ Bồ đề bố thí nên vô tận, chánh hồi hướng bố thí nên vô tận, trang nghiêm đạo tràng giải thoát quả bố thí nên vô tận, thí ấy vô biên nên vô tận, thí ấy không hư hoại nên vô tận, thí ấy chẳng đoạn dứt nên vô tận, thí ấy quảng đại nên vô tận, thí ấy vô trụ nên vô tận, thí ấy vô phục nên vô tận, vô đẳng đẳng bố thí nên vô tận, thí ấy tiến đến Nhứt thiết chủng trí nên vô tận.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành bố thí mà chẳng thể cùng tận được”.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: “Lành thay lành thay, bạch Đại Sĩ! Vâng, Ngài nói rất tốt về đại Bồ Tát hành Đàn Ba la mật chẳng thể cùng tận.
(2520) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Duy nguyện Đại Sĩ nói về Bồ Tát Thi Ba la mật như Bồ Tát Thi Ba la mật chẳng thể cùng tận”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bồ Tát giới tụ sáu mươi bảy sự thanh tịnh tu trị cũng chẳng thể cùng tận.
Những gì là sáu mươi bảy sự?
Với các chúng sanh chẳng khởi não hại. Nơi tài vật của kẻ khác chẳng trộm cắp. Nơi phụ nữ người chẳng sanh lòng tà. Nơi các chúng sanh chẳng khi dối phỉnh gạt. Chẳng hề lưỡng thiệt vì nơi quyến thuộc mình biết an đủ vậy. Không có ác khẩu vì nhịn thô uế vậy. Không có ỷ ngữ vì khéo nói vậy. Nơi sự vui của người chẳng tham ganh vậy. Không hề giận tức vì nhịn lời mắng nhiếc vậy. Chánh kiến chẳng tà vì coi rẻ đạo khác vậy. Thâm tín nơi Phật vì tâm chẳng trược vậy. Thâm tín nơi Pháp vì khéo quán pháp vậy. Kính tín nơi Tăng vì tôn trọng Thánh chúng vậy. Năm vóc gieo xuống đất vì chí niệm Phật vậy. Năm vóc gieo xuống đất vì tư duy Pháp vậy. Năm vóc gieo xuống đất vì tôn kính Tăng vậy. Kiên trì cấm giới tất cả không phạm vì nhẫn đến điều cấm giới nhỏ cũng không buông bỏ vậy. Thọ trì giới chẳng kém khuyết vì chẳng y theo các thừa khác vậy. Thọ trì giới chẳng xuyên tạc vì lìa sanh xứ ác vậy. Trì giới chẳng hoang vì chẳng tạp các kiết sử vậy. Trì giới chẳng ô nhiễm vì chuyên tăng trưởng bạch pháp vậy. Trì giới thuần thiện vì chánh niệm biết rõ vậy. Trì giới chẳng quở trách vì tất cả giới chẳng tản mất vậy. Trì giới lành chắc vì phòng hộ các căn vậy. Trì giới danh tiếng tốt vì được Phật hộ niệm vậy. Trì giới tri túc vì không có chẳng nhàm chán vậy. Trì giới thiểu dục vì chẳng tham lẫn vậy. Trì giới tánh thanh tịnh vì thân tâm tịch diệt vậy. Trì giới a lan nhã vì lìa ồn náo vậy. Trì thánh chủng giới vì chẳng cầu ý khác vậy. Trì oai nghi giới vì tất cả thiện căn được tự tại vậy. Trì như thuyết giới vì nhơn thiên hoan hỷ vậy. Trì từ tâm giới vì thủ hộ chúng sanh vậy. Trì bi tâm giới vì hay nhẫn các sự khổ vậy. Trì hỷ tâm giới vì tâm chẳng giải đãi vậy. Trì xả tâm giới vì lìa tham ái sân khuể vậy. Trì tự tỉnh giới vì khéo phân biệt vậy. Trì giới chẳng tìm kém dở của người vì thủ hộ tâm người vậy. Trì giới khéo nhiếp thủ vì khéo thủ hộ vậy. Trì giới ban cho vì giáo hoá chúng sanh vậy. Trì nhẫn nhục giới vì tâm không giận ngại vậy. Trì tinh tiến giới vì tâm không thối huờn vậy. Trì thiền định giới vì tăng trưởng thiền chi vậy. Trì trí huệ giới vì đa văn thiện căn chẳng nhàm đủ vậy. Trì đa văn giới vì học rộng vững chắc vậy. Trì giới thân cận thiện tri thức vì trợ thành Bồ đề vậy. Trì xa lìa ác tri thức giới vì xa lìa ác đạo vậy. Trì giới chẳng tiếc thân vì quán tưởng vô thường vậy. Trì giới chẳng tiếc mạng vì siêng hành thiện căn vậy. Trì giới chẳng hối tiếc vì tâm thanh tịnh vậy. Trì giới chẳng tà mạng vì tâm hành thanh tịnh vậy. Trì giới chẳng nhiệt não vì cứu cánh thanh tịnh vậy. Trì giới chẳng đốt cháy vì tu thiện nghiệp vậy. Trì giới chẳng kiêu mạn vì tâm thấp chẳng kiêu vậy. Trì giới chẳng điệu cử vì xa lìa các dục vậy. Trì giới chẳng tự cao vì tâm bằng thẳng vậy. Trì giới nhu hoà vì tâm không chống đối vậy. Trì giới điều phục vì không não hại vậy. Trì giới tịch diệt vì tâm không cấu uế vậy. Trì giới thuận theo lời vì như thuyết hành vậy. Trì giới giáo hoá chúng sanh vì chẳng rời nhiếp pháp vậy. Trì giới hộ chánh pháp vì chẳng trái như thiệt vậy. Trì như nguyện thành tựu giới vì các chúng sanh tâm bình đẳng vậy. Trì giới thân cận Phật vì nguyện cầu Như Lai vô thượng giới vậy. Trì giới nhập Phật tam muội vì đầy đủ các Phật pháp vậy.
Đây gọi là Bồ Tát sáu mươi bảy sự tịnh giới tụ mà chẳng thể cùng tận được.
Lại nầy Tôn giả! Trong vô tận thanh tịnh giới của Bồ Tát không có dựa dính. Đó là phá tất cả tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, sĩ phu, dưỡng dục, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, địa, thuỷ, hoả, phong.
Trong tịnh giới ấy không có tướng nhãn sắc, nhĩ thanh, tỷ hương, thiệt vị, thân xúc, ý pháp, cũng không có thân tâm vì định hướng của giới ấy hẳn chẳng cùng chung vậy. Vì phân biệt tướng của giới ấy phương tiện duyên của tất cả các pháp vậy. Vì không tướng của giới ấy được vô tướng tế chẳng xen tạp tam giới vậy. Giới ấy bất tác vì Vô sanh nhẫn vậy. Trong tịnh giới ấy không có đã làm sẽ làm đang làm. Tịnh giới ấy quá khứ chẳng diệt vị lai chẳng đến hiện tại chẳng dừng ở.
Lại nầy Tôn giả! Trong tịnh giới ấy tâm tịnh vô cấu, thức chẳng dừng ở và tư duy chẳng thân cận. Tịnh giới ấy chẳng dựa Dục giới, chẳng gần Sắc giới, chẳng ở Vô Sắc giới. Tịnh giới ấy bỏ lìa dục trần trừ sân ngại, diệt vô minh chướng. Tịnh giới ấy chẳng đoạn chẳng thường chẳng nghịch nhơn duyên. Tịnh giới ấy không có ngã tướng bỏ ngã sở tướng chẳng ở thân kiến. Tịnh giới ấy chẳng lấy giả danh chẳng ở sắc tướng chẳng tạp danh sắc. Tịnh giới ấy chẳng hệ thuộc nơi nhơn chẳng khởi kiến chấp chẳng ở nghi hối. Tịnh giới ấy không có tham sân si không tham trước thiện căn. Tịnh giới ấy chẳng não chẳng nhiệt tịch diệt ly tướng. Tịnh giới ấy chẳng đoạn dứt Phật chủng vì cầu chánh pháp vậy, chẳng đoạn dứt pháp chủng vì chẳng phân biệt pháp tánh vậy, chẳng đoạn dứt Tăng chủng vì tu vô vi vậy.
Thưa Tôn giả! Người trì tịnh giới tương tục chẳng đoạn dứt nên vô tận. Tại sao vậy?
Vì phàm phu giới tại thân thọ sanh nên có tận. Trong loài người thập thiện tận nên có tận. Chư Thiên cõi Dục phước báu công đức tận nên có tận. Chư Thiên cõi Sắc các thiền vô lượng tâm tận nên có tận. Chư Thiên cõi Vô Sắc định được nhập tận nên có tận. Ngoại đạo tiên nhơn có những giới cấm thối thất thần thông tận nên có tận. Tất cả Thanh Văn học vô học giới nhập Niết bàn tế tận nên có tận. Bích Chi Phật giới không có tâm đại bi tận nên có tận.
Bồ Tát tịnh giới không có tận. Tại sao? Trong tịnh giới ấy xuất sanh tất cả giới, như giống vô tận nên quả cũng vô tận. Vì Bồ Tát chủng ấy chẳng thể cùng tận nên Như Lai giới cấm cũng chẳng thể cùng tận. Vì vậy nên tịnh giới được chư Đại Sĩ thọ trì đều chẳng thể cùng tận được.
Đây gọi là đại Bồ Tát tu trì tịnh giới mà chẳng cùng tận được”.
(2522) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Tận Ý Bồ Tát: “Lành thay lành thay, Đại Sĩ đã nói tốt về Thi la Ba la mật chẳng thể cùng tận được của đại Bồ Tát. Duy nguyện Đại Sĩ nói về Sằn đề Ba la mật chẳng thể cùng tận được của chư đại Bồ Tát”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bồ Tát có đủ ba mươi hai sự tu hành nhẫn nhục cũng chẳng thể cùng tận được.
Những gì là ba mươi hai sự?
Vì đoạn dứt các kiết sử nên biết là nhẫn. Vì chẳng sanh hại nên biết là nhẫn. Vì không có triền phược nên biết là nhẫn. Vì không có phiền não nên biết là nhẫn. Vì không có trùm che nên biết là nhẫn. Vì không có sân nên biết là nhẫn. Vì không có tức giận tranh cãi nên biết là nhẫn. Vì không có đấu tụng nên biết là nhẫn. Vì nơi các trần giới tâm không có sai khác nên biết là nhẫn. Vì thủ hộ mình và người nên biết là nhẫn. Vì thuận tâm Bồ đề nên biết là nhẫn. Vì khéo tư duy nên biết là nhẫn. Vì không có hai tưởng nên biết là nhẫn. Vì biết nghiệp báo nên biết là nhẫn. Vì trang nghiêm thân nên biết là nhẫn. Vì miệng nói lời thanh tịnh nên biết là nhẫn. Vì tâm thanh tịnh nên biết là nhẫn. Vì tâm vững chắc nên biết là nhẫn. Vì ngôn ngữ tự tại nên biết là nhẫn. Vì nhớ biết nên biết là nhẫn. Vì khéo phân biệt tâm nên biết là nhẫn. Vì thủ hộ tâm người nên biết là nhẫn. Vì tu Phạm Thế hạnh nên biết là nhẫn. Vì thọ báo nhơn thiên nên biết là nhẫn. Vì thân tướng thù thắng nên biết là nhẫn. Vì đủ phạm âm vi diệu nên biết là nhẫn. Vì trừ các lỗi tội nên biết là nhẫn. Vì dứt các cấu uế nên biết là nhẫn. Vì dứt tất cả bất thiện căn nên biết là nhẫn. Vì giết các giặc kiết sử nên biết là nhẫn. Vì nơi sự não hại chúng sanh đều được siêu việt nên biết là nhẫn. Vì đầy đủ tất cả Phật pháp nên biết là nhẫn.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành ba mươi hai sự nhẫn nhục mà chẳng thể cùng tận được.
Thưa Tôn giả! Thế nào là nhẫn? Nếu bị người mắng nín lặng thọ chẳng báo, vì khéo biết âm thanh như tiếng vang vậy. Bị người quở trách nín lặng thọ đó vì khéo biết thân tướng như ảnh tượng vậy. Bị người giận lòng chẳng hờn vì khéo biết tâm tướng như ảo huyễn vậy. Bị giận tức chẳng báo vì tâm không tức vậy. Nghe được xưng danh tâm không ái trước vì chẳng tự cao vậy. Nghe chẳng xưng danh tâm cũng không ngại vì công đức đầy đủ vậy. Nếu gặp vinh lợi tâm chẳng vui mừng vì khéo tự điều phục vậy. Nếu gặp suy hao tâm không quái ngại vì tâm tịch diệt vậy. Được người khen tâm chăng kinh động vì khéo biết phân biệt vậy. Bị người chê tâm không rút mất vì tâm quảng đại vậy. Bị người khi dễ tâm không hạ vì khéo an trụ vậy. Được tôn trọng tâm không cao vì chẳng khuynh động vậy. Gặp sự vui tâm chẳng hoan dật vì biết pháp hữu vi là tướng vô thường vậy. Nếu gặp sự khổ tâm không chán mỏi vì chúng sanh vậy. Thế pháp chẳng nhiễm vì chẳng y chỉ vậy. Nhẫn thọ các khổ thấy kẻ bị nguy bức đem thân thay họ. Nhẫn chịu tay chưn bị chặt gãy vì đầy đủ giác chi vậy. Các khổ hại thân đều có thể nhẫn thọ vì đầy đủ tướng thân Phật vậy. Nhẫn tội lỗi của người vì khéo làm nghiệp lực vậy. Thị hiện đốt nóng tu các khổ hạnh vì hàng phục ngoại đạo vậy. Thị hiện vào ngũ đạo vì vượt quá Thích, Phạm, Tứ Vương và chư Thiên vậy.
Đây gọi là Bồ Tát nhẫn nhục vậy.
Lại cứu cánh nhẫn ấy không có tranh tụng. Tại sao? Nếu thấy người mắng mà ta hay nhẫn, là thấy có hai tướng, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Nếu nói ai mắng ta, nhẫn nhục như vậy là pháp công đức, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Hoặc là mắng nhãn ư, mắng nhĩ ư, mắng tỷ ư, mắng thiệt ư, mắng thân ư, mắng ý ư? Nhẫn như vậy là quán tướng lục nhập chẳng phải cứu cánh nhẫn. Nếu không người mắng, nhẫn nhục như vậy là quán vô ngã, chẳng phải cứu cánh.Nếu biết giả danh, nhẫn như vậy là quán tướng mắng chẳng phải cứu cánh nhẫn. Người và ta đều là vô thường, nhẫn như vậy là quán vô thường, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Họ điên đảo ta chẳng điên đảo, nhẫn như vậy là quán cao hạ, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Họ chẳng siêng tu ta siêng tu, nhẫn như vậy là quán siêng lười, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Họ ở ác đạo ta ở thiện đạo, nhẫn như vậy là quán thiện ác, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Ta nhẫn vô thường chẳng nhẫn có thường, ta hay nhẫn khổ chẳng thọ các lạc, ta nhẫn vô ngã chẳng nhẫn hữu ngã, ta nhẫn bất tịnh chẳng nhẫn có tịnh, nhẫn như vậy là quán có đối đãi, chẳng phải cứu cánh nhẫn. Ta nhẫn nơi rỗng không chẳng nhẫn các kiến, ta nhẫn vô tướng chẳng nhẫn các giác quán, ta nhẫn vô nguyện chẳng nhẫn nơi nguyện, ta nhẫn vô tác chẳng nhẫn có tác, ta nhẫn kiết sử hết chẳng nhẫn kiết sử còn, ta nhẫn pháp thiện chẳng nhẫn pháp bất thiện, ta nhẫn xuất thế chẳng nhẫn tại thế, ta nhẫn vô tranh chẳng nhẫn có tranh, ta nhẫn vô lậu chẳng nhẫn có lậu, ta nhẫn bạch pháp chẳng nhẫn hắc pháp, ta nhẫn tịch diệt chẳng nhẫn sanh tử, nhẫn như vậy là quán tương đối, chẳng phải cứu cánh nhẫn.
Thế nào gọi là cứu cánh nhẫn?
Nếu nhập không tịch chẳng cùng các kiến chấp hoà hiệp, chẳng dựa lấy không, các kiến ấy cũng là rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập vô tướng chẳng cùng các giác hoà hiệp, chẳng dựa lấy vô tướng, các giác ấy đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập vô nguyện, chẳng cùng nguyện hoà hiệp, chẳng dựa lấy vô nguyện, các nguyện ấy đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập vô tác chẳng cùng các tác hoà hiệp, chẳng dựa nơi vô tác, các tác ấy đều không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập tận kiết chẳng cùng các kiết hoà hiệp, chẳng dựa nơi tận kiết, các kiết ấy cũng đều không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập nên thiện chẳng cùng bất thiện hoà hiệp, chẳng dựa nơi thiện, các bất thiện cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập xuất thế chẳng cùng thế hoà hiệp, chẳng dựa xuất thế, các thế ấy cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập vô tranh chẳng cùng tranh hoà hiệp, chẳng dựa vô tranh các tranh ấy cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập vô lậu chẳng cùng lậu hoà hiệp, chẳng dựa vô lậu các lậu ấy cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập bạch pháp chẳng cùng hắc pháp hoà hiệp, chẳng dựa bạch pháp các hắc pháp đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu nhập tịch diệt chẳng cùng sanh tử hoà hiệp, chẳng dựa tịch diệt sanh tử cũng đều rỗng không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, là cứu cánh nhẫn.
Nếu tánh chẳng tự sanh chẳng cùng tha sanh chẳng hoà hiệp sanh, cũng không có xuất, chẳng thể phá hoại, chẳng thể phá hoại ấy là chẳng thể tận, Nhẫn như vậy là cứu cánh nhẫn.
Không có tác không có chẳng tác, không chỗ dựa lấy, không có phân biệt, không có trang nghiêm, không có tu trị, không có phát tiến, trọn chẳng tạo sanh, nếu vô sanh ấy là chẳng thể tận, nhẫn như vậy là Vô sanh nhẫn, Vô sanh nhẫn ấy là vô xuất nhẫn, vô xuất nhẫn ấy là cứu cánh nhẫn.
Bồ Tát tu hành cứu cánh nhẫn như vậy được thọ ký nhẫn.
Đây gọi là Bồ Tát hành nhẫn vô tận vậy”.
Lúc nói pháp ấy, tất cả đại chúng khen Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Lành thay lành thay! Vô Tận Ý nói các nhẫn rất hay!”.
Đại chúng nói lời khen ngợi xong liền mưa các thứ hoa ít có và hương bột, hương xoa, vô số y phục đẹp, tràng phan, lọng báu để dâng cúng dường Vô Tận Ý đại Bồ Tát.
Trăm ngàn kỹ nhạc ở trên không tự nhiên phát thanh, nói rằng: “Nếu có các chúng sanh muốn được Như Lai thậm thâm nhẫn ấy, nghe lời nói ấy chẳng nên kinh sợ”.
(2525) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Lúc bấy giờ các hương hoa, tạp y, phan lọng đầy khắp cả tam Thiên Đại Thiên thế giới.
Đức Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Nầy Vô Tận Ý! Các vật hoa hương ngươi được cúng dường ấy, người tự tìm khí cụ đựng lấy trừ sạch hết đi”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Vâng, bạch đức Thế Tôn! Nay tôi sẽ dùng thần thông chính thân mình làm đồ đựng”.
Vô Tận Ý Bồ Tát liền nhập Bồ Tát sắc thân tam muội, nhập tam muội rồi bao nhiêu vật cúng dường đều nhập hết vào trong rún, thân thể như cũ chẳng tăng chẳng giảm.
Trong đại chúng có một Bồ Tát tên là Đại Trang Nghiêm hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Tam muội Ngài nhập ấy tên là gì mà Ngài nhập rồi tất cả món vật cúng dường đều nhập vào thân, thân Ngài như cũ không có tăng giảm?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Bạch Đại Sĩ! Tam muội ấy tên là Nhứt thiết sắc thân tam muội”.
Đại Trang Nghiêm Bồ Tát hỏi: “Bạch Đại Sĩ! Tam muội ấy chừng còn có thế lực khác chăng?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Bạch Đại Sĩ! Thế lực tam muội ấy có thể làm cho thân thể thọ nhận hết cả tam thiên Đại Thiên thế giới có bao nhiêu những sắc tướng, thân thể như cũ cũng không có tăng giảm”.
Trong đại chúng có hàng nhơn thiên suy nghĩ rằng: Chừng có thể thấy được thế lực của tam muội ấy chăng?
Đức Phật biết tâm niệm của đại chúng bèn bảo Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Nầy Vô Tận Ý! Ông nên thị hiện thần lực của tam muội ấy”.
Vô Tận Ý Bồ Tát từ lâu đã thông đạt tam muội ấy, vì vậy nên có thể đem tất cả đại chúng, chư Bồ Tát từ mười phương đến hội cùng Phật và Thánh Tăng đều nạp vào trong thân mình. Thân ấy lúc bấy giờ dường như thế giới Đại Bửu Trang Nghiêm thọ tất cả các sự trang nghiêm của đại Bồ Tát. Đại chúng đều tự thấy thân mình ở trong thân của Vô Tận Ý Bồ Tát.
Vô Tận Ý Bồ Tát thị hiện đại thần thông như vậy rồi đại chúng đều huờn lại như cũ.
Đại Trang Nghiêm Bồ Tát hỏi Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Từ trước tới nay tôi chưa từng được thấy nghe thần thông biến hoá của tam muội ấy”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Bạch Đại Sĩ! Giả sử trọn cả tam thiên Đại Thiên thế giới nhập cả vào thân tôi còn không có tăng giảm huống là chỉ có nơi đại hội nầy”.
Lúc nói vô tận nhẫn nhục và thị hiện thần thông biến hoá ấy, có bảy mươi sáu na do tha chư thiên và thế nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề, một vạn hai ngàn đại Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Lành thay lành thay, Ngài đã nói rất tốt về Nhẫn nhục Ba la mật chẳng thể tận rồi, duy nguyện Ngài nói về Tinh tiến Ba la mật vô tận của Bồ Tát được”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bồ Tát có đủ tám sự hành tinh tiến chẳng thể tận.
Những gì là tám sự?
Phát đại trang nghiêm không có tận. Tích tập dũng tiến không có tận. Tu hành các thiện pháp không có tận. Giáo hoá chúng sanh không có tận. Trợ đạo công đức không có tận. Trợ vô thượng trí không có tận. Trợ vô thượng huệ không có tận. Họp trợ Phật pháp mà chẳng thể tận.
Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm vô tận?
Bồ Tát nơi các sanh tử tâm không mỏi mệt, chẳng tính kiếp số sẽ thành Phật đạo, còn bao nhiêu kiếp mà làm trang nghiêm, còn bao nhiêu kiếp chẳng làm trang nghiêm. Bồ Tát trang nghiêm trải qua kiếp số chẳng thể kể tính.
Như từ ngày hôm nay đến sanh tử vốn là một ngày một đêm. Ba mười ngày như vậy là một tháng, mười hai tháng là một năm. Ở trăm ngàn muôn năm ấy một lần phát đạo tâm, một lần thấy Phật. Phát tâm và thấy Phật như vậy số đến bằng số cát sông Hằng. Ở bên ngần ấy số chư Phật như vậy mới biết được tâm hành của một chúng sanh. Như vậy cho đến biết khắp tâm sở hành của tất cả chúng sanh mà vẫn chẳng thối thất trang nghiêm.
Đây gọi là trang nghiêm chẳng giải đãi, gọi là vô tận trang nghiêm.
Trải qua số lần thấy Phật phát tâm như vậy, lúc biết tâm sở hành của chúng sanh kia thường tu đầy đủ Đàn Ba la mật, Thi Ba la mật, Sằn đề Ba la mật, Tý lê gia Ba la mật, Thiền Ba la mật và Bát Nhã Ba la mật, cũng tu đầy đủ pháp trợ Bồ đề, đầy đủ tu tướng hảo Thập lực, Vô uý, pháp Bất cộng, tu đầy đủ tất cả Phật pháp.
Đây gọi là trang nghiêm chẳng giải đãi, gọi là vô tận trang nghiêm.
Nếu có Bồ Tát nghe lời nầy mà chẳng kinh chẳng bố chẳng uý, nên biết Bồ Tát ấy tinh tiến chẳng giải đãi.
Đây gọi là Bồ Tát trang nghiêm vô tận.
Thế nào là Bồ Tát dũng tiến vô tận?
Giả sử cả tam thiên Đại Thiên thế giới có lửa mạnh đầy trong ấy, phải đi ngang qua lửa mạnh ấy để thấy Phật, hoặc vì nghe pháp giáo hoá chúng sanh đặt để chúng sanh nơi thiện pháp cũng phải đi ngang qua lửa mạnh ấy, Bồ Tát vẫn làm không thối thất.
Đây gọi là Bồ Tát dũng tiến vô tận.
Duyên cớ gì mà gọi là dũng tiến?
Vì thường vì kẻ khác vậy, vì tịnh kẻ khác vậy, vì điều phục kẻ khác vậy, vì diệt tận cho kẻ khác vậy, mà thường chẳng giải đãi chậm trễ vẫn vững chắc chẳng thối thất, tâm luôn ở trong đại bi thường siêng cần tinh tiến mà vì chúng sanh nên gọi là dũng tiến.
Mỗi bước đi Bồ Tát luôn chế ngự tâm mình đều hướng đến Bồ đề, thường quán sát chúng sanh để hoá độ, dầu quán sát như vậy mà chẳng hề khởi phiền não.
Đây gọi là Bồ Tát dũng tiến vô tận.
Thế nào là Bồ Tát tu tập vô tận?
Như tất cả thiện tâm đã được phát khởi thường nguyện Bồ đề, đây gọi là Bồ Tát tu tập vô tận. Tại sao vậy? Vì đem các thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề không có cùng tận vậy.
Thưa Tôn giả! Ví như trời mưa một giọt nước rơi vào trong đại hải, giọt nước mưa ấy dầu nhỏ mà trọn không hề diệt tận. Bồ Tát thiện căn nguyện hướng Bồ đề không có diệt tận cũng như vậy.
Tu tập thiện căn ấy, đó là chánh hồi hướng tu tập thiện căn, vì thủ hộ chúng sanh tu tập thiện căn, vì tuỳ theo chỗ cần dùng của chúng sanh mà tu tập thiện căn, vì muốn thành tựu Nhứt thiết trí mà tu tập thiện căn.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành tập họp vô tận vậy.
Thế nào là Bồ Tát giáo hoá vô tận?
Tánh của chúng sanh chẳng thể kể đếm, Bồ Tát ở trong đó chẳng nên kể đếm.
Nếu có Bồ Tát trong một ngày giáo hoá tất cả chúng sanh đầy trong tam thiên Đại Thiên thế giới, tính số như vậy nhẫn đến vô lượng bất khả tư nghị bất khả xưng số kiếp giáo hoá chúng sanh, dầu có giáo hoá chúng sanh bất khả xưng kế bất khả tư nghị như vậy, mà ở nơi phần chúng sanh còn chưa giáo hoá được một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến toán số thí dụ chúng sanh được biết. Tại sao? Vì tánh chúng sanh ấy vô lượng vô biên bất khả xưng kế bất khả tư nghì vậy.
Nếu Bồ Tát nghe lời ấy mà chẳng kinh, chẳng bố, chẳng uý, nên biết Bồ Tát nầy siêng tu tinh tiến.
Đây gọi là Bồ Tát giáo hoá vô tận.
Thế nào là Bồ Tát trợ đạo vô tận?
Bồ Tát tu hành trợ đạo công đức vô lượng vô biên, ở trong ấy Bồ Tát chẳng nên hạn lượng. Tại sao? Vì tất cả chúng sanh có bao nhiêu công đức hoặc từ quá khứ, vị lai hoặc hiện tại, cùng tất cả Thanh Văn. Duyên Giác có bao nhiêu công đức, tập họp tất cả công đức phàm thánh ấy lại mới là thành tựu công đức của một lỗ lông nơi thân Phật Thế Tôn. Công đức của mỗi mỗi lỗ lông như vậy nhẫn đến tất cả lỗ lông tập họp lại mới thành công đức của một tuỳ hình hảo của thân Như Lai. Công đức của mỗi mỗi tuỳ hình hảo như vậy nhẫn đến tất cả tuỳ hình hảo tập họp lại mới thành công đức của một tướng đại nhơn của Như Lai. Công đức của mỗi mỗi tướng như vậy nhẫn đến ba mươi tướng, tập họp công đức trăm lần ba mươi tướng như vậy mới thành công đức bạch hào giữa chặn hai chưn mày của Như Lai. Tập họp công đức của trăm ngàn bạch hào như vậy mới thành công đức vô kiến đảnh tướng của Như Lai.
Đây gọi là Bồ Tát trợ đạo công đức vô tận.
Thế nào là Bồ Tát trợ trí vô tận?
Trợ trí được Bồ Tát tu tập vô lượng vô biên, ở trong ấy Bồ Tát chẳng nên hạn số. Tại sao? Như trí của tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới bằng trí được thành của một vị Tín thành. Trí tín thành như vậy so với trí được thành tựu của một vị Pháp hành thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được bực Pháp hành, so với trí được thành tựu của một vị Bát nhơn thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều là bực bát nhơn, so với trí được thành tựu của một vì Tu Đà Hoàn, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Tu Đà Hoàn, so với trí được thành tựu của một vị Tư Đà Hàm, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Tư Đà Hàm, so với trí được thành tựu của một vị A Na Hàm thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí A Na Hàm, so với trí được thành tựu của một vị A La Hán thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí A La Hán , so với trí được thành tựu của một vị Duyên Giác thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Duyên Giác, so với trí được thành tựu của một vị Bồ Tát trăm kiếp, thì chẳng bằng Một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí của Bồ Tát trăm kiếp, so với trí được thành tựu của một Bồ Tát đắc nhẫn, thì chẳng bằng Một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí Bồ Tát đắc nhẫn, so với trí được thành tựu của một Bồ Tát bất thối, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí của Bồ Tát bất thối, so với trí được thành tựu của một Bồ Tát bổ xứ, thì chẳng bằng Một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ. Nếu tất cả chúng sanh trong Đại Thiên thế giới đều được trí của một bổ xứ Bồ Tát, so với trí thị xứ phi xứ của một Như Lai, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn vạn, nhẫn đến chẳng bằng một phần toán số thí dụ.
Tóm lại, Như Lai Thập lực, Tứ vô uý, Thập bát bất cộng pháp cũng như vậy.
Nếu Bồ Tát được nghe lời ấy mà chẳng kinh chẳng bố, chẳng uý, thì nên biết Bồ Tát nầy siêng tu tinh tiến.
Đây gọi là Bồ Tát trợ trí vô tận.
(2529) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thế nào là Bồ Tát trợ huệ vô tận?
Tất cả chúng sanh có những tâm hành chẳng thể cùng tận, ở trong ấy Bồ Tát chẳng nên đếm tính.
Như quá khứ, vị lai, hiện tại tất cả chúng sanh có những tâm hành, nếu có một người trong một niệm đủ những tâm hành của tam thế chúng sanh như vậy, mỗi mỗi niệm cũng đều có đủ những tâm hành như vậy. Như một người có đủ tâm hành như vậy, tất cả vô lượng vô biên chúng sanh đều cũng như vậy. Như tất cả tam thế chúng sanh có những tham dục sân khuể ngu si và các phiền não, nếu có một người trong một niệm có đủ những phiền não như vậy của tất cả tam thế chúng sanh, mỗi mỗi niệm đều cũng có đủ phiền não như vậy. Như một người có đủ phiền não như vậy, tất cả vô lượng vô biên chúng sanh đều cũng như vậy. Như tất cả tam thế chúng sanh có những kiết sử, nếu có một người trong một niệm có đủ những kiết sử như vậy của tất cả tam thế chúng sanh, mỗi mỗi niệm đều cũng có đủ kiết sử như vậy. Như một người có đủ những kiết sử như vậy, tất cả vô lượng vô biên chúng sanh đều cũng như vậy.
Bồ Tát ở trong ấy sanh huệ quang minh. Một niệm huệ quang không có các trần lao che mờ đều chiếu rõ quá khứ, vị lai, hiện tại tất cả chúng sanh những phiền não cảnh sở duyên của các tâm hành những sanh trụ dị diệt đều không sót thừa. Bồ Tát nầy ở nơi tất cả tam thế chúng sanh phiền não tương ưng không gì chẳng biết rõ hết.
Ví như hư không kia không gì chẳng trùm chứa, cũng vậy, Bồ Tát huệ quang không chỗ nào chẳng chiếu rõ.
Nếu Bồ Tát nghe lời nầy mà chẳng kinh chẳng bố chẳng uý, thì nên biết Bồ Tát nầy siêng tu tinh tiến.
Đây gọi là Bồ Tát trợ huệ vô tận.
Thế nào là Bồ Tát tu tập trợ Phật pháp vô tận?
Bồ Tát sở hành tu tập trợ Phật pháp vô lượng vô biên, ở trong đó Bồ Tát chẳng nên hạn lượng. Từ lúc sơ phát tâm đến khi ngồi đạo tràng Bồ đề, thời gian chặng giữa tu hành đầy đủ sáu Ba la mật, tu hành đầy đủ các pháp trợ đạo. Tất cả phát tâm tu hành tất cả thiện căn như vậy bất khả xưng kế thảy đều trợ Phật pháp. Đây gọi là Bồ Tát tu hành trợ Phật pháp mà không có tận.
Đây gọi là Bồ Tát tám sự tu hành tinh tiến vô tận vậy.
Còn nữa, thưa Tôn giả! Bồ Tát tinh tiến cũng chẳng thể tận. Hoặc thân thiện nghiệp, hoặc khẩu thiện, nghiệp hoặc ý thiện nghiệp thường siêng chẳng giải đãi. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát tu hành tinh tiến thường tương ưng với thân khẩu ý. Dầu thân khẩu tinh tiến mà đều do nơi tâm, tâm là tăng thượng.
Thế nào là Bồ Tát tâm tinh tiến?
Đó là tâm thuỷ và tâm chung.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì là sơ phát tâm vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì là Bồ đề tâm tịch diệt vậy.
Thế nào là tâm thuỷ?
Vì ở nơi chúng sanh khởi đại bi vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì là không có ngã nhơn vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì nhiếp chúng sanh vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì chẳng lấy các pháp vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì chẳng nhàm sanh tử vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì không có tam giới vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì xả thí sở hữu vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì không có khinh khi vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì thọ trì giới vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì chẳng trì giới vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì tu hành nhẫn nhục vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì không có giận tranh vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì phát hành các thiện pháp vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì riêng một chẳng xen tạp vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì tu tập chánh định vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì tâm thanh tịnh vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì đa văn không nhàm vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì thiện tư duy vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì tập thưa hỏi thâm nghĩa vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì pháp không có ngôn thuyết vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì cầu trí huệ vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì đoạn dứt hí luận vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là tu bốn phạm hạnh vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì xả bỏ chơn trí vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì đủ ngũ thông vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì đủ lậu tận vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là phát hành niệm xứ vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì niệm không có tư duy vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Vì phát hành chánh cần vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì lìa thiện và bất thiện vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là phát hành như ý phần vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì đủ báo đắc vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là phát phương tiện các căn vậy.
Thế nào là tâm chung? Là quán các căn pháp vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là tập họp các lực vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì trí chẳng hư hoại vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là phát trợ Bồ đề phần vậy.
Thế nào là tâm chung? Là khéo biết phân biệt phương tiện các giác phần vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là cầu trợ đạo pháp vậy.
Thế nào là tâm chung? Vì là không có tiến thu vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là cầu tịch diệt vậy.
Thế nào là tâm chung? Là tâm vĩnh viễn tịch diệt vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là phát khởi huệ vậy.
Thế nào là tâm chung? Là khéo biết pháp vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là hiểu biết nhơn vậy.
Thế nào là tâm chung? Là khéo biết nhơn vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là từ người mà nghe vậy.
Thế nào là tâm chung? Là ở trong các pháp không có phóng dật vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là phát nghiêm sức vậy.
Thế nào là tâm chung? Là biết thân tánh vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là trang nghiêm khẩu vậy.
Thế nào là tâm chung? Là thánh nín lặng vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là hành ba môn giải thoát vậy.
Thế nào là tâm chung? Là không có sở tác vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là hàng phục tứ ma vậy.
Thế nào là tâm chung? Là xả bỏ kiết tập vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là biết phương tiện vậy.
Thế nào là tâm chung? Là trọn vẹn huệ vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là khéo biết phát vậy.
Thế nào là tâm chung? Là khéo biết độ vậy.
Thế nào là tâm thuỷ? Là khéo biết thế tục vậy.
Thế nào là tâm chung? Là khéo biết chơn đế vậy.
Đây gọi là Bồ Tát tâm tinh tiến vậy. Tâm ấy đầy đủ tinh tiến vô tận nên nói thuỷ chung.
(2531) T9 P61
Sửa lần cuối bởi binh vào ngày 06/05/18 16:36 với 1 lần sửa.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Bồ Tát đầy đủ những tướng tạo tác như vậy, mà tâm chưa từng có trụ trước nơi tác nghiệp. Bồ Tát nầy ở nơi các nghiệp tướng biết mà cố ý làm.
Thế nào là Bồ Tát biết mà cố ý làm?
Vì các thiện căn vậy, vì các chúng sanh tu nơi đại bi nên chẳng lìa bỏ hữu vi vậy, vì chư Phật chơn diệu trí nên chẳng theo sanh tử vậy.
Đây gọi là đại Bồ Tát Tỳ lê gia Ba la mật mà chẳng thể tận vậy”.
Lúc nói pháp ấy, có bảy mươi na do tha chư thiên và thế nhơn phát tâm Vô thượng Bồ đề, ba vạn hai ngàn đại Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn.
Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Vô Tận Ý Bồ Tát rằng: “Bạch Đại Sĩ! Lành thay lành thay, Ngài nói về Tinh tiến Ba la mật chẳng thể tận rất tốt. Duy nguyện Ngài nói về Thiền Ba la mật mà chẳng thể tận, như chư đại Bồ Tát đã được Thiền Ba la mật vô tận”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Nếu chư đại Bồ Tát dùng mười sáu sự tu hành Thiền Ba la mật mà không có tận, chẳng đồng với Thanh Văn và Bích Chi Phật.
Những gì là mười sáu sự?
Bồ Tát tu chánh định không có ngô ngã, vì đầy đủ Như Lai các thiền định vậy.
Bồ Tát tu chánh định chẳng tham chẳng trước, vì chẳng cầu mình vui vậy.
Bồ Tát tu chánh định hành nơi đại bi, vì đoạn dứt phiền não kiết tập cho chúng sanh vậy.
Bồ Tát tu chánh định tăng ích các thiền quán, vì thấy lỗi hoạ của Dục giới vậy.
Bồ Tát tu chánh định đủ các nghiệp dụng thần thông, vì biết tâm hành các chúng sanh vậy.
Bồ Tát tu chánh định tâm thường nhu nhuyến vì được tự tại ở trong chúng sanh vậy.
Bồ Tát tu hành chánh định khéo biết nhập xuất nơi các thiền tam muội vì hơn Sắc giới và Vô Sắc giới vậy.
Bồ Tát tu chánh định tâm thường tịch diệt vì hơn các thiền tam muội của hàng Nhị thừa vậy.
Bồ Tát tu hành chánh định trọn không còn có phát khởi, vì cứu cánh đã làm rồi vậy.
Bồ Tát tu hành chánh định không có suy hao, vì khéo đoạn trừ diệt các tập khí vậy.
Bồ Tát tu hành chánh định thường nhập trí huệ, vì siêu quá thế gian mà đến bỉ ngạn vậy.
Bồ Tát tu chánh định để biết tâm hành chúng sanh, vì độ chúng sanh vậy.
Bồ Tát tu chánh định chẳng đoạn dứt giống Tam bửu, vì được vô tận các thiền định vậy.
Bồ Tát tu chánh định không có thối thất, vì tâm thường định không có các sai lầm vậy.
Bồ Tát tu chánh định mà được tự tại, vì đầy đủ tất cả thiện pháp vậy.
Bồ Tát tu chánh định nội thiện tư duy, vì dứt hơi thở vào ra mà được thắng trí vậy.
Đây là Bồ Tát dùng mười sáu sự tu hành Thiền Ba la mật mà không có tận, chẳng đồng với hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Thế nào là Bồ Tát tu chánh định ?
Vì đủ các thần thông trí huệ vậy.
Thế nào là thông và thế nào là trí?
Nếu thấy các sắc tướng đây gọi là thông. Nếu biết tất cả sắc tận pháp tánh mà chẳng chứng tận đây gọi là trí.
Nếu nghe âm thanh đây gọi là thông. Hiểu rõ tam thế tất cả âm thanh không có tướng ngôn từ đây gọi là trí.
Nếu biết tất cả chúng sanh tâm hành đây gọi là thông. Nếu biết tất cả tâm hành thảy đều diệt tận mà chẳng chứng nơi diệt đây gọi là trí.
Nếu nhớ quá khứ đây gọi là thông. Nếu biết tam thế không có chướng ngại đây gọi là trí.
Nếu hay đến khắp thế giới chư Phật đây gọi là thông. Nếu biết thế giới chư Phật đồng với tướng hư không đây gọi là trí.
Nếu cầu các pháp không phá hư tướng đây gọi là thông.
Nếu chẳng thấy có pháp đây gọi là trí.
Nếu chẳng hoại thế gian đây gọi là thông. Nếu chẳng tạp hành đây gọi là trí.
Nếu quá Phạm, Thích, Hộ Thế Tứ Vương đây gọi là thông. Quá trí của hàng học và vô học Nhị thừa đây gọi là trí.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành thiền định thông trí sai biệt.
Bồ Tát vì biết tất cả chúng sanh phiền não loạn tâm nên tu tập các pháp thiền định trợ thành tâm an trụ.
(2533) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.21 khách