KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát có bốn y pháp chẳng cùng tận.
Những gì là Bốn y?
Y nghĩa chẳng y ngữ, y trí chẳng y thức, y kinh liễu nghĩa chẳng y kinh chẳng liễu nghĩa và y pháp chẳng y nhơn.
Thế nào là Bồ Tát Y nghĩa chẳng y ngữ?
Ngữ ấy, là nếu nhập vào trong thế pháp thì có chỗ nói. Nghĩa ấy là hiểu pháp xuất thế không có tướng văn tự.
Ngữ ấy, là nói bố thí điều phục ủng hộ. Nghĩa ấy, là biết thí, giới, nhẫn vào tánh bình đẳng.
Ngữ ấy, là xưng nói sanh tử. Nghĩa ấy, là biết sanh tử không có tánh.
Ngữ ấy, là nói Niết bàn vị. Nghĩa ấy, là biết Niết bàn không có tánh.
Ngữ ấy, là nói các thừa tuỳ chỗ an ở. Nghĩa ấy, là khéo biết các thừa nhập vào môn trí nhứt tướng.
Ngữ ấy, hoặc nói các xả thí. Nghĩa ấy, ba thứ thanh tịnh.
Ngữ ấy, là nói thân khẩu ý thọ trì tinh giới công đức oai nghi. Nghĩa ấy là tỏ thân khẩu ý đều không có sở tác mà có thể hộ trì tất cả tinh giới.
Ngữ ấy, nếu nói nhẫn nhục dứt trừ sân khuể, cống cao, kiêu mạn. Nghĩa ấy, tỏ thấu các pháp được Vô sanh nhẫn.
Ngữ ấy, nếu nói siêng tu tất cả thiện căn. Nghĩa ấy, an trụ tinh tiến không có chung thuỷ.
Ngữ ấy, nếu nói các thiền giải thoát tam muội. Nghĩa ấy, biết diệt tận định.
Ngữ ấy, đều có thể khai thị tất cả văn tự trí huệ thiện căn. Nghĩa ấy, biết nghĩa huệ ấy chẳng thể tuyên nói.
Ngữ ấy, nói ba mươi bảy pháp trợ đạo. Nghĩa ấy, chánh biết tu hành các trợ đạo pháp hay chứng được quả.
Ngữ ấy, nói khổ tập đạo đế. Nghĩa ấy, chứng được diệt đế.
Ngữ ấy, nói vô minh căn bổn nhẫn đến sanh duyên lão tử. Nghĩa ấy, biết vô minh diệt nhẫn đến sanh lão tử diệt.
Ngữ ấy, nói pháp trợ định huệ. Nghĩa ấy, sáng trí giải thoát.
Ngữ ấy, nói tham khuể si. Nghĩa ấy, hiểu ba bất thiện căn tức là giải thoát.
Ngữ ấy, thoát pháp chướng ngại. Nghĩa ấy, được vô ngại giải thoát.
Ngữ ấy, xưng nói Tam bửu vô lượng công đức. Nghĩa ấy, Tam bửu công đức ly dục pháp tánh đồng tướng vô vi.
Ngữ ấy, nói từ phát tâm đến ngồi đạo tràng, tu tập trang nghiêm Bồ đề công đức. Nghĩa ấy, dung một niệm huệ giác liễu tất cả pháp.
Tóm lại, có thể nói tám vạn bốn ngàn pháp trụ, đây gọi là ngữ. Biết các văn tự chẳng thể tuyên nói, đây gọi là nghĩa.
Đây gọi là Bồ Tát Y nghĩa chẳng y ngữ.
Thế nào là Bồ Tát Y trí chẳng y thức?
Thức ấy có bốn xứ thức ở:
Thức ở nơi sắc, thức ở nơi thọ, thức ở nơi tưởng và thức ở nơi hành.
Người trí biết rõ tánh bốn thức không có chỗ ở.
Người thức, hoặc biết địa đại, thuỷ đại, hoả đại và phong đại. Người trí biết ở tứ đại pháp tánh không có khác.
Người thức, nhãn thức trụ nơi sắc, nhĩ thức trụ nơi thanh, tỷ thức trụ nơi hương, thiệt thức trụ nơi vị, thân thức trụ nơi xúc và ý thức trụ nơi pháp.
Người trí, nội tánh tịch diệt còn ngoại tánh thì vô sở hành, biết rõ các pháp không có ức tưởng.
Người thức, duyên lấy cảnh sở duyên để tư duy phân biệt.
Người trí, tâm không có cảnh sở duyên chẳng lấy tướng mạo, ở trong các pháp không có mong cầu.
Người thức, hành pháp hữu vi.
Người trí, biết pháp vô vi thức không có sở hành, vô vi pháp tánh không có thức tri.
Thức ấy, tướng sanh trụ diệt.
Trí ấy, không có tướng sanh trụ diệt.
Đây gọi là Bồ Tát Y trí chẳng y thức.
Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát y kinh liễu nghĩa mà chẳng Y kinh chẳng liễu nghĩa?
Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, phân biệt tu tập đạo.
Kinh liễu nghĩa ấy, chẳng phân biệt quả.
Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, chỗ làm hành nghiệp tin có quả báo.
Kinh liễu nghĩa ấy, hết các phiền não.
Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, quở các phiền não.
Kinh liễu nghĩa ấy, tán thán pháp bạch tịnh.
Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, nói sanh tử khổ não.
Kinh liễu nghĩa ấy, sanh tử và Niết bàn một tướng không có hai.
Kinh chẳng liễu nghĩa ấy, khen nói các thứ trang nghiêm văn tự.
Kinh liễu nghĩa ấy, nói kinh thậm thâm khó thọ trì khó hiểu tỏ.
Kinh bất liễu nghĩa ấy, phần nhiều vì chúng sanh nói tướng tội tướng phước, khiến người nghe pháp sanh lòng lo sợ hay ưa thích.
Kinh liễu nghĩa ấy, phàm pháp được nói làm cho người nghe tâm họ được điều phục.
Kinh bất liễu nghĩa ấy, hoặc diễn nói ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, tác giả, thọ giả, các thứ văn từ, các pháp không có thí giả, thọ giả mà vì chúng sanh nói có thí có thọ.
Kinh liễu nghĩa ấy, nói không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, không có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, không có tác giả, thọ giả, thường nói vô lượng môn giải thoát.
Đây gọi là Bồ Tát Y kinh liễu nghĩa mà chẳng y kinh chẳng liễu nghĩa.
Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát Y pháp mà chẳng y nơi người?
Người ấy, nhiếp lấy nhơn, kiến, tác giả, thọ giả.
Pháp ấy, hiểu không có nhơn, kiến, thọ giả, tác giả.
Người ấy, phàm phu, người lành, tín hành nhơn, pháp hành nhơn, bát nhơn, người Tu Đà Hoàn, người Tư Đà Hàm, người A Na Hàm, bực A La Hán, bực Bích Chi Phật, bực Bồ Tát. Một người xuất thế thì làm cho nhiều người lợi ích nhiều người thọ lạc, thương xót chúng sanh phát lòng đại bi, ở trong nhơn thiên có nhiều tư nhuận, đó là đức Phật Thế Tôn. Các điều như vậy gọi là đức Phật y theo thế tục đế vì giáo hoá chúng sanh nên diễn nói pháp như vậy.
Nếu có người nhiếp lấy sự thấy biết như vậy thì gọi là y nhơn.
Đức Như Lai vì giáo hoá người nhiếp nhơn kiến ấy nên nói phải y nơi pháp mà chẳng y nơi nhơn.
Pháp tánh ấy, chẳng biến chẳng đổi, không tác không chẳng tác, không trụ không chẳng trụ, tất cả bình đẳng. Bình đẳng cũng bình đẳng, mà bất bình đẳng ấy cũng bình đẳng. Không có nhơn không có duyên được chánh quyết định, nơi tất cả pháp không có diệt không có dị, tánh tướng vô ngại dường như hư không, đây gọi là pháp tánh.
Nếu người y chỉ pháp tánh ấy thì trọn không hề rơi lìa pháp nhứt tướng. Người nhập môn ấy thấy tất cả pháp đồng nhứt pháp tánh. Vì vậy nên nói Bồ Tát y nơi tất cả pháp mà chẳng y nơi nhơn.
Đây gọi là Bồ Tát Tứ y vô tận vậy.
(2565)T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu tập trợ đạo công đức trí huệ cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Bồ Tát tu tập công đức vô tận?
Bồ Tát nếu bố thí trì giới tâm chỗ tu tập phát hành từ bi, tự có phạm tội thì phát lộ sám hối cũng thay thế chúng sanh mà phát lộ sám hối, đã làm sám hối rồi kế nên tuỳ hỉ.
Bồ Tát hạnh tuỳ hỉ thế nào?
Tất cả chúng sanh, bực hữu học vô học, bực Bích Chi Phật, Bồ Tát phát tâm người đã tu tập, bực kiên trụ bất thối, bực nhứt sanh bổ xứ, các người như vậy trong tam thế tích tập công đức, nên dùng nhứt tâm tuỳ họ hoan hỷ.
Lại ở nơi tam thế chư Phật Thế Tôn có bao nhiêu thiện căn đều nhứt tâm tuỳ hỉ.
Bồ Tát tuỳ hỉ nầy cũng sẽ thành tựu tất cả công đức như vậy.
Tuỳ hỉ công đức xong rồi, kế nên khuyến thỉnh mười phương thế giới tất cả chư Phật mới thành đạo Vô thượng Bồ đề ấy chuyển pháp luân. Chư Phật Thế Tôn muốn nhập Niết bàn thì thỉnh ở lâu trong đời.
Lại cũng thỉnh tất cả Bồ Tát thánh nhơn thường vì chúng sanh mà trụ thế thuyết pháp.
Những thiện căn như vậy cùng tưởng như thiện căn, tất cả đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát ấy, nói với người chưa phát tâm thì khuyên họ phát tâm. Với người đã phát tâm thì vì họ mà nói các Ba la mật. Với kẻ bần cùng thì dùng tài vật cứu nhiếp họ. Với kẻ bịnh tật thì cho thuốc và tuỳ thời nghi chăm sóc. Với kẻ không thế lực thì khuyên họ nhẫn nhục. Với kẻ phạm cấm giới thì khuyên họ chớ giấu che. Với kẻ đã che giấu tội thì khuyên họ phát lộ. Nơi chư Phật hiện tại và đã Niết bàn đều cung kính cúng dường. Kính trọng bực Sư trưởng coi như Phật Thế Tôn. Lúc có cầu chánh pháp thì dầu mất mạng cũng chẳng biếng nhác. Nơi pháp bửu ấy tưởng như báu vô giá. Nơi người thuyết pháp tưởng như Phật.Vì nghe pháp dầu xa quá trăm do tuần mà tâm lực mạnh mẽ không có ý tưởng mệt nhọc. Khi diễn giảng chánh pháp không vì lợi dưỡng. Với cha mẹ thì biết ơn báo ơn, cúng dường hầu hạ không hề nhàm hối. Các công đức được làm không hề nhàm đủ. Giữ gìn thân khẩu ý không để có siểm khúc. Công đức xây dựng Phật pháp bằng với phước của Phạm Thiên khuyến thỉnh Phật. Tại sao? Vì đầy đủ các thứ tướng tốt mở cửa đại thí vậy, vì được tuỳ hình hảo tu các thiện căn vậy, vì trang nghiêm thân không có kiêu mạn vậy, vì trang nghiêm khẩu không có lỗi nơi miệng vậy, vì trang nghiêm ý không có trụ nơi pháp vậy, vì trang nghiêm Phật độ thần thông giáo hoá vậy, vì trang nghiêm pháp rời lìa các dục vậy, vì trang nghiêm Tăng vì không có lưỡng thiệt ác khẩu phá hoại người vậy, vì thuyết pháp hoan hỷ xưng tán thiện pháp vậy, vì công nghiệp được làm chẳng luống uổng vậy, vì lìa phú cái nên đến nghe pháp vậy, vì trang nghiêm cội Bồ đề nên đem vườn rừng cúng dâng cho Phật vậy, vì trang nghiêm đạo tràng mà thành tựu tất cả thiện căn vậy. Vì xuất sanh thanh tịnh chẳng bị tất cả phiền não nhiễm ô vậy. Được bửu thủ vì có thể xả bỏ tất cả vật được coi trọng vậy. Được vô tận vì đem vô lượng bửu tàng mà bố thí vậy. Người thấy vui mừng vì thường hoà vui vậy. Thể được pháp tánh vì tâm huệ quang minh chiếu khắp chúng sanh vậy. Trang nghiêm quang minh vì chẳng khinh kẻ chưa học mà khéo dìu dắt họ vậy. Đời đời thường thanh tịnh vì trì giới công đức đều thành tựu vậy. Ở trong thai thanh tịnh vì chẳng thấy tội người vậy. Sanh nhơn thiên vì thanh tịnh hành thập thiện vậy. Huệ sáng độc bộ vì người được giáo hoá chẳng sanh phân biệt vậy. Nơi pháp được tự tại vì pháp được mến trọng không lẫn tiếc vậy. Trong thế gian riêng mình thù thắng vì cứu cánh thanh tịnh vậy. Vi diệu giải thoát vì chẳng cầu ít phần pháp hành vậy. Hành tất cả công đức vì chẳng bỏ Nhứt thiết trí tâm vậy. Thất tài đầy đủ vì lấy tính làm căn bổn vậy. Nhiếp thủ chánh pháp vì chẳng tiếc thân mạng vậy. Chẳng dối phỉnh thế gian vì đủ bổn nguyện vậy. Đầy đủ tất cả Phật pháp vì các thiện căn mỗi mỗi môn đều đã hành cả vậy.
Đây là lược nói Bồ Tát công đức. Nếu nói rộng ra thì dầu trải qua một kiếp hay hơn một kiếp nói cũng chẳng hết được.
Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát trí huệ vô tận?
Hoặc mỗi mỗi nhơn nghe trí huệ, hoặc mỗi mỗi duyên được trí huệ.
Thế nào là nhơn? Nội tăng thượng dục.
Thế nào là duyên? Ngoại cần cầu pháp.
Nhơn và duyên như vậy y nơi Phật trí huệ, chẳng phải y nơi trí huệ của Thanh Văn, Duyên Giác.
Bồ Tát ấy thân cận trí giả tâm không có kiêu mạn. Ở nơi người lòng tưởng như Phật. Các trí giả ấy biết người học pháp tâm đã hoà nhu nên vì họ nói trí huệ dạy họ y chỉ, tuỳ theo căn chánh khí mà nói pháp vô nhiễm. Người nghe pháp ở trong ấy siêng tu hành tụ tập trợ pháp tinh tiến, đây là trí huệ.
Thế nào là Bồ Tát trợ pháp tinh tiến?
Bồ Tát không có mong cầu bỏ tuyệt sự vụ bớt ít nói chuyện. Nơi các thứ sở dục tâm thường biết đủ. Đầu hôm cuối đêm bớt ngủ nghỉ. Những pháp nghĩa được nghe hay khéo tư duy suy lường phân biệt, luôn cầu thiện pháp tâm không ái trược, trừ các ấm cái không bị chướng che, những lỗi lầm đã phạm liền hay trừ diệt, chánh hạnh kiên cố xu hướng ngưỡng mộ, tôn kính pháp hành đủ tinh tiến hành, cầu pháp chẳng trể như cứu đầu cháy, hành vô ngã hành chẳng trì hoãn, chẳng bỏ bổn hành, tâm tăng thượng hành, quở chúng ồn náo, thường thích riêng mình hướng a lan nhã để tư duy hành, thánh chủng tri túc hành, bất động đầu đà hành, ưa thích pháp hành, chẳng tư duy thế gian ngôn ngữ hành, cầu xuất thế gian pháp hành, chẳng mất chánh niệm hành, phát xuất các pháp nghĩa hành, chơn chánh đạo hành, biết duyên tổng trì hành, tàm quí trang nghiêm hành, trí huệ vững chắc hành, trừ lưới vô minh kiết trói buộc mắt huệ thanh tịnh hành, khéo giác liễu hành, rộng giác liễu hành, chẳng giảm diệt giác liễu hành, phân tích giác hành, biết hiện tại hành, chẳng theo công đức người khác hành, chẳng tự thị công đức hành, tán thán các công đức người khác hành, khéo tu các nghiệp hành, nhơn quả bất động hạnh biết thanh tịnh nghiệp hành. Đây gọi là Bồ Tát trợ pháp tinh tiến.
(2567) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát có bốn thứ thí đầy đủ trí huệ:
Một là đem giấy viết mực cho Pháp sư để biên chép kinh.
Hai là các thứ trang sức trang nghiêm toà ngồi đẹp dâng cho Pháp sư.
Ba là đem các thứ cần dùng cúng dường dâng cho Pháp sư.
Bốn là tâm không có siểm khúc thường tán thán Pháp sư.
- Bồ Tát còn có bốn thứ trì cấm giới đầy đủ trí huệ:
Một là trì giới thường diễn thuyết pháp.
Hai là trì giới thường siêng cầu pháp.
Ba là trì giới chánh phân biệt pháp.
Bốn là trì giới hồi hướng Bồ đề.
- Bồ Tát còn có bốn thứ nhẫn nhục đầy đủ trí huệ:
Một là lúc cầu pháp nhẫn kia mắng nhiếc.
Hai là lúc cầu pháp chẳng tránh đói khát lạnh nóng gió mưa.
Ba là lúc cầu pháp tuỳ thuận Hoà thượng A xà lê hành.
Bốn là lúc cầu pháp hay nhẫn không, vô tướng và vô nguyện.
- Bồ Tát còn có bốn thứ tinh tiến đầy đủ trí huệ:
Một là siêng năng đa văn.
Hai là siêng năng tổng trì.
Ba là siêng năng lạc thuyết.
Bốn là siêng năng chánh hành.
- Bồ Tát còn có bốn thứ thiền định đầy đủ trí huệ:
Một là thường thích ở một mình.
Hai là thường thích nhứt tâm.
Ba là cầu thiền và thông.
Bón là cầu trí vô ngại giải.
- Bồ Tát còn có bốn thứ trí huệ đầy đủ trí huệ:
Một là chẳng trụ đoạn kiến.
Hai là chẳng trụ thường kiến.
Ba là tỏ mười hai duyên.
Bốn là nhẫn vô ngã hành.
- Bồ Tát còn có bốn pháp ủng hộ đầy đủ trí huệ:
Một là ủng hộ Pháp sư như vua chúa mình.
Hai là ủng hộ các thiện căn.
Ba là giúp hộ thế gian.
Bốn là ủng hộ lợi ích người khác.
- Bồ Tát còn có bốn pháp mãn túc đầy đủ trí huệ:
Một là thuyết pháp mãn túc.
Hai là trí huệ mãn túc.
Ba là lợi ích mãn túc.
Bốn là các pháp mãn túc.
- Bồ Tát còn có bốn lực đầy đủ trí huệ:
Một là tinh tiến lực vì cầu đa văn được giải thoát vậy.
Hai là niệm lực vì tâm Bồ đề chẳng quên mất vậy.
Ba là định lực vì bình đẳng vô sai biệt vậy.
Bốn là huệ lực vì tu đa văn vậy.
- Bồ Tát còn có bốn phương tiện đầy đủ trí huệ:
Một là tuỳ thế gian hành.
Hai là tuỳ chúng sanh hành.
Ba là tuỳ chư pháp hành.
Bốn là tuỳ trí huệ hành.
- Bồ Tát còn có bốn đạo đầy đủ trí huệ:
Một là các Ba la mật đạo.
Hai là trợ Bồ đề đạo.
Ba là hành bát thánh đạo.
Bốn là cầu Nhứt thiết trí huệ đạo.
- Bồ Tát còn có bốn hành không nhàm đầy đủ trí huệ:
Một là thích đa văn không nhàm đủ.
Hai là thích thuyết pháp không có nhàm đủ.
Ba là hành huệ không nhàm.
Bốn là hành trí không nhàm.
Lại trợ trí huệ ấy, là tuỳ tất cả chúng sanh tâm hành, là tuỳ tất cả pháp hành, là tuỳ bố thí hành, là tuỳ trì giới hành, là tuỳ nhẫn nhục hành, là tuỳ tinh tiến hành, là tuỳ thiền định hành, là tuỳ trí huệ hành, là tuỳ từ bi hỉ xả hành được đầy đủ trí huệ. Tại sao vậy? Như chư Bồ Tát chỗ phát khởi hành đều lấy trí huệ làm căn bổn vậy. Trí huệ hành rồi trở lại y chỉ trí. Bồ Tát ấy an trụ nơi trí y chỉ nơi Nhứt thiết trí nên chúng ma và quyến thuộc ma không thể làm hại được, vì vậy mà có thể được Nhứt thiết trí.
Đây gọi là Bồ Tát trợ trí vô tận vậy.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tứ niệm xứ cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Bồ Tát Tứ niệm xứ vô tận?
Bồ Tát ấy quán thân tu thân hành, thấy các thân quá khứ, vị lai, hiện tại điên đảo hoà hiệp. Như các vật ngoài những tường vách, ngói đá, cỏ cây theo nhơn duyên mà có chẳng thể trưởng dưỡng không có chỗ hệ thuộc.
Thân nầy theo nhơn duyên sanh chẳng thể trưởng dưỡng không có hệ phược cũng như vậy.
Trong ấm giới nhập ấy, ngã và ngã sở rỗng không, thường và vô thường rỗng không.
Thân ấy không có ngã và ngã sở.
Thân ấy chẳng vững bến chẳng thể dựa nhờ.
Nên cầu thân Bồ đề Chánh giác.
Thế nào là thân Bồ đề Chánh giác?
Đó là pháp thân, là thân kim cương, thân chẳng thể hư hoại, là thân vững chắc, là thân ra khỏi tam giới.
Thân nầy của ta dầu có vô lượng tội lỗi nhưng ta nguyện sẽ trừ diệt thành thân Như Lai.
Bồ Tát ấy sở dĩ kiên nhẫn ở lâu nơi thân tứ đại các kiết khổ hoạn là vì lợi ích chúng sanh vậy.
Như sự vật ngoài, những thứ tứ đại địa thuỷ hoả phong các thứ pháp môn, các thứ sở tác, các thứ hình mạo, các thứ khí vật, các thứ sở dụng đều vì lợi ích tất cả chúng sanh.
Nay thân ta vì lợi ích chúng sanh cũng như vậy.
Đại Bồ Tát thấy sự lợi ích lớn như vậy rồi, quán thân các sự khổ não mà chẳng sanh nhàm lìa, quán thân vô thường mà chẳng nhàm sanh tử, quán thân vô ngã mà chẳng bỏ giáo hoá, quán thân tịch diệt mà chẳng theo nơi xả.
Bồ Tát ấy lúc quán nội thân chẳng sanh phiền não, lúc quán ngoài thân cũng chẳng sanh phiền não.
Bồ Tát ấy rời lìa thân nghiệp đen nhơ mà thành thân nghiệp trắng sạch, có đủ diệu tướng để tự trang nghiêm, ở trong nhơn thiên có nhiều lợi ích.
Đây gọi là Bồ Tát quán thân mà tu thân hành.
(2570) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thế nào là Bồ Tát quán thọ tu thọ hành?
Bồ Tát tư duy như vầy:
Các thọ tất cả đều khổ, Bồ Tát khéo phân biệt thọ trí huệ suy lường biết thọ tịch diệt.
Lúc thọ lạc chẳng tham sở dục, lúc thọ khổ quán ba ác đạo khởi lòng đại bi chẳng sanh giận hờn, lúc thọ bất khổ bất lạc chẳng khởi ngu si.
Bồ Tát chánh niệm thọ xứ, như chỗ được thọ hoặc vui hoặc khổ hay chẳng vui chẳng khổ, nơi các thọ như vậy biết xuất phát biết tu tập.
Bồ Tát quán chúng sanh thọ tịch diệt trang nghiêm, các chúng sanh ấy ở trong các thọ chẳng biết xuất tu, nên lúc họ thọ lạc sanh lòng tham trước, lúc thọ khổ sanh lòng giận hờn, lúc thọ chẳng vui chẳng khổ sanh lòng ngu si. Nay ta cần phải tiến tu trí huệ trừ tất cả thọ phát các thiện căn, khởi tâm đại bi nhiếp lấy trí huệ, cũng vì chúng sanh trừ dứt các thọ mà vì họ thuyết pháp. Kẻ chưa biết thọ thì thọ khổ, người hiểu được thọ thì thọ vui.
Thế nào là hiểu thọ?
Đó là không có thọ giả, không có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu.
Diệt trừ kẻ nhiếp thủ thọ, kẻ nhiếp, kẻ thọ lấy, kẻ thọ thọ, kẻ thọ có, kẻ thọ điên đảo, kẻ thọ phân biệt, kẻ thọ các kiến chấp, kẻ thọ tướng nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, kẻ thọ tướng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thọ nhãn duyên sắc sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ nhĩ duyên thanh sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ tỷ duyên hương sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ thiệt duyên vị sanh xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ thân duyên xúc sanh giác xúc thọ khổ lạc bất khổ bất lạc, thọ ý duyên pháp sanh xúc thọ khổ thọ lạc bất khổ bất lạc. Đây gọi là thọ.
Còn có một thọ, đó là giác liễu tứ đại.
Còn có hai thọ, đó là nội thọ, ngoại thọ.
Còn có ba thọ, đó là quá khứ, vị lai và hiện tại thọ.
Còn có bốn thọ, đó là giác liễu tứ đại.
Còn có năm thọ, đó là tư duy ngũ ấm.
Còn có sáu thọ, đó là phân biệt lục nhập.
Còn có bảy thọ, đó là thất thức trụ xứ.
Còn có tám thọ, đó là tám tà pháp vậy.
Còn có chín thọ, đó là chín xứ địa của chúng sanh.
Còn có mười thọ, đó là mười bất thiện pháp.
Tóm lại nói thì vô lượng chúng sanh có những tư duy thọ cảnh giới sở duyên tất cả đều gọi là thọ.
Ở trong đó, Bồ Tát tu thọ quán hạnh khởi đại trí huệ, biết các chúng sanh thiện hay bất thiện tướng sanh trụ diệt của họ. Đây gọi là Bồ Tát chánh thọ niệm xứ mà chẳng thể cùng tận.
Thế nào là Bồ Tát quán tâm niệm xứ?
Tâm Bồ đề chẳng quên chẳng mất, chánh niệm chẳng loạn quán tâm như vậy. Tâm sanh rồi diệt không có tướng trụ. Tâm ấy chẳng trụ ở trong cũng chẳng từ ngoài đến.
Lúc ta ban sơ phát tâm Bồ đề ấy, tâm ấy đã tận quá khứ biến khác, nó chẳng đến chỗ nào, không có trụ xứ chẳng thể tuyên nói. Nếu tâm có tập họp các thiện căn, nó cũng là quá khứ tận diệt biến khác, nó chẳng đến chỗ nào chẳng thể tuyên nói không có trụ xứ. Nếu tâm thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề cũng là pháp diệt tận biến khác chẳng đến chỗ nào chẳng thể tuyên nói không có trụ xứ. Tâm chẳng biết tâm, tâm chẳng thấy tâm, tâm chẳng sanh tâm, ta dùng tâm nào thành Vô thượng Bồ đề. Tâm Bồ đề ấy chẳng cùng tâm thiện căn hiệp. Tâm thiện căn ấy chẳng cùng tâm hồi hướng hiệp. Tâm hồi hướng chẳng cùng tâm Bồ đề hiệp.
Nếu lúc quán tâm như vậy mà Bồ Tát chẳng kinh chẳng bố, đây gọi là Bồ Tát cần tinh tiến vậy.
Bồ Tát lại tư duy quán thậm thâm thập nhị nhơn duyên chẳng mất nhơn quả. Biết tâm tánh ây thuộc các nhơn duyên, chẳng thể trưởng dưỡng không có tác không hệ thuộc, như tâm tất cả các pháp cũng như vậy, như pháp tu hành như chỗ được trang nghiêm. Nay ta phải chuyên cần tu tập trang nghiêm chẳng lià tâm tánh.
Thế nào là tâm tánh và thế nào là trang nghiêm?
Tâm tánh ấy dường như ảo hoá không có chủ không có tác, không có thi thiết. Trang nghiêm ấy, chỗ làm bố thí đều đem hồi hướng trang nghiêm thanh tịnh Phật độ.
Tâm tánh ấy dường như cảnh được thấy trong mộng, tâm tướng tịch diệt. Trang nghiêm ấy, thanh tịnh trì giới tu tập các thần thông.
Tâm tánh ấy như tượng trong gương, tướng nó thanh tịnh. Trang nghiêm ấy, nhẫn nhục được tu đều hồi hướng Vô sanh pháp nhẫn.
Tâm tánh ấy như dương diệm cứu cánh tịch diệt. Trang nghiêm ấy nơi các thiện pháp thâm phát tinh tiến hồi hướng đầy đủ vô thượng Phật pháp.
Tâm tánh ấy không có sắc, không có đối, không có chỗ tạo tác. Trang nghiêm ấy tất cả chỗ tu thiền định giải thoát tam muội hồi hướng đầy đủ Phật thiền định.
Tâm tánh ấy chẳng thể thấy được cũng chẳng thể lấy được. Trang nghiêm ấy nơi tất cả chỗ gạn hỏi đều khéo phân biệt hồi hướng đầy đủ Phật trí huệ.
Tâm tánh ấy không có duyên thì chẳng sanh. Trang nghiêm ây thường quán thiện căn.
Tâm tánh ấy không có nhơn thì chẳng sanh. Trang nghiêm ấy nhơn trợ Bồ đề mà phát khởi tâm.
Tâm tánh ấy bỏ lìa lục trần thì không chỗ khởi. Trang nghiêm ấy nhập Phật cảnh giới.
Bồ Tát quán tâm hành ây như vậy nhiếp niệm thần thông. Được thần thông rồi có thể biết tất cả chúng sanh các tâm. Đã biết tâm họ rồi tuỳ theo tâm lượng ấy mà vì họ thuyết pháp.
Bồ Tát lại quán tâm hành nhiếp niệm đại bi giáo hoá chúng sanh không có nhàm mỏi.
Bồ Tát lại quán tâm hành chẳng khởi tướng tận diệt biến khác, chẳng bỏ sanh tử tương tục phiền não. Chánh niệm tâm ấy biết không có sanh khởi thành chánh quyết định.
Hành giả như vậy chẳng sa vào Thanh Văn địa, Bích Chi Phật địa, tột thế lực tâm ấy dùng nhứt niệm trí thành Vô thượng Bồ đề.
Đây gọi là Bồ Tát chánh tâm niệm xứ mà chẳng thể tận.
(2572) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát quán pháp niệm xứ?
Bồ Tát thường dùng huệ nhãn thấy tất cả pháp đến lúc ngồi đạo tràng không có giữa chừng mất.
Đương lúc quán pháp như vậy, Bồ Tát ấy chẳng thấy một pháp nhẫn đến tướng vi tế lìa không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô vật, cũng chẳng thấy một pháp nhẫn đến tướng vi tế chẳng nhập vào thập nhị duyên.
Bồ Tát quán pháp thấy các phi pháp không gì chẳng phải là pháp.
Thế nào là pháp? Đó là nghĩa vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ mạng, đây gọi là pháp.
Thế nào là phi pháp? Đó là ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, đây gọi là phi pháp.
Còn nữa, tất cả là pháp, tất cả là phi pháp. Tại sao vậy?
Quán không, vô tướng, vô nguyện, đây gọi là tất cả pháp là pháp.
Ngã mạn, kiêu mạn ngã và ngã sở nhiếp lấy các kiến, đây gọi là tất cả pháp là phi pháp.
Lúc quán pháp, Bồ Tát ấy chẳng thấy có pháp chẳng phải là nhơn Bồ đề nhơn xuất thế đạo. Bồ Tát ấy biết tất cả pháp đều là xuất thế được vô ngại đại bi.
Bồ Tát ấy quán tất cả pháp phiền não kiết phược như tướng ảo hoá. Biết các pháp ấy chẳng phải có phiền não chẳng phải không phiền não. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát ấy tỏ biết các pháp nghĩa không có hai tánh, các phiền não ấy không có chỗ ẩn tàng không có tụ tập. Nếu hiểu phiền não thì hiểu Bồ đề. Như phiền não tánh tức Bồ đề tánh. Bồ Tát ấy an trụ chánh niệm không có một pháp có thể đem phân biệt được, không có các chướng ngại khéo hay hiểu rõ chánh trụ pháp tánh. Như trụ pháp tánh tức trụ chúng sanh tánh. Như trụ chúng sanh tánh tức trụ hư không tánh. Như trụ hư không tánh tức trụ Nhứt thiết pháp tánh.
Lúc quán pháp, Bồ Tát y cứ Phật pháp hiểu tất cả pháp tức là Phật pháp, tâm Bồ Tát lúc ấy chẳng sanh tận trí vô vi. Dầu tận mà cũng chẳng tận, nhập vào vô sanh trí, cũng quán chúng sanh chẳng bỏ giả danh.
Pháp niệm xứ ấy, an trụ chánh niệm tất cả các pháp, đó là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát chánh giác chỗ biết tất cả giả danh các pháp tận vị lai tế trọn không quên mất.
Pháp niệm xứ ấy, nói vô lượng hành thân cận Phật pháp hoại các ma chúng được tự nhiên trí.
Đây gọi là Bồ Tát chánh pháp niệm xứ mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tứ chánh cần cũng chẳng thể tận. Những gì là bốn?
Nếu là pháp ác bất thiện chưa sanh, vì chẳng sanh nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ. Pháp ác bất thiện đã sanh vì đoạn trừ nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.
Pháp thiện chưa sanh vì sanh nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ. Pháp thiện đã sanh vì an trụ tu tập để tăng thêm rộng lớn chẳng mất nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.
Pháp ác bất thiện chưa sanh vì chẳng sanh nên sanh dục siêng tinh tiến.
Nói dục ấy, là thiện tư duy vậy.
Nói siêng tinh tiến ấy, là chẳng bỏ thiện tư duy vậy.
Nói nhiếp tâm chánh trừ ấy, là quán thiện tư duy vậy.
Tại sao vậy?
Vì lúc thiện tư duy chẳng cho pháp ác bất thiện nhập vào tâm.
Thế nào là pháp ác bất thiện?
Pháp ác bất thiện chẳng phải bè bạn của giới tụ, chẳng phải bè bạn của thiền định, chẳng phải bè bạn của trí huệ.
Thế nào là chẳng phải bạn của giới tụ?
Hoặc phá trọng giới và các giới khác. Đây gọi là chẳng phải bạn của giới tụ.
Thế nào là chẳng phải bạn của thiền định?
Hoặc phá oai nghi và các pháp loạn tâm. Đây là chẳng phải bạn của định tụ.
Thế nào là chẳng phải bạn của huệ tụ?
Hoặc nhiếp lấy các kiến và các kiến chướng ngại khác. Đây là chẳng phải bạn của huệ tụ.
Đây gọi là những pháp ác bất thiện.
Lúc thiện tư duy, các pháp ác bất thiện ấy chẳng cho nhập vào tâm. Đây gọi là Chánh cần thứ nhứt.
Pháp ác bất thiện đã sanh vì đoạn dứt nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.
Như trên đã nói, pháp ác bất thiện tâm chẳng tụ họp không có nơi chỗ không có trụ xứ, pháp ác bất thiện ấy vì tâm hành đoạn dứt vậy, vì tịnh mà sanh dục, vì ngại chướng mà sanh sân, vì vô minh duyên mà sanh ngu si. Thiện tư duy ấy lúc quán bất tịnh diệt tham dục, lúc tu tập từ tâm diệt sân hận, quán thập nhị duyên diệt ngu si. Các phiền não như vậy tịch diệt tức là đoạn trừ tất cả giả danh, lại cũng chẳng thấy có gì để đoạn. Đây gọi là đệ nhị Chánh cần.
Pháp thiện chưa sanh vì sanh nên sanh dục siêng tinh tiến nhiếp tâm chánh trừ.
Các thiện pháp ấy có đến vô lượng. Tại sao?
Vô lượng thiện pháp được Bồ Tát tu tập, trong các thiện pháp ấy thì dục là căn bổn.
Siêng tinh tiến tu tập nhiếp tâm ấy là vượt quá thiện pháp.
Chánh trừ ấy là tại tại xứ xứ thường ở tại thiện pháp. Đây gọi là đệ tam Chánh cần.
Pháp thiện đã sanh an trụ tu tập để tăng quảng chẳng mất nên nhiếp tâm chánh trừ.
Các thiện căn ấy đều đã hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy? Vì các thiện căn hồi hướng Vô thượng Bồ đề thì chẳng thể cùng tận. Tại sao? Vì các thiện căn như vậy chẳng y chỉ tam giới. Nếu y chỉ tam giới thì có tổn hao. Vì thế nên nói hồi hướng Nhứt thiết chủng trí thì các thiện căn như vậy chẳng thể tận. Đây gọi là đệ tứ Chánh cần.
Đây gọi là Bồ Tát tu Tứ chánh cần mà chẳng thể tận vậy.
(2575) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tứ như ý phần cũng chẳng thể tận.
Những gì là bốn? Đó là dục, tiến, tâm và tư duy.
Bốn pháp như vậy lấy từ bi hỉ xả làm căn bổn.
Bốn tâm vô lượng ấy thường thân cận. Vì thường thân cận nên tâm điều nhu. Vì tâm điều nhu nên được nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền.
Vì nhập các thiền ấy nên thân được nhẹ nhàng. Thành tựu thân nhẹ tâm nhu như vậy nên nhập như ý phần. Khéo nhập như ý phần rồi liền sanh thần thông.
Hoặc dục, hoặc tiến, hoặc tâm, hoặc tư duy.
Dục ấy là chuyên hướng pháp kia, tiến ấy là thành tựu pháp kia, tâm ấy là quán sát pháp kia, tư duy ấy là phương tiện của pháp kia.
Như ý phần ấy đã được đầy đủ rồi thì có thể được thần thông. Dục ấy là trang nghiêm, tiến ấy là thành tựu, tâm ấy là chánh trụ, tư duy ấy là hay khéo phân biệt.
Bồ Tát ấy được như ý phần theo chỗ hiểu, như chỗ làm, tâm được tự tại, tuỳ ý qua xứ nào khéo làm sự việc rốt ráo thành tựu tất cả bổn hành, như gió thổi hư không chẳng có chướng ngại.
Đây gọi là Bồ Tát Tứ như ý phần chẳng thể cùng tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Ngũ căn cũng chẳng thể tận. Những gì là năm?
Tín căn, tiến căn, niệm căn, định căn và huệ căn.
Thế nào là Tín căn?
Tin nơi bốn pháp:
Một là ở trong sanh tử hành thế tục chánh kiến tin nơi nghiệp báo, nhẫn đến mất mạng trọn chẳng làm điều ác.
Hai là tin Bồ Tát hành chẳng theo các kiến, chuyên cầu Vô thượng Bồ đề chẳng cầu thừa khác.
Ba là tin hiểu các pháp đồng với pháp không, vô tướng, vô nguyện, đồng đệ nhứt nghĩa đế, đồng với liễu nghĩa thậm thâm nhơn duyên không có ngã, không có chúng sanh không có phân biệt.
Bốn là tin tất cả chư Phật, Thập lực, Tứ vô uý, Thập bát bất cộng pháp, tin như vậy rồi tiêu trừ lưới nghi tu tập Phật pháp.
Đây gọi là Bồ Tát Tín căn.
Thế nào là Tiến căn?
Nếu pháp đã nhiếp về tín căn thì pháp ấy được tu của tiến căn. Đây gọi là Bồ Tát Tiến căn.
Thế nào là Niệm căn?
Nếu pháp được tu của tiến căn thì pháp ấy trọn chẳng quên mất. Đây gọi là Bồ Tát Niệm căn.
Thế nào là Định căn?
Nếu pháp đã nhiếp về niệm căn, pháp ấy chẳng quên chẳng mất nhứt tâm bất loạn. Đây gọi là Bồ Tát Định căn.
Thế nào là Huệ căn?
Nếu pháp được nhiếp về định căn, pháp ấy là sở quán của huệ, là thể tánh của huệ, nội tự chiếu tỏ chẳng từ người mà biết, tự trụ chánh hạnh. Đây gọi là Bồ Tát Huệ căn.
Năm căn ấy đồng nối nhau sanh đủ tất cả pháp được thọ ký biệt.
Ví như ngoại đạo ngũ thông thần tiên chẳng thể quyết định biết tướng sai biệt trong bào thai. Khi tướng nam nữ hiển hiện rồi họ mới biết được.
Có nhiều Bồ Tát không có các căn tín tiến v.v…chư Phật Thế Tôn chẳng thọ ký cho họ.
Nếu Bồ Tát thành tựu đầy đủ ngũ căn Phật mới thọ ký.
Đây gọi là Bồ Tát Ngũ căn vô tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Ngũ lực cũng chẳng thể tận.
Những gì là năm?
Tín lực, tiến lực, niệm lực, định lực và huệ lực.
Thế nào là Tín lực?
Tín ấy trọn không hề bị trở hoại, nhẫn đến thiên ma biến làm thân Phật thị hiện xuất nhập thiền định giải thoát chẳng thể khuynh động được tín lực của Bồ Tát . Đây gọi là Bồ Tát Tín lực.
Thế nào là Tiến lực?
Bồ Tát tinh tiến ở nơi các thiện pháp được sức kiên cố, như lực đã được tu các thiền định, tất cả chư Thiên thế nhơn chẳng trở hoại được, như bổn sở nguyện đều được thành tựu. Đây gọi là Bồ Tát Tiến lực.
Thế nào là Niệm lực?
Bồ Tát an trụ các thiện pháp chẳng bị phiền não phá hoại. Tại sao? Vì sức chánh niệm của Bồ Tát hay xô dẹp phiền não. Niệm lực như vậy không gì phá hoại được. Đây gọi là Bồ Tát Niệm lực.
Thế nào là Định lực?
Bồ Tát xa lìa ồn náo thường thích độc hành. Bồ Tát ấy dầu có chỗ nói mà ngôn ngữ âm thanh chẳng ngại Sơ thiền, khéo trụ giác quán chẳng ngại Nhị thiền, lòng sanh hoan hỷ chẳng ngại Tam thiền. Bồ Tát ấy dầu thích giáo hoá chúng sanh, chẳng bỏ Phật pháp mà cũng chẳng ngại đệ Tứ thiền. Lúc Bồ Tát ấy hành Tứ thiền, các pháp ngại chướng định không làm gì được. Lúc ấy Bồ Tát chẳng xả định cũng chẳng theo định, mà có thể tự tại thọ sanh các nơi. Đây gọi là Bồ Tát Định lực.
Thế nào là Huệ lực?
Bồ Tát ấy biết pháp thế gian biết pháp xuất thế gian không có một pháp nào có thể phá hoại được trí ấy. Bồ Tát thọ sanh xứ nào, tất cả kỹ nghệ không theo thầy học mà đều tự nhiên biết. Thế gian ngoại đạo các khổ hạnh khó làm, vì giáo hoá họ, Bồ Tát ấy cũng thị hiện đồng hành với họ. Pháp xuất thế ấy hay vượt quá pháp thế gian do vì huệ lực thành tựu vậy, hàng chư Thiên và thế nhơn chẳng bằng được. Đây gọi là Bồ Tát Huệ lực.
Đây gọi là Bồ Tát Huệ lực vô tận.
(2577) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Thất giác phần cũng chẳng thể tận.
Những gì là bảy?
Niệm giác phần, trạch pháp giác phần, tiến giác phần, hỉ giác phần, trừ giác phần, định giác phần và xả giác phần.
Thế nào là Niệm giác phần?
Nếu niệm giác phần có thể quán nơi pháp có thể phân biệt pháp soạn họp tư duy trí huệ, cũng hay quán sát tự tướng các pháp.
Những gì là tự tướng?
Quán tất cả pháp tự tánh đều không, niệm như vậy khiến đều hiểu tỏ. Đây gọi là Bồ Tát Niệm giác phần.
Thế nào là trạch pháp giác phần?
Nếu có thể phân biệt hiểu rõ tám vạn bốn ngàn pháp tụ, như các pháp được hiểu rõ, liễu nghĩa là liễu nghĩa, bất liễu nghĩa là bất liễu nghĩa, thế đế là thế đế, đệ nhứt nghĩa đế là đệ nhứt nghĩa đế, giả danh là giả danh, rõ đúng không nghi là rõ đúng không nghi. Các pháp như vậy phân biệt tuyển trạch. Đây gọi là Bồ Tát Trạch pháp giác phần.
Thế nào là Tiến giác phần?
Như niệm pháp, trạch pháp, hỉ pháp, trừ pháp, định pháp, xả pháp, dùng trí nhiếp lấy tinh tiến dũng mãnh dục chẳng thối chuyển siêng tu gắng sức chẳng bỏ bổn ý hành chánh đạo. Đâygọi là Bồ Tát Tiến giác phần.
Thế nào la Hỉ giác phần?
Pháp hỉ được tu, Bồ Tát ở nơi vô lượng pháp lòng sanh hỉ duyệt không có giải đãi thanh tịnh thích pháp, hỉ dũng dước ấy có thể trừ thân tâm bỏ các phiền não. Đây là Bồ Tát Hỉ giác phần.
Thế nào là Trừ giác phần?
Nếu trừ thân tâm và các phiền não, lìa các phú cái nhập vào cảnh giới định khiến tâm chánh trụ. Đây gọi là Bồ Tát Trừ giác phần.
Thế nào là Định giác phần?
Như định được nhập đều có thể biết rõ, chẳng phải chẳng nhập định là biết rõ pháp, lại rõ các kiến phiền não kiết phược vô thuỷ vô chung tâm thường bình đẳng tất cả các pháp không có tướng biệt dị, có thể biết các pháp bình đẳng như vậy. Đây gọi là Bồ Tát Định giác phần.
Thế nào là Xả giác phần?
Nếu pháp ưu hay hỉ, Bồ Tát tâm chẳng chìm, cũng chẳng bị pháp thế gian kéo níu, không có cao không có hạ chánh trụ bất động, không có các lậu không mừng không tham trước, không có các chướng ngại chánh trực tuỳ thuận chơn đế chánh đạo. Đây là Bồ Tát Xả giác phần.
Đây gọi là Bồ Tát Thất giác phần mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Bát thánh đạo phần cũng chẳng thể tận.
Những gì là tám?
Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh định.
Thế nào là chánh kiến?
Nếu thấy xuất thế chẳng khởi ngã kiến, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, cũng lại chẳng khởi thiện cùng bất thiện vô ký các kiến chấp, nhẫn đến chẳng khởi sanh tử Niết bàn hai tướng kiến ấy. Đây gọi là Bồ Tát Chánh kiến.
Thế nào là Chánh tư duy?
Nếu tư duy mà hay phát khởi tham dục, sân hận, ngu si các phiền não thì chẳng gọi là chánh. Chánh tư duy ấy chẳng tư chẳng khởi các sự như vậy, chỉ tư giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Chánh tư duy ấy có thể suy nghĩ an trụ giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến như vậy. Tư duy như vậy gọi là Chánh tư duy.
Thế nào là Chánh ngữ?
Phàm có diễn nói chẳng làm cho mình có khổ não, cũng chẳng tổn người, thành tựu lời nói tốt lành vi diệu như vậy thẳng đến chánh đạo. Đây gọi là Chánh ngữ.
Thế nào là Chánh nghiệp?
Nếu là hắc nghiệp thì có hắc báo, là bạch nghiệp thì có bạch báo, là hắc bạch nghiệp thì có hắc bạch báo, là phi hắc bạch nghiệp thì có phi hắc bạch báo, Bồ Tát trọn chẳng dám làm.
Nếu là nghiệp có thể tận nghiệp thì Bồ Tát ắt làm.
Nghiệp được Bồ Tát ấy y chỉ, siêng tu các chánh nghiệp như vậy. Đây gọi là Bồ Tát Chánh nghiệp.
Thế nào là Chánh mạng?
Nếu chẳng bỏ Thánh chủng đầu đà oai nghi, chẳng động chẳng chuyển không có các gian siểm, chẳng bị lợi dưỡng thế gian kéo dắt, dễ nuôi dễ đủ thường tự kiên trì oai nghi lễ tiết. Thấy người được lợi tâm chẳng sanh não. Nơi lợi dưỡng của mình thường biết thôi đủ. Chánh hạnh như vậy được Thánh nhơn khen. Đây gọi là Bồ Tát Chánh mạng.
Thế nào là Chánh tiến?
Nếu tiến đến tà thì chẳng phải chỗ được Thánh khen, đó là tham dâm sân hận ngu si các phiền não. Chẳng chánh tinh tiến ấy Bồ Tát trọn chẳng làm.
Nếu là pháp có thể nhập vào chánh đế thánh đạo tịch diệt Niết bàn phan duyên chánh lộ. Chánh tinh tiến ấy Bồ Tát tu tập siêng làm. Đây gọi là Bồ Tát Chánh tinh tiến.
Thế nào là Chánh niệm?
Nếu là niệm chẳng mất chẳng động nơi pháp, chánh trực chẳng cong vạy, thấy lỗi sanh tử tiến tới Niết bàn, cột tâm chẳng quên chẳng mất chánh đạo. Đây gọi là Bồ Tát Chánh niệm.
Thế nào là Chánh định?
Nếu là định chẳng loạn nơi tất cả pháp, lúc Bồ Tát ấy trụ như vậy thành chánh quyết định. Đây gọi là Chánh định.
Bồ Tát trụ tam muội ấy vì tất cả chúng sanh mà được giải thoát thành chánh quyết định. Đây gọi là Chánh định.
Bát Thánh đạo nầy đều là đạo của tất cả chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại, Bồ Tát ấy hiểu rõ rồi diễn nói khai thị phân biệt hiển hiện thành tựu Phật đạo.
Đây gọi là Bồ Tát Thánh đạo phần chẳng thể tận.
(2579) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu hành định huệ cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Định?
Nếu tâm tịch tĩnh chánh tịch tĩnh tịch diệt chẳng não, tâm thường chẳng loạn thủ hộ các căn, chẳng động chẳng chuyển không có sốt bạo an tường tịch mặc kiên trì chẳng mất, khéo điều nhu nhuyến ở riêng nhàn tĩnh, thân thì xa lìa, tâm chẳng hồi chuyển. Suy nghĩ ưa thích chỗ a lan nhã vắng vẻ, không có ác cầu, cũng không có chỗ mong cầu, chẳng có cầu nhiều, chánh hạnh chánh mạng oai nghi kiên cố, biết phải lúc, tuỳ theo phải lúc, thường biết thôi đủ. Dễ nuôi dễ đủ vì có sức kham nhẫn vậy. Tâm không có cao không có hạ có thể nhẫn được lời mắng nhiếc. Phát tâm chuyên hướng thiện pháp tư duy, thích tư duy niệm xứ và các thiền chi, phát khởi từ tâm nhập vào bi tâm, an trụ hỉ tâm khéo tu xả tâm, chánh nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thìên, không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, khéo có thể tư duy cửu thứ đệ định. Đây gọi là Định. Tóm lại, Bồ Tát trợ định vô lượng vô biên siêng năng tu tập. Đây gọi là Bồ Tát định chẳng thể tận.
Thế nào là Huệ?
Huệ ấy tu tập trợ đạo nhập vào các pháp vô ngã, vô nhơn, chúng sanh, thọ mạng. Huệ như vậy phân biệt các ấm hư ảo như hoá, phân biệt các giới bình đẳng và các nhập hư không tụ, phân biệt các đế thảy đều sáng tỏ, tuỳ thuận quán biết mười hai nhơn duyên, phân biệt các kiến nhơn quả quả chứng.
Nói là phân biệt ấy, nơi tất cả pháp có thể được chánh kiến. Như thiệt mà thấy chơn kiến, không kiến, vô tướng kiến, vô nguyện kiến. Lại phân biệt ấy là vì vô phân biệt nên phân biệt.
Nói là kiến ấy cũng không chỗ thấy không chỗ biết khác. Kiến như vậy là chơn thiệt kiến. Thấy chơn thiệt ấy tức được phương tiện.
Bồ Tát ấy huệ như vậy thấy chẳng theo vô vi, tu hành các thiện pháp tâm không chỗ trụ trước, đây gọi là huệ.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành định huệ mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tổng trì biện tài cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Tổng trì?
Những thiện căn được tu tập, Bồ Tát chánh niệm tích tập. Bao nhiêu tám vạn bốn ngàn pháp tụ đã có Bồ Tát có thể chánh thọ trì chẳng quên chẳng mất. Đây gọi là Bồ Tát tổng trì.
Lại Bồ Tát tổng trì ấy, hoặc là tất cả chư Phật chỗ nói diệu pháp, hoặc là tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, chư Thiên, thế nhơn, chúng sanh phàm phu có bao nhiêu âm thanh lời lành, đều có thể thọ trì cả. Đây gọi là Bồ Tát tổng trì.
Dầu lúc kiếp tai khởi phải bỏ mạng thọ sanh xứ khác, Bồ Tát ấy vẫn chánh niệm tổng trì chẳng quên chẳng mất. Như nhìn thấy quả a ma lặc trong lòng bàn tay, Bồ Tát ấy xem thấy tất cả pháp cũng như vậy. Đây gọi là Bồ Tát tổng trì.
Thế nào là Biện tài?
Bồ Tát nói pháp không có trệ ngại, nói pháp vô trụ, nói pháp không dứt, nói pháp thông lẹ, nói pháp vui hoà, nói pháp nhanh chóng. Bồ Tát nói pháp như vậy là quả báo thanh tịnh do nghiệp lành đời trước, được chư Phật hộ niệm, chư Thiên nhiếp thọ, nói pháp không sai lầm, chẳng luống công, tiến đến Niết bàn.
Bồ Tát thành tựu biện tài như vậy, có bao nhiêu sắc tượng và các loài chúng sanh, Bồ Tát biện tài ứng cơ chẳng dự tư duy chẳng dự phân biệt trước, Bồ Tát giỏi có thể nói tán kệ tụng trong khế kinh.
Bồ Tát nếu đến trong đại chúng Sát Lợi, Bà La Môn, Trưởng Giả, đại chúng Sa Môn, đại chúng Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Phạm Thiên, ma chúng, nơi nơi chỗ chỗ tự nhiên có thể biết rõ tất cả chúng sanh căn lượng, Bồ Tát dùng vô ngại biện mà vì họ thuyết pháp.
Bồ Tát ấy như bổn hỷ lạc giảng tuyên pháp yếu trọn đời chẳng dứt. Đây gọi là Bồ Tát biện tài.
Đây gọi là Bồ Tát tổng trì biện tài cũng chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát soạn tập bốn pháp cũng chẳng thể tận.
Những gì là bốn?
Một là Bồ Tát ấy biết tất cả hành vô thường. Hai là biết tất cả hành khổ. Ba là biết tất cả pháp vô ngã và bốn là biết tất cả pháp tịch diệt Niết bàn.
Thế nào là Vô thường nghĩa?
Vô sở hữu là vô thường nghĩa. Vô sở phá hoại là vô thường nghĩa. Nghĩa vô thường ấy tức là nghĩa vô ngã, nếu pháp vô ngã thì không gì phá hoại được vì là tịch diệt vậy. Đây gọi là vô thường nghĩa.
Thế nào là Khổ nghĩa?
Vì vô sở cầu nên là khổ nghĩa. Vì ái nhiễm hết nên là khổ nghĩa. Vì vô sở nguyện nên là khổ nghĩa. Vì không rỗng không có sở hữu nên là khổ nghĩa. Đây gọi là khổ nghĩa.
Thế nào là Vô ngã nghĩa?
Cứu cánh vô ngã là vô ngã nghĩa. Như vô ngã nghĩa tức là không rỗng nghĩa, là vô sở hữu nghĩa, là hư cuống chẳng thiệt nghĩa. Đây gọi là vô ngã nghĩa.
Thế nào là Tịch diệt Niết bàn nghĩa?
Tịch diệt nghĩa ấy chẳng phải là niệm niệm diệt. Như chẳng phải niệm niệm diệt tức là tịch diệt. Bồ Tát được trí huệ vô tận ấy biết tất cả pháp tướng đồng với tịch diệt. Tịch diệt ấy tức là Niết bàn nghĩa.
Đây gọi là Bồ Tát soạn tập bốn pháp mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát nhứt đạo cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Nhứt đạo?
Bồ Tát chỗ được chơn thiệt trí huệ chẳng từ người khác nghe.
Lại nhứt đạo ấy, Bồ Tát độc nhứt không có bạn lữ, đã ở nơi Vô thượng Bồ đề có thể đại trang nghiêm dùng thế lực tinh tiến của mình nhiếp lấy, cứu cánh tự tu tập chẳng nhờ người làm. Bồ Tát tự dùng sức nhơn duyên dũng mãnh kiến lập trang nghiêm kiên cố như vậy. Như các chúng sanh tạo tác bao nhiêu thiện nghiệp, ta cũng sẽ có thể làm nên tất cả như vậy. Và các Thánh Nhơn từ lúc sơ phát tâm đến sau làm bao nhiêu công hạnh ta cũng sẽ làm.
Bố thí chẳng phải là bạn của ta mà ta là bạn của bố thí. Trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí huệ chẳng phải là bạn của ta mà ta là bạn của chúng.
Các Ba la mật chẳng thể sai sử ta mà ta có thể sai sử chúng, nhẫn đến các thiện căn cũng đều như vậy. Các pháp như vậy dầu chẳng phải bạn của ta mà ta cần phải làm. Chẳng cậy dựa nơi kia, Bồ Tát tự lực dũng mãnh riêng làm không có bạn, ngồi toà kim cương nơi đạo tràng phá các ma chúng, dùng một niệm huệ thành Vô thượng Bồ đề. Bồ Tát phải tỏ rõ phân biệt như vậy.
Đây gọi là Bồ Tát Nhứt đạo vô tận.
(2581) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát sở tu phương tiện cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Phương tiện?
Thấy tất cả pháp là phương tiện. Phát khởi các pháp là phương tiện. Làm Bồ Tát sứ là phương tiện. Cứu cánh phân biệt là phương tiện. Không có hạn lượng là phương tiện. Chí ý thường cầu pháp xuất thế là phương tiện. Lúc bố thí liền có đầy đủ các Ba la mật là phương tiện. Lúc trì giới nơi nơi xứ xứ tự tại vãng sanh là phương tiện. Lúc nhẫn nhục trang nghiêm tự thân và Bồ đề đạo là phương tiện. Lúc hai tinh tiến tâm không có sở trụ là phương tiện. Lúc tu thiền định không có thối thất là phương tiện. Lúc tu trí huệ chẳng chứng vô vi là phương tiện. Lúc tu tâm từ thương kẻ không có thế lực là phương tiện. Lúc tu tâm bi chẳng nhàm sanh tử là phương tiện. Lúc tu tâm hỉ chẳng thích ở chỗ vui là phương tiện. Lúc tu tâm xả phát tâm tu tập tất cả thiện căn là phương tiện. Lúc tu thiên nhãn là muốn thành tựu chư Phật nhãn là phương tiện. Lúc tu thiên nhĩ là vì muốn thành tựu chư Phật nhĩ là phương tiện. Lúc tu tha tâm trí là vì muốn được chư Phật trí biết tất cả chúng sanh căn lượng cạn sâu là phương tiện. Lúc tu túc mạng trí là vì được Phật trí biết tam thế vô ngại là phương tiện. Lúc tu tập thần thông là vì muốn được chư Phật thần thông lực là phương tiện. Tuỳ chúng sanh tâm là phương tiện. Đã tự hiểu rõ lại hiểu rõ chúng sanh là phương tiện. Đã tự độ rồi thị hiện chưa độ mà gắng sức siêng tu cầu được độ thế là phương tiện. Đã lìa phiền não mà thị hiện phiền não là phương tiện. Đã xả bỏ gánh nặng mà thị hiện có gánh nặng là phương tiện. Hay biết căn lượng chúng sanh tuỳ căn lượng thuyết pháp là phương tiện. Khéo có thể dạy bảo tiến tu hàng độn căn chúng sanh là phương tiện. Biết thời biết phi thời là phương tiện. Biết chúng sanh có thể hành đạo mà sa vào tà kiến có thể đặt ở chánh đạo là phương tiện. Có thể khiến lượng làm vô lượng khiến vô lượng làm lượng là phương tiện. Khiến tổn hoại hoàn phục như cũ là phương tiện. Thị hiện thắng kẻ kia là phương tiện. Thị hiện nói Niết bàn có ngũ dục lạc là phương tiện. Đã được giải thoát thị hiện có hệ phược là phương tiện. Ở nơi sanh tử mà chẳng đoạ sanh tử là phương tiện. Nơi các oai nghi không chỗ chuyên đúng cũng chẳng thối thất là phương tiện. Chỉ quán chúng sanh chẳng thấy trì giới hay phá giới là phương tiện. Nhiếp các kiến duyên chẳng sanh tranh cạnh là phương tiện. Rõ âm thanh ấy giả danh không thiệt là phương tiện. Thường đi trong tam giới là phương tiện. Được giải thoát tướng hành là phương tiện. Thân cận phàm phu như thân cận Thánh nhơn là phương tiện. Chẳng chứng Niết bàn thường ở sanh tử là phương tiện. Nơi mà hành xứ hiển hiện đại quang minh không có phiền não là phương tiện. Tất cả thị tất cả phi là phương tiện.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành phương tiện cũng chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả! Đây gọi là Bồ Tát tám mươi vô tận. Tám mươi vô tận ấy đều có thể chứa đựng tất cả Phật pháp”.
Lúc Vô Tận Ý đại Bồ Tát nói pháp môn phẩm ấy, có sáu mươi bảy trăm ngàn chúng sanh, người chưa phát tâm, đều liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Năm trăm hai ngàn đại Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ đại chúng dâng các thứ hoa, các thứ tràng hoa, các thứ lọng hoa cúng dường Như Lai và Vô Tận Ý đại Bồ Tát cùng kinh điển ấy.
Trên hư không có vô lượng thiên nhạc tự nhiên phát thanh nói rằng: “Chư Phật Thế Tôn trong vô lượng kiếp tập họp Vô thượng Bồ đề, nay trong hội Đại Tập nầy Vô Tận Ý Bồ Tát đã nói nghĩa ấy. Nếu có ai nghe pháp môn vô tận ấy mà tin hiểu thọ trì đọc tụng giải thuyết, nên biết người ấy là đầy đủ pháp vô tận ấy vậy”.
Đức Thế Tôn lấy y trùm vai ban cho Vô Tận Ý Bồ Tát mà nói rằng: “Lành thay lành thay! Đại Sĩ nói nghĩa ấy rất hay, chẳng phải chỉ có ta hứa khả, thập phương chư Phật cũng như vậy”.
Vô Tận Ý đại Bồ Tát hai tay bưng y để trên đỉnh đầu mình mà bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chư Thiên và thế nhơn sẽ coi y nầy hơn cái tháp, vì là vật được Như Lai dùng”.
Lúc bấy giờ có nhiều các thứ y báu, các thứ lọng báu, các thứ phan báu, các thứ cây báu, các thứ tràng hoa báu tự nhiên từ thập phương thế giới bay đến che Vô Tận Ý đại Bồ Tát để cúng dường.
Các thứ y, lọng, phan, thọ, tràng hoa báu ấy tự nhiên diễn nói lời rằng: “Lành thay lành thay! Thiện nam tử có thể khéo nói pháp môn vô tận ấy. Như lời ông đã nói, được chúng ta hứa khả”.
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Những y báu cúng dường như vậy từ xứ nào đến phát ra tiếng nói như vậy?”.
Đức Phật nói: “Nầy Xá Lợi Phất! Lúc Vô Tận Ý Bồ Tát sơ phát tâm Vô thượng Bồ đề giáo hoá các chúng sanh ây, nay họ đã thành Vô thượng Bồ đề ở thế giới mười phương. Đây là chư Phật Chánh Biến Tri kia vì biết ơn báo ơn nên sai các thứ báu ấy đến khen ngợi công đức chơn thiệt của Vô Tận Ý Bồ Tát và cũng cúng dường kinh điển được tuyên nói”.
Lúc nầy đại chúng đối với Vô Tận Ý Bồ Tát càng thêm cung kính tôn trọng tán thán đồng nói rằng: “Hôm nay chúng tôi mừng được đại lợi ích, được thấy Vô Tận Ý Bồ Tát cung kính cúng dường tôn trọng tán thán và được nghe pháp môn vô tận. Nếu có ai tai được nghe danh tự Vô Tận Ý Bồ Tát cũng được lợi ích lành hà huống mắt thấy gồm được nghe kinh nầy”.
Đức Thế Tôn ở trong đại chúng nghe lời ấy liền bảo Xá Lợi Phất Tôn giả rằng: “Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn học Bồ Tát đạo trong một kiếp cúng dường chư Phật học giới oai nghi do sức kham nhẫn tận sanh tử khổ tế của các chúng sanh, siêng năng tinh tiến tu tập như cứu đầu cháy, nơi các thiền định nhứt tâm thành tựu trí huệ phương tiện, nếu rời lìa kinh điển nầy, ta nói người ấy chưa có thể đầy đủ sáu Ba la mật”.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nghe kinh điển nầy tin hiểu thọ trì đọc tụng giải nghĩa như thuyết tu hành, ta nói người ấy đã là đầy đủ sáu Ba la mật được thành tựu Vô thượng Bồ đề. Tại sao vậy?
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát thọ trì kinh nầy vì người diễn nói tức là đầy đủ Đàn Ba la mật. Tại sao? Vì trong các sự bố thí thì pháp thí là hơn cả, chẳng hề quên mất tâm Bồ Tát .
Nếu trì kinh nầy tức là trì giới, nên có thể đầy đủ Thi Ba la mật. Tại sao? Vì cấm giới của tất cả Bồ Tát học được nhiếp nơi kinh nầy.
Nếu ở kinh nầy có thể kham nhẫn thích ưa, tất cả chúng sanh chẳng trở hoại được, có thể ở nơi đây tiến tu nhẫn nhục, tức là đầy đủ Sằn Đề Ba la mật.
Nếu ở kinh nầy siêng làm chuyển nói, thân khẩu ý ba nghiệp tinh tiến tu tập, tức là đầy đủ Tỳ lê gia Ba la mật.
Nếu ở kinh nầy tâm được tịch diệt không có tán loạn, nhứt tâm định ý phân biệt các tướng, tức là đầy đủ Thiền na Ba la mật.
Nếu ở kinh nầy tự được hiện trí, chẳng từ người nghe được chánh hành trí, tức là đầy đủ Bát Nhã Ba la mật.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát siêng học kinh nầy nếu muốn đầy đủ các Ba la mật thì không khó.
Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát học tập kinh nầy thọ trì đọc tụng như thuyết tu hành biên chép kinh quyển, nên biết người ấy tất cả Phật pháp đã ở trong tay.
Tánh tứ đại có thể biến đôỉ khác, tâm Bồ Tát ấy ở nơi Vô thượng Bồ đề chẳng thể còn chuyển đổi.
Nầy Xá Lợi Phất! Kinh điển nầy là ấn bất thối chuyển của Bồ Tát , vì vậy nên Bồ Tát phải cầu ấn ấy.
Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn thân cận ấn ấy thì tức là thân cận tất cả Phật pháp”.
Lúc bấy giờ Tứ Thiên Vương cùng các quyến thuộc từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tứ Thiên Vương chúng tôi là đệ tử Phật đã được dấu đạo. Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn thọ trì kinh nầy, chúng tôi kham nhiệm vì họ mà làm kẻ hộ vệ cung cấp hầu hạ, sẽ coi người ấy như đức Như Lai. Tại sao? Vì trong kinh điển nầy xuất sanh các thừa vậy”.
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi thường theo Phật nghe vô lượng vô biên kinh điển, chưa từng được nghe kinh điển phân biệt nghĩa thậm thâm như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nơi xứ xứ, chỗ nào có diễn nói kinh nầy, đích thân tôi và chư Thiên Đao Lợi sẽ đến đó nghe học, thủ hộ Pháp sư tăng thêm khí lực mạnh mẽ tinh tiến chánh niệm biện tài, khiến Pháp sư ấy ở trong đại chúng được vô sơ uý rộng có thể tuyên nói kinh điển như vậy”.
Đức Phật nói: “Lành thay lành thay! Nầy Kiều Thi Ca! Ông có thể ủng hộ người thuyết pháp ấy khiến được dũng mãnh tinh tiến chánh niệm biện tài.
Nầy Kiều Thi Ca! Nếu có thể ủng hộ người thuyết pháp ấy tức là ủng hộ chư Phật chánh pháp. Người ủng hộ chánh pháp tức là người ủng hộ tất cả chúng sanh”.
Phạm Tự Tại Thiên Vương quỳ dài chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu xứ nào có kinh điển nầy lưu bố, đích thân tôi cùng chư Phạm Thiên và quyến thuộc sẽ bỏ thiền hỉ lạc để đến đó nghe học thưa hỏi thỉnh cầu.
Lúc tôi đến đó sẽ hiện bốn điềm tướng khiến được hay biết:
Một là làm cho thấy quang minh vi diệu.
Hai là được nghe mùi hương thơm lạ.
Ba là khiến người thuyết pháp được vô ngại biện và chánh ức niệm, pháp được nói lành tốt chẳng mất chương cú.
Bốn là khiến đại chúng ấy phát tâm lành muốn vui mừng nghe pháp không có nhàm đủ.
Có bốn điềm tốt ấy, nên biết đó là Phạm Thiên Vương cùng quyến thuộc chư Phạm Thiên đích thân đến nghe pháp”.
Đệ Lục Dục Thiên Ma Ba Tuần chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Kinh điển như vậy khiến thế lực tôi yếu kém. Tại sao? Vì nếu có Bồ Tát nghe kinh nầy thọ trì đọc tụng vì người mà rộng nói, phải biết người ấy tức là được thọ ký.
Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát như vậy đến xứ nào, đến thế giới chư Phật, nên biết như là đức Phật Thế Tôn.
Nay tôi có những tâm kiêu mạn tật đố cống cao, do sức oai đức của Vô Tận Ý mà đều bị xô dẹp hết cả.
Nay tôi sẽ thủ hộ kinh điển nầy và người thuyết pháp. Nơi nào có lưu bố kinh nầy, tôi chẳng khởi một niệm tâm trở ngại, huống là tự mình đến đó làm hại”.
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan rằng: “Nầy A Nan! Từ ngày hôm nay ông nên vì chánh pháp ở lâu thế gian mà thọ trì kinh điển nầy đọc tụng giải thuyết”.
Tôn giả A Nan liền đứng dậy chỉnh y phục trịch bày vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay hướng Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi kính vâng lời Phật thọ trì kinh ấy, chỉ tự hận chẳng có thể rộng tuyên nói lưu bố như chư Bồ Tát”.
Đức Phật nói: “Nầy A Nan! Ông nên an lòng. Nay ở trong pháp hội nầy có chư đại Bồ Tát có thể hộ trì khiến kinh điển nầy rộng tuyên lưu bố”.
Liền đó trong đại hội có sáu mươi ức chư đại Bồ Tát, những người đáng phải hộ pháp, từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng Phật bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi cần phải tuyên truyền kinh nầy đến khắp mười phương.
Tại Ta Bà thế giới nầy có Di Lặc Đại Sĩ, Ngài ở đây tự sẽ hộ trì kinh nầy và người thuyết pháp.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu lúc Phật diệt độ rồi, năm trăm năm sau, nếu có Bồ Tát nghe kinh điển nầy thọ trì đọc tụng, nên biết đều là sức oai thần của Di Lặc Bồ Tát kiến lập”.
Đức Phật khen chúng đại Bồ Tát hộ pháp rằng: “Lành thay lành thay! Chư Thiện nam tử! Các ông chẳng những ngày nay ở trước ta hộ trì chánh pháp, mà các ông cũng đã từng hộ trì chánh pháp của hằng hà sa số chư Phật quá khứ”.
Vô Tận Ý đại Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi tự dùng phần ít trí huệ nói kinh điển nầy, văn tự cú nghĩa ắt chẳng đầy đủ. Nay tôi ở trước chư phật và chư đại Bồ Tát đã thành tựu vô tận pháp mà sám hối tội lỗi”.
Đức Phật nói: “Nầy Vô Tận Ý! Nếu Bồ Tát có đủ bốn vô ngại trí thì chỗ giảng thuyết không có sai lầm. Bồ Tát như vậy được chơn không nghĩa phân biệt pháp môn mới có thể tuyên nói kinh điển như vậy.
Nầy Vô Tận Ý! Nay ông đã đến chỗ đệ nhứt thành tựu tứ biện tự tại vô ngại. Kinh Đại thừa nầy chẳng từ người nghe mà có thể phân biệt.
Nầy Vô Tận Ý! Nay ông thành tựu bực trụ như vậy thân khẩu ý nghiệp không có sai lầm. Tai sao? Vì Bồ Tát tu tập ba nghiệp thành tựu thường dùng trí huệ làm căn bổn vậy.
Nầy Vô Tận Ý! Đã có vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật Thế Tôn đều đồng khen ngợi nghe ông thuyết pháp.
Nầy Vô Tận Ý! Ông trước đã ở chỗ ta và chư Phật cứu cánh sám hối không có sót mất”.
Tôn giả A Nan bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Kinh nầy tên là gì và phụng trì thế nào?”.
Đức Phật nói: “Kinh nầy tên là Vô Tận Ý sở thuyết bất khả tận nghĩa chương cú pháp môn. Còn có tên là Đại Tập. Ông nên phụng trì như vậy.
Nầy A Nan! Ông phải tín thọ kinh điển như vậy. Tại sao? Vì ông thọ trì kinh nầy rồi thì những pháp đã được trì niệm sẽ tăng hơn trước cả ngàn lần. Nếu vì người nói thì là kiến lập Phật sự vậy”.
Đức Phật nói kinh nầy rồi, Vô Tận Ý đại Bồ Tát, các Tôn giả Xá Lợi Phất, A Nan, chư Thiên, Long, Thần, Càn Thát Bà, A Tu La v.v…, tất cả đại chúng nghe lời Phật nói đều rất vui mừng làm lễ mà đi.
PHÁP HỘI VÔ TẬN Ý BỒ TÁT
THỨ SÁU MƯƠI MỐT
HẾT.
Vi tính: THÍCH ĐỨC TUẤN
****
(2585) Hết phẩm 61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

LXII. PHÁP HỘI QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT
THỨ SÁU MƯƠI HAI
Hán dịch: Tam Tạng Cương Lương Gia Xá
Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vậy, tôi nghe một lúc đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai ở tại thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật, cùng chúng đại Tỳ Kheo một ngàn hai trăm năm mươi người câu hội
Chúng Bồ Tát có ba vạn hai ngàn, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử đại Bồ Tát làm thượng thủ.
Lúc bấy giờ thành Vương Xá có một Thái Tử tên là A Xà Thế thuận theo lời bảo của ác hữu Điều Đạt bắt vua cha Tần Bà Sa La nhốt trong nhà tối bảy từng cửa, cấm các quan không một ai được vào.
Quốc Thái phu nhơn tên là Vi Đề Hi cung kính Đại Vương, tắm gội sạch sẽ, lấy tô lạc và mật nhồi mì sợi rồi trét lên thân, trong hột chuỗi ngọc đeo đựng nước nho, đi vào ngục thăm Đại Vương kín đáo dâng lên.
Đại Vương Tần Bà Sa La ăn mì uống nước nho rồi xin nước súc miệng. Súc miệng xong. Đại Vương chắp tay cung kính hướng về núi Kỳ Xà Quật vói đãnh lễ Thế Tôn mà bạch rằng : “Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên là thân hữu của tôi, nguyện hưng từ bi truyền thọ giới Bát Quan Trai cho tôi”.
Liền đó Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên như chim ưng bay mau đến chỗ vua, truyền giới bát Quan Trai cho vua.
Ngày ngày đều như vậy, đến truyền giới cho vua.
Đức Thế Tôn cũng sai Tôn gỉa Phú Lâu Na đến vì vua mà thuyết pháp.
Thời gian như vậy trải qua hai mươi mốt ngày, Đại Vương Tần Bà Sa La ăn mì mật, uống nước nho, lại được thọ giới Bát Quan Trai, được nghe thuyết pháp nên nhan sắc vua hòa vui.
A Xà Thế hỏi người giữ cửa ngục rằng : “Hôm nay Phụ Vương ta vẫn còn sống ư ?”.
Người giữ cửa ngục tâu rằng : “Tâu Đại Vương ! Quốc Thái phu nhơn trên thân trét mì mật, trong chuỗi ngọc đựng nước nho đem dâng lên vua. Còn có Sa Môn Đại Mục Kiền Liên và Phú Lâu Na đi từ trên hư không đến vì vua thuyết pháp chẳng thể cấm cản được”.
A Xà Thế nghe lời ấy giận mẹ mình rằng : “Mẹ ta là giặc làm bạn với giặc. Sa Môn ác nhơn huyễn hoặc chú thuật khiến ác vương ấy nhiều ngày mà chẳng chết”.
A Xà Thế liền cầm gươm bén muốn giết mẹ.
Lúc ấy có một đại thần tên là Nguyệt Quang thông minh nhiều trí cùng với Kỳ Bà đến lễ vua A Xà Thế mà tâu rằng : “Tâu Đại Vương ! Chúng thần nghe Tỳ Đà Luận kinh nói từ kiếp sơ đến nay có các ác vương vì tham ngôi vua mà giết hại cha mình đến số một vạn tám ngàn. Chưa từng nghe nói có kẻ vô đạo hại mẹ. Nay Đại Vương làm sự sát nghịch nầy ô uế dòng Sát Đế Lợi. Chúng thần chẳng nỡ nghe. Đây là Chiên Đà La. Chúng tôi chẳng nên còn ở lại nơi đây”.
Hai vị đại thần tâu rồi lấy tay vỗ lên gươm đeo lui mà ra.
A Xà Thế kinh sợ hãi hùng bảo Kỳ Bà rằng : “Còn anh cũng chẳng vì ta chăng ?”.
Kỳ Bà tâu rằng : “Đại Vương cẩn thận chớ có hại mẹ”.
A Xà Thế nghe lời ấy sám hối cầu cứu liền bỏ gươm thôi không hại mẹ, truyền lịnh cho nội quan nhốt mẹ vào thâm cung chẳng cho ra nữa.
Vi Đề Hi bị giam nhốt rồi sầu lo tiều tụy với hướng về núi Kỳ Xà Quật lạy Phật mà nói rằng : “Ngày trước đức Như Lai Thế Tôn thường sai Tôn gỉa A Nan đến thăm hỏi tôi. Nay tôi sầu lo, đức Thế Tôn oai trọng không sao được thấy. Duy nguyện đức Thế Tôn sai các Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên và A Nan đến cho tôi được thấy”.
Nói xong, Vi Đề Hi buồn khóc lệ rơi như mưa với hướng lạy Phật, trong khoảng thời gian chưa cất đầu lên.
Đức Thế Tôn ở núi Kỳ Xà Quật biết tâm niệm của Vi Đề Hi liền bảo Đại Mục Kiền Liên và A Nan đi trên hư không. Đức Phật từ núi Kỳ Xà Quật ẩn mất hiện ra nơi vương cung.
Vi Đề hi lạy rồi ngước đầu lên thấy Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật thân màu tử kim ngồi trên hoa sen trăm báu. Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên hầu bên tả, Tôn gỉa A Nan hầu bên hữu. Trong hư không hàng Phạm Vương, Đế Thích, Hộ Thế Tứ Vương mưa hoa trời khắp nơi để cúng dường.
Vi Đề Hi thấy Phật Thế Tôn liền tự bứt chuỗi ngọc cả thân mình gieo xuống đất kêu khóc hướng Phật mà chạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Xưa tôi tội gì mà sanh đứa ác tử ấy. Đức Thế Tôn lại có nhơn duyên gì mà cùng làm quyến thuộc với Đề Bà Đạt Đa. Duy nguyện đức Thế Tôn vì tôi mà nói rộng những xứ không có lo khổ tôi sẽ vãng sanh, tôi không còn thích cõi Diêm Phù Đề trược ác thế nầy. Xứ trược ác nầy đầy những địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhiều khối bất thiện. Nguyện tôi đời vị lai chẳng nghe danh từ ác, chẳng thấy người ác. Nay tôi hướng về Thế Tôn năm vóc gieo xuống đất cầu thương cho tôi sám hối. Duy nguyện Phật Nhựt dạy tôi quán nơi xứ nghiệp hành thanh tịnh”.
Đức Thế Tôn phóng ánh sáng giữa hai mày, ánh sáng ấy màu chơn kim chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới trở về trụ tại đỉnh đầu Phật hóa làm đài chơn kim lớn như núi Tu Di, bao nhiêu quốc độ thanh tịnh vi diệu của mười phương chư Phật đều hiện rõ trong đài vàng ấy. Hoặc có quốc độ thất bữu hiệp thành. Hoặc có quốc độ thuần là liên hoa. Lại có quốc độ như tự tại Thiên cung. Lại có quốc độ như gương pha lê. Có vô lượng quốc độ chư Phật như vậy trang nghiêm xinh đẹp khiến Vi Đề Hi được thấy.
Vi Đề Hi bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Dầu các Phật độ ấy đều thanh tịnh đều có quang minh. Nay tôi thích sanh về Cực Lạc thế giới chỗ của đức Phật A Di Đà.
Duy nguyện đức Thế Tôn dạy tôi tư duy, dạy tôi chánh thọ”.
Đức Thế Tôn liền mĩm cười có ánh sáng ngũ sắc từ miệng Phật phóng ra, mỗi mỗi ánh sáng chiếu đỉnh đầu vua Tần Bà Sa La.
Dầu bị giam cầm ngục tối, tâm nhãn vua không chướng ngại xa thấy đức Thế Tôn, vua đầu mặt lạy Phật tự nhiên tăng tiến đạo lực thành bực A Na Hàm.
Đức Phật bảo Vi Đề Hi : “Nay Thái phu nhơn có biết chăng ?
Phật A Di Đà cách đây chẳng xa, bà nên nhiếp niệm quán kỹ cõi nước ấy thì tịnh nghiệp được thành.
Nay ta sẽ vì bà mà nói rộng pháp quán, cùng khiến đời vị lai tất cả hàng phàm phu, những người muốn tu tịnh nghiệp được thọ sanh Tây phương Cực Lạc quốc độ.
Nầy Vi Đề Hi ! Người muốn sang nước Cực Lạc ấy nên tu ba phước:
Một là hiếu nuôi cha mẹ, kính thờ bực Sư trưởng, có tâm nhơn từ chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành.
Hai là thọ trì tam quy y đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi.
Ba là phát tâm Bồ đề sâu tín nhơn quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa và khuyên dạy sách tiến người tu hành.
Ba sự như vậy gọi là tịnh nghiệp.
Nầy Vi Đề Hi ! Nay bà có biết chăng ? Ba tịnh nghiệp ấy là chánh nhơn tịnh nghiệp của tam thế chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi rằng : “Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ nhớ kỹ. Nay Như Lai vì tất cả chúng sanh đời vị lai, những kẻ bị giặc phiền não nhiễu hại mà nói nghiệp thanh tịnh.
Lành thay cho Vi Đề Hi khéo hỏi được việc ấy.
Nầy A Nan ! Ông nên thọ trì rộng vì đại chúng mà tuyên nói lời Phật.
Hôm nay Phật vì Vi Đề Hi và vị lai tất cả chúng sanh quán nơi Tây phương Cực Lạc quốc độ, do nguyện lực Phật nên sẽ được thấy quốc độ thanh tịnh ấy như cầm gương sáng tự thấy hình tượng mặt mình. Thấy những sự vui cùng cực vi diệu của quốc độ ấy nên tâm vui mừng liền được Vô sanh pháp nhẫn”.
(2589) T9 P62


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Đức Phật bảo Vi Đề Hi : “Bà là phàm phu tâm tưởng yếu kém chưa được thiên nhãn chẳng thể thấy được xa. Chư Phật Như Lai có phương tiện lạ khiến bà được thấy”.
Vi Đề Hi bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Như hôm nay tôi nhờ oai lực của đức Phật Thế Tôn mà được thấy quốc độ Cực Lạc ấy. Nếu sau khi đức Phật Thế Tôn diệt độ, các chúng sanh trược ác bất thiện bị ngũ khổ bức ngặt, họ làm thế nào có thể được thấy A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới ?”.
Đức Phật bảo Vi Đề Hi : “Bà và chúng sanh nên phải chuyên tâm buộc niệm một chỗ tưởng nơi phương Tây.
Tưởng niệm thế nào ?
Tất cả chúng sanh những người có mắt sáng mà chẳng phải là kẻ sanh manh thì đầu thấy mặt nhựt lặn cả.
Phàm người tu tập quán tưởng nên phát khởi tưởng niệm, ngồi ngay thẳng hướng về phía Tây quán kỹ chỗ mặt nhựt sắp lặn khiến tâm niệm trụ vững chuyên tưởng nhớ chẳng dời. Thấy mặt nhựt sắp lặn đang như mặt trống đồng treo. Đã thấy mặt nhựt rồi, nhắm mắt mở mắt đều khiến phải sáng tỏ. Đây là nhựt tưởng, gọi là pháp quán ban đầu.
Kế đó quán tưởng nước. Thấy nước đứng trong, cũng khiến phải sáng tỏ, ý tưởng không phân tán, đã thấy nước rồi nên quán tưởng băng, thấy băng chói suốt tưởng làm lưu ly. Tưởng nầy thành rồi thấy đất lưu ly trong ngoài suốt chói, phía dưới có chăng vàng, kim cương, thất bữu bưng chống đất lưu ly. Kim tràng ấy tám phương đầy đủ tám cạnh. Mỗi mỗi phương diện do trăm châu báu làm thành. Mỗi mỗi bửu châu có ngàn ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng có tám vạn bốn ngàn màu chói đất lưu ly sáng như ức ngàn mặt nhựt chẳng thể thấy đủ hết được.
Trên đất lưu ly có dây hoàng kim xen kết lẫn lộn với thất bữu giăng phân ranh giới chừng ngằn ngang rộng phân minh. Trong mỗi mỗi thất bữu ấy có ánh sáng ngũ sắc. Anh sáng ấy như đoá hoa lại có như sao như trăng lững lờ trên hư không tụ thành đài ánh sáng. Có ngàn vạn lầu các do trăm báu hiệp thành. Hai bên đài đều riêng có trăm ức hoa tràng với vô lượng nhạc khí dùng làm trang nghiêm. Tám thứ gió mát từ ánh sáng phát ra xao động các nhạc khí ấy vang ra tiếng diễn nói khổ không, vô thường, vô ngã.
Đây là thủy tưởng gọi là pháp quán thứ hai.
Lúc quán tưởng nầy đã thành phải mỗi mỗi sự quán thấy thiệt rất rõ ràng. Lúc nhắm mắt lúc mở mắt chớ để tan mất, chỉ trừ lúc ăn, thường nhớ sự ấy. Như tưởng quán ấy gọi là thô thấy đất Cực Lạc quốc độ. Nếu được tam muội thì thấy đất cõi nước Cực Lạc tỏ rõ phân minh chẳng thể nói đủ hết. Đây là địa tưởng gọi là pháp quán thứ ba.
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan : “Nầy A Nan !Ông thọ trì lời Phật vì đời vị lai tất cả đại chúng những người muốn thoát khổ mà nói pháp quán địa ấy. Nếu người quán địa ấy thì trừ được tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp, bỏ thân hiện tại, đời khác quyết định thọ sanh quốc độ thanh tịnh, tâm được không nghi.
Quán tưởng đây gọi là chánh quán. Nếu quán tưởng khác thỉ gọi là tà quán”.
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan và Vi Đề Hi : “Địa quán thành rồi, kế tưởng bửu thọ.
Người quán cây báu phải quán mỗi mỗi cây. Tưởng bảy lớp hàng cây báu. Mỗi cây báu cao tám ngàn do tuần. các cây báu ấu đều đầy đủ bông lá bảy báu. Mỗi mỗi bông lá tưởng màu khác lạ. Trong màu lưu ly phóng ánh sáng màu hoàng kim. Trong màu pha lê phóng ánh sáng màu hồng. Trong màu mã não phóng ánh sáng màu xa cừ. Trong màu xa cừ phóng ánh sáng màu lục chơn châu. San hô hổ phách tất cả các báu dùng làm chói đẹp. Màn lưới diệu chơn châu giăng che trên cây báu. Trên mỗi mỗi cây báu có bảy lớp màn lưới. Khoảng mỗi mỗi lưới có năm trăm ức cung điện xinh đẹp vi diệu như cung Trời Phạm Vương, có các thiên đồng tử tự nhiên ở trong ấy. Mỗi mỗi đồng tử có năm trăm ức châu ma ni Thích ca tỳ lăng già dùng làm chuỗi đeo. Anh sáng mỗi châu ma ni ấy chiếu trăm ức do tuần, dường như hòa hiệp ánh sáng của trăm ức nhựt nguyệt chẳng thể kể hết. Các báu xen lẫn màu sắc sáng đẹp nhứt trong các màu sắc.
Các cây báu ấy hàng hàng ngay nhau, lá lá kế nhau. Giữa khoảng các lá sanh những hoa vi diệu. Trên hoa tự nhiên có quả thất bửu. Mỗi mỗi lá cây ngang rộng đều hai mươi lăm do tuần. Lá ấy có ngàn màu trăm thứ lằn vẽ như chuỗi ngọc Trời. Có những hoa vi diệu màu diêm phù đàn kim như vòng lửa xoay chói sáng uyển chuyển khoảng giữa lá, vọt sanh những quả như bình báu của Thiên Đế Thích, phóng đại quang minh hóa thành tràng phan và vô lượng lọng báu. Trong lọng báu ấy chói hiện tất cả Phật sự trong toàn cõi thế giới, thập phương thế giới chư Phật cũng hiện bóng trong lọng báu ấy.
Thấy bửu thọ ấy rồi cũng phải mỗi mỗi quán sát thấy thân cây nhánh lá bông trái đều phải phân minh.
Đây là thọ tưởng gọi là pháp quán thứ tư.
Kế nên tưởng nước.
Người muốn tưởng nước nên biết Cực Lạc thế giới có ao nước bát công đức. Mỗi mỗi ao nước bảy báu làm thành. Báu ấy như nhuyến từ như ý châu vương sanh chia làm mười bốn chi, mỗi mỗi chi làm sắc đẹp bảy báu. Hoàng kim làm lòng ao. Dưới lòng ao có kim cương nhiều màu làm cát trắng đáy.
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần. nước ma ni chảy rót trong khoảng lá theo thân cây sen mà lên xuống phát ra âm thanh vi diệu diễn nói khổ, không, vô thượng, vô ngã, các Ba la mật, còn có tiếng tán thán tướng hảo của chư Phật.
Như ý châu vương phóng ra ánh sáng vi diệu màu hoàng kim. Ánh sáng ấy hóa ra các giống chim màu trăm báu hòa hót êm nhã thường tán thán niệm Phật, niệm Phật, niệm Tăng.
Đây là tưởng nước bát công đức gọi là pháp quán thứ năm.
Trong quốc độ Cực Lạc diệu bửu ấy, mỗi mỗi khu vực có năm trăm ức lầu báu. Trong lầu các ấy có vô lượng chư Thiên trỗi thiên kỹ nhạc. Còn có nhạc khí treo ở hư không như bửu tràng cõi Trời chẳng đánh tự kêu. Trong các âm thanh ấy đều diễn nói niệm Phật, niệm Phật, niệm Tỳ Kheo Tăng.
Pháp tưởng nầy thành rồi gọi là thô thấy Cực Lạc thế giới bửu thọ, bửu địa và bửu trì đây là tổng quán tưởng gọi là pháp quán thứ sáu.
Nếu thấy như vậy thì trừ vô lượng ức kiếp cực trọng ác nghiệp, sau khi mạng chung quyết định sanh nước Cực Lạc.
Quán đây gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”.
Đức Phật bảo A nan và Vi Đề Hi : “Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ nhớ kỹ đó. Ta sẽ vì các người phân biệt giải thuyết pháp trừ khổ não. Các người ghi nhớ thọ trì rộng vì đại chúng phân biệt giải thuyết”.
Lúc đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn nói lời ấy, Phật Vô Lượng Thọ hiện đứng trên hư không, Quan Thế Âm Bồ Tát đứng hầu bên tả, Đại Thế Chí Bồ Tát đứng hầu bên hữu, ánh sáng chói rực chẳng thể thấy rõ hết, trăm ngàn lần màu vàng diêm phù đàn kim chẳng thể sánh được.
Vi Đề Hi thấy Phật Vô Lượng Thọ rồi tiếp túc lễ lạy.
(2592) T9 P62


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Lễ lạy xong, Vi Đề Hi bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi nhơn oai lực Phật mà được thấy Vô Lượng Thọ Như Lai cùng hai Đại Sĩ Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát. Đời vị lai các chúng sanh sẽ phải thế nào quán thấy Phật Vô Lượng Thọ và hai Bồ Tát ấy ?”.
Đức Phật bảo Vi Đề Hi : “Người muốn quán Phật Vô Lượng Thọ thì nên khởi tưởng niệm : ở trên mặt đất thất bửu tưởng có hoa sen, trên mỗi mỗi cánh hoa tưởng màu bá bửu có tám vạn bốn ngàn đường gân dường như bức họa cõi Trời, mỗi đường gân có tám vạn bốn ngàn ánh sáng tỏ rõ rành rẽ đều được thấy cả. Cánh hoa nhỏ nhứt ngang rộng hai trăm năm mươi do tuần, toàn hoa sen ấy có đủ tám vạn bốn ngàn cánh. Khoảng mỗi cánh hoa có trăm ức ma ni vương ấy phóng ra ngàn ánh sáng, ánh sáng ấy như lọng bảy báu hiệp thành che khắp mặt đất. Đài hoa sen ấy bằng báu thích ca tỳ lăng gìa, có tám vạn kim cương châu thúc ca bửu, phạm ma ni bửu và lưới diệu chơn châu dùng để nghiêm sức. Ơ trên đài ấy tự nhiên có bốn trụ bửu tràng, mỗi mỗi bửu tràng cao lớn như trăm ngàn muôn ức núi Tu Di. Trên bửu tràng có màn báu như Dạ Ma Thiên cung còn có năm trăm ức bửu châu vi diệu để làm sáng đẹp. Mỗi mỗi bửu châu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng làm tám vạn bốn ngàn kim sắc nhiều loại lạ khác nhau. Mỗi mỗi kim sắc khắp cả cõi nước Cực Lạc nơi nơi biến hóa đều riêng làm những tướng hình khác lạ : hoặc làm đài kim cương, hoặc làm lưới chơn châu, hoặc làm mây nhiều loại hoa, nơi mười phương diện tùy ý biến hiện ra làm Phật sự.
Đây là tưởng toà ngồi hoa sen, gọi là pháp quán thứ bảy.
Nầy A Nan ! Hoa sen vi diệu như vậy là do bổn nguyện lực của Pháp Tạng Tỳ Kheo, tiền thân Phật Vô Lượng Thọ cảm thành. Nếu người muốn niện đức Phật ấy thì phải trước tưởng hoa tòa ấy. Lúc quán tưởng chẳng được tạp quán. Đều phải quán mỗi mỗi chi tiết, mỗi mỗi cánh hoa, mỗi mỗi bửu châu, mỗi mỗi ánh sáng, mỗi mỗi đài, mỗi mỗi tràng đều phải phân minh, như thấy tượng mặt mình hiện trong gương. Pháp tưởng nầy thành diệt trừ trăm muôn ức kiếp tội sanh tử, tất định sẽ sa Cực Lạc thế giới. Quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Thấy hoa tòa rồi kế nên tưởng Phật. Tại sao vậy ? Vì chư Phật Như Lai là thân pháp giới vào khắp trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh, nên lúc các người tâm tưởng Phật, tâm ấy tức là ba mươi hai tướng tám mươi tùy hình hảo, tâm ấy làm Phật tâm ấy là Phật. Chư Phật Chánh Biến Tri hải từ tâm tưởng sanh, vì vậy nên nhứt tâm buộc niệm quán kỹ đức Phật ấy, đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.
Người muốn tưởng đức Phật ấy trước nên tưởng hình tượng. Thấy một bửu tượng màu như vàng diêm phù đàn ngồi trên hoa tòa kia. Thấy tượng Phật ngồi rồi tâm nhãn được khai thông, tỏ rõ phân minh thấy quốc độ Cực Lạc thất bửu trang nghiêm, đất báu, ao báu, cây báu bày hàng. Màn lưới báu cõi Trời giăng che phía trên, các màn lưới báu đầy khắp hư không, thấy sự như vậy khiến rất rõ ràng như thấy trong lòng bàn tay. Thấy sự ấy rồi lại nên tưởng một hoa sen lớn ở bên tả tượng Phật như trước không khác. Rồi lại tưởng một hoa sen lớn như trước ở bên hữu tượng Phật. Rồi tưởng một tượng Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi tòa sen bên tả cũng kim sắc như trước. Rồi tưởng một tượng Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi tòa sen bên hữu. Lúc pháp tưởng nầy thành rồi tượng Phật và tượng Bồ Tát đều phóng ánh sáng. Anh sáng ấy kim sắc chiếu những bửu thọ. Dưới mỗi mỗi bửu thọ đều có ba tòa hoa sen, tượng Phật và tượng hai Bồ Tát ngồi trên ấy, như vậy khắp cả quốc độ Cực Lạc.
Lúc pháp tưởng nầy đã thành, hành gỉa nên nghe nước chảy, ánh sáng, các bửu thọ, những chim cưu nhạn uyên ương đều diễn nói diệu pháp, lúc xuất định lúc nhập định luôn nghe diệu pháp. Pháp được nghe trong định lúc xuất định nhớ giữ chẳng bỏ phải khế hiệp với lời trong kinh. Nếu chẳng hiệp thì gọi là vọng tưởng. Nếu hiệp thì gọi là thô tưởng thấy Cực Lạc thế giới.
Đây là tượng tưởng gọi là pháp quán thứ tám. Quán pháp nầy trừ được vô lượng ức kiếp tội sanh tử. Nơi thân hiện tại được niệm Phật tam muội”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Kế lại nên quán Phật Vô Lượng Thọ thân tướng quang minh. A Nan phải biết Phật Vô Lượng Thọ thân như trăm ngàn muôn ức sắc vàng diêm phù đàn Trời Dạ Ma, thân Phật cao sáu mươi muôm ức na do tha hàng hà sa do tuần, bạch hào giữa hai mày xoay bên hữu uyển chuyển như năm tòa núi Tu Di, mắt Phật như bốn đại hải xanh biếc và trắng phân minh. Các lỗ lông nơi thân Phật phóng ánh sáng ra như núi Tu Di. Viên quang của Phật ấy như trăm ức Đại Thiên thế giới. Trong viên quang ấy có trăm vạn ức na do tha hàng hà sa Hóa Phật. Mỗi mỗi Hoá Phật cũng có đông nhiều vô số Hóa Bồ Tát làm thị gỉa. Thân Phật Vô Lượng Thọ có tám vạn bốn ngàn tướng. Trong mỗi mỗi tướng đều riêng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo. Trong mỗi mỗi hình hảo còn có tám vạn bốn ngàn quang minh, mỗi mỗi quang minh chiếu khắp thập phương thế giới nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật chẳng bỏ sót. Quang minh tướng hảo và Hóa Phật ấy chẳng thể nói đủ hết, chỉ nên nhớ tưởng khiến tâm nhãn được thấy. Thấy sự ấy liền thấy thập phương tất cả chư Phật. Vì thấy chư Phật nên gọi là niệm Phật tam muội.
Quán tưởng đây gọi là quán thân tất cả Phật, vì quán thân Phật nên cũng thấy tâm Phật . Phật tâm là đại từ bi tâm, dùng từ vô duyên nhiếp thọ các chúng sanh.
Người tu quán nầy bỏ thân, đời khác sanh trước chư Phật được vô sanh nhẫn. Vì vậy nên người trí phải buộc niệm quán kỹ Vô Lượng Thọ Phật. Người quán Vô Lượng Thọ Phật từ một tướng hảo mà vào, chỉ quán lông trắng giữa hai mày khiến tất tỏ rõ. Được thấy lông trắng rồi thì tám vạn bốn ngàn tướng hảo tự nhiên sẽ hiện. Thấy Phật Vô Lượng Thọ liền thấy vô lượng chư Phật mười phương. Vì thấy vô lượng chư Phật nên được chư Phật hiện tiền thọ ký.
Đây là khắp quán tưởng tất cả các sắc thân Phật gọi là pháp quán thứ chín. Quán như đây gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”.
(2594) T9 P62


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.22 khách