KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thưa Tôn giả! Các chúng sanh phiền não loạn tâm như vậy, ở trong ấy Bồ Tát khéo tu tập trợ thành thiền định là cho thiền định ấy trụ nơi tâm bình đẳng. Đây gọi là Bồ Tát tu hành thiền định.
Nếu trụ trong trí chúng sanh bình đẳng, đây gọi là định.
Tâm hành bình đẳng, tánh tướng bình đẳng, tất cánh bình đẳng, tu hành bình đẳng, đây gọi là định.
Trụ nơi thí, giới, nhẫn, tiến, thiền định, trí huệ và các pháp v.v…, đây gọi là định.
Như định bình đẳng thì chúng sanh bình đẳng. Như chúng sanh bình đẳng thì các pháp bình đẳng. Nhập vào các bình đẳng như vậy đây gọi là định.
Định bình đẳng như vậy thì bình đẳng với không. Bình đẳng với không thì chúng sanh bình đẳng, chúng sanh bình đẳng thì các pháp bình đẳng. Nhập bình đẳng như vậy đây gọi là định.
Như không bình đẳng thì vô tướng bình đẳng. Vô tướng bình đẳng thì vô nguyện bình đẳng. Vô nguyện bình đẳng thì vô tác bình đẳng. Vô tác bình đẳng thì chúng sanh bình đẳng. Chúng sanh bình đẳng thì các pháp bình đẳng. Nhập bình đẳng như vậy đây gọi là định.
Vì tự tâm bình đẳng nên tha tâm cũng bình đẳng. Đây gọi là định.
Tất cả bình đẳng ấy, đó là lợi suy địa thuỷ hoả phong. Được tâm bình đẳng ấy thì tâm như hư không không có cao hạ, thường trụ bất động, oai nghi được làm thường định chẳng chuyển. Bổn tánh vốn tự như vậy chẳng cất chẳng cao, tự tại vô uý nín lặng không nói năng, biết nghĩa, biết pháp, biết thời, biết phi thời, tuỳ sở hành thế gian mà chẳng xen tạp thế gian, bỏ tám pháp thế gian diết tất cả kiết sử, xa lìa ồn náo thích ở một mình. Bồ Tát tu hành các pháp như vậy, nơi các thiền định tâm an trụ lìa rời sở tác thế gian. Bồ Tát nầy dùng phương tiện huệ nhập Thiền Ba la mật.
Lúc nhập thiền định sanh tâm đại bi vì các chúng sanh, đây gọi là phương tiện. Tâm ấy tịch diệt hẳn đây gọi là huệ.
Lúc nhập niệm Phật đây gọi là phương tiện. Chẳng y chỉ thiền định đây gọi là huệ.
Lúc nhập nhiếp thủ tất cả thiện pháp đây gọi là phương tiện. Chẳng phân biệt pháp tánh đây gọi là huệ.
Lúc nhập xu hướng trang nghiêm thân Phật đây gọi là phương tiện. Nơi Phật pháp thân chẳng sanh phân biệt đây gọi là huệ.
Lúc nhập nhớ âm thanh của Phật như phạm âm đây gọi là phương tiện. Ở trong pháp tánh không có tướng ngôn thuyết đây gọi là huệ.
Lúc nhập thọ trì tâm như kim cương đây gọi là phương tiện. Tư duy các pháp bổn tánh vốn tự chẳng loạn động đây gọi là huệ.
Lúc nhập chẳng xả bỏ bổn sở thệ nguyện độ các chúng sanh đây gọi là phương tiện. Nơi tất cả pháp tư duy vô ngã đây gọi là huệ.
Lúc nhập tư duy tất cả thiện căn đây gọi là phương tiện. Tư duy thiện căn tánh vô sở trụ đây gọi là huệ.
Lúc nhập quán khắp thế giới chư Phật đây gọi là phương tiện. Thấy thế giới chư Phật đồng với hư không đây gọi là huệ.
Lúc nhập trang nghiêm Bồ đề đạo tràng đây gọi là phương tiện. Quán chỗ trang nghiêm đồng với tịch diệt đây gọi là huệ.
Lúc nhập muốn chuyển vô thượng pháp luân đây gọi là phương tiện. Tư duy pháp luân không có chuyển không có chẳng chuyển đây gọi là huệ.
Lúc nhập một bề tu trợ giác phần đây gọi là phương tiện. Vì biết các tâm nhiệt não của chúng sanh, nên tu tập Như Lai thiền định, biết tất cả pháp tương ưng chẳng tương ưng, có tướng không tướng tất cả tương tục, tuỳ thuận Bồ Tát quyết định tư duy, đây gọi là huệ.
Đây gọi là Bồ Tát nhập thiền định phương tiện huệ vậy.
Bồ Tát Thiền định Ba la mật phương tiện và trí huệ hai sự chung hành được Phật pháp khí, tất cả các ma chẳng phá hoại được”.
Lúc nói pháp ấy, ba vạn hai ngàn Bồ Tát được Nhựt đăng tam muội.
Duyên cớ gì mà gọi là Nhựt đăng tam muội?
Ví như mặt nhựt mọc các ánh sáng của đèn lửa, mặt nguyệt, tinh tú đều không còn hiện.
Bồ Tát Đại Sĩ được định nầy rồi, thì trước kia tất cả những trí hữu học vô học Nhị thừa và các chúng sanh khác có bao nhiêu trí đều chẳng còn hiện, đây gọi là Nhựt đăng tam muội.
Bồ Tát an trụ nơi Thiền Ba la mật thì ở nơi vô lượng các thiền tam muội mà được tự tại. Nay ở trong đây nên một phần ít trong số vô lượng tam muội ấy. Những là Điện đăng tam muội, Tịnh tam muội, Nguỵêt quang tam muội, Tịnh trang nghiêm tam muội, Nhựt quang tam muội, Bất khả tư nghị tam muội, Dũng xuất tam muội, Chiếu minh tam muội, Vố cấu quang minh tam muội, Công đức quang minh tam muội, Nhứt thiết pháp trung đắc tự tại tam muội, Các đạo tam muội, Vô ưu tam muội, Kiên xưng tam muội, Dũng xuất như tu di sơn đẳng tam muội, Pháp chiếu tam muội, Pháp kiện tam muội, Pháp tôn tam muội, Tự tại tri nhứt thiết pháp tam muội, Trụ pháp tụ tam muội, Tổng trì pháp tịnh tam muội, Tuỳ tri tha tâm hành tam muội, Pháp trang anh lạc tam muội, Thiêu nhứt thiết phiền não tam muội, Phá tứ ma lực tam muội, Thập lực thanh dũng kiện tam muội, Vô ngại đoạn ngại tam muội, Thủ đăng tam muội, Thí đắc danh văn tam muội, Trì địa tam muội, Trụ vô ngã như tu di sơn tam muội, Trí diệm tam muội, Sanh huệ tam muội, Tu thiền tam muội, Vô lượng tự tại tam muội, Tâm điều phục vô ngã vô ngã sở thành tựu tam muội, Thuỷ nguyệt tam muội, Nhựt thanh tam muội, Vô hữu cao hạ như Phật tam muội, Ly tướng tam muội, Như thiện điều tượng sư tử du hý tam muội, Niệm Phật tam muội, Niệm pháp đắc trí vô ngại tự tại tam muội, Vô thối bất thối tam muội, Bất thuấn tam muội, Thắng tịnh quang vô ngã tam muội, Không tam muội, Vô tướng tam muội, Vô nguyện tam muội, Trụ tâm bình đẳng tam muội, Kim cương tam muội, Tăng thượng tam muội, Vô năng thắng tam muội, Triền tam muội, Tịnh thanh tam muội, Thiện phân biệt tam muội, Ly phiền não tam muội, Quảng đại như hư không tam muội, Nhập chư công đức tam muội, Niệm ý tiến giác tam muội, Dũng huệ tam muội, Biện vô tận tam muội, Ngữ vô tận tam muội, Tổng trì tam muội, Bất vong tam muội, Thiện tác tam muội, Quán nhứt thiết thế tam muội, Thiện tri sở lạc tam muội, Sanh dũng dước tam muội, Dũng từ tâm tịnh tam muội, Đại bi căn bổn tam muội, Nhập hỷ tam muội, Xả ly tam triền tam muội, Trí cự tam muội, Trí hải tam muội, Bất ba đảng tam muội, Nhứt thiết tâm hỉ tam muội, Điều phục tam muội, Giải thoát trí tam muội, Dĩ tự tại tam muội, Pháp tràng kim cương tràng tam muội, Liên hoa tam muội, Liên hoa tăng thượng tam muội, Ly thế pháp tam muội, Bất động tam muội, Huệ tăng thượng tam muội, Chư Phật sở niệm thủ lăng nghiêm tam muội, Vô tranh tam muội, Hoả tam muội, Hoả minh tam muội, Giải thoát thắng trí tam muội, Trang nghiêm Phật thân tam muội, Biến chiếu tam muội, Nhập nhứt thiết chúng sanh tâm hoan hỷ tam muội, Thuận trợ đạo tam muội, Trang nghiêm chư Ba la mật tam muội, Bửu man tam muội, Giữ chư giác hoa tam muội, Giữ giải thoát quả tam muội, Cam lộ tam muội, Tốc tật như phong tam muội, Bửu tế tam muội, Giá hải đào tam muội, Sơn tướng bác tam muội, Quảng đại thần túc tam muội, Kiến vô lượng chư Phật tam muội, Văn trì tam muội, Bất loạn tam muội, Nhứt niệm tri vô lượng công đức hải tịnh tam muội. Bất khả kế na do tha tam muội như vậy lúc nhập Thiền Ba la mật đều được thanh tịnh.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành thiền định mà chẳng thể tận”.
(2536) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Bồ Tát Vô Tận Ý rằng: “Bạch Đại Sĩ! Lành thay lành thay, Ngài đã nói về Bồ Tát Thiền Ba la mật. Duy nguyện Đại Sĩ nói về Bồ Tát Bát Nhã Ba la mật, như chư Bồ Tát đã được Bát Nhã Ba la mật vô tận.
Bạch Đại Sĩ! Bát Nhã Ba la mật, hành thế nào và nhập thế nào?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bát Nhã Ba la mật như nghe rồi tu hành khéo nhập tư duy”.
Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Thế nào là như nghe tu hành?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Nghe ấy đủ tám mươi hành.
Những gì là tám mươi hành?
Muốn tu hành, thuận tâm hành, cứu cánh tâm hành, thường phát khởi hành, thân cận thiện hữu hành, không có kiêu mạn hành, chẳng phóng dật hành, cung kính hành, tuỳ thuận giáo hành, theo thiện ngữ hành, hằng đến chỗ pháp sư hành, chí tâm nghe pháp hành, thiện tư duy hành, chẳng loạn tâm hành, tinh tiến tâm hành, sanh bửu tưởng hành, khởi được tưởng hành, trừ các bịnh hành, niệm khí hành, tiến giác hành, ý hỷ hành, nhập giác hành, nghe không nhàm hành, tăng trưởng xả hành, điều trí hành, thân cận đa văn hành, phát hoan hỷ hành, thân nhẹ vui hành, tâm nhu hoà hành, nghe không mỏi mệt hành, nghe nghĩa hành, nghe pháp hành, nghe oai nghi hành, nghe người nói hành, nghe chỗ chưa nghe hành, nghe các thần thông hành, chẳng cầu các thừa khác hành, nghe các Ba la mật hành, nghe Bồ Tát tạng hành, nghe các nhiếp pháp hành, nghe phương tiện hành, nghe bốn phạm hành, nghe niệm chánh trí hành, nghe sanh phương tiện hành, nghe vô sanh phương tiện hành, nghe bất tịnh hành, tư duy từ hành, quán nhơn duyên hành, quán vô thường hành, quán khổ hành, quán vô ngã hành, quán tịch diệt hành, quán không hành, quán vô tướng hành, quán vô nguyện hành, quán vô tác hành, tác thiện hành, trì chơn thiệt hành, chẳng mất hành, chỗ ở tốt xấu phòng hộ tâm hành, siêng tinh tiến không giải đãi hành, thiện phân biệt các pháp hành, biết các phiền não chẳng phải bạn bè hành, thủ hộ các thiện pháp bạn bè mình hành, hàng phục phiền não chẳng phải bạn bè hành, thân cận chánh pháp tài hành, dứt các nghèo cùng hành, được người trí khen hành, mừng vui lợi căn hành, được các thánh vui hành, khiến kẻ chẳng phải thánh sanh hoan hỷ hành, quán các chơn đế hành, quán các ấm lỗi hoạ hành, tư lương hữu vi nhiều lỗi hoạ hành, tư duy nghĩa hành, chẳng làm tất cả ác hành, tự lợi lợi tha hành, tuỳ thuận tăng tiến các thiện nghiệp hành, tiến tăng thượng hành, được tất cả Phật pháp hành.
Đây gọi là Bồ Tát như chỗ được nghe đủ tám mươi hành.
Thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đủ ba mươi hai sự khéo thiện nhập tư duy.
Những gì là ba mươi hai sự?
Thiện nhập thọ trì định, thiện nhập phân biệt huệ, thiện nhập tâm nhu hoà, thiện nhập thân độc hành, thiện nhập mười hai duyên, thiện nhập chẳng đoạn dứt, thiện nhập bất thường, thiện nhập nhơn duyên sanh pháp, thiện nhập không chúng sanh không thọ mạng không nhơn, thiện nhập không có chỗ lai khứ an trụ, thiện nhập không có tác mà chẳng dứt nhơn quả, thiện nhập rỗng không mà chẳng giải đãi, thiện nhập vô tướng mà chẳng phế, thiện nhập vô nguyện mà chẳng xả, thiện nhập chẳng chứng không vô tướng vô nguyện, thiện nhập sanh các thiền định tam muội, thiện nhập chẳng theo thiền định thọ sanh, thiện nhập sanh các thông trí, thiện nhập chẳng chứng vô lậu pháp, thiện nhập nội quán pháp, thiện nhập chứng quyết định, thiện nhập tư lương hữu vi pháp lỗi hoạ, thiện nhập chẳng thảm trước hữu vi pháp, thiện nhập quán tất cả chúng sanh vô ngã mà chẳng xả bỏ đại bi, thiện nhập tất cả thú những nơi bố uý, thiện nhập đầu thọ sanh các thú chẳng phải do nghiệp mà cố ý thọ sanh, thiện nhập ly dục, thiện nhập chẳng chứng pháp ly dục, thiện nhập xả bỏ lạc dục đã được, thiện nhập chẳng xả bỏ pháp lạc, thiện nhập xả bỏ tất cả hí luận giác quán, thiện nhập chẳng xả bỏ các giác quán phương tiện.
Đây gọi là đại Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đủ ba mươi hai sự thiện nhập tư duy.
Lại thiện tư duy ấy là thiện thuận cú.
Thiện thuận cú ấy là bất thủy cú, là bất chung cú, là bất trụ cú, là bất y chỉ cú, là bất động cú, là bất ỷ cú, là bình đẳng cú, là phi đẳng cú, là chơn thiệt cú, là chánh chơn cú, là bất biến cú, là thanh tịnh cú, là vĩnh tịch cú, là bất nhiên cú, là bất cử cú, là bất hạ cú, là bất giảm cú, là bất tăng cú, là bất cộng cú, là bất hí luận cú, là như cú, là bất như cú, là như phi cú, là phi như phi bất như cú, là như thiệt cú, là tam thế bình đẳng cú, là tam tế cú, là bất trụ sắc cú, là bất trụ thọ tưởng hành thức cú, là bất trụ địa đại cú, là bất trụ thuỷ hoả phong cú, là chẳng trụ nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới cú, là bất trụ nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới cú, là bất trụ tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới cú, là bất trụ thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới cú, là bất trụ thân giới, xúc giới, thân thức giới cú, là bất trụ ý giới, pháp giới, ý thức giới cú, là niệm nghĩa cú, là niệm trì cú, là liễu nghĩa kinh cú, là niệm pháp cú.
Đây gọi là đại Bồ Tát thiện nhập tư duy.
(2538) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Lại nữa, thiện tư duy là tất cả pháp hoặc ngã hay vô ngã, các pháp như vậy tuỳ thuận quán sát. Nếu biết chúng sanh không có ngã tức là tuỳ thuận quán sát các pháp. Quán sát như vậy tức là thiện nhập tư duy. Như thiện tư duy tức là tư duy sanh tử và Niết bàn đồng nhứt pháp giới, quán hai cú ấy không có sai biệt. Thấy như vậy thì gọi là siêng tinh tiến thiện nhập tư duy. Nếu quán hắc pháp và bạch pháp hai tánh bình đẳng không có sai biệt, đây gọi là siêng tinh tiến thiện nhập tư duy. Nếu quán các ách khổ cùng không có ách khổ chẳng động chẳng ỷ thị, đây gọi là siêng tinh tiến thiện nhập tư duy.
Nếu các Bồ Tát khởi thiện tư duy với các chúng sanh mà chẳng bỏ lìa, nơi các pháp tướng mà chẳng phân biệt, đây gọi là Bồ Tát phát thiện tư duy.
Người như văn hành được nhập báo thiện tư duy như vậy, đây gọi là huệ.
Thưa Tôn giả! Bồ Tát huệ ấy, có mười sáu pháp chẳng trụ trong đó.
Những gì là mười sáu pháp?
Chẳng trụ vô minh, hành, thức, danh, sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, nhẫn đến chẳng trụ vô minh diệt, hành diệt, thức diệt, danh sắc diệt, lục nhập diệt, xúc diệt, thọ diệt, ái diệt, thủ diệt, hữu diệt, sanh diệt, lão tử diệt.
Chẳng trụ căn bổn thân kiến nhẫn đến chẳng trụ sáu mươi hai kiến.
Chẳng trụ cao hạ nhẫn đến chẳng trụ các thế gian pháp lợi, suy, huỷ, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.
Chẳng trụ mạn mạn, tăng thượng mạn, thắng mạn, ngã mạn, hạ mạn, kiêu mạn, tà mạn, nhẫn đến chẳng trụ hai mươi phiền não.
Chẳng trụ nhơn tham khởi lên các kiết sử, hoặc thô hoặc tế hoặc thượng trung hạ, nhẫn đến chẳng trụ các kiết do tham dục khởi lên.
Chẳng trụ si tối phú cái các si, nhẫn đến chẳng trụ các kiết nhơn si khởi lên.
Chẳng trụ dâm dục ái trược.
Chẳng trụ ngũ, ấm, tử, phiền não, thiên ma, nhẫn đến chẳng trụ các ma sự nhơn ma khởi lên.
Chẳng trụ ngã, nhơn chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, sĩ phu, nhẫn đến chẳng trụ lấy tướng chúng sanh.
Chẳng trụ nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng, pháp chướng các kiến chướng, nhẫn đến chẳng trụ tất cả tập khí.
Chẳng trụ tư tưởng, ức tưởng, phân biệt tưởng, duyên tưởng, cảnh giới kiến văn giác tri, nhẫn đến chẳng trụ tất cả các kiết.
Chẳng trụ tuỳ chúng sanh tâm hành trí nhẫn đến chẳng trụ bát vạn tứ thiên pháp tụ.
Chẳng trụ xan tham, bố thí, trì giới, phá giới, sân khuể, nhẫn nhục, giải đãi, tinh tiến, loạn ý, thiền định, ngu si, trí huệ, nhẫn đến chẳng trụ các Ba la mật bạn phi bạn v.v…
Chẳng trụ định loạn, tà kiến, thiện bất thiện, thế gian xuất thế gian, khả tác bất khả tác, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, hắc pháp bạch pháp, sanh tử Niết bàn, nhẫn đến chẳng trụ tất cả pháp bạn chẳng phải bạn v.v…
Chẳng trụ chúng sanh dị tướng, các thừa dị tướng, Phật giới dị tướng, chư Phật dị tướng, chư Pháp dị tướng, chúng Thánh dị tướng, nhẫn đến chẳng trụ tất cả dị tướng.
Chẳng trụ tri bất tri, thức bất thức, thế đế chơn đế, nhẫn đến chẳng trụ tất cả các tướng.
Nghĩa là Bồ Tát tư duy huệ ấy, không nghe, không làm, không thân, không tướng, không hình vô vi. Chơn huệ như vậy chẳng trụ tất cả ức tưởng tư duy tâm tác chỉ trụ danh tự dị tướng.
*Đây gọi là Bồ Tát chơn trí huệ chẳng trụ trong mười sáu pháp như vậy.
Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát huệ?
Xứ sở có tám phương tiện:
Các ấm phương tiện, các giới phương tiện, các nhập phương tiện, các đế phương tiện, các duyên phương tiện, tam thế phương tiện, các thừa phương tiện, các pháp phương tiện.
Thế nào là các ấm phương tiện?
Nếu nói về các ấm thì như bọt nước, như bóng nước, như dương diệm, như thân cây chuối, như ảo, như mộng, như vang ứng tiếng, như tượng trong gương, như bóng, như hoá.
Sắc ấm, như bọt nước, như tánh bọt nước, chẳng phải ngã, chẳng phải chúng sanh, chẳng phải thọ mạng, chẳng phải nhơn. Sắc cũng như vậy, có thể biết như vậy thì gọi là Bồ Tát quán sắc phương tiện.
Thọ ấm như bóng nước, tưởng ấm như dương diệm, cây chuối, ảo huyễn ảo huyễn tánh chẳng phải ngã, chẳng phải chúng sanh, chẳng phải thọ mạng, chẳng phải nhơn. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Có thể biết như vậy thì gọi là Bồ Tát quán thọ, tưởng, hành, thức phương tiện.
Các ấm như mộng, như vang, như tượng, như ảnh, như hoá, như hoá tánh, không ngã, không chúng sanh, không thọ mạng, không nhơn, các ấm ấy đều cũng như vậy. Có thể biết như vậy thì gọi là Bồ Tát quán các ấm phương tiện.
Gọi là ấm ấy tức là tướng thế gian, tướng thế gian tức là tướng có thể hư hoại. Như tướng có thể hư hoại tức là tánh vô thường, tánh khổ, tánh vô ngã, tánh tịch diệt. Có thể biết như vậy thì gọi là Bồ Tát quán ấm phương tiện.

Thế nào là Bồ Tát biết giới phương tiện?
Pháp giới, địa giới, thuỷ, hoả, phong giới, trong pháp giới ấy không có tướng cứng, tướng ướt, tướng nóng, tướng động.
Pháp giới, nhãn giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý giới, trong pháp giới ấy không có tướng thấy, tướng nghe, tướng ngửi, tướng nếm, tướng cảm giác, tướng rõ biết.
Pháp giới, Sắc giới, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, trong pháp giới ấy không có tướng được thấy, tướng được nghe, tướng được ngửi, tướng được nếm, tướng được cảm giác, tướng được biết.
Pháp giới, nhãn thức giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, trong pháp giới ấy không có nhãn thức biết sắc, nhẫn đến không có ý thức biết pháp.
Pháp giới sắc giới, pháp giới chẳng phải tướng sắc làm ra, nhẫn đến pháp giới pháp giới, pháp giới chẳng phải tướng pháp làm ra.
Pháp giới và ngã giới không hai không khác.
Pháp giới, Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới, ngã giới, sanh tử giới, Niết bàn giới không hai không khác.
Pháp giới hư không giới, tất cả pháp giới, ngã giới hư không giới, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô tác, vô xuất, vô sở hữu đồng như Niết bàn.
Hư không và Niết bàn cùng tất cả các pháp không hai không khác.
Vô lượng hữu vi pháp giới như vậy nhập vào vô vi giới.
Có thể biết như vậy nói như vậy thì gọi là Bồ Tát biết giới phương tiện
(2540) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thế nào là Bồ Tát quán nhập phương tiện?
Như lời Phật nói nhãn không, ngã không, ngã sở không. Tại sao, vì trong nhãn tánh ấy không có ngã, không có ngã sở. Như nhãn không, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý không cũng như vậy.
Người quán nhập ấy thấy tất cả pháp, hoặc thiện bất thiện không có hai tướng.
Đây gọi là Bồ Tát quán nhập phương tiện.
Nếu nhãn nhập sắc nhập, nếu thấy nhãn sắc ly dục, chẳng chứng ly dục pháp. Đây gọi là Bồ Tát quán nhập phương tiện.
Nhĩ nhập thanh nhập, tỷ nhập hương nhập, thiệt nhập vị nhập, thân nhập xúc nhập, ý nhập pháp nhập, nếu thấy ly dục chẳng chứng ly dục pháp, đây gọi là Bồ Tát quán nhập phương tiện.
Gọi là nhập ấy, hoặc thánh nhập hoặc phi thánh nhập.
Thế nào là thánh nhập? Là tu tập đạo.
Thế nào là phi thánh nhập? Là chẳng tu tập đạo.
Nếu Bồ Tát an trụ nơi đạo với kẻ chẳng tu tập đạo sanh lòng đại bi chẳng bỏ nhập đạo, đây gọi là Bồ Tát quán nhập phương tiện.
Thế nào là Bồ Tát quán đế phương tiện?
Đế ấy thậm thâm khó vào.
Thế nào là khó vào?
Như là khổ trí, tập trí, diệt trí và đạo trí.
Khổ trí ấy, quán các ấm vô sanh. Tập trí ấy, quán đoạn dứt tham ái nhơn. Diệt trí ấy, quán vô minh v.v…các phiền não không có hoà hiệp. Đạo trí ấy, được bình đẳng quán nơi tất cả pháp không chỗ dựa lấy.
Bồ Tát nếu ở trong bốn Thánh đế quán như vậy mà chẳng thủ chứng vì giáo hoá chúng sanh, đây gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện.
Còn có ba đế là tục đế, đệ nhứt nghĩa đế và tướng đế.
Thế nào là tục đế? Như là ngữ ngôn văn tự các pháp giả danh được thế gian sử dụng.
Thế nào là đệ nhứt nghĩa đế? Đó là nhẫn đến không có tâm hành, huống là lại có ngôn ngữ văn tự.
Thế nào là tướng đế?
Quán tất cả tướng đồng với nhứt tướng. Nhứt tướng ấy tức là vô tướng.
Bồ Tát tuỳ thuận tục đế mà chẳng nhàm mỏi, quán đệ nhứt nghĩa đế mà chẳng thủ chứng, quán tướng đế nhứt tướng vô tướng. Đây gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện.
Còn có hai đế là tục đế và đệ nhứt nghĩa đế.
Thế nào là tục đế?
Như nói khổ tập đạo đế, như thế gian ngữ ngôn văn tự pháp giả danh v.v…
Thế nào là đệ nhứt nghĩa đế?
Như ở nơi pháp Niết bàn trọn chẳng quên mất.
Tại sao vậy?
Như tánh pháp giới thường trụ. Bồ Tát tuỳ tục chẳng sanh nhàm mỏi, quán đệ nhứt nghĩa đế mà chẳng thủ chứng.
Còn có một đế, đó là nơi tất cả pháp không có dựa lấy, mà vì hoá độ chúng sanh nên hiện có dựa lấy.
Đây gọi là Bồ Tát quán đê phương tiện.
Còn nữa, ngũ ấm khổ, nếu thấy tướng khổ của ngũ ấm, đây gọi là quán khổ.
Khổ tức không, đây gọi là khổ trí quán Khổ Thánh đế.
Nếu quán ngũ ấm các phiền não nghiệp nhơn kiến nhơn đây gọi là tập.
Nếu quán ái nhơn kiến nhơn chẳng thủ chẳng trước chẳng mong chẳng cầu, đây gọi là tập trí quán Tập Thánh đế.
Ngũ ấm cứu cánh tận tướng, quá khứ đã dứt, vị lai chưa sanh, hiện tại chẳng trụ, đây gọi là diệt. Có thể biết như vậy, đây gọi là diệt trí quán Diệt Thánh đế.
Nếu người đắc đạo chứng tập trí diệt trí, tỷ trí biết rồi, đây gọi là đạo.
Nếu ở trong ấy đều thấy tánh không, đây gọi là đạo trí quán Đạo Thánh đế.
Nếu Bồ Tát có thể quán tứ Thánh đế như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện.
Nếu tất cả thọ gọi là khổ, ở nơi các thọ tư duy phân biệt, đây gọi là khổ trí quán khổ Thánh đế.
Thọ nhơn hoà hiệp, đây gọi là tập. Nếu ở nơi thọ nhơn biết đúng chơn thiệt, đây gọi là tập trí quán Tập Thánh đế.
Nếu trừ các thọ không có kẻ thọ nhận thọ, quán thọ diệt tận mà chẳng chứng nơi diệt vì hoá độ chúng sanh. Đây gọi là diệt trí quán Diệt Thánh đế.
Nếu có sở thọ, đây gọi là đạo, dầu cố hoà hiệp mà dụ như chiếc bè, chẳng vì sở thọ chẳng cầu nơi đạo, đây gọi là đạo trí quán Đạo Thánh đế.
Biết như vậy thấy bốn thánh đế thanh tịnh bình đẳng, đây gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện.
(2542) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Lại tóm lược để nói.
Sanh khổ đây gọi là khổ. Nếu quán nơi sanh đây gọi là khổ trí quán Khổ Thánh đế.
Sanh từ nơi nhơn duyên, đây gọi là tập. Nếu quán có chẳng phải có, đây gọi là tập trí quán Tập Thánh đế.
Tất cả sanh chẳng phải sanh tức là chẳng phải diệt. Nếu pháp chẳng sanh thì không có diệt, đây gọi là diệt.
Nếu quán diệt ấy, đây gọi là diệt trí quán Diệt Thánh đế.
Nếu ở những như vậy mà suy cầu xứng lượng tư duy phân biệt, đây gọi là đạo.
Nếu dứt diệt suy cầu phân biệt ấy mà nhập pháp môn, đây gọi là trí quán Đạo Thánh đế.
Nếu trụ nơi trí chẳng chứng Thánh đế, đây gọi là Bồ Tát quán đế phương tiện.
Thế nào là Bồ Tát quán duyên phương tiện?
Vì tụ tập bất thiện tư duy nên vô minh tập. Vì vô minh tập nên hành tập. Vì hành tập nên thức tập. Vì thức tập nên danh sắc tập. Vì danh sắc tập nên lục nhập tập. Vì lục nhập tập nên xúc tập. Vì xúc tập nên thọ tập. Vì thọ tập nên ái tập. Vì ái tập nên thủ tập. Vì thủ tập nên hữu tập. Vì hữu tập nên sanh tập. Vì sanh tập nên lão tử tập. Vì lão tử tập nên ưu bi khổ não tập.
Nếu biết các khổ tụ tập như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán duyên phương tiện.
Nếu trụ các pháp tụ tập như vậy thì chẳng trưởng dưỡng, không sở tác, không tranh tụng, không có chủ, không sở thuộc, không hệ phược. Nghĩa là nếu nhơn thiện pháp, nếu nhơn bất thiện pháp, nếu nhơn bất động pháp, nếu nhơn hướng Niết bàn pháp. Các pháp như vậy phân biệt đúng thiệt.
Nếu các chúng sanh căn lượng chừng hạn, nhơn các căn ấy gây tạo các nghiệp, hoặc có thọ báo hoặc chẳng thọ báo, đều khéo biết nguyên nhơn tụ tập phương tiện. Đây gọi là Bồ Tát quán duyên phương tiện.
Nếu bất thiện tư duy diệt thì vô minh diệt. Vì vô minh diệt nên hành diệt. Vì hành diệt nên thức diệt. Vì thức diệt nên danh sắc diệt. Vì danh sắc diệt nên lục nhập diệt. Vì lục nhập diệt nên xúc diệt. Vì xúc diệt nên thọ diệt. Vì thọ diệt nên ái diệt. Vì ái diệt nên thủ diệt. Vì thủ diệt nên hữu diệt. Vì hữu diệt nên sanh diệt. Vì sanh diệt nên lão tử diệt. Vì lão tử diệt nên ưu bi khổ não diệt.
Nếu biết các khổ tụ diệt như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán duyên phương tiện.
Tất cả các pháp thuộc nhơn, thuộc duyên, thuộc hoà hiệp. Nếu pháp thuộc nhơn duyên hoà hiệp, thì pháp ấy chẳng thuộc ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng. Nếu pháp chẳng thuộc ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng thì chẳng nhập vào pháp số. Có thể biết như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán duyên phương tiện.
Nếu Bồ Tát tu tập các pháp vì trợ Bồ đề an ở Bồ đề. Các duyên như vậy đều thấy diệt tận mà chẳng thủ chứng vì hoá độ chúng sanh. Đây gọi là Bồ Tát quán duyên phương tiện.
Thế nào là quán tam thế phương tiện?
Nếu Bồ Tát nhớ quá khứ thế thân mình thân người, tâm tâm số pháp thiện và bất thiện. Tâm bất thiện thì quở trách chê mắng, tâm thiện thì hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát quán quá khứ phương tiện.
Vị lai thế tâm và tâm sô pháp một bề chuyên niệm đạo Bồ đề. Nếu khởi thiện tâm đều nguyện hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Bao nhiêu tâm tâm số pháp bất thiện chẳng cho vào tâm. Phát nguyện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán vị lai phương tiện.
Hiện tại tâm và tâm số pháp thiện tư duy làm bao nhiêu nghiệp đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là Bồ Tát quán hiện tại phương tiện.
Quán phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.
Còn nữa, Bồ Tát khéo hiểu tam thế không, không có sở hữu. Nếu quán như vậy, do sức trí huệ quán tam thế rỗng không, nơi tam thế chư Phật vun trồng vô lượng công đức đêu đem hồi hướng Vô thượng Bồ đề, vì sức phương tiện vậy. Đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.
Còn nữa, Bồ Tát dầu thấy quá khứ tận pháp chẳng đến vị lai mà thường tu thiện pháp siêng tinh tiến chẳng giải đãi. Bồ Tát quán vị lai pháp dầu không có sanh xuất mà chẳng bỏ tinh tiến nguyện hướng Bồ đề. Bồ Tát quán hiện tại pháp dầu niệm niệm diệt mà tâm mình chẳng quên phát xu Bồ đề. Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.
Quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại chẳng trụ, dầu quán tâm tâm số pháp sanh diệt tán hoại như vậy, mà thường chẳng bỏ tu tập các thiện căn trợ Bồ đề pháp. Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.
Còn nữa, Bồ Tát nếu các thần thông nhớ quá khứ thế những thiện căn đã được làm, nhớ rồi hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Niệm vị lai thế thiện căn chưa sanh nguyện tâm dự tính làm đều thành tựu như ý. Niệm hiện tại thế thường sanh thiện căn chuyên niệm chẳng giải đãi hồi hướng đạo Vô thượng Bồ đề. Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.
Còn nữa, Bồ Tát nếu hoá độ chúng sanh, niệm quá khứ thế đã làm thiện căn trợ đạo công đức, những là tuỳ chúng sanh tâm đáng được hoá độ ấy thì đúng như sở thích của họ đều đã hoá độ xong. Nếu các chúng sanh vị lai thế, hoặc họ cần thấy Phật thấy Thánh nhơn mà được độ ấy thì tuỳ hình thích đáng đều làm cho họ được độ. Nếu các chúng sanh hiện tại thế nên nghe pháp hay là nên thấy thần lực thì cũng tuỳ chỗ thích đáng mà đều hiện hóa đó.
Tuỳ chỗ giáo hoá các chúng sanh rồi liền ở nơi tam thế thành tựu tự lợi lợi tha. Tất cả sự lợi ấy đều vì Bồ đề đủ vô ngại trí.
Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán tam thế phương tiện.
(2544) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Thế nào là Bồ Tát quán các thừa phương tiện?
Xuất thế có ba thừa là Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Đại thừa.
Thế có hai thừa là Thiên thừa và Nhơn thừa.
Thế nào là Bồ Tát quán Thanh Văn thừa?
Phật chưa xuất thế thì không có Thanh Văn thừa. Tại sao vậy? Vì từ người khác nghe pháp sanh chánh kiến. Đó là nghe pháp rồi trì giới oai nghi, oai nghi đủ rồi giới tụ thành tựu. Giới tụ đầy đủ rồi định tụ đầy đủ. Định tụ đầy đủ rồi huệ tụ đầy đủ. Huệ tụ đầy đủ rồi giải thoát tụ đầy đủ. Giải thoát tụ đầy đủ rồi giải thoát tri kiến tụ đầy đủ.
Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán Thanh Văn thừa phương tiện.
Còn nữa, Bồ Tát quán Thanh Văn thừa, hoặc thiện bất thiện và bất động hành, tâm thường chê trách nhàm lìa thế giới, quán tất cả hành vô thường khổ vô ngã tịch diệt Niết bàn, nhẫn đến chẳng có một niệm hy vọng thọ sanh, thường có lòng sợ sệt chẳng ưa thích, quán ấm như oán thù, giới (6 căn, 6 trần, 6 thức) như rắn độc, nhập như xóm vắng trống, nơi tất cả thú chẳng nguyện thọ sanh. Nếu có thể khai thị phân biệt như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán Thanh Văn thừa phương tiện.
Thế nào là Bồ Tát quán Duyên Giác thừa phương tiện?
Nếu Duyên Giác xuất thế, Bồ Tát quán sở hành của họ như thiệt biết đó.
Sở hành của Duyên Giác vượt hơn công đức của Thanh Văn, dục tinh tiến bất phóng dật trì giới, ít nghe học, chẳng nhiều cúng dường chư Phật Thế Tôn cung cấp hầu hạ phục dịch, do trung căn nên thường sanh tâm nhàm, các việc được làm thảy đều kém ít, nhàm sợ ồn náo thường thích xa lìa, một mình ở nơi vắng vẻ rảnh rang, oai nghi tường tự, ra vào ngưng trọng, an tâm yên lặng bớt việc người, có thể vì chúng sanh mà hiện phước điền thế gian, tâm họ nghiền ngẫm quán mười hai nhơn duyên, thường niệm một pháp xuất thế Niết bàn. Luôn đi trong thiền định, chẳng từ người nghe mà tự nhiên giác ngộ ít phần cảnh giới. Vì nhơn duyên ngộ đạo nên gọi là Duyên Giác.
Nếu có thể khai thị phân biệt như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán Duyên Giác thừa phương tiện.
Thế nào là Bồ Tát quán Đại thừa phương tiện?
Thừa ấy vô lượng. Nay ở trong ấy sẽ nói phần ít.
Thừa ấy vô lượng hay dung thọ tất cả chúng sanh vì không có quái ngại vậy. Thừa ấy tăng trưởng tất cả thiện căn vì khiến vô lượng chúng sanh được thọ dụng vậy. Thừa ấy đầy đủ các Ba la mật vì hay tuỳ chúng sanh tâm hành mà hoá độ vậy. Thừa ấy có thể quá các pháp trợ đạo vì tiến đến vô ngại tới đạo tràng vậy.Thừa ấy bình đẳng vì vô ngại quang minh chiếu vô lượng tất cả chúng sanh đều kham thọ vậy. Thừa ấy vô uý vượt quá khiếp nhược đạo vì đều có thể thị hiện các Phật pháp vậy. Thừa ấy có thể phá hoại tất cả các ma ngoại đạo tà chúng vì đã xong mười hai duyên kiến lập tá trợ tràng Bồ đề vậy. Thừa ấy có thể trừ tất cả các biên kiến hữu vô đoạn thường nhơn duyên khởi lên phiền não chướng ngại che trùm nghi ngờ đùa cợt vì được Phật vô ngại chơn trí huệ vậy. Thừa ấy giàu đủ các trân bửu chơn thiệt chẳng hư hay lợi ích chúng sanh vì đại bi dũng mãnh bổn nguyện thành tựu vậy. Thừa ấy đầy đủ thập lực, vô uý pháp, bất cộng, tướng hảo trang nghiêm thân khẩu ý vậy.
Phương tiện như vậy, đây gọi là Bồ Tát quán Đại thừa phương tiện.
Thế nào là Bồ Tát quán nhứt thiết pháp phương tiện?
Đó là hoặc hữu vi hoặc vô vi, Bồ Tát ở trong các pháp ấy khéo biết phương tiện.
Thế nào là Bồ Tát quán hữu vi phương tiện?
Những thân thiện nghiệp, những khẩu thiện nghiệp, những ý thiện nghiệp nguyện đem hồi hướng Vô thượng Bồ đề, đây gọi là hữu vi phương tiện.
Nếu quán các thiện nghiệp thân khẩu ý đồng tướng Bồ đề mà hồi hướng Bồ đề, đây gọi là Bồ Tát quán vô vi phương tiện.
Còn nữa, nếu có thể tụ tập ngũ Ba la mật, đây gọi là hữu vi phương tiện.
Dầu biết Bát Nhã Ba la mật tánh nó vô vi mà chỗ được tụ tập trọn không hề nhàm chê, cần phải đầy đủ các Ba la mật, hiểu sâu thiện căn đồng vô lậu Bồ đề mà còn nguyện thành Nhứt thiết chủng trí, đây gọi là Bồ Tát vô vi phương tiện.
Còn nữa, Bồ Tát trụ trong tâm vô ngại bình đẳng dùng Tứ nhiếp pháp nhiếp thủ chúng sanh, đây gọi là hữu vi phương tiện.
Nếu khéo hiểu chúng sanh vô ngã vô nhơn không chỗ mong cầu biết Tứ nhiếp pháp đồng vô vi giải thoát mà có thể hồi hướng Nhứt thiết chủng trí, đây gọi là vô vi phương tiện.
Còn nữa, nếu các phiền não sanh tử tương tục dứt đoạn khiến nó chẳng khởi chỗ có thiện căn trợ Bồ đề ấy khiến chẳng đoạn tuyệt nhẫn đến chẳng hành chút phần phiền não, đây gọi là hữu vi phương tiện.
Dầu quán không vô tướng vô nguyện biết ba môn không ấy tức là trợ đạo phương tiện nên có thể chẳng chứng, đây gọi là vô vi phương tiện.
Còn nữa, dầu ở tam giới mà chẳng bị tam giới phiền não ô nhiễm, đây gọi là hữu vi phương tiện.
Dầu xuất tam giới mà chẳng chứng xuất, đây gọi là vô vi phương tiện.
Như lời Phật nói biết các pháp phương tiện thì có thể đầy đủ Nhứt thiết chủng trí, tại sao, vì Nhứt thiết chủng trí vô lượng vô biên đầy đủ chánh niệm huệ phương tiện, vì vậy nên gọi là nhứt thiết pháp phương tiện.
Thưa Tôn giả! Đây gọi là Bồ Tát trí huệ duyên tám phương tiện vậy.
Thưa Tôn giả! Tám phương tiện ấy nhiếp vô tận trí huệ của Bồ Tát.
Huệ ấy có thể hiểu, vì quán rõ thiện pháp bất thiện pháp vậy.
Huệ ấy như mũi tên, vì hay bắn đúng pháp vậy.
Huệ ấy hay làm vì chánh pháp hiện tại vậy.
Huệ ấy chơn giải vì dứt trừ các kiến phiền não chướng ngại các phú cái vậy.
Huệ ấy định nguyện vì đều có thể đầy đủ bổn sở cầu vậy.
Huệ ấy tiêu dung vì có thể trừ phiền não các cháy nóng vậy.
Huệ ấy diệt dự vì chẳng dứt pháp lạc vậy.
Huệ ấy chánh niệm vì rõ nghĩa sở duyên vậy.
Huệ ấy an trụ vì đủ ba mươi bảy pháp trợ đạo vậy.
Huệ ấy đắc tướng vì như thừa được hành đạo vậy.
Huệ ấy giải tướng vì tánh trí chiếu vậy.
Huệ ấy hay độ vì quá các lưu vậy.
Huệ ấy hay tiến vì thành chánh định quyết định vậy.
Huệ ấy chánh kiến vì đầy đủ tất cả thiện pháp vậy.
Huệ ấy hoan hỷ vì có thể cứu vớt kẻ sa vào phiền não vậy.
Huệ ấy thù thắng vì được đảnh pháp vậy.
Huệ ấy vi diệu vì tự nhiên giác vậy.
Huệ ấy chẳng hành vì chẳng gần tam thế vậy.
Huệ ấy nhiếp thủ vì đủ tất cả phương tiện vậy.
Huệ ấy hay đoạn dứt vì quá các tư tưởng vậy.
Huệ ấy chẳng phóng dật vì bỏ lìa tối mờ vậy.
Huệ ấy sơ thỉ vì phát hành tất cả thiện pháp vậy.
Huệ ấy hay phát vì đủ các thừa vậy.
Huệ ấy chiếu minh vì trừ lưới vô minh vậy.
Huệ ấy cho con mắt vì tất cả chúng sanh như chỗ hiểu của họ đều được tỏ rõ vậy.
Huệ ấy không y chỉ vì quá nhãn sắc vậy.
Huệ ấy đệ nhứt nghĩa vì xuất chơn thiệt vậy.
Huệ ấy không tranh vì khéo phân biệt vậy.
Huệ ấy tỏ rõ vì hướng về trí môn vậy.
Huệ ấy vô tận vì hay đi khắp vậy.
Huệ ấy chẳng nghịch vì thấy mười hai duyên vậy.
Huệ ấy giải thoát vì các triền hệ phược đều đã khéo dứt vậy.
Huệ ấy chẳng tạp vì lìa tất cả pháp chướng ngại vậy.
Thưa Tôn giả! Tất cả chúng sanh có bao nhiêu tâm hành, trí huệ như vậy đều có thể chiếu suốt cả. Như chúng sanh bao nhiêu tâm hành huệ tư trí các phiền não môn, trí huệ như vậy thảy đều thấy rõ.
Nếu Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Như Lai có bao nhiêu trí huệ; Bồ Tát nầy đều có thể học khắp cả.
Đây gọi là Bồ Tát vô tận huệ. Do vô tận huệ ấy nên đủ vô tận trí”.
Lúc nói pháp ấy, có ba vạn hai ngàn Bồ Tát thiện căn thành thục được Vô sanh pháp nhẫn.
(2547) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Bồ Tát tu tâm từ cũng chẳng thể tận. Tại sao vậy?
Tâm từ của Bồ Tát vô lượng vô biên. Bồ Tát tu tâm từ không có hạn lượng, đồng với chúng sanh giới.
Bồ Tát tu tâm từ phát tâm che chở khắp tất cả chúng sanh.
Ví như hư không không đâu là chẳng khắp trùm che, tâm từ của Bồ Tát cũng như vậy, tất cả chúng sanh không ai là chẳng được trùm che.
Như chúng sanh giới vô lượng vô biên chẳng thể cùng tận, tâm từ của Bồ Tát cũng như vậy, vô lượng vô biên không có cùng tận.
Vì hư không vô tận nên chúng sanh vô tận. Vì chúng sanh vô tận nên Bồ Tát tu tâm từ cũng chẳng thể cùng tận.
Đây gọi là tâm từ được tu của Đại Sĩ chẳng thể cùng tận”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi: “Bạch Đại Sĩ! Ngang chừng nào gọi là chúng sanh giới”?.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Bao nhiêu địa giới, thuỷ giới, hoả giới và phong giới, lượng ấy vô biên mà còn chẳng nhiều hơn chúng sanh giới”.
Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Chừng có thể nói ví dụ so sánh được chăng?”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Nói được, chỉ chẳng được dùng việc nhỏ để ví dụ.
Phương Đông cách đây trọn một hằng hà sa số thế giới chư Phật, Nam, Tây, Bắc, cùng bốn hướng và thượng hạ phương tất cả đều một hằng hà sa số thế giới chư Phật. Mười phương thế giới ấy chung làm thành một biển lớn đầy nước. Khiến một hằng hà sa số chúng sanh đồng tụ họp cầm một phần trăm của một sợi lông chẻ ra đồng chấm lấy giọt nước biển ấy. Một lần chấm nước biển ấy là một hằng hà sa số giọt, nhẫn đến chấm lấy hết nước biển lớn ấy. Như vậy vẫn còn chưa hết số chúng sanh giới.
Từ tâm của Bồ Tát đều có thể che trùm hết chúng sanh như vậy.
Thưa Tôn giả! Ý Ngài nghĩ sao, Bồ Tát tu từ thiện căn có thể tận được chăng?”.
Tôn giả nói: “Bạch Đại Sĩ! Thiệt chẳng thể tận. Hư không tánh còn có thể tận, từ tâm của Bồ Tát chẳng thể tận được. Nếu có Bồ Tát nghe lời nầy mà chẳng kinh sợ, thì nên biết Bồ Tát ấy được từ tâm vô tận vậy”.
Vô Tận Ý Bồ Tát nói: “Thưa Tôn giả! Từ ấy có thể ủng hộ tự thân, mà cũng hay lợi ích người khác. Từ ấy không có tranh. Từ ấy hay đoạn dứt tất cả sân hận giận thù hệ phược. Từ ấy hay lìa các kiết sử. Từ ấy hoan hỷ. Từ ấy chẳng thấy lỗi tất cả chúng sanh phá giới. Từ ấy không có nóng thân tâm thọ lạc. Từ ấy xa lìa tất cả não hại. Từ ấy hay lìa tất cả bố uý. Từ ấy hay thuận đạo chư Thánh. Từ ấy hay làm cho kẻ giận hoan hỷ. Từ ấy hay thắng tất cả đấu tranh. Từ ấy hay xuất sanh lợi dưỡng và khen ngợi. Từ ấy trang nghiêm oai đức Đế Thích Phạm Vương. Từ ấy thường được người trí khen. Từ ấy thường thủ hộ phàm phu ngu muội. Từ ấy thường tuỳ thuận đạo thanh tịnh. Từ ấy chẳng tạp uế hay xa lìa Dục giới. Từ ấy hay hướng đến pháp môn giải thoát. Từ ấy hay nhiếp tất cả thừa. Từ ấy hay nhiếp công đức pháp tài. Từ ấy trưởng dưỡng tất cả công đức. Từ ấy hơn các công đức vô tác. Từ ấy hay trang nghiêm tướng hảo. Từ ấy hay lìa căn độn hạ liệt. Từ ấy hay mở chánh đạo lành nhơn thiên Niết bàn. Từ ấy hay lìa tam ác bát nạn. Từ ấy mến thích các thiện pháp. Từ ấy như nguyện tất cả chỗ mong muốn đều thành tựu tự tại. Từ ấy bình đẳng với các chúng sanh. Từ ấy phát hành lìa những dị tướng. Từ ấy hướng ngay môn trì giới. Từ ấy hay thủ hộ kẻ phạm giới. Từ ấy hay thành nhẫn lực vô thượng. Từ ấy hay lìa các mạn và phóng dật. Từ ấy phát khởi tinh tiến vô tranh nhập vào chánh đạo. Từ ấy căn bổn nhập vào thánh thiền định. Từ ấy hay khéo phân biệt tâm hành lìa các phiền não. Từ ấy nhơn huệ mà sanh tổng trì ngữ ngôn văn tự. Từ ấy làm bạn với chánh định mà lìa bạn ma kiết sử. Từ ấy thường ở chung với hoan hỷ. Từ ấy khéo làm sứ cho tâm. Từ ấy giữ chặt oai nghi giới cấm. Từ ấy hay lìa các điệu cử tháo động. Từ ấy hay diệt các thứ tướng. Từ ấy là hương lành tàm quý xoa thân. Từ ấy hay trừ hơi hôi thúi phiền não.
Thưa Tôn giả! Phàm người tu tâm từ thì hay ủng hộ tất cả chúng sanh. Hay xả sự vui của mình mà ban cho chúng sanh. Hàng Thanh Văn tu tâm từ ngang với thân mình. Bồ Tát tu tâm từ trọn vì vô lượng chúng sanh.
Thưa Tôn giả! Phàm người tu tâm từ hay qua khỏi các dòng.
Chỗ được đến của tâm từ là duyên chúng sanh, duyên pháp và không có duyên.
Duyên chúng sanh là sơ phát tâm từ. Duyên pháp duyên từ là đã tập làm. Duyên vô duyên là được thâm pháp nhẫn vậy.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành đại từ mà chẳng thể tận vậy.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu hành đại bi cũng chẳng thể tận. Tại sao? Như mạng căn của người thì lấy hơi thở vào ra làm gốc. Bồ Tát tu học Đại thừa như vậy lấy đại bi làm gốc.
Như vua Chuyển Luân Vương lấy luân bửu làm gốc. Bồ Tát tu Nhứt thiết trí lấy đại bi làm gốc.
Như trưởng giả chỉ có một con trai thì tình thương yêu rất nặng. Bồ Tát đại bi với tất cả chúng sanh thương yêu như con trai một.
Đại bi như vậy ta đã làm rồi.
Đại bi như vậy làm rồi lợi mình.
Đại bi như vậy chẳng nhờ sự việc khác.
Đại bi như vậy tâm mình ra làm chẳng siểm khúc.
Đại bi như vậy việc ra làm phát xuất từ chánh quyết định.
Đại bi như vậy chủng tánh ra làm phát xuất từ trực đạo.
Đại bi như vậy tâm không tà vạy sanh chánh trực.
Đại bi như vậy không có kiêu mạn phát xuất cảnh giới chúng sanh.
Đại bi như vậy quên bỏ thân mình xuất sanh thân Như Lai.
Đại bi như vậy chẳng tham thọ mạng phát xuất chẳng làm điều ác.
Đại bi như vậy ủng hộ chúng sanh xuất sanh Bồ đề.
Đại bi như vậy hộ pháp chơn thiệt phát xuất tâm thanh tịnh.
Đại bi như vậy thấy kẻ nghèo cùng hoạn nạn phát xuất sự giúp cứu.
Đại bi như vậy bổn thệ kiên cố phát xuất tâm bất động.
Đại bi như vậy chẳng khi mình nhơn thiên Hiền Thánh phát xuất chẳng hư dối.
Đại bi như vậy đồng hành thanh tịnh phát xuất thiện nghiệp.
Đại bi như vậy tự bỏ vui mình phát xuất ban vui cho người.
Đại bi như vậy chẳng làm khổ kẻ khác phát xuất chẳng cháy nóng.
Đại bi như vậy hay khiến chúng sanh bỏ gánh nặng phát xuất tinh tiến vững bền.
Đại bi như vậy có thế lực nhẫn phát xuất thủ hộ kẻ vô lực.
Đại bi như vậy chẳng nhàm sự đáng gớm phát xuất hay trông mong kẻ bịnh tật.
Đại bi như vậy được pháp tự tại phát xuất giáo hoá chúng sanh căn độn.
Đại bi như vậy che đậy công đức mình phát xuất hiển bày công đức người.
Đại bi như vậy phát xuất lìa các khổ.
Đại bi như vậy phát xuất cầu vô lậu lạc.
Đại bi như vậy phát xuất xả vật mình ưa thích.
Đại bi như vậy phát xuất làm những thiện nghiệp không hề nhiễu não.
Đại bi như vậy phát xuất khéo trì cấm giới chẳng bỏ kẻ phá giới cấm.
Đại bi như vậy phát xuất giáo hoá chúng sanh.
Đại bi như vậy phát xuất chẳng tiếc thân mạng.
Đại bi như vậy phát xuất xả bỏ tay chưn mình.
Đại bi như vậy phát xuất sanh thiện căn cho người.
Đại bi như vậy phát xuất thiện căn lợi ích mình.
Đại bi như vậy phát xuất chẳng tham trước các thiền.
Đại bi như vậy phát xuất chẳng nhàm Dục giới.
Đại bi như vậy xuất sanh quán huệ.
Đại bi như vậy phát xuất thiện căn chẳng ô nhiễm.
Đại bi như vậy phát xuất các chúng sanh thành tựu như sở nguyện.
Đại bi như vậy phát xuất hữu vi vô vi.
Đại bi như vậy phát xuất chẳng chứng vô vi.
Đại bi như vậy phát xuất biết chúng sanh tánh đồng vô vi mà hay giáo hoá.
Đại bi như vậy phát xuất thủ hộ kẻ phạm giới cấm.
Đại bi như vậy phát xuất tán thán Phật cấm giới.
Các bi Đại thừa như vậy phát xuất đại bi.
Do nhơn duyên ấy nên gọi là đại bi.
Gọi rằng đại bi ấy, là quyết định khéo thật hành bố thí trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí huệ và các trợ đạo pháp, để được trí huệ tự nhiên vô sư, kinh doanh sự nghiệp được làm của các chúng sanh khác, chuyên tinh cần mẫn như lo công việc của mình. Do nhơn duyên ấy nên gọi là đại bi.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành đại bi mà chẳng thể tận.
(2550) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thưa Tôn giả! Đại Bồ Tát tu hành tâm hỷ cũng chẳng thể tận.
Thế nào là hỷ?
Thường niệm chánh pháp hoan hỷ dũng dước, chẳng sanh giải đãi không có những nhiệt não. Lìa vui ngũ dục an trụ nơi pháp lạc. Tâm hoà duyệt dự, thân nhẹ nhàng dịu dàng, ý siêng nhắc nhở dốc lòng thường sanh tâm bi. Thích cầu Như Lai vô thượng pháp thân, thích tu tướng hảo để tự trang nghiêm. Nghe pháp không nhàm nhớ làm chánh pháp, làm chánh pháp rồi sanh tâm hoan hỷ, sanh hoan hỷ rồi đủ được pháp bi. Thường với chúng sanh chẳng sanh tâm trở ngại, dùng tăng thượng dục siêng cầu chánh pháp. Siêng cầu pháp rồi thâm tâm được hiểu Phật pháp thậm thâm. Xa lìa nhị thừa phát tâm vô thượng. Trừ những lẫn tiếc phát tâm xả, thấy người đến xin sanh lòng hoan hỷ. Lúc thí hoan hỷ thí rồi không tiếc, bố thí như vậy ba thời gian đều thanh tịnh. Được thanh tịnh rồi tâm được duyệt dự. Nơi người trì giới thường hành bố thí, nơi kẻ phá giới lòng vui nhiếp thủ, tự trì cấm giới tâm thường thanh tịnh. Có thể làm cho các chúng sanh ác đạo kinh sợ được không sợ hãi xa lìa ác đạo. Tất cả hồi hướng Như Lai cấm giới, kiên trì vững chắc chẳng thể kém hư. Bị người mắng nhiếc đánh đập kham nhẫn chẳng báo trả. Nơi các chúng sanh tâm không kiêu mạn, nơi các Tôn trưởng thì tâm khiêm hạ cung kính, nói năng hoà vui lìa sự sụt sùi, trước dùng lời yêu thương trọn không dua vạy, chẳng có tà tâm dụ dỗ gạt phỉnh người, tâm mình thanh tịnh không có lỗi thô, nơi kẻ chẳng được chẳng thấy lỗi họ, chẳng tìm chỗ dở của người chẳng cử tội người, chuyên tâm chánh niệm các pháp hoà kính. Nơi chư Bồ Tát tưởng là Như Lai. Thương mến người thuyết pháp coi trọng hơn thân mình. Mến trọng Như Lai như tiếc mạng mình. Nơi chư Sư trưởng tưởng như cha mẹ. Nơi các chúng sanh tưởng như con cái. Nơi các oai nghi như bảo hộ đầu mặt. Nơi các Ba la mật như thương tay chưn mình. Nơi các thiện pháp coi như trân bửu. Nơi người dạy bảo coi như ngũ dục. Nơi hạnh tri túc coi như không có bịnh. Ưa thích cầu pháp coi như diệu dược. Nơi người cử tội mình coi như lương y. Nhiếp ngự các căn không có giải đãi. Đây gọi là hỷ.
Hỷ ấy tịch tĩnh vì giác tri vi diệu vậy.
Hỷ ấy tịch diệt vì không có điệu hí vậy.
Hỷ ấy là chỗ dựa các hành vì không có hí luận vậy.
Hỷ ấy là căn bổn vì tâm chẳng loạn vậy.
Hỷ ấy là đa văn vì nắm lấy thiện ngữ vậy.
Hỷ ấy là bình đẳng vì tâm nhu nhuyến vậy.
Hỷ ấy dũng mãnh vì giỏi làm sự nghiệp vậy.
Hỷ ấy chẳng hối vì chuyên làm điều thiện vậy.
Hỷ ấy chánh trụ vì chẳng giải đãi vậy.
Hỷ ấy bất động vì không có sở y vậy.
Hỷ ấy bất cộng vì khó xô dẹp vậy.
Hỷ ấy thiệt nghĩa vì chẳng quên mất vậy.
Hỷ ấy chơn thiệt vì không có biến đổi khác vậy.
Hỷ ấy thành thiệt vì đúng như chỗ làm vậy.
Hỷ ấy hay xả vì thế lực kiên lao vậy.
Hỷ ấy đại lực vì không gì thắng hơn được vậy.
Hỷ ấy hay làm thần lực chư Phật vì cầu pháp chư Phật vậy.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành tâm hỷ mà chẳng thể tận vậy.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tu hành tâm xả cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Bồ Tát tu xả vô tận?
Bồ Tát tu xả là xả ba thứ, đó là xả các phiền não, xả hộ mình người và xả thời phi thời.
Thế nào là xả các phiền não?
Được cung kính cúng dường tâm chẳng cao, bị khinh chê trách mắng tâm cũng chẳng hạ. Nếu được lợi dưỡng tâm chẳng tham cậy, bị suy não tâm cũng chẳng sầu. Nếu được thưởng khen trước mặt tâm không mừng rỡ, bị chê trước mặt tâm cũng không lui sụt. Nếu được khen sau lưng tâm khéo an trụ pháp giới, bị chê sau lưng tâm không kém sút. Nếu gặp sự khổ tâm gắng nhẫn thọ, gặp sự vui tâm thấy vô thường. Hay buông bỏ sở ái, hay đoạn dứt giận hờn. Nơi người thân người chẳng thân tâm luôn bình đẳng. Nơi người trì giới hay kẻ phá giới ý không tăng giảm. Nơi làm thiện làm ác tâm không có hai tướng. Nơi ái chẳng ái tâm không tham chấp. Nghe thiện bất thiện tâm hay kham nhẫn. Nơi lời thiện ác tâm không dính buộc. Nơi tội lỗi họa tâm lượng không có hai. Nơi các chúng sanh được tâm bình đẳng. Nơi thượng trung hạ được quang minh đồng nhứt. Chẳng tiếc thân mạng, với tốt xấu danh tiếng đồng như pháp giới. Nơi pháp thiệt chẳng thiệt tâm được thanh tịnh. Nơi những thế pháp được Bồ Tát xả. Đây gọi là Bồ Tát xả các phiền não.
Thế nào là Bồ Tát xả hộ mình người?
Nếu bị chặt đứt thân thể tay chưn tâm không sân hận chẳng cầu thù báo.
Vì được tâm xả nên có thể xả hai thứ nội ngoại thân khẩu. Ở trong hai thứ ấy chẳng sanh tranh tụng. Nơi nhãn cùng sắc không có dục nhơ, nơi nhĩ cùng thanh, tỷ cùng hương, thiệt cùng vị, thân cùng xúc và ý cùng pháp cũng đều không có dục nhơ. Ở trong những hai thứ ấy chẳng sanh tranh tụng nên gọi là xả. Chẳng tổn thương chẳng gây hại nên gọi là xả. Xả hộ mình và người nên gọi là xả. Nơi lợi chẳng lợi tâm hành bình đẳng nên gọi là xả. Nơi đệ nhứt nghĩa chẳng sanh tranh luận nên gọi là xả. Nơi tâm mình khéo hay phân biệt nên gọi là xả. Quán xả bỏ thân mình nên gọi là xả. Chẳng hại thân người nên gọi là xả.
Bồ Tát tu xả, nơi các thiền định thường hành xả tâm. Chư Phật Thế Tôn chẳng cho Bồ Tát ở nơi các chúng sanh mà hành xả tâm. Tại sao? Vì Bồ Tát thường tu tinh tiến vì lợi tự tha ma siêng cầu thiện căn vậy. Đây gọi là Bồ Tát xả hộ mình và người vậy.
Thế nào là Bồ Tát xả thời phi thời?
Phi khí chúng sanh xả mà chẳng dẫn tiếp. Suy huỷ cơ khổ xả mà chẳng thọ. Xả người cầu Thanh Văn thành quyết định. Lúc hành bố thí xả tu trì giới. Lúc tu trì giới xả bố thí. Lúc tu nhẫn nhục xả thí giới tiến. Lúc tu tinh tiến xả thí giới nhẫn. Lúc hành thiền định xả bố thí. Lúc tu trí huệ xả năm Ba la mật. Việc chẳng nên làm trọn chẳng còn làm. Các pháp như vậy an trụ giới hạnh, tinh cần dũng mãnh đầy đủ tu hành. Đây gọi là Bồ Tát tu vô tận xả vậy.
(2552) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Bồ Tát các thông cũng chẳng thể tận.
Những gì là các thông?
Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, và như ý thông, đây gọi là Bồ Tát các thông.
Thế nào là Bồ Tát thiên nhãn thông?
Bồ Tát thiên nhãn là đệ nhứt trên tất cả những thiên nhãn của chư Thiên, Long, Bát Bộ, Thần và của hàng hữu học vô học Thanh Văn, Duyên Giác.
Bồ Tát thiên nhãn vi diệu thù thắng mở suốt tỏ rõ, do công đức hướng về Nhứt thiết trí cảm thành, chẳng đồng với Thiên Long và Nhị thừa.
Mười phương vô lượng vô biên thế giới chư Phật, trong ấy có bao nhiêu hình mạo sắc tượng quang minh hoặc thô hoặc tế hoặc gần hoặc xa, Bồ Tát thiên nhãn đều thấy tất cả soi rõ rành rẽ khéo hiểu khéo thấy, cũng thấy trong ấy bao nhiêu những chúng sanh thọ sanh các thú. Trừ Vô Sắc thiên, còn bao nhiêu những nghiệp hành sanh tử tương tục, hoặc nghiệp hoặc quả các căn sai khác đều thấy biết không sót.
Mười phương vô lượng vô biên thế giới chư Phật trang nghiêm thanh tịnh vi diệu đều thấy rõ cả không thừa.
Thấy rõ như vậy rồi, Bồ Tát thanh tịnh trì giới nguyện hồi hướng trang nghiêm quốc độ mình. An trụ trì giới ấy đúng như sở nguyện đều được thành tựu vô lượng lợi ích lớn.
Trong những thế giới mười phương ấy, Bồ Tát thiên nhãn cũng thấy đại chúng Bồ Tát tu hành đạo Bồ đề, bốn oai nghi nơi thân và chánh ức niệm, được pháp môn giải thoát an trụ tổng trì, biện tài phương tiện nhập vào huệ phương tiện. Thấy rồi, Bồ Tát tự tu đầy đủ những công hạnh ấy.
Bồ Tát thiên nhãn thanh tịnh vì thấy được sắc không có trở ngại vậy.
Bồ Tát thiên nhãn chẳng ô nhiễm vì chẳng tham trước nơi các sắc vậy.
Bồ Tát thiên nhãn giải thoát vì xa lìa các kiến phiền não vậy.
Bồ Tát thiên nhãn sáng sạch vì tánh minh liễu vậy.
Bồ Tát thiên nhãn chẳng y chỉ vì lìa cảnh sở duyên vậy.
Bồ Tát thiên nhãn chẳng phát xuất vì đoạn dứt phiền não vậy.
Bồ Tát thiên nhãn không mờ vì đoạn dứt lưới nghi vậy.
Bồ Tát thiên nhãn chẳng khởi vì đoạn dứt chướng ngại vậy.
Bồ Tát thiên nhãn được sáng vì soi rõ các pháp vậy.
Bồ Tát thiên nhãn niệm biết vì chẳng hành thức vậy.
Bồ Tát thiên nhãn không tham ái, sân khuể, ngu si vì hay dứt trừ các kiết sử vậy.
Bồ Tát thiên nhãn vô thượng vì thẳng đến thánh bổn vậy.
Bồ Tát thiên nhãn vô ngại vì quang minh bình đẳng chiếu chúng sanh vậy.
Bồ Tát thiên nhãn vô cấu vì dứt các ác pháp vậy.
Bồ Tát thiên nhãn chẳng nhiễm vì tánh thanh tịnh vậy.
Bồ Tát thiên nhãn nhập Phật nhãn vì cứu cánh chẳng bỏ vậy.
Bồ Tát thiên nhãn chẳng hệ phược vì dứt tham sân vậy.
Bồ Tát thiên nhãn chiếu nghĩa xuất sanh chơn thiệt tu hành vì nhớ biết đạo pháp thanh tịnh vậy. Tại sao? Vì Đại Sĩ ấy an trụ đại bi thâm giải pháp tướng, khéo phân biệt nghĩa không có tranh tụng, tùy thấy nghe nói pháp trái pháp bất thiện, xu hướng đạo tràng tâm không có chướng ngại, thấy người xan lẫn thì hay xả bỏ của cải bố thí, thấy kẻ phạm giới thì hay thanh tịnh trì giới, thấy người giận thù hay nhẫn chẳng tranh, thấy người giải đãi thì hay nhiếp thủ khuyên gắng, thấy người tán tâm thì chỉ dạy thiền chi, thấy người không có trí huệ thì hay ban cho huệ nhãn, thấy người hành tà đạo thì dạy họ thánh đạo, thấy người tu hạ hành thì vì họ nói Phật pháp thậm thâm vi diệu khiến nhập Nhứt thiết trí, chẳng thối thất các thần thông đầy đủ đạo Bồ đề.
Đây gọi là Bồ Tát thiên nhãn thần thông mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát thiên nhĩ thần thông cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Bồ Tát thiên nhĩ thần thông?
Mười phương vô lượng vô biên thế giới chư Phật có bao nhiêu âm thanh, những là âm thanh của chư Thiên, Long, Bát Bộ, Thần, của Phi Nhơn và loài người, các âm thanh của Thánh Nhơn những là âm thanh của các hàng Thanh Văn, Duyên Giác, chư Bồ Tát của bực Chánh Biến Tri, tất cả âm thanh ấy Bồ Tát thiên nhĩ đều nghe rõ cả, nhẫn đến các chúng sanh địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, ruồi, kiến, muỗi, mòng có bao nhiêu âm thanh đều nghe rõ cả.
Hoặc các chúng sanh tâm duyên chỗ nào là thiện hay bất thiện vô ký làm các sự nghiệp phát xuất âm thanh, Bồ Tát thiên nhĩ đều nghe biết tất cả.
Hoặc khẩu nghiệp thiện, khẩu nghiệp bất thiện, khẩu nghiệp vô ký, Bồ Tát thiên nhĩ đều biết hết đúng thiệt.
Hoặc khẩu nghiệp nhơn ái dục mà nói sân nói si, hoặc khẩu nghiệp nhơn sân hận mà nói dục ái nói ngu si, hoặc khẩu nghiệp nhơn ngu si mà nói ái dục nói sân hận.
Hoặc khẩu nghiệp nhơn dục ái nói dục ái, nhơn sân hận nói sân hận, nhơn ngu si nói ngu si. Tất cả các tiếng nói như vậy, Bồ Tát thiên nhĩ đều nghe biết cả.
Hoặc có khẩu nghiệp tâm tịnh mà khẩu thô, hoặc tâm thô mà khẩu tịnh, hoặc tâm tịnh khẩu tịnh, hoặc tâm thô khẩu thô, Bồ Tát vô ngại thiên nhĩ đều nghe biết đúng thiệt.
Bồ Tát thiên nhĩ cũng nghe biết thánh thanh và phi thánh thanh.
Nếu nghe biết thánh thanh tâm chẳng ái trước, nếu nghe biết phi thánh thanh tâm cũng không trở ngại. Nơi thánh thanh Bồ Tát ấy được đại từ, nơi phi thánh thanh Bồ Tát ấy được đại bi.
Bồ Tát ấy nếu nghe âm thanh quá khứ hay vị lai thì được tận bổn tế như thiệt chánh trí.
Bồ Tát thiên nhĩ được nghe diệu pháp của tất cả chư Phật Thế Tôn nói. Nghe rồi ghi nhớ chánh trí tổng trì chẳng quên chẳng mất, tuỳ căn khí chúng sanh mà vì họ thuyết pháp.
Bồ Tát khéo biết các pháp tướng bền vững chẳng bền vững.
Bồ Tát thiên nhĩ nếu nghe một Phật nói pháp mà chẳng nghe chư Phật khác nói pháp thì không có lẽ ấy.
Tất cả chư Phật diễn nói pháp, Bồ Tát ấy đều có thể nghe học cả.
Bồ Tát ấy nếu nghe tiếng thiện bất thiện vô ký đều khéo biết thời phi thời.
Đó là, hoặc chúng phải lúc mà chẳng phải lúc nói pháp thì nín lặng mà không nói.
Hoặc phải lúc nói pháp mà chẳng phải lúc có chúng, nghĩa là chánh vì một người hay lãnh thọ pháp nên nói pháp, mà chẳng vì tất cả chúng.
Hoặc sự chơn thiệt mà e rằng có hại cho người nên chẳng vì họ nói. Hoặc sự chẳng thiệt mà vì lợi ích cho người nên dùng tâm thanh tịnh phương tiện được nói.
Hoặc âm thanh thích thì có thể được nghe, nếu âm thanh không thích thì chẳng còn nghe.
Nếu nơi đại chúng lúc vì các chúng sanh diễn nói pháp tuỳ nhĩ thức của họ nghe được hiểu được, Bồ Tát thiên nhĩ đều nghe biết cả.
Bồ Tát lúc ấy nói pháp, hoặc có các chúng sanh đáng được hiểu tỏ ấy liền được nghe pháp, nếu là kẻ không hiểu tỏ thì chẳng nghe nói pháp.
Bồ Tát thiên nhĩ pháp giới tánh thanh tịnh, vì tri kiến ngã, nhơn, chúng sanh đều thanh tịnh vậy.
Bồ Tát ấy chánh phân biệt nhĩ giới như tướng ngôn ngữ văn tự được nói.
Nếu có ngũ thú tạp loại chúng sanh, tuỳ chỗ nhận hiểu ngôn ngữ âm thanh của họ mà vì họ thuyết pháp.
Bồ Tát đem thiên nhĩ ấy hồi hướng nhĩ giới của Như Lai được, vì chẳng cầu các thừa khác vậy.
Đây là Bồ Tát thiên nhĩ thần thông mà chẳng thể tận.
(2555) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát tri tha tâm thông cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Bồ Tát tri tha tâm thông?
Tâm thượng trung hạ của các chúng sanh Bồ Tát đều biết.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn bố thí căn.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn trì giới căn.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn nhẫn nhục căn.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn tinh tiến căn.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn thiền định căn.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn trí huệ căn.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn từ bi hỷ xả căn.
Biết tâm tướng chúng sanh ấy nhơn Thanh Văn, Duyên Giác Đại thừa căn.
Biết chúng sanh ấy nhơn lực tăng thượng thiện căn nên được thọ sanh nơi đây.
Biết chúng sanh ấy hành thanh tịnh mà tâm chẳng thanh tịnh.
Biết chúng sanh ấy hành thanh tịnh mà tâm bất tịnh.
Biết chúng sanh ấy hành và tâm đều thanh tịnh.
Biết chúng sanh ấy hành và tâm đều bất tịnh.
Biết chúng sanh ấy đời quá khứ tâm các căn hành nhơn.
Biết chúng sanh ấy tuỳ duyên ngộ pháp.
Đây gọi là Bồ Tát tha tâm trí.
Bồ Tát lại biết tâm đời vị lai của kẻ khác.
Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn trì giới, trong đời hiện tại có nhơn bố thí.
Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn nhẫn nhục, trong đời hiện tại có nhơn trì giới.
Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn tinh tiến, trong đời hiện tại có nhơn nhẫn nhục.
Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn thiền định, trong đời hiện tại có nhơn tinh tiến.
Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn trí huệ, trong đời hiện tại có nhơn thiền định.
Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai có nhơn xuất thế, trong đời hiện tại có nhơn thế tục.
Biết chúng sanh ấy trong đời vị lai phát nhơn Đại thừa, trong đời hiện tại có nhơn hạ căn.
Chúng sanh vị lai có những nhơn duyên như vậy, Bồ Tát có thể như thiệt biết các nhơn duyên ấy.
Bồ Tát với các chúng sanh chưa chấp nhận giáo hoá trọn không mỏi nhàm, đúng như tâm căn của họ đều biết đúng như thiệt, tùy khí lượng họ mà thuyết pháp cho họ.
Nếu người thích nghe ít thì trọn chẳng nói nhiều, nói pháp ắt có lợi ích chẳng uổng công.
Đây gọi là Bồ Tát tri tha tâm trí.
Đời hiện tại chúng sanh sở hành tâm và tâm số pháp đều biết đúng thiệt.
Những là, dục tâm biết đúng thiệt. Dục tâm ly dục tâm biết đúng thiệt.
Ly dục tâm sân khuể biết đúng thiệt. Sân tâm ly sân tâm biết đúng thiệt.
Ly sân tâm si tâm biết đúng thiệt. Si tâm ly si tâm biết đúng thiệt.
Ly si tâm tán tâm biết đúng thiệt. Tán tâm nhiếp tâm biết đúng thiệt.
Nhiếp tâm giải đãi tâm biết đúng thiệt. Giải đãi tâm tinh tiến biết đúng thiệt.
Tinh tiến tâm hạ tâm biết đúng thiệt. Hạ tâm thượng tâm biết đúng thiệt.
Thượng tâm loạn tâm biết đúng thiệt. Loạn tâm định tâm biết đúng thiệt.
Định tâm không giải thoát tâm biết đúng thiệt. Không giải thoát tâm có giải thoát tâm biết đúng thiệt.
Có giải thoát tâm không tịch tĩnh tâm biết đúng thiệt, không tịch tĩnh tâm có tịch tĩnh tâm biết đúng thiệt.
Có tịch tĩnh tâm hữu lượng tâm biết đúng thiệt, hữu lượng tâm vô lượng tâm biết đúng thiệt.
Vô lượng tâm mỗi mỗi chúng sanh mỗi mỗi phiền não triền phược che đậy tâm ấy, tất cả đều biết. Biết như vậy rồi, đúng đạo xuất ly ấy mà vì họ thuyết pháp.
Lại chỗ ở của Bồ Tát ấy, trước quán sát chúng sanh biết căn lượng của họ, tuỳ theo đó mà vì họ nói pháp xuất yếu. Các chúng sanh ấy căn thượng trung hạ đều biết đúng thiệt.
Tâm Bồ Tát ấy lúc biết tâm người khác không có chướng ngại. Tại sao? Vì tâm biết của Bồ Tát ấy mãnh lợi khéo phân biệt vậy. Là chỗ biết của niệm ý tiến huệ vậy. Khéo hay hiểu rõ tướng Bồ đề vậy. Vì dứt các tập khí vậy. Vì thanh tịnh vô cấu vậy. Vì tỏ rõ không có tranh vậy. Vì không có các phiền não vậy. Vì không có các dòng chảy vậy. Vì chiếu tất cả pháp vậy. Vì khéo nhập tất cả chúng sanh tâm vậy.
Có thể hiểu biết như vậy,vì tâm trí Bồ Tát ấy mãnh lợi, nơi các pháp như vậy chánh nhập biết đúng thiệt.
Đây gọi là Bồ Tát tha tâm trí thông mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát túc mạng trí thông cũng chẳng thể tận.
Thế nào là Bồ Tát túc mạng trí thông?
Bồ Tát ấy nhớ sự việc đời trước hoặc của mình hoặc của người khác đều khéo nhận nhớ lấy, an trụ pháp giới không có khuynh động. Không khuynh động thì có thể khéo hiểu rõ khéo tác nghiệp vậy.
Niệm nhớ ấy không có nhiễu não vì an trụ thiền định vậy.
Niệm nhớ ấy vô uý vì nhiếp trí huệ vậy.
Niệm nhớ ấy chẳng từ người khác cầu vì hiện được khéo biết rõ vậy.
Niệm nhớ ấy nhớ đúng vì cứu cánh chẳng mất vậy.
Niệm nhớ ấy trợ công đức vì khéo hiểu Đại thừa vậy.
Niệm nhớ ấy trợ trí vì chẳng từ người khác mà đầy đủ vậy.
Niệm nhớ ấy thiện căn các Ba la mật đầy đủ vì có thể đến tất cả Phật pháp vậy.
Túc mạng trí ấy nếu niệm nhớ một đời, hai đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, nhẫn đến vô lượng trăm ngàn đời, và trời đất thành hoại, vô lượng đời thành, vô lượng đời hoại, vô lượng đời thành hoại, vô lượng kiếp thành hoại, biết chúng sanh trong ấy, chủng tánh như vậy, danh tự như vậy, sắc tượng như vậy, ẩm thực như vậy, thọ mạng như vậy, thọ khổ lạc v.v…, ở trong ấy chết sanh lại trong ấy, ở trong kia chết trở lại sanh trong kia. Bồ Tát ấy niệm nhớ vô lượng sanh tử như vậy. Niệm nhớ đời quá khứ của mình và của các chúng sanh cùng tận quá khứ tế.
Bồ Tát ấy tự nhớ thiện căn của mình hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Nhớ thiện căn người nguyện phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Bồ Tát ấy dùng tâm chánh niệm nơi sanh tử hành khổ đời trước khéo quán vô thường, khổ, vô ngã. Hoặc quán vô thường, khổ, vô ngã rồi các sắc dục phong ấp, bổng lộc, thọ mạng, quyến thuộc, thế lực đều không tham trước. Cũng lại chẳng tham Thích, Phạm, Hộ Thế Chuyển Luân Thánh Vương, và chỗ thọ sanh ngũ dục hoan lạc. Vì giáo hoá chúng sanh mà hiện thọ sanh.
Bồ Tát ấy niệm vô thường, khổ, vô ngã rồi, những lỗi lầm quá khứ đều phát lộ sám hối. Hiện đời các ác trọn chẳng làm dầu phải mất thân mạng. Thiện căn quá khứ muốn tăng trưởng rộng lớn hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Hiện tại thiện căn cùng chúng sanh chung hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Bồ Tát ấy lìa các ác pháp vì nguyện chẳng dứt giống Tam bửu vậy. Có bao nhiêu thiện căn đều hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Đây gọi là Bồ Tát niệm túc mạng trí mà chẳng thể tận.
(2557) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát như ý thần thông cũng chẳng thể tận.
Thế nào là như ý thần thông?
Nếu các pháp được nhiếp của dục tiến tâm và huệ điều phục nhu hoà tâm được tự tại, vì khéo tu tập nên hiện tại có thể được như ý thần thông như vậy.
Bồ Tát ấy làm các thứ thần thông biến hoá, dùng thần thông ấy để giáo hoá chúng sanh.
Bồ Tát ấy mỗi mỗi thị hiện các thứ thần thông giáo hoá chúng sanh, những là hoặc sắc tướng hoặc lực thế, hoặc biến hoá.
Bồ Tát ấy thị hiện sắc tướng cho chúng sanh thấy, thấy rồi tâm phục. Đó là hoặc sắc tượng Phật, sắc tượng Duyên Giác, sắc tượng Thanh Văn, sắc tượng Thích, Phạm, Hộ Thế các Thánh Vương, và các thứ vô lượng sắc tượng khác, nhẫn đến thị hiện sắc tượng súc sanh. Vì giáo hoá chúng sanh mà thị hiện những sắc tượng như vậy. Thị hiện như vậy rồi tuỳ sở ưng mà thuyết pháp.
Nếu có chúng sanh tự cho thân mình có đại lực mà khởi kiêu mạn, giận dữ, cống cao, vì muốn điều phục hạng chúng sanh ấy nên Bồ Tát thị hiện đại lực. Hoặc hiện sức lực một phần tư sức lực na la diên, hoặc hai phần tư, hoặc ba phần tư, hoặc thị hiện toàn thế lực na la diên.
Núi Tu Di cao mười sáu vạn tám ngàn do tuần, ngang rộng tám vạn bốn ngàn do tuần, dùng ba ngón tay cầm lên ném xa ngoài vô lượng thế giới phương khác, như là ném một quả a ma lặc. Nơi sức lực Bồ Tát không có tổn giảm. Hoặc bứt lấy Đại Thiên thế giới đến dưới thuỷ tế, dùng tay đưa lên cao đến Trời Hữu Đảnh đứng vậy trải qua một kiếp. Lúc Bồ Tát thành tựu thị hiện đại thế lực như vậy, có thể làm cho hàng chúng sanh giận dữ cống cao, kiêu mạn kia nội tâm họ khéo điều phục.
Biết họ điều phục rồi, Bồ Tát ấy tuỳ ưng mà vì họ thuyết pháp.
Bồ Tát ấy tu như ý thần thông có thể được thế lực trí huệ biến hoá.
Do sức biến hoá ấy nên chỗ muốn làm đều được thành tựu.
Bồ Tát ấy có thể biến đại hải làm dấu chưn trâu mà đại hải không nhỏ, hay biến dấu chưn trâu làm đại hải mà dấu chưn trâu chẳng lớn.
Hoặc kiếp sắp tận lúc hoả tai khởi lên, muốn biến làm nước thì có thể biến như ý muốn, lúc thuỷ tai khởi hay biến làm lửa, lúc phong tai khởi hay biến làm lửa, lúc hỏa tai khởi hay biến làm phong, các sự biến hoá ấy đều thành tựu được như ý muốn.
Hoặc pháp thượng trung hạ tuỳ ý biến hoá, chỉ trừ chư Phật, không còn ai có thể di động trở ngại phá hoại được như ý thần thông của Bồ Tát, như là Thích, Phạm, Hộ Thế, ma vương và quyến thuộc.
Bồ Tát ấy thị hiện các thứ biến hoá cho chúng sanh được hoan hỷ rồi tuỳ ý mà vì họ thuyết pháp.
Thần thông của Bồ Tát ấy dũng kiện tự tại hay siêu quá cảnh giới các ma phiền não nhập vào Phật giới chẳng nhiễu não chúng sanh, bao nhiêu thiện căn đều được thành tựu. Tất cả ma chúng không có thể đoạn dứt được.
Đây gọi là Bồ Tát như ý thần thông mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát bốn nhiếp pháp cũng chẳng thể tận.
Những gì là bốn? Đó là: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành và Đồng lợi.
Thế nào là Bố thí nhiếp?
Bố thí có hai thứ là Tài thí và Pháp thí.
Thế nào là Ái ngữ nhiếp?
Với người cầu xin của cải và người nghe pháp thì nhu hoà nói năng với họ.
Thế nào là Lợi hành nhiếp?
Nơi người cầu xin tài vật và người nghe pháp, tuỳ sở cầu của họ đều làm thoả mãn đầy đủ.
Thế nào là Đồng lợi nhiếp?
Nơi người cầu tài cầu pháp, đem lợi Đại thừa của mình mà khiến họ an ở nơi ấy.
Lại Bố thí ấy, thấy người cầu xin sanh lòng thanh tịnh.
Ái ngữ ấy, nơi các người xin sanh lòng hoan hỷ.
Lợi hành ấy, nơi các người xin tuỳ chỗ được lợi đều khiến họ đầy đủ.
Đồng lợi ấy, thường đem Đại thừa dạy chúng sanh.
Lại nữa, Bố thí ấy đó là tâm xả thí.
Ái ngữ, đó là làm không có chừng hạn.
Lợi hành ấy, đó là cứu cánh chẳng hối.
Đồng lợi ấy, đó là hồi hướng Đại thừa.
Lại nữa, Bố thí ấy đó là khởi tâm từ hành xả thí.
Ái ngữ ấy, đó là chẳng bỏ tâm hỷ.
Lợi hành ấy, đó là đại bi trang nghiêm lợi ích chúng sanh.
Đồng lợi ấy, đó là bỏ tâm cao hạ mà phát tâm hồi hướng Nhứt thiết chủng trí.
Lại nữa, Bố thí ấy đó là cầu tài đúng pháp thanh tịnh bố thí.
Ái ngữ ấy, đó là dìu dắt kẻ thương mến đặt ở thiên pháp.
Lợi hành ấy, đó là nói lợi của mình để người được lợi ích.
Đồng lợi ấy, đó là khiến các chúng sanh phát tâm Nhứt thiết trí.
Lại nữa, Bố thí ấy đó là xả bỏ nội tài, ngoại tài.
Ái ngữ ấy, đó là công đức trí huệ tâm không lẫn tiếc.
Lợi hành ấy đó là xả tự lợi hành mà hành lợi tha.
Đồng lợi ấy đó là lìa bỏ ngôi vị quan trọng lòng chẳng hề hối tiếc.
Lại nữa, Pháp thí ấy đó là như pháp được nghe đều có thể diễn nói.
Ái ngữ ấy đó là chẳng vì lợi dưỡng mà thuyết pháp.
Lợi hành ấy đó là dạy người phúng tụng tâm không có mỏi nhàm.
Đồng lợi ấy đó là Nhứt thiết trí tâm chỗ được diệu pháp, liền đem pháp ấy khuyên gắng chúng sanh.
(2560) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Còn nữa, Pháp thí ấy đó là nếu có các chúng sanh mỗi người mỗi người nghe pháp, theo thứ đệ mà nói pháp không có lầm lộn.
Ái ngữ ấy đó là vì người thuyết pháp chẳng từ xa gần.
Lợi hành ấy đó là có người cầu pháp thì cung cấp cho họ những uống ăn, y phục, giường nệm, thuốc men không để họ thiếu thốn rồi sau đó tuỳ ưng mà vì họ thuyết pháp.
Đồng lợi ấy đó là phàm nói pháp thường khuyên chúng sanh hồi hướng Vô thượng Bồ đề.
Còn nữa, Pháp thí ấy đó là biết trong các bố thí, đây là tối thắng, đem thăng pháp nầy vì người mà diễn nói.
Ái ngữ ấy đó là thường vì lợi ích chúng sanh mà thuyết pháp.
Lợi hành ấy đó là tuỳ nghĩa mà nói chớ chẳng tuỳ văn tự.
Đồng lợi ấy đó là thường vì đầy đủ Phật pháp mà nói pháp.
Còn nữa, Bố thí ấy đó là đầy đủ Đàn Ba la mật.
Ái ngữ ấy, đó là đầy đủ Thi la và Sằn đề Ba la mật.
Lợi hành ấy, đó là đầy đủ Tỳ lê gia Ba la mật.
Đồng lợi ấy, đó là đầy đủ Thiền na và Bát Nhã Ba la mật.
Còn nữa, Bố thí ấy đó là sơ phát tâm Bồ đề.
Ái ngữ ấy, đó là tu hành Bồ đề.
Lợi hành ấy, đó là chẳng thối Bồ đề.
Đồng lợi ấy, đó là bực Nhứt sanh bổ xứ.
Còn nữa, Bố thí ấy đó là an trụ Bồ đề chủng tử căn bổn.
Ái ngữ ấy đó là tư trưởng Bồ đề mầm cây nhánh lá.
Lợi hành ấy đó là lần lần đơm nở hoa Bồ đề.
Đồng lợi ấy đó là đã có thể thành tựu trái hột Bồ đề.
Đây gọi là Bồ Tát Tứ nhiếp pháp nhiếp lấy chúng sanh mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát Tứ vô ngại trí cũng chẳng thể tận.
Thế nào là bốn?
Một là nghĩa vô ngại. Hai là Pháp vô ngại. Ba là Từ vô ngại. Bốn là Lạc thuyết vô ngại.
Thế nào là nghĩa vô ngại trí?
Ở trong các pháp biết đệ nhứt nghĩa đế, là tỉ trí, là nhơn trí, là duyên trí, là hoà hiệp trí, là ly biến trí, là chẳng trụ chung trí, là thập nhị duyên trí, là chẳng khác pháp tánh trí, là như thiệt trí, là chơn tế trí, là giác không không trí, là vô tướng tướng trí, là vô nguyện nguyện trí, là vô vi vi trí, là quán nhứt tướng trí, là quán vô ngã trí, là quán vô chúng sanh trí, là quán vô thọ mạng trí, là quán đệ nhứt nghĩa trí, là quán quá khứ vô ngại trí, là quán vị lai vô biên trí, là quán hiện tại Nhứt thiết chủng trí, là quán các ấm như oán tặc trí, là quán các giới như độc xà trí, là các nhập như xóm vắng trống trí, là quán nội pháp vĩnh tịch diệt trí, là quán ngoại pháp vô hành xứ trí, là quán sở duyên như ảo hoá trí, là quán niệm chánh trụ trí, là quán nhẫn chánh pháp trí, là quán tự thân trí, là quán chơn đế trí, là khổ chẳng hoà hiệp trí, là tập chẳng tạo tác trí, là diệt tự tánh trí, là đạo hay đến trí, là phân biệt các pháp trí, là quán chúng sanh các căn tâm hành tuỳ sở nhập trí, là các lực không gì phục được trí, là các giác như thiệt hiểu trí, là thiền định thọ trì trí, là huệ quang minh trí, là ảo hoá trang nghiêm trí, là sự muốn trông mộng trí, là tiếng vang cảnh sở duyên trí, là như tượng trong gương không có khứ lai trí, là các thứ tướng không có tướng trí, là ách ly ách trí, là thủ sanh ly sanh trí, là Thanh Văn thừa theo người nghe trí, là Duyên Giác thừa quán mười hai duyên trí, là Đại thừa đầy đủ các thiện căn trí. Đây gọi là Bồ Tát Nghĩa vô ngại trí.
Còn nữa, Nghĩa vô ngại là:
Tư duy nghĩa tất cả pháp. Tại sao?
Tất cả pháp ấy không có ngã, nhơn, thọ mạng, chúng sanh. Như không có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng thì gọi là nghĩa.
Còn nữa, Nghĩa vô ngại là:
Là vô trụ thuyết. Là vô tận thuyết. Là đắc nhứt thiết pháp thuyết.
Nghĩa vô ngại như vậy được chư Phật hứa khả, là chơn thiệt nghĩa vô biệt vô dị, trí huệ phân biệt không có chướng ngại.
Đây gọi là Bồ Tát Nghĩa vô ngại mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát pháp vô ngại trí?
Bồ Tát quán các pháp, những là pháp thiện, pháp bất thiện, pháp thế gian, pháp xuất thế, pháp nên làm, pháp chẳng nên làm, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp hắc, pháp bạch, pháp sanh tử, pháp Niết bàn. Trí ấy pháp tánh bình đẳng, trí ấy Bồ đề bình đẳng, trí ấy tánh bình đẳng, đây gọi là Pháp vô ngại trí.
Còn nữa, Pháp vô ngại trí ấy:
Quán các chúng sanh tâm hành đa dục, tâm hành thiểu dục, tâm hành sơ phát dục, tâm hành dục tướng, tâm hành hiện tại dục được duyên, tâm hành hiện tại dục nhơn duyên, có các chúng sanh nội có dục hành mà ngoại không có dục hành, hoặc ngoại có dục hành mà nội không có dục hành, hoặc nội ngoại đều có dục hành, hoặc nội ngoại đều không dục hành, hoặc sắc dục hành mà chẳng phải thanh, hương, vị, xúc, hoặc thanh dục hành mà chẳng phải sắc, hương, vị, xúc, hoặc hương dục hành mà chẳng phải sắc thanh vị xúc, hoặc vị dục hành mà chẳng phải sắc, thanh, hương, xúc, hoặc có xúc dục hành mà chẳng phải sanh thanh, hương, vị. Nhập môn hành quán chúng sanh các dục hành như vậy. Dục hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Sân hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Si hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Đẳng phần hành ấy có hai vạn một ngàn hành. Bồ Tát quán chúng sanh có tám vạn bốn ngàn hành như vậy, đều như thiệt biết rõ cả, biết rồi tuỳ sở ưng mà vì họ thuyết pháp.
Đây gọi là Bồ Tát Pháp vô ngại trí mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả! Thế nào là Bồ Tát Từ vô ngại trí?
Nơi các âm thanh đều quán biết rõ:
Những là ngữ ngôn văn tự âm thanh của chư Thiên, Long, Bát Bộ, Thần, Nhơn và Phi Nhơn thảy đều có thể biết cả. Ngũ đạo tạp loại chúng sanh như vậy, tuỳ theo chủng loại ấy mỗi mỗi ngữ ngôn văn tự âm thanh mà vì họ thuyết pháp. Đây gọi là Từ vô ngại trí.
Ngữ pháp văn tự như vậy, Bồ Tát tư duy hiểu rõ vô ngại.
Bồ Tát biết một ngôn ngữ, hai, ba ngôn ngữ nhẫn đến nhiều ngôn ngữ, ngôn ngữ của nam, của nữ, của phi nam nữ, ngôn ngữ quá khứ, vị lai, hiện tại đều biết rõ cả. Biết ngôn ngữ chứa một chữ đến nhiều chữ. Đây gọi là Từ vô ngại trí.
Từ vô ngại trí ấy, lúc nói không có sai lầm không có trệ ngại, lời nói vi diệu thông sướng chắc thiệt chánh trực không có thô, bao nhiêu văn từ đầy đủ trang nghiêm, thính chúng được nghe không ai là chẳng hoan hỷ. Các thứ âm thanh vi diệu như vậy, sâu xa rộng khắp trang nghiêm tục đế và đệ nhứt nghĩa đế. Dùng tên trí huệ khéo bắn tà kiến. Từ vô ngại ấy được chư Phật hứa khả, có thể làm cho chúng sanh đêu hoan hỷ.
Đây gọi là Bồ Tát Từ vô ngại trí mà chẳng thể tận.
Thưa Tôn giả! Thế nào là đại Bồ Tát Lạc thuyết vô ngại trí mà chẳng thể cùng tận?
Diễn nói vô ngại, diễn nói chẳng trụ, diễn nói nhanh lẹ, diễn nói nhạy bén, như chỗ hỏi đáp, trả lời không có chướng ngại, trả lời không có chống trái, là trả lời tương ưng, trả lời trụ sức, nhẫn nhịn, trả lời y nơi hai đế, trả lời y nơi thí, giới, nhẫn, tiến, định, huệ, trả lời y nơi tất cả pháp chương cú, trả lời y nơi nghĩa thậm thâm của niệm, xứ, chánh cần, như ý, căn, lực, giác đạo, trả lời y nơi tịch diệt tư duy, đây là Lạc thuyết vô ngại trí.
Lạc thuyết vô ngại trí ấy, nếu tất cả ngôn ngữ văn tự phân biệt chánh trực mà đáp. Đó là tất cả thiền định tam ma bạt đề chơn đế trí mà đáp, biện luận thông sướng ba thừa tuỳ tâm hành tất cả chúng sanh như chỗ sở ưng mà đáp, lời nói xảo diệu, chẳng phải như dê câm thô bạo điệu hí, không hề có những lời lẽ xấu dở như vậy. Lời nói ra tịch diệt được người thọ dụng. Lời nói oai đức không có triền phược, lời nói tương ưng không trái vi diệu nhu hoà. Lời nói không bị chê trách được thánh nhơn khen. Như lời dạy bảo của Phật Thế Tôn phạm âm trong suốt tất cả đều nghe.
Lạc thuyết vô ngại trí ấy được Phật hứa khả vì chúng sanh khác mà nói pháp vi diệu, nghe pháp ấy được vui xuất thế dứt hết các khổ. Đây gọi là Lạc thuyết vô ngại trí vậy.
Thưa Tôn giả! Đây gọi là đại Bồ Tát tứ vô ngại trí mà chẳng thể cùng tận.
(2563) T9 P61


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.17 khách