KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Để giữ gìn sự trang nghiêm, thuần túy tạo nguồn tư liệu; nơi đây chỉ đăng Kinh Văn mà không thảo luận.

Điều hành viên: thử nghiệm global, Thanh Tịnh Lưu Ly

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
2 - DANH, TƯỚNG THẢY DO VỌNG TƯỞNG.

Đại Huệ bạch Phật :
Thế Tôn! Thế nào là ngu phu vọng tưởng sanh, chẳng phải như thánh hiền ?
Phật bảo Đại Huệ :
Ngu phu chấp trước tục số danh tướng, tùy tâm trôi dạt. Trôi dạt rồi các thức tướng mạo, rơi vào kiến chấp ngã - ngã sở hy vọng. Chấp trước sắc đẹp, chấp trước rồi không biết che ngại nên sanh nhiễm trước. Nhiễm trước rồi tham sân si sanh nghiệp chứa nhóm. Chứa nhóm rồi vọng tưởng tự trói như tằm làm kén, rơi trong biển sanh tử, đồng hoang các cõi, như bánh xe nước. Bởi vì ngu si không thể biết tự tánh như huyễn, như ngựa nắng, như trăng đáy nước, lìa ngã - ngã sở, khởi tất cả vọng tưởng chẳng thật, lìa năng tướng, sở tướng và sanh trụ diệt, từ tự tâm vọng tưởng sanh, chẳng phải tự tại, thời tiết, vi trần, thắng diệu sanh. Phàm ngu si theo danh, tướng trôi.

GIẢNG
Tất cả danh, tướng từ vọng tưởng sanh chẳng phải có nhơn khác, để rõ ngoại đạo chấp nhơn khác đều do chẳng đạt danh tướng không có tự tánh, chính nơi ấy vô sanh. Tất cả thế gian nhơn danh sanh tướng, tướng sanh vọng tưởng, vọng tưởng không biết theo tướng nhiễm trước, khởi tham sân si, kết các nghiệp, như tằm làm kén, lưu chuyển sanh tử như bánh xe nước. Chẳng biết tất cả danh tướng đều không tự tánh như ngựa nắng, như trăng đáy nước, không có ngã - ngã sở, chỉ do vọng tưởng chẳng thật lập bày, chẳng phải có nhơn khác. Nói có nhơn khác như Tự Tại, thời tiết v.v…Thảy do phàm phu ngu si chẳng đạt danh tướng, theo danh tướng mà lưu chuyển.
(210)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
3 - CHUYỂN VỌNG TƯỞNG TỨC TRÍ, NHƯ.

Đại Huệ! Tướng kia là : chỗ soi của nhãn thức, gọi là sắc. Chỗ soi của nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý gọi là thanh, hương, vị, xúc, pháp, ấy gọi là tướng.
Đại Huệ! Vọng tưởng kia lập bày các danh, hiển hiện các tướng. Như đây chẳng khác tên voi, ngựa, xe, bộ hành, nam, nữ v.v… ấy gọi là vọng tưởng.
Đại Huệ! Chánh trí là biết danh tướng kia không thể được, ví như khách đi qua, các thứ chẳng sanh, chẳng đoạn, chẳng thường, chẳng rơi vào chỗ ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác.

GIẢNG
Đây chỉ rõ vọng tưởng lập bày, khiến đạt danh - tướng chẳng thật, liền chuyển vọng tưởng mà làm chánh trí.
Do chỗ sai của căn thức khởi ra các tướng : sắc, thanh v.v…Lại do vọng tưởng phân biệt lập bày các danh, các tướng càng bày hiện. Nếu chính các thức chiếu soi chưa dấy phân biệt thì không có chỗ hiển bày. Nơi đây tỏ ngộ mới biết tất cả danh tướng trọn không thể được. Vả lại chính hiển bày vọng tưởng nơi danh - tướng, mà chánh trí liễu đạt danh - tướng, không có thể khác mà có dụng khác, nên nói “có phiền não thì không có trí huệ, có trí huệ tức không phiền não”.
Chánh trí hiện tiền thì phân biệt chẳng sanh, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn. Đây không phải cảnh giới nhị thừa huống là ngoại đạo ?
(210)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
Lại nữa Đại Huệ! Đại Bồ tát do chánh trí này chẳng lập danh tướng, chẳng phải không lập danh tướng, lìa bỏ hai bên kiến chấp dựng lập (có) và phỉ báng (không), biết danh tướng chẳng sanh, ấy gọi là như như.
Đại Huệ! Đại Bồ tát trụ như như ấy được cảnh giới không thật có, nên được “Bồ tát Hoan hỷ địa”. Được Bồ tát Hoan hỷ địa rồi , hằng lìa tất cả cõi ác ngoại đạo, chính trụ chỗ xuất thế gian, pháp tướng thành thục, phân biệt tất cả pháp huyễn v.v… tự giác pháp tướng rành rõ, lìa các vọng tưởng, thấy tánh tướng khác, thứ lớp đến Pháp vân địa (thập địa). Ở trong khoảng giữa đó do sức tam muội tự tại, thần thông mở tròn, được Như Lai địa rồi , các thứ biến hóa tròn chiếu thị hiện thành thục chúng sanh, như trăng đáy nước , khéo cùng tột đầy đủ mười câu vô tận, vì các thứ ý hiểu của chúng sinh phân biệt nói pháp, pháp thân lìa ý làm ra, ấy gọi là Bồ tát nhập như như mà được.

GIẢNG
Đây tức danh tướng mà được như như. Chẳng lập danh tướng, chẳng phải không lập danh tướng, lìa kiến chấp có - không, chính được pháp thể. Cho nên tức nơi danh tướng mà được như như. Pháp vị như như tức là cảnh giới không thực có Hoan hỷ địa. Đến địa này rồi hằng lìa tất cả ác kiến gọi là xuất thế gian. Do đó chơn như pháp tướng thứ lớp thành thục. Tức là hay thuận pháp như huyễn dùng trí tự giác khởi các pháp hạnh. Lìa vọng tưởng đã thấy các pháp tướng khác, nghĩa là tất cả pháp chơn như thực tướng, không có một - khác. Thấy một - khác là vọng vậy.
Bồ tát tức vọng tức chơn nên hay dùng tướng không tướng dựng lập các địa, tùy sức tam muội, thần thông tự tại, cứu cánh Phật địa, biến hóa chiếu diệu, đối hiện sắc thân như trăng đáy nước, đầy đủ mười câu vô tận, vì các chúng sanh phân biệt diễn nói, đây gọi là pháp thân lìa ý tạo ra, nhậm vận như như.
(211)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
TẤT CẢ PHÁP THẢY VÀO NĂM PHÁP
Có 4 phần

1 - BA TỰ TÁNH VÀO NĂM PHÁP

Bồ tát Đại Huệ bạch Phật :
Thế Tôn! Tại sao Thế Tôn nói ba thứ tự tánh vào năm pháp, là mỗi cái có tự tánh riêng ?
Phật bảo Đại Huệ :
Ba thứ tự tánh, tám thức, hai thứ vô ngã, thảy vào năm pháp.
Đại Huệ! Danh và tướng kia là vọng tưởng tự tánh.
Đại Huệ! Nếu y vọng tưởng kia sanh tâm và tâm pháp (tâm sở), gọi là đồng thời sanh, như mặt nhật và ánh sáng đồng thời, các thứ tướng mỗi thứ riêng phân biệt giữ gìn, ấy gọi là duyên khởi tự tánh.
Đại Huệ! Chánh trí như như không thể hoại nên gọi là Viên Thành tự tánh.

GIẢNG
Đây nói ba thứ tự tánh, tám thức, hai thứ vô ngã thảy vào năm pháp. Trước tiên nói ba tự tánh vào năm pháp.
Danh tướng không tánh, vọng chấp mà thành, cho nên nhiếp danh tướng thảy là Biến kế chấp.
Y danh tướng vọng chấp mà khởi phân biệt, tâm tâm số pháp một lúc chóng hiện không có trước sau, như mặt nhật và ánh sáng gọi là duyên khởi tự tánh.
Nếu đạt vọng chấp danh tướng vốn không tự tánh, tâm tâm số pháp liền đó tiêu sạch, tiêu sạch tâm theo tướng thì trí chiếu sáng ngời, liễu đạt tướng không tánh, chơn như hiển bày, nên gọi là Viên Thành Thật tánh

CHÁNH KINH
2 - TÁM THỨC, HAI VÔ NGÃ VÀO NĂM PHÁP.

Lại nữa, Đại Huệ! Tự tâm hiện vọng tưởng có tám thứ phân biệt. Nghĩa là tướng thức : Tàng, ý, ý thức, và năm thức thân. Tướng chẳng thật vì vọng tưởng.
Ngã và ngã sở hai cái nhiếp thọ diệt thì hai vô ngã sanh.
Thế nên, Đại Huệ! Năm pháp này Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Như Lai tự giác thánh trí, các địa tương tục thứ lớp, tất cả Phật pháp thảy vào trong ấy.

GIẢNG
Đây nói tám thức, hai vô ngã vào năm pháp. Chẳng giác tự tâm hiện ra, tám thứ thức tướng một lúc chóng sanh, mỗi cái có tự loại, lập bày vọng tưởng, năng vọng, sở vọng, nhơn pháp rõ ràng. Nếu giác tự tâm hiện ra thì kiến phần, tướng phần như băng tiêu dung, liền chuyển tâm, ý, thức làm tứ trí, năng thủ - sở thủ không, trí và tịch lẫn nhau hiển hiện. Cho nên nhị thừa, Bồ tát, Như Lai đã có trí địa tự giác thảy vào năm pháp.
(212)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
3 - TẤT CẢ PHẬT PHÁP VÀO NĂM PHÁP.

Lại nữa , Đại Huệ! Năm pháp là danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí, như như.
Đại Huệ! Nếu ở chỗ hình tướng, sắc tượng v.v…hiện, gọi là tướng. Nếu kia có tướng như thế gọi là cái bình, cái chai v.v… tức cái này không phải cái khác, ấy nói là danh. Lập bày các danh , hiển hiện các tướng bình, lọ v.v… Nơi tâm pháp ấy gọi là vọng tưởng. Danh kia, tướng kia cứu cánh không thể được, trước sau giác không, nơi các pháp không triển chuyển, lìa vọng tưởng chẳng thật, ấy gọi là như như. Chơn thật quyết định cứu cánh tự tánh không thể được, kia là như tướng ta tức chư Phật tùy thuận nhập xứ, khắp vì chúng sanh như thật diễn nói, lập bày, hiển hiện, nơi kia tùy nhập chánh giác chẳng đoạn chẳng thường, vọng tưởng chẳng khởi, tùy thuận tướng tự giác thánh thú, mà tất cả ngoại đạo , Thanh văn, Duyên giác không đạt được, ấy gọi là chánh trí.
Đại Huệ! Ấy gọi là năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã, tất cả Phật pháp thảy vào trong ấy. Thế nên Đại Huệ! Phải tự phương tiện học, cũng dạy người khác, chớ theo nơi nào.

GIẢNG
Đây nói tất cả Phật pháp đều vào năm pháp. Giải thích lại năm pháp, chỉ người tùy thuận chánh trí, như như. Thứ lớp chứng được nên gọi là phương tiện. Xét nơi, nhơn tướng được danh, theo danh hiển tướng, lập bày vọng tưởng, thảy hiển tất cả danh tướng đều không thể được.
Trước sau không giác, đối trong các pháp không có triển chuyển, chỉ lìa vọng tưởng tức là như như. Đây là tất cả pháp tự tướng chơn như, thập địa Bồ tát chỗ chứng có cạn sâu, chẳng phải hàng nhị thừa, nên nói “Ta và chư Phật tùy thuận nhập xứ”.
Vô phân biệt trí duyên chơn như cảnh, nếu duyên các duyên khác thuộc về hậu đắc trí. Song hai trí : thể một mà dụng khác, liễu tục cũng do chứng chơn, nên hai trí đều do chơn như bày hiện. Tùy thuận hai trí chứng đã chơn như được vào chánh giác, đến chỗ cứu cánh phi thường - phi đoạn, hiện tha thọ dụng thân độ và biến hóa thân độ, như thật diễn nói, phá các lưới nghi, nên nói “tất cả Phật pháp thảy vào năm pháp, do tự chứng biết, chẳng từ nơi khác được”.

CHÁNH KINH
4 - TỔNG TỤNG

Khi ấy Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ :

Năm pháp ba tự tánh……………………. Và cùng với tám thức
Hai thứ không có ngã……………………. Thảy nhiếp thuộc Đại thừa
Danh tướng hư vọng tưởng…………….. Tự tánh hai thứ tướng
Chánh trí và như như …………………… Ấy tức là thành tướng.

GIẢNG
Kệ tụng năm pháp, tự tánh, tám thức, vô ngã thảy nhiếp thuộc đại thừa. Đại thừa là tự tâm hiện lượng. Mê tự tâm lượng thì danh tướng lăng xăng, trí như lẫn hiển, y tha cho là riêng có, kế chấp ắt đợi viên thành.
Muốn phá vô minh của tám thức thì sở tri của hai ngã phải tiêu dung, đến nơi giác còn khởi quán gì ? Mộng qua sông nhớ lại lặng câm, phải tự dứt bặt vậy.
(213)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
PHÁP THÂN BA ĐỜI NHƯ LAI QUÁ CHỖ NGHĨ NGỢI CỦA THẾ GIAN, CHẲNG PHẢI NGHĨA SÁT NA, TRƯỚC SAU KHÔNG LỖI, THANH TỊNH VÔ LẬU.
Có 4 phần

I - PHÁP THÂN TỰ THÔNG, QUÁ CHỖ NGHĨ NGỢI CỦA THẾ GIAN
Có 10 phần

1) THƯA HỎI
Khi ấy Bồ tát Đại Huệ lại bạch Phật rằng :
Thế Tôn! Như Thế Tôn đã nói “quá khứ chư Phật như hằng sa, vị lai, hiện tại cũng lại như thế”. Thế nào Thế Tôn, là như nói mà tín thọ hay lại có nghĩa khác ? Cúi xin Như Lai thương tình giải nói.

GIẢNG
Cảnh giới chư Phật bất khả tư nghị, cảnh giới Phật trí bất khả tư nghị, cảnh giới chúng sanh bất khả tư nghị, cảnh giới vọng tưởng bất khả tư nghị. Bất khả tư nghị này đồng pháp giới tánh, không thiếu, không dư, chẳng ra chẳng vào, không thể chỉ bày, cũng chẳng phải không nói.
Đây nhơn dụ hằng sa Phật riêng hiển nghĩa này. Trừ vì chúng sanh phương tiện dẫn thí dụ, mới là câu vô nghĩa, để thông chơn thật thì chẳng phải nhất thiết trí đâu hay dự vào đây.

CHÁNH KINH
2) CHƯ PHẬT THÔNG QUA CHỖ NGHĨA CỦA THẾ GIAN, KHÔNG THỂ THÍ DỤ GIẢNG NÓI.
Phật bảo Đại Huệ :
Chớ như nói mà tín thọ, số lượng chư Phật ba đời chẳng phải như hằng hà sa. Vì cớ sao ? Vì quá chỗ nghĩ của thế gian, chẳng phải thí dụ và sở thí dụ, do phàm phu chấp thường, ngoại đạo vọng tưởng nuôi lớn ác kiến sanh tử khôn cùng. Muốn khiến nhàm lìa sinh tử, chuyên cần thẳng tiến, nên vì họ nói chư Phật dễ thấy, chẳng phải như hoa Ưu đàm bát, khó thấy được.
Dứt phương tiện cầu, có khi lại xem các người thọ hóa khởi nói thế này : Phật khó được gặp như hoa Ưu đàm bát. Hoa Ưu đàm bát không ai đã thấy, hiện thấy, sẽ thấy. Như Lai thế gian thảy đều thấy, vì chẳng do kiến lập tự thông nói rằng : Như Lai ra đời như hoa Ưu đàm bát.
Đại Huệ! Tự kiến lập, tự thông quá chỗ nghĩ của thế gian. Các phàm ngu kia không thể tin cảnh giới tự giác thánh trí, không cùng cái gì thí dụ được. Chơn thật Như Lai quá tướng tâm, ý, ý thức không thể thấy , không thể làm thí dụ.
Đại Huệ! Song ta nói thí dụ Phật như hằng hà sa không có lỗi lầm.

GIẢNG
Số lượng chư Phật ba đời chẳng phải như hằng hà sa , quá chỗ nghĩ của thế gian, chẳng phải thí và sở thí, đây là Như Lai chơn ngữ - như ngữ vô thượng, diệu đế, chỉ tự chứng biết. Song do chúng sanh hy vọng, vì đoạt cái hư ngụy kia, quyền chỉ chơn thật, bảo có chư Phật chẳng phải như hoa Ưu đàm, hoặc nói như hoa Ưu đàm để chỉ khó gặp, mà chẳng phải để kiến lập tự thông. Cảnh giới tự thông chẳng phải tướng có thể thấy, chẳng phải tướng chẳng thấy. Hành xứ chơn thật của Như Lai quá tất cả kiến tướng của tâm, ý, thức, không thể ví dụ.
Lại nói “ song ta nói thí dụ Phật như hằng hà sa cũng không có lỗi lầm”, là thánh trí bên cạnh tự thông tùy nói mà chỉ bày, chẳng phải chỗ hay thấy của nhị thừa và Bồ tát thủy giáo.
(214)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
3) NHƯ LAI PHÁP THÂN BẢN TỊCH

Đại Huệ! Thí như cát sông Hằng, tất cả cá trạch, thân thu, ma ha, sư tử, voi, ngựa, người, thú dẫm đạp, cát chẳng nghĩ rằng kia não loạn ta mà sanh vọng tưởng, tự tánh thanh tịnh, không các nhơ nhớp.
Như Lai ứng cúng, Đẳng chánh giác, tự giác thánh trí là sông Hằng, đại lực, thần thông tự tại v.v…là cát.
Tất cả ngoại đạo, người, thú v.v… tất cả não loạn, Như Lai chẳng nghĩ mà sanh vọng tưởng. Như Lai lặng lẽ, không có niệm tưởng. Như Lai bản nguyện lấy cái vui tam muội vì an chúng sinh, không có não loạn, ví như cát sông Hằng, đồng không có khác, lại vì đoạn tham sân.

GIẢNG
Từ đây về sau đều tức nơi Hằng sa nói rộng nghĩa Phật, mà đây lại thí dụ Như Lai pháp thân bản tịch. Như Lai tự giác thánh trí có hằng sa đại lực, thần thông tự tại, bị tất cả ngoại đạo, người, thú não loạn mà tánh cát giác thể vẫn tịch, không có niệm tưởng. Chỉ dùng bản nguyện an lạc quần sinh, khiến họ tự giác không có tham sân. Thế mới biết tất cả chúng sanh tự ở trong cũng có giác cát (Phật tánh), mà từ vô thủy đến nay bị các tà kiến người thú dẫm đạp trọn không chán lìa, lặng lẽ đến nay không thêm không bớt. Chỉ dùng chơn như bản nguyện an lạc tất cả chúng sinh, niệm niệm khởi diệt, khiến trụ pháp vị không có não loạn. Ví như cát sông Hằng là vì đoạn tham sân, mà tất cả chúng sinh không tự giác biết, thấy là Như Lai chư Phật như cát sông Hằng kia.

CHÁNH KINH
4) PHÁP THÂN CHẲNG DIỆT

Thí như cát sông Hằng là tự tánh của đất này, khi kiếp tận, lửa cháy, cháy tất cả đất , mà địa đại kia chẳng bỏ tự tánh, vì cùng hỏa đại đồng sanh. Còn ngoài ra kẻ ngu khởi tưởng đất bị cháy, mà đất chẳng bị cháy, vì là nhơn của lửa. Như thế, Đại Huệ! Như Lai pháp thân như cát sông Hằng, chẳng hoại.

GIẢNG
Đây dụ pháp thân thường trụ chẳng diệt, thí dụ như cát sông Hằng, đồng với cái kiên cố này là tự tánh đất cùng hỏa đại đồng sanh. Lửa nhơn đất mà được tánh cháy, đất nhơn lửa mà được lý sanh, đều không có nghĩa cháy hết.
(215)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
5 - PHÁP THÂN KHẮP TẤT CẢ CHỖ, KHÔNG CÓ CHON LỰA

Đại Huệ! Thí như cát sông Hằng không có hạn lượng, Như Lai quang minh cũng lại như thế, không có hạn lượng, vì thành thục chúng sanh khắp soi tất cả chư Phật đại chúng.
Đại Huệ! Thí như cát sông Hằng riêng cầu cát khác, hằng không thể được. Như thế, Đại Huệ! Như Lai ứng cúng Đẳng chánh giác không sanh tử, sanh diệt, vì có nhơn duyên đoạn vậy.

GIẢNG
Đây dụ Như Lai pháp thân khắp tất cả chỗ không có lựa chọn. Tự tâm hiện lượng khắp giáp sa giới, tất cả tiếng là tiếng Phật, tất cả sắc là sắc Phật, nên nói “không có cát khác”.
Có nhơn duyên đoạn là , lại phòng lỗi tự nhiên. Như Lai đã chỉ cho người lấy sự nhật dụng hồn nhiên không phải - chẳng quấy mà lại hiển chỉ thú vô cấu thanh tịnh, có nói lẫn nhau phát minh.

CHÁNH KINH
6 - PHÁP THÂN ĐỐI HIỆN KHÔNG CÓ TĂNG GIẢM

Đại Huệ! Thí như cát sông Hằng, thêm bớt không thể biết. Như thế, Đại Huệ! Như Lai trí huệ thành thục cho chúng sinh chẳng thêm chẳng bớt, vì chẳng phải pháp thân. Pháp thân là có hoại, Như Lai pháp thân chẳng phải pháp thân.

GIẢNG
Đây dụ pháp thân ứng hiện không có thêm bớt. Chúng sanh duyên thành thục tức thấy Như Lai, thành Đẳng chánh giác, nói pháp độ sanh, vào Niết bàn, mà Như Lai pháp thân vốn không đi - lại, cũng không có tâm hiện.
Có đi có lại ấy là pháp thân, mà Như Lai chẳng phải là pháp thân , không thể phá hoại. Nên nói “tùy duyên phó cảm đâu chẳng khắp, mà thường ngồi tòa Bồ đề này”.
(216)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
7 - NHƯ LAI BI - NGUYỆN ĐỒNG VỚI PHÁP GIỚI

Như ép cát sông Hằng không thể được dầu. Như thế, tất cả chúng sinh dùng điều tột khổ ép ngặt Như Lai , cho đến chúng sinh chưa được Niết bàn , chẳng bỏ pháp giới, tự tam muội nguyện lạc dùng đại bi.

GIẢNG
Đây dụ Như Lai bi - nguyện đồng với pháp giới. Dầu dụ cho Như Lai tâm niệm mỏi chán. Như Lai dùng mười câu vô tận thành tựu, chúng sinh dùng khổ tột ép ngặt, không có chán bỏ, do đại bi làm thành.

CHÁNH KINH
8 - NHƯ LAI PHÁP THÂN TÙY THUẬN NIẾT BÀN

Đại Huệ! Thí như cát sông Hằng theo nước mà trôi, chẳng phải không nước. Như thế, Đại Huệ! Như Lai nói ra tất cả các pháp theo dòng Niết bàn. Thế nên mới nói như cát sông Hằng. Như Lai chẳng theo các dòng di chuyển, vì đi là nghĩa hoại.
Đại Huệ! Sanh tử bản tế không thể biết, vì không biết làm sao nói đi ?
Đại Huệ! Đi đó là nghĩa đoạn mà kẻ ngu chẳng biết.

GIẢNG
Đây dụ Như Lai pháp thân tùy thuận Niết bàn. Nếu chẳng tùy thuận là bị dòng sanh tử chuyển, thành nghĩa đoạn diệt.
Sanh tử bản tế tức là Niết bàn bản tế, do chẳng biết thì chẳng tùy thuận, khởi tưởng khứ hoại. Đi là nghĩa đoạn, mà Như Lai pháp thân chẳng đoạn.
(216)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
9 - SANH TỬ - GIẢI THOÁT, BẢN TẾ VÔ BIÊN

Đại Huệ bạch Phật : Thế Tôn! Nếu chúng sanh sanh tử bản tế không thể biết, làm sao giải thoát có thể biết ?
Phật bảo Đại Huệ : Nhơn tập khí vọng tưởng lỗi ác hư ngụy từ vô thỉ diệt , tự tâm hiện biết nghĩa bên ngoài, vọng tưởng thân chuyển mà giải thoát chẳng diệt. Thế nên vô biên chẳng phải hoàn toàn có. Vì vọng tưởng kia khởi vô biên v.v… tên khác. Quán sát trong ngoài lìa nơi vọng tưởng, không khác chúng sanh, trí và sở tri tất cả các pháp thảy đều tịch tĩnh. Chẳng biết tự tâm hiện vọng tưởng nên vọng tưởng sanh, nếu biết thì diệt.

GIẢNG
Sanh tử bản tế tức Niết bàn bản tế (bản thể vi tế), do chẳng biết, tùy thuận khởi ra vọng kiến thì sanh tử tướng khác, Niết bàn tướng khác, thành lỗi tập khí. Nếu biết tự tâm hiện ra, sanh tử Niết bàn vốn không hai mé. Tức nhơn vọng tập diệt thì thấy các pháp bên ngoài không có tự tánh, bèn hay chuyển vọng tưởng thân tùy thuận sanh tử , gọi là giải thoát, mà chẳng phải đoạn diệt. Cho nên nói “vô biên chẳng phải trọn không bản tế”.
Chỉ do chẳng biết bản tế, vọng thấy sanh tử - Niết bàn, khởi tưởng hữu biên. Vì vọng tưởng kia nói là vô biên, bởi khiến quan sát trong ngoài , chỉ trừ vọng tưởng lại không có danh tự chúng sanh, trí và sở tri tất cả các pháp đều tịch tĩnh. Cho nên biết : Chúng sanh sanh tử đều do vọng tưởng. Chẳng biết tự tâm hiện thì vọng tưởng sanh, biết tự tâm hiện thì vọng tưởng diệt. Diệt thì bản tế tùy thuận, sanh tử Niết bàn đều như mộng huyễn.

CHÁNH KINH
10 - TỔNG TỤNG

Khi ấy Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ

Quán sát các đạo sư…………………….. Ví như cát sông Hằng
Chẳng hoại cũng chẳng đi………………. Cũng lại chẳng cứu cánh
Ấy tức là bình đẳng………………………. Quán sát chư Như Lai
Ví như cát sông Hằng ……………………Thảy lìa tất cả lỗi
Theo dòng mà tánh thường…………….. Ấy là Phật chánh giác.
GIẢNG
Như Lai pháp thân chẳng phải hoại, chẳng phải đi. Nếu lại có cứu cánh thì Niết bàn, sanh tử là hai, chẳng phải bình đẳng. Nếu chẳng phải bình đẳng thì thuộc tác nhơn. Tác thì vô thường có nhiều lỗi lầm. Cho nên chỉ biết trừ vọng tưởng tác nhơn thì theo dòng được tánh, liền thấy cảnh giới Như Lai tự giác, đồng mé sanh tử tịch tĩnh thường trụ. Đây là Như Lai dụ cát sông Hằng mà kiến lập tự thông, lìa lỗi ngôn thuyết. Tuy có nói thí dụ mà cứu cánh bất khả tư nghị.
(217)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
PHÁP THÂN VÔ LẬU, CHẲNG PHẢI NGHĨA SÁT NA
Có 2 phần

I - CÁC PHÁP SÁT NA
Có 2 phần
1) SÁT NA PHI NGHĨA SÁT NA
Khi ấy Bồ tát Đại Huệ lại bạch Phật : Thế Tôn! Cúi xin vì nói tướng hoại của tất cả các pháp sát na ?
Phật bảo Đại Huệ : Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, tôi sẽ vì ông nói. Này Đại Huệ! Tất cả pháp ấy, nghĩa lành, chẳng lành, vô ký , hữu vi, vô vi, thế gian, xuất thế gian, có tội, không tội, hữu lậu, vô lậu, thọ, chẳng thọ.

GIẢNG
Hỏi nghĩa sát na để bày nghĩa phi sát na. Niệm niệm không dừng gọi là sát na, cũng gọi là tướng hoại, cũng gọi là tướng không.
Tất cả pháp sát na là : tất cả pháp trong ngoài do tự tâm hiện ra niệm niệm không dừng.
Bời không biết tự tâm là nghĩa phi sát na, chỉ thấy cảnh hiện ra niệm niệm sanh diệt sát na chẳng dừng, mà lầm cho là pháp vô vi đều đồng với diệt hết, rồi khởi ra đoạn kiến.
Chẳng biết tất cả pháp sát na có cái phi sát na , chỗ này không phải nhị thừa thấu được.
Hỏi đáp nêu ra thảy đều để rõ ý chỉ này. Trước bày tất cả pháp, sau mới hiển minh.

CHÁNH KINH
Đại Huệ! Lược nói tâm, ý, thức và tập khí, ấy là nhơn năm thọ ấm. Tâm, ý, thức ấy nuôi lớn phàm ngu lành, chẳng lành vọng tưởng.

GIẢNG
Lược nói pháp năm ấm, bởi tất cả pháp đều từ năm ấm sanh khởi. Pháp năm ấm lại lấy tâm, ý, thức, tập khí làm nhơn mà được nuôi lớn.
Phàm ngu lành, chẳng lành vọng tưởng là : tam giới, lục phàm, hữu lậu vọng tưởng là nghĩa sát na.

CHÁNH KINH
Đại Huệ! Tu về tam muội lạc, tam muội chánh thọ, hiện pháp lạc trụ gọi là hiền thánh thiện vô lậu.

GIẢNG
Nhơn tướng vô lậu của thánh hiền trong tam thừa là phi sát na. Do tu tam muội được pháp lạc trụ hiện bày ra, sau đó mới phát minh.
(218)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: KINH LĂNG GIÀ DIỄN GIẢI

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

CHÁNH KINH
2) CHỈ NGHĨA SÁT NA

Đại Huệ! Lành, chẳng lành là tám thức. Những gì là tám ? Đó là : Như Lai tàng tên tàng thức, tâm ý, ý thức và năm thức thân, chẳng phải chỗ ngoại đạo nói.
Đại Huệ! Năm thức thân cùng tâm ý, ý thức chung. Tướng lành - chẳng lành lần lượt biến hoại. Về tương tục lưu trú chẳng hoại thân sanh, cũng sanh cũng diệt. Chẳng giác tự tâm hiện, thứ lớp diệt, các thứ khác sanh. Hình tướng sai biệt nhiếp thọ ý thức cùng năm thức chung tương ưng sanh. Thời gian sát na chẳng dừng gọi là sát na.

GIẢNG
Đây chỉ cho tâm thức hữu lậu lành và chẳng lành vốn có thân chẳng hoại, mà lầm theo sanh diệt. Cho nên tức nơi sát na mà hiển bày nghĩa phi sát na. Như Lai tàng tên tàng thức, chẳng phải chỗ ngoại đạo nói, nghĩa là ngoại đạo chẳng biết tàng thức tức Như Lai tàng. Cho nên chính năm thức nương tâm ý - ý thức khi khởi ra tướng lành - chẳng lành lần lượt biến hoại. Cái tương tục lưu trú kia (tàng thức) chẳng hoại mà cũng theo các thức thân, cùng thân chung sanh chung diệt. Do gốc bất giác tự tâm hiện lượng, đối với cái trong thứ lớp hiện ra không thể an trụ, liền có các thức khác theo chỗ tập (nghiệp) nặng của đời trước khởi các hình tướng. Lại dẫn ý thức và năm thức căn cùng tâm sở tương ưng thành nghĩa sát na.
Kinh Lăng Nghiêm nói :
- Một là căn bổn sanh tử từ vô thỉ.
Tức là hiện nay ông cùng các chúng sanh dùng tâm phan duyên làm tự tánh.
- Hai là thể thanh tịnh Bồ đề Niết bàn từ vô thỉ .
Tức là hiện nay thức tính nguyên minh của ông hay sanh các duyên, duyên bỏ sót nó. Do các chúng sinh bỏ sót cái bổn minh này, tuy trọn ngày làm mà chẳng tự giác, uổng vào các thú.

Đây là tương tục chẳng hoại do gốc bất giác lầm theo sanh diệt. Đâu chẳng phải hay sanh các duyên, rồi duyên bỏ sót uổng vào các thú, thật đáng buồn thay.
(219)


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.13 khách