Dainadi đã viết:
Như đệ biết:
Phước, huệ song tu thiên về Phước vô lậu và Trí huệ nhiều hơn Phước hữu lậu và thức huệ. Chính vì vậy Phước Huệ song tu là tìm được Chánh Pháp và tu sao khi nói (huệ) sẽ là lời nói của Trí.
Theo Kinh Kim Cang, phước huệ song tu có nghĩa là:
"bố thí mà không có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng và thọ giả tướng"
Không nên cho rằng phật cho việc bố thí tu phước là sai, là không tốt rồi đâm ra không làm gì hết. Mình vừa tu bố thí, nhưng cũng vừa quán chiếu không có ta, có đối tượng để bố thí, vật và người nhận bố thí. Như vậy mới gọi là phước vô lậu.
Làm như vậy chi? Là giúp cho ta lìa cái "ngã" và "ngã sở". Nếu ta chấp cho vật của ta, ta bố thí v.v... thì chỉ sanh thêm nhiều đau khổ về sau. Như vậy cái bố thí tu phước nầy không có trí tuệ. Tu phước không có trí tuệ là "hữu lậu". Tu phước có Trí Tuệ là "vô lậu".
Nhưng bắt buộc tu Phật Pháp là phải thực hành bằng hành động. Không phải chỉ nói rồi thôi, hoặc chỉ quán cho tất cả đều không, rồi chấp mà không làm gì hết thì không được.
....Huynh nghĩ sao khi lúc làm con người đầy đủ tứ đại, ngũ uẩn, căn, trần, thức, mà không kiến tánh được, mà lúc tứ đại đã rã, ngũ uẩn đã diệt, trần thức đã mất chỉ còn lại một căn chu du nơi vô sắc thì lấy gì để hiểu để học Phật??? lấy gì để cảm , để thọ lấy đâu ra vọng để nương mà hiển chân??
Đúng làm người khó được, và chỉ có làm người mới dễ tu hơn là những chúng sanh ở cõi trời, a tu la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Nhưng cũng không phải thật dễ, phải có dụng công tu hành thì mới được.
Chổ nầy mới đáng chú ý. Giả như ta Kiến Tánh trong đời này không được, tức sẽ còn trầm luân trong vòng luân hồi sáu nẻo, vô thường mau đến, tứ đại phân ly, thì sao? Thì chính là uổng được làm người, được biết Phật Pháp vậy. Cho nên đức Phật sót thương đời mạt pháp, tuyên thuyết Kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ và những Kinh Tịnh Độ khác khuyên chúng sanh Tín Nguyện Niệm Phật cầu sanh Cực Lạc. Do bởi nhờ vào Tha Lực Đại Bi Nguyện của Phật A Di Đà mà ta có thể vãng sanh Cực Lạc khi hết báo thân nầy. Ta về cõi Phật thì vĩnh viển không còn bị luân hồi đọa lạc nửa, và về cõi Phật thì gặp phật nghe pháp tu hành cũng sẽ đồng Kiến Tánh, chứng Vô Sanh, lên ngôi Bất Thối Chuyển, chống thành Vô Thượng Chánh Giác.
Tu chỉ có một con đường là giải thoát mà giác ngộ là khởi điểm. Tổ đã dùng chữ "vãng sanh nơi cực lạc" nói rõ, chỉ là sanh ra như khách vãng lai nơi cực lạc..đến rồi đi. Tổ đã minh chứng làm người ai ai cũng đã từng vãng sanh nơi cực lạc ngay trong đời này và ngay ở cõi quốc độ này. Chẳng qua chúng ta vãng qua mà không biết. Ngay bản thân Huynh đã từng vãng qua bao sát na cõi cực lạc. Tổ nhắc ta nên "nhận biết nó là khai ngộ tức thì". Tổ nào có nói...thoát sanh tử rồi mới kiến tánh đâu..bởi thoát sanh tử thì Ta đã thành Phật.
Giác ngộ như ông nói có lẽ phải có nhiều ý nghĩa và cấp bực. Nếu như ông nói Giác Ngộ tức là Ngộ Nhập Tri Kiến Phật, hay Kiến Tánh đi nữa thì tôi nghĩ trên đời nầy khó tìm được người đếm trên ngón tay! Và Phật pháp có lẽ không còn tồn tại nữa!
Vì sao? vì nếu cho rằng muốn giải thoát sinh tử, trước phải kiến tánh thì trên đời nầy hiện nay có bao nhiêu người kiến tánh rồi?
Đa số là phàm phu chưa kiến tánh còn tham sân si đầy dẫy! Vậy họ phải kiến tánh mới giải thoát thì có lẽ họ chết trước khi kiến tánh rồi, và tiếp tục luân hồi mãi.
Không biết rằng Phật Đại Từ Bi, mở bài phương tiện nhiệm mầu Tịnh Độ cho những ai muốn giải thoát sanh tử vãng sanh về cõi Tịnh Độ như Cực Lạc trong đời nầy vẫn được. Chỉ cần tu hành đúng pháp thì sẽ được.
Bồ Tát Phổ Hiền Trong Kinh Hoa Nghiêm và hoa tạng hải chúng còn nguyện sanh Cực lạc.
Tổ Mã Minh còn tán thán Tịnh Độ pháp môn
Tổ Long Thọ còn nguyện sanh Cực Lạc.
Tổ Huệ Viễn, Thiện Đạo, Vĩnh Minh, Tổ Liên Trì, Tổ Ngẫu Ích, Mộng Đông v.v...
Cho đến các vị cận đại Ấn Quang, Khánh Anh, Thiện Hoa, Thiện Hòa, Thiền Tâm, Trí Tịnh v.v...
Đều là những bậc hiểu biết Phật pháp rất sâu có lẽ đã đọc cả Đại Tạng Kinh, thâm hiểu thiền tông, có người đã Kiến Tánh, Ngộ Đạo, vậy mà các ngài vẫn nguyện vãng sanh Cực Lạc.
Tuy có Văn Tự Bát Nhã hiểu biết
"đất đai đại địa núi song v.v... đều là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh" và hiểu rằng
"tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điển" nhưng chỉ là cái hiểu, chưa phải là cái chứng được.
Cũng như hiểu cõi Tịnh Độ mười phương chẳng ngoài Như Lai Tạng. Hiểu những gì có hình tướng đều là mộng huyễn. Nhưng cái hiểu nầy vẫn chưa có khả năng giúp ta liễu thoát sinh tử.
Cũng như hiểu núi sông ở cõi mình đang ở chẳng ngoài Như Lai Tạng, và hiểu núi sông đều là mộng huyễn mà hiện chúng ta vẫn đang sống với nó, vẫn cho nó là có thật, vẫn còn chấp lấy nó không thô cũng chấp vi tế. Vì thế khi mang tiền ra bố thí kẻ khác ta vẫn còn phân biệt đây là tiền của ta, ta bố thí cho người, ta vẫn còn ăn cơm, mặt áo, ta vẫn còn thấy cức là hôi thúi khác với thân mình nên tránh xa....
Nếu đã thật chứng nhập Như Lai Tạng thì không có phân biệt vì tất cả đều là Như Lai Tạng kia mà! Nhưng ta hiện vẫn còn phân biệt nhiều lắm!
Tông Tịnh, tông thiền, tông mật...đã dùng chữ tông thì không phải lời Phật dạy..đó chỉ là những phương tiện các Tổ hỗ trợ chúng sanh cõi Quốc Độ đạt được niềm tin tuyệt đối..khởi hành trò chơi lớn.
Thiền, mật, tịnh đó là ba giai đoạn tiếp nối thứ tự trên con đường giải thoát với điều kiện là hiểu ý rốt ráo của Thiền, mật và Tịnh.
[/quote]
Ông nói vậy không chuẩn!
Các Tôn Thiền Tịnh Mật, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Duy Thức v.v... đều là dựa vào Kinh Điển của Phật mà tu hành. Do vậy đó chính là lời Phật dạy. Chư Tổ chẳng qua đi trước sáng mắt tự chọn một phương pháp thích hợp với mình mà tu và giúp chúng ta đời sau rỏ một đường đi, đường nào thích hợp với mình thì mình đi đường đó, vì căn tánh căn cơ chúng mình có muôn vàng sai biệt. Cho nên phải có nhiều pháp để tương ứng.
Kinh A Di Đà, Kinh Lăng Già, Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm v.v... đều là Kinh do Phật dạy cả. Chư tổ thấy đại tạng rộng lớn không dễ gì học hết trong một đời, nên chọn một bộ kinh theo đó tu hành trọn đời. Vì vậy ai có duyên với bộ kinh nào thì học hành bộ kinh đó mà thôi.
Mong ông suy sét kỹ mà hành sự, kẻo đi lạc đường thì uổng được thân người khó được, phật pháp khó nghe nay đã được nghe vậy.