* Thắc mắc phần mở đầu: Tại sao HT lại chọn Tổ thứ 2 là Huệ Khả để làm mốc mà ko phải là Tổ thứ nhất của Thiền Tông THoa là Bồ Đề Đạt Ma ? Tương tự ngài chọn tiếp Tổ thứ 6 là Lục Tổ Huệ Năng mà ko phải là Tổ Thứ 3, 4 và 5 của Thiền Tông ? Lại thêm nữa, HT tuyên bố ko theo các tông của năm phái Tào Động, Lâm Tế, Qui Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn trong khi đó HT lại lấy Thiền Trúc Lâm (cho dù HT biết Sơ Tổ Trúc Lâm gốc từ việc sát nhập 3 dòng Thiền của các thiền sư Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi (đệ tử của Tổ Tăng Xán), Vô Ngôn Thông (đệ tử của thiên sư Linh Hựu) và thiền sư Thảo Đường (đệ tử của thiền sư Tuyên Giám - nhánh của thiền sư Đạo Ngộ - để tử của thiền sư Đạo Nhất). Và phải chăng Thiền Tông Việt Nam = Thiền Trúc Lâm + Huệ Khả + Lục Tổ = Thiền Giáo Đồng Hành (câu này của HT ở phần kết luận bài viết) = Thiền Tông Việt Nam ?''Nói đến Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ 20 là nói đường hướng tu thiền của Tu viện Chân Không (1970-1986) ngày trước, hay của Thiền viện Thường Chiếu… hiện nay (1974-1991…) do chúng tôi (Thích Thanh Từ) chủ trương hướng dẫn. Chúng tôi không theo các tông phái chi nhánh Thiền tông Trung Hoa sau này, như tông Tào Động, Lâm Tế, Qui Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn. Chúng tôi chỉ kết hợp ba cái mốc quan trọng trong dòng lịch sử truyền thừa Thiền tông từ Trung Hoa đến Việt Nam. Mốc thứ nhất là Nhị tổ Huệ Khả, mốc thứ hai là Lục tổ Huệ Năng, mốc thứ ba là Sơ tổ Trúc Lâm. Hòa hội chỗ thấy, chỗ ngộ và sự ứng dụng tu hành của ba vị Tổ này thành phương pháp tu thiền trong các Thiền viện chúng tôi. ''
2/ Phần kết luận cũng của bài ''Thiền Tông Việt Nam Cuối Kỷ 20 '' của HT Thích Thanh Từ, ngài cũng đã nói như sau:
Nhị Tổ Huệ Khả khi ngộ rồi thì Bồ Đề Đạt Ma truyền kinh Lăng Già làm Tâm Ấn kèm với y bát. Điều này khẳng định Huệ Khả ngộ đạo không hề nhờ kinh sách. Vậy nếu nói Huệ Khả ngộ đạo, kiến tánh nhờ kinh Lăng Già là không đúng.Nhị tổ Huệ Khả sau khi ngộ đạo vẫn được Tổ Đạt-ma giới thiệu bốn quyển kinh Lăng-già để ấn tâm. Lục tổ Huệ Năng nghe giảng kinh Kim Cang ngộ đạo. Thế là đủ minh chứng Thiền tông không rời Kinh, vì Thiền là tâm của Phật, Kinh là miệng của Phật. Đức Phật tâm miệng không khác thì Thiền và Giáo làm sao tách rời được. Cho nên chúng tôi chủ trương “Thiền, Giáo đồng hành”.
Để thấy rõ nét lối dung hợp pháp tu qua ba vị Tổ trên, chúng tôi cô đọng lại bằng những lối tu:
1- Biết vọng không theo, vì vọng tưởng là những tâm niệm hư ảo.
2- Đối cảnh không tâm, vì nó là tướng duyên hợp giả dối tạm bợ.
3- Không kẹt hai bên, vì đối đãi là không thật.
4- Hằng sống với cái thật, không theo cái giả, vì giả là luân hồi, thật là giải thoát.
Đây là bốn phương tiện chúng tôi tạm lập để hướng dẫn người tu. Tùy theo căn cơ trình độ nhanh chậm, cao thấp của hành giả mà lối ứng dụng có khác. Cũng có thể bốn lối tu này, hành giả linh động ứng dụng theo thứ tự từ pháp thứ nhất đến pháp thứ tư để tu hành cũng tốt. Những nét cô đọng trên là kết thúc bài này của chúng tôi.
Lục Tổ Huệ Năng chỉ nghe 1 câu Kinh Kim Cang khi đi đốn củi mà ngộ đạo. Kể cả lúc gặp Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn nói câu kiến tánh đầu tiên : '' Người có Nam có Bắc, nhưng Phật tánh giữa con và thầy không khác''. Sau đó đón củi , giã gạo và viết 4 câu kệ để trở thành tổ thứ sáu cũng chưa bao giờ được Ngũ Tổ giảng kinh. Câu '' Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sanh Kỳ Tâm'' trong kinh Kim Cang khi Lục Tổ nghe được lúc đón củi giống như 1 câu thoại đầu, 1 công án Thiền thì đúng hơn. Nổi tiếng hơn nưa Lục Tổ còn phê phán việc nghiên cứu kinh sách: '' Tâm mê Pháp Hoa chuyển. Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa''.
Vì thế tôi rất thắc mắc về quan điểm của HT Thích Thanh Từ khi kết luận: ''Thế là đủ minh chứng Thiền tông không rời Kinh, vì Thiền là tâm của Phật, Kinh là miệng của Phật. Đức Phật tâm miệng không khác thì Thiền và Giáo làm sao tách rời được. Cho nên chúng tôi chủ trương “Thiền, Giáo đồng hành”.
Giáo ở đây, ý HT nói là Kinh Sách. Thắc mắc của tôi là Giáo và Thiền không thể đồng hành. Có Giáo không Thiền, có Thiền không Giáo. Vì Thiền mà có Giáo thì Thiền không còn là Thiền nữa. Chính vì thế HT Thanh Từ đưa ra 4 kết luận về Thiền Tông Việt Nam như sau:
1- Biết vọng không theo, vì vọng tưởng là những tâm niệm hư ảo.
Nếu đã ''biết vọng '' rồi thì rơi vào 2 trạng thái: a/ Lấy vọng tròng vọng b/ Đã ''tỉnh giác'' rồi.
Nếu hành giả rơi vào trường hợp (a) thì tu vô ích, còn rơi vào trường hợp (b) tức là đã ''tỉnh giác'' rồi thì mới ''biết vọng''. Vậy làm sao để hành giả tỉnh giác mới là cái cần làm chứ ''tỉnh giác'' rồi thì cần chi quý thầy khuyên đừng chạy theo vọng ''biết vọng không theo''. Cho nên câu kết luận 1 trên rơi vào GIÁO (dạy giáo lý) chứ ko phải là đường lối THIỀN.
Chỉ cần hành giả ''Đối cảnh không tâm'' là quá đủ chứ không phải vì cái gì hết. Nếu có chữ ''Vì'' tức là có tâm rồi, cho dù tướng duyên hợp tạm bợ hay không tạm bợ. Đây cũng là câu kết luận 2 thiên về phần GIÁO (giáo lý) chư không phải là đường lối THIỀN.2- Đối cảnh không tâm, vì nó là tướng duyên hợp giả dối tạm bợ.
Không kẹt hai bên (nhị nguyên) nhưng HT lại thêm chữ ''Vì'': ''Vì đối đãi là không thật'' Nếu cái ''Không Thật'' thì rơi vào đối đãi với cái ''Thật''. Câu trước sau lại mẫu thuận nhau cho dù đây cũng là phần GIÁO (giáo lý), ko phải đường lối THIỀN.3- Không kẹt hai bên, vì đối đãi là không thật.
Câu này gần giống với câu 1:''Biết vọng không theo''. Tức là nếu ta đã sống được với cái thật rồi, giải thoát rồi thì theo cái giả làm chi nữa. Nhưng làm sao hằng sống với cái thật đây !? đường lối để sống với cái thật là làm gì đây ?. Câu kết luận 4 này cũng thuộc về phần Giáo (giáo lý) nốt chứ ko có tính hướng dẫn Thiền. Như vậy 4 lường lối tu Thiền của HT Thanh Từ đều không thấy Thiền !?4- Hằng sống với cái thật, không theo cái giả, vì giả là luân hồi, thật là giải thoát.
3/ Thắc mắc 3: HT dạy về Thiền Trúc Lâm nhưng chưa hẳn là Thiền Trúc Lâm: Trong cuốn Thiền-Sư Việt-Nam do Hòa-Thượng Thanh-Từ sưu tập, có nhắc lại lời dạy của Nhị Tổ Pháp Loa rằng "Phải tham câu thoại đầu". Nhưng trong ''Cội Nguồn Thiền Tông'' HT lại viết
Tại sao HT lại nói người tu tham thoại đầu hiện nay căng thẳng, thác loạn ? HT có ví dụ cụ thể không ? Ai là người mà HT nói là họ tự hào rằng đây là chánh truyền Thiền Tông, Tổ Sư Thiền ? Nếu HT nói không có chứng lý thì vô tình đã ngăn nhưng người có cơ duyên đến với pháp tu Thoại Đầu của Thiền Tông, tức là ngăn người tu , ngăn người ''kiến tánh thành Phật'' rồi, đồng thời HT lại không thực hiện theo lời của Tổ Pháp Loa của Thiền phái Trúc Lâm là ''Phải tham câu thoại đầu''''Người tu thoại đầu hiện giờ thường dùng câu thoại đầu rồi đề khởi mãi đến độ căng thẳng thần kinh khiến thác loạn. Thế mà họ tự hào rằng đây là chánh truyền Thiền tông, là Tổ sư Thiền v.v… Đức Phật không có đề thoại đầu. Tổ Đạt-ma không có đề thoại đầu, Lục tổ Huệ Năng không có đề thoại đầu. Đây chẳng qua là phương tiện do các Thiền sư ở Trung Hoa đời Tống chế ra. Chúng ta học Phật, phải thấy thâm ý sâu xa của pháp tu, đừng mắc kẹt hình thức máy móc.''.
Công án Niêm Hoa Vi Tiếu sao lại không là 1 dạng của thoại đầu (có thoại nhưng ko có tiếng (vô ngôn) giữa Phật với Ma ha Ca Diếp. Câu nói ''Đem tâm ra ta an cho'' sao không phải là câu Thoại Đầu giữa Bồ Đề Đạt Ma với Huệ Khả ? Ngay cả câu '' Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm'' mà Lục Tổ nghe được khi đón củi cũng được coi là Thoại Đầu rồi. Vì công năng của Thoại Đầu chỉ là để giúp người ta ''kiến tánh''. Tại sao HT coi ''Thoại Đầu'' đơn giản, thậm chí lại nguy hiểm đến vậy !?
Bản thân tôi cũng rất kính trọng HT Thích Thanh Từ, đọc rất nhiều sách của người viết, nghe băng đĩa thuyết giảng của HT. Nhưng tôi thật bất ngờ vào 1 ngày khi đọc Cội Nguồn Thiền Tông lại thấy thầy Thanh Từ ca ngợi Tham Thoại Đầu rồi ngay sau đó lại chê bai pháp tu Thoại Đầu của Thiền Tông. Tôi liền đọc lại nhưng bài HT nói , đặc biệt là bài ''Thiền Tông Việt Nam cuối thế kỷ 20'' thì có thắc mắc như vậy. Tôi thấy diễn đần có nhiều thiện tri thức Phật giáo nên đem chia sẻ mong được quý vị chỉ giáo !
Đa tạ quý vị !
trieu_chau