hlich đã viết:
vâng mình có biết định nghĩa đó; tuy nhiên mình vẫn có thể coi tiếng nhạc được liệt kê như trên là cái tiếng (của nhạc), tiếng là thinh xứ, là phần phi do thủ cảnh thủ, nhạc là phần pháp xứ?
Quay lại ý nghĩa của "thành do thủ";luận định nghĩa thành do thủ là các quả của nghiệp.Các sắc nội xứ như mắt tai mũi lưỡi thân đều là quả của nghiệp;nếu không có nghiệp tạo tác thì chẳng thọ thân này.Thế còn các cảnh?Tại sao cảnh sắc được bắt bởi nhãn thức thì có thể là thành do thủ;hay nói cách khác;lật lại vấn đề với các sắc xứ;hương xứ;vị xứ;xúc xứ lại có thể coi là quả của nghiệp trong khi thanh xứ thì không thể?Chẳng phải khi người ta hay nói những lời không hay thì thường nhận lại những âm thanh không vừa ý sao.Như người ta nói:"nếu không muốn nghe những điều không êm tai thì đừng nói cho sướng miệng";vậy thanh xứ không thể là quả của nghiệp mà người ta phải hứng chịu hay sao?Nếu ta xúc phạm một người;ngay lập tức có thể nhận một thanh xứ mà gây cho ta những thọ ưu tiếp theo.
Theo như mình hiểu ý trên của đạo hữu;bạn muốn tách ra âm nhạc và những cảm thọ về âm nhạc;gu âm nhạc;sở thích âm nhạc và tâm trạng etc...một cái là sắc;một cái là danh.Cái thuộc tâm sở thì thuộc về pháp xứ.Nếu như vậy khi bạn tách tương tự cảnh sắc và những cảm thọ khi ngắm nhìn cảnh sắc;thì sắc xứ cũng phải là phi do thủ cảnh thủ;tương tự đối với hương xứ;vị xứ và xúc xứ-cũng phải là phi do thủ cảnh thủ?!
Lại nữa;như Đức Đế Thích và chư Thiên cõi trời Tam Thập Tam Thiên;tại sao họ lại được nghe những âm thanh khả lạc khả ái khả hỷ mà rất ít(hoặc không) phải nghe những thanh "thô xấu";chẳng phải là y báo do quả tích lũy nghiệp thiện hay sao?Vậy rất hữu lý khi nói rằng:"thanh xứ có thể thành do thủ cảnh thủ"
không phải mình làm như vậy, mình chỉ tách những chỗ có thể tách ra thôi; nhạc, lời nói nếu chỉ là âm thanh (random noise) thì tình cảm (hay sự sáng tạo) của người soạn nhạc không có trong đó và ý nghĩ của người nói không có trong đó?
cận y duyên là y chỉ duyên mà duyên (y chỉ) rất mạnh
mạnh là bởi vì sao? có thể mạnh vì tính chất "vô gián"; cho nên "trước trước và sau sau" chỉ cận y duyên do tính chất vô gián; đ/h hãy đối chiếu với vô gián duyên
nếu mạnh vì tính chất "cảnh" hoặc tính chất khác thì có cụm từ "số nào đó" để phân biệt với cận y duyên do tính chất "vô gián"?
tư là quyết định phản ứng; khi phản ứng thì ta (phàm phu) tạo nghiệp; cho nên tư được coi là nghiệp (karma is volition) nhưng đúng hơn tư là động cơ tạo nghiệp; tùy cường độ phản ứng và tùy các tâm sở (cá tính) mà sự phản ứng ở dạng ý, hoặc khẩu, hoặc thân
mình sẽ xem lại, tuy nhiên mình nghĩ các sắc tư, ... pháp tư là sự phản ứng với đối tượng sắc xứ, ..., pháp xứ; sự phản ứng này thì tùy cơ duyên mà có thể là bất cứ loại nghiệp nào
Trong quy trình thân nghiệp có thể yếu hiệp(bao gồm) bao nhiêu tư(cetana);phải chăng là cả 6?
Trong quy trình khẩu nghiệp có thể yếu hiệp(bao gồm) bao nhiêu tư(cetana);phải chăng là cả 6?
Trong quy trình ý nghiệp có thể yếu hiệp(bao gồm) bao nhiêu tư...phải chăng là cả 6?
Theo lối giải thích của bạn thì mình mường tượng tư là cách giải thích quy trình nghiệp mà nhấn mạnh vào đối tượng kích thích (đầu vào);còn các nghiệp phân theo thân khẩu ý là cách phân chia theo "cửa ra"(đầu ra).Tóm lại là hai cách phân loại nghiệp theo các tiêu thức khác nhau: đối tượng và cửa(môn)
nếu tư là cách giải thích quy trình nghiệp thì tư là điều được nhấn mạnh đến chứ? với đối tượng kích thích (đầu vào, tức lục trần), ba loại nghiệp (cửa ra) sẽ có chỉ khi quyết định ở giữa (tư) cho phép
Tôi đọc bộ phân tích;phần phân tích các đạt thông(vô ngại giải);phần vấn đáp viết như thế này:
[790] (BỐN ÐẠT THÔNG) có thể là thiện, có thể là vô ký.
(Bốn đạt thông) có thể là tương ưng thọ lạc, có thể là tương ưng phi khổ phi lạc thọ.
Ba đạt thông có thể là pháp dị thục nhân, có thể là pháp phi di thục quả phi dị thục nhân; nghĩa đạt thông có thể là dị thục quả, có thể là dị thục nhân, có thể là phi dị thục quả phi dị thục nhân.
tại sao pháp vô ngại giải;ngữ pháp vô ngại và biện tài vô ngại lại ko phải là dị thục quả?
mình tạm hiểu rằng bốn đạt thông đều có tính cách "tác động" nên khi hiệp thế thì là dị thục nhân và khi siêu thế thì là phi dị thục quả phi dị thục nhân
nghĩa đạt thông còn có tính cách "quả" vì nó cũng là cái kết luận hoặc được chuyển tải của bốn tác động trên?
đạo đế không có đạo thành cảnh, mà có thể có đạo thành nhân, hay có thể có đạo thành trưởng, có thể không nên nói là có đạo thành nhân hay có đạo thành trưởng
cho nên mình nghĩ các bậc thánh hữu học không có đạo thành cảnh, có đạo thành nhân hay đạo thành trưởng; với các vị này thì niết bàn là cảnh