Tín-Nguyện-Hạnh

Thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì pháp môn niệm Phật.

Điều hành viên: binh, battinh

Hình đại diện của người dùng
Thánh_Tri
Điều Hành Viên
Bài viết: 3851
Ngày: 21/12/07 21:02

Re: Tín-Nguyện-Hạnh

Bài viết chưa xem gửi bởi Thánh_Tri »

Yếu Giải:
HÀNH

Bây giờ nói đến Hành là người chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn, tức là người niệm danh hiệu Phật để cho tâm mình đậu vào một chỗ, chẳng bị rối loạn.

Niệm danh hiệu Phật là niệm công đức Phật (đã tin sâu như thế thì cứ tin, đừng suy nghĩ nữa mà hỏng việc). Công đức của Phật chẳng khá nghĩ, chẳng khá bàn cho nên danh hiệu của Phật cũng chẳng khá nghĩ, chẳng khá bàn (vì trí tuệ mình thấp kém quá, nghĩ bàn sao được mà nghĩ bàn!) Danh hiệu của Phật và công đức của Phật đều chẳng khá nghĩ bàn, cho nên người niệm danh hiệu Phật mà tâm tán loạn cũng đã tạo được hạt giống thành Phật mai sau và người niệm Phật nhất tâm bất loạn sẽ được lên ngay ngôi Bồ Tát Bất Thoái.

Các kinh nói về phép tu Tịnh Ðộ rất nhiều, có nghìn vạn phép khác nhau, như là những phép ngồi quán tưởng Phật, phép ngồi quán tượng và các phép: lễ bái, cúng dường, ngũ hối, lục niệm v.v… Trong các phép ấy, tu được một phép nào cũng được sinh về Tịnh Ðộ.

Duy chỉ có một phép Trì Danh là phép niệm Phật này là thu được hết mọi hạng người, ai tu cũng được. Và ai bắt tay vào tu cũng thấy rất dễ. Cho nên không ai hỏi mà đức Thích Ca tự nói ra kinh này, Ngài đặc biệt hướng vào ông Xá Lợi Phất, là người đại trí tuệ, mà nói cho nghe. Ðủ biết phép này là một phép Liễu Nghĩa Vô Thượng (3) rút ra ở trong các phương tiện liễu nghĩa đệ nhất, và là một phép tối cao viên đốn (4) rút ra ở trong các phép Viên Ðốn. Cho nên nói rằng: “Ngọc minh châu bỏ vào nước đục, nước đục tất phải trong. Danh hiệu Phật gieo vào cái tâm rối loạn, tâm rối loạn tất phải thành Phật”.

Cái tâm Tín và Nguyện với cái việc Trì Danh ở kinh này là cái mầm nhân chân thực của đạo Nhất Thừa (5), tức là bốn cõi Tịnh Ðộ. Gây được nhân thời quả tất phải theo nhân mà mọc ra. Cho nên dùng cái tâm Tín và Nguyện với cái việc Trì Danh làm tôn chỉ chính đáng của bộ kinh này.

Còn tướng trạng của bốn cõi Tịnh Ðộ, ở bộ Diệu Tông Sao và kinh Phạm Võng Huyền Nghĩa đã nói rất tường tận, ở đây không thể nói hết được. Xuống dưới này, ở chỗ thích nghĩa Y Báo và Chính Báo, tôi sẽ nói lược thêm.

(3) Liễu nghĩa vô thượng là nghĩa rốt ráo cao hơn hết.
(4) Tối cực viên đốn là đầy đủ mau chóng cực điểm.
(5) Nhất Thừa tức là Phật Thừa, là phép tu duy nhất thành Phật, khác với những phép tu Nhị Thừa, Tam Thừa, Ðại Thừa và Tiểu Thừa.
Học Giải:

"Bây giờ nói đến Hành là người chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn, tức là người niệm danh hiệu Phật để cho tâm mình đậu vào một chỗ, chẳng bị rối loạn."

Đã có Tín và Nguyện vững chắc rỏ ràng rồi thì phải có sự thực hành, có hạnh tu tập, tức là nói đến việc "Chấp Trì Danh Hiệu, Nhất Tâm Bất Loạn". Đây là hai câu theo Kinh A Di Đà, Phật dạy phải Chấp Trì danh hiệu của Phật A Di Đà đến Nhất Tâm Bất Loạn.

Có thể tạm hiểu:

Chấp nghĩ là cầm nắm
Trì tức là giữ lấy không buông

Danh Hiệu là cái danh xưng hay cái tên của đức Phật A Di Đà, ngài đã tu vô lượng kiếp mới được cái danh xưng là Phật A Di Đà, cho nên danh hiệu Phật chính là công đức của Phật.

Chấp Trì Danh Hiệu nghĩa là nắm giữ lấy câu Phật Hiệu Không Buông. Cũng tức là người Niệm Danh Hiệu Phật để tâm mình duyên theo một nơi một chỗ đến khi không còn bị rối loạn nữa.

Vì hằng ngày ta có rất nhiều ý niệm khởi lên, nếu có thể chuyên vào giữ lấy câu Phật Hiệu thì chỉ có một niệm đó chuyên nhứt, còn bao nhiêu nhiệm khác giảm bớt và dứt trừ cho đến khi nào chỉ thuần còn một niệm không còn bị rối loạn nữa.

Niệm đến khi nào thân tâm thế giới không còn vướn bận nữa thì mới gọi là không loạn. Niệm đến khi Lục Trần không còn quyết rũ mình được nữa luôn luôn thì tương đương với quả Tu Đà Hoàn. Niệm Đến khi Kiến Tư Hoặc đều phá sạch thì tương đương với quả A La Hán. Niệm Đến Khi những Trần Sa Hoặc phá sạch thì tương đương Duyên Giác hay Bích Chi Phật. Niệm đến khi phát từng phần vô minh chứng từng phần pháp thân thì tương đương với những địa vị Bồ Tát. Phá sạch vô minh trọn vẹn thì gọi là Phật.

Niệm Phật từ cạn đến sâu, từ thô đến vi tế, từ phàm đến thánh.


"Niệm danh hiệu Phật là niệm công đức Phật (đã tin sâu như thế thì cứ tin, đừng suy nghĩ nữa mà hỏng việc). Công đức của Phật chẳng khá nghĩ, chẳng khá bàn cho nên danh hiệu của Phật cũng chẳng khá nghĩ, chẳng khá bàn (vì trí tuệ mình thấp kém quá, nghĩ bàn sao được mà nghĩ bàn!) Danh hiệu của Phật và công đức của Phật đều chẳng khá nghĩ bàn, cho nên người niệm danh hiệu Phật mà tâm tán loạn cũng đã tạo được hạt giống thành Phật mai sau và người niệm Phật nhất tâm bất loạn sẽ được lên ngay ngôi Bồ Tát Bất Thoái."


Như đã nói ở trên Phật A Di Đà trải bao kiếp tu hành nên mới được thành Phật và được cái danh hiệu là A Di Đà. Chư Phật mười phương đều như thế. Cho nên phải hiểu cái danh hiệu của Phật thật là khó có được vậy, vì là công đức Phật. Niệm danh hiệu Phật là niệm công đức Phật.

Một khi đã tin sâu như thế thì cứ tin, không cần suy nghĩ lung tung mà mất niềm tin để học cả việc trì danh niệm Phật cầu sanh Cực Lạc.

Công đức Phật tu hành trong vô lượng kiếp thật quá to lớn, vì vậy cái danh hiệu mà Phật đã tu chứng có được quả vị như thế cũng không thể nghĩ bàn được.

Công đức và danh hiệu Phật đã không thể nghĩ bàn thì người niệm danh hiệu Phật dẫu tâm có tán loạn cũng đã tạo được hạt giống thành Phật mai sau, huống chi là người niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, lên ngay được ngôi Bất Thoái chuyển Bồ Tát.


"Các kinh nói về phép tu Tịnh Ðộ rất nhiều, có nghìn vạn phép khác nhau, như là những phép ngồi quán tưởng Phật, phép ngồi quán tượng và các phép: lễ bái, cúng dường, ngũ hối, lục niệm v.v… Trong các phép ấy, tu được một phép nào cũng được sinh về Tịnh Ðộ."


Có rất nhiều Kinh nói về nhiều phương pháp tu Tịnh Độ, như là ngồi quán tưởng Phật, quán tượng hình Phật, lễ bái, cúng dường v.v... ai tu phép nào trong những pháp ấy cũng được sanh về Tịnh Độ.

Thành ra "Hạnh" có rất nhiều. Tu Thiền cũng được vãng sanh Tịnh Độ nếu chịu đem công đức tu hành của mình hồi hướng trang nghiêm Tịnh Độ. Cho đến tu các pháp Trì giới, quán vô thường, khổ, vô ngã, quán nhân duyên tánh không v.v... cho đến quét nhà, rửa chén v.v... mỗi mỗi đều có thể hồi hướng trang nghiêm tịnh độ, cũng được vãng sanh tịnh độ.


"Duy chỉ có một phép Trì Danh là phép niệm Phật này là thu được hết mọi hạng người, ai tu cũng được. Và ai bắt tay vào tu cũng thấy rất dễ. Cho nên không ai hỏi mà đức Thích Ca tự nói ra kinh này, Ngài đặc biệt hướng vào ông Xá Lợi Phất, là người đại trí tuệ, mà nói cho nghe. Ðủ biết phép này là một phép Liễu Nghĩa Vô Thượng rút ra ở trong các phương tiện liễu nghĩa đệ nhất, và là một phép tối cao viên đốn rút ra ở trong các phép Viên Ðốn. Cho nên nói rằng: “Ngọc minh châu bỏ vào nước đục, nước đục tất phải trong. Danh hiệu Phật gieo vào cái tâm rối loạn, tâm rối loạn tất phải thành Phật”."

Nhưng trong nhiều cái Hạnh, không gì bằng hạnh Trì Danh Niệm Phật, tức là phép xưng niệm Nam Mô A Mi Đà Phật. Vì sao thế? bởi vì duy chỉ có pháp nầy là thu được hết mọi hạng người, ai cũng có thể tu được, ai cũng có thể niệm được, người biết chữ, không biết chữ, nam, nữ, già, trẻ, thậm chí cho đến loài vật cũng niệm được. Ai bắt tay vào tu niệm cũng thấy rất dễ cả.

Vì vậy cho nên Kinh A Di Đà naayf là Kinh mà không ai thưa hỏi mà đức Thích Ca tự nói. Ngài đặc biệt hướng vào ông Xá Lợi Phất, người đại trí tuệ mà nói cho nghe. Cho nên đủ biết pháp nầy là một pháp Liễu Nghĩa Vô Thượng (pháp liễu nghĩa không gì hơn được) được rút ra ở trong các pháp phương tiện liễu nghĩa đệ nhứt. Chẳng những là pháp Liễu Nghĩa trong Liễu Nghĩa, mà còn là pháp tối cao Viên Đốn trong các pháp Viên Đốn.

Vì vậy nên nói rằng “Ngọc minh châu bỏ vào nước đục, nước đục tất phải trong. Danh hiệu Phật gieo vào cái tâm rối loạn, tâm rối loạn tất phải thành Phật”.


"Cái tâm Tín và Nguyện với cái việc Trì Danh ở kinh này là cái mầm nhân chân thực của đạo Nhất Thừa (5), tức là bốn cõi Tịnh Ðộ. Gây được nhân thời quả tất phải theo nhân mà mọc ra. Cho nên dùng cái tâm Tín và Nguyện với cái việc Trì Danh làm tôn chỉ chính đáng của bộ kinh này."

Cái Tâm Tín và Nguyện cộng với cái việc Trì Danh ở Kinh A Di Đà nầy là cái mầm hay cái "Nhân" chân thực của đạo Nhất Thừa (Phật Thừa), tức là bốn cõi Tịnh Độ. Nếu tạo được cái Nhân thì cái Quả tất phải theo cái Nhân mà mọc ra. Cho nên dùng cái tâm Tín và Nguyện, với việc Trì Danh làm tôn chỉ thì thật là chính đáng của bộ Kinh nầy.


"Còn tướng trạng của bốn cõi Tịnh Ðộ, ở bộ Diệu Tông Sao và kinh Phạm Võng Huyền Nghĩa đã nói rất tường tận, ở đây không thể nói hết được. Xuống dưới này, ở chỗ thích nghĩa Y Báo và Chính Báo, tôi sẽ nói lược thêm."

Tướng trạng của bốn cõi Tịnh Độ, thì các sách Diệu Tông, Kinh Phạm Võng Huyễn Nghĩa đã nói rỏ rồi, ở đây không thể nói hết được. Phần dưới tức là khi vào phần Yếu Giải Kinh, ở chỗ Ý Báo và Chánh Báo sẽ nói rỏ thêm.

Bốn cõi tịnh độ là:

1. Phàm Thánh Đồng Cư (phần đông chúng ta tu là được vãng sanh về cõi nầy chỗ mà chư Thánh, ai đã tu chứng thánh quả và nhân dân chúng mình, ai chưa chứng thánh quả ở chung với nhau)

2. Phương Tiện Hữu Dư (nơi mà các vị Thanh Văn Duyên Giác, đã chứng được ở cõi khác, phát tâm đại thừa hồi hướng trang nghiêm Tịnh Độ thì được sanh về nơi nầy)

3. Thật Báo Trang Nghiêm (nơi mà chư vị Pháp Thân Đại Sĩ Bồ Tát được sanh về, từ các cõi Phật khác)

4. Thường Tịch Quang (nơi mà đức Phật A Di Đà ở, cũng như chư Phật khác)

Nói bốn cõi mà thật ra bốn cõi không có cách nhau, ở ngay phàm thánh đồng cư độ cũng đầy đủ các cõi khác.


"Tri Kiến Lập Tri Tức Vô Minh Bổn
Tri Kiến Vô Kiến Tư Tức Niết Bàn"

- Kinh Thủ Lăng Nghiêm
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.31 khách