Cảm ơn các huynh đã nhiệt tình chỉ dạy. Aut có tìm được phần dịch nghĩa kinh kim cang của tác giả Lê Anh Chí. Khá ấn tượng với cách diễn giải này, tuy nhiên nếu nói đại ý Kinh Kim cang = không trụ vào đâu cả thì lúc đó cái tâm ta nó ở đâu ạ???
lại thêm " KINH Kim Cang là kinh Thiền Tông " nếu nói vậy thì đúng với nghĩa tâm không trụ vào đâu của Thiền Tông nhưng lại không đúng lắm với các quán trong mật tông - đó là quán sắc tướng chư Phật ....
Đã nói " không trụ vào đâu " (trong thiền tông ) nhưng lại " quán sắc tướng của Phật" trong mật tông. Vậy nên hiểu thế nào cho đúng ạ???
Đại ý Kinh Kim Cang = Không trụ vào đâu cả !
Lê Anh Chí
___________________________________________
Dàn Bài :
I ) KINH Kim Cang là kinh Thiền Tông
II ) Không phải nghĩa ba câu
III ) Không phải phá chấp
IV ) Không phải xa lìa các tướng
V ) Không phải như như bất động
VI ) Không phải trụ vào không, hư không
VII ) Không trụ vào sắc, thanh , hương , vị , xúc, pháp
VIII ) Không trụ vào đâu cả !
___________________________________________
Quán tâm . . . thà vất Ỷ Thiên,
Vung lòe Tuệ Kiếm, một thiền thoát ly !
Đành tâm . . . vất cán Long Tuyền,
Vung lòe Tuệ Kiếm lái thuyền thoát ly !
Luyện Kim Cang, theo vì Ngũ Tổ,
Tới Thiếu Lâm, bàn Ngộ Đạt Ma !
Hùng Tâm . . . rực rệt ráng pha,
Tánh Ta tĩnh sáng như là nguyệt in !
(Trượng Phu Ngâm, Lê Anh Chí)
Nhị Thừa trụ quán , ta không trụ,
Bồ Tát tế độ, ta tế tâm
( Thiền Tông , Lê Anh Chí)
Phật thuyết KINH Kim Cang , do ông Tu Bồ Đề, đại diện những người trong hội , mà thưa hỏi Phật rằng :
_Làm sao an trụ tâm ? Làm sao hàng phục tâm ?
I ) KINH Kim Cang là kinh Thiền Tông
KINH Kim Cang là kinh Thiền Tông từ đời Ngũ Tổ, ngài dạy rằng thọ trì KINH Kim Cang có thể Kiến Tánh.
Luyện Kinh Kim Cang là một trong 3 phương thức Thiền Tông .
II ) Không phải nghĩa ba câu
Nghĩa ba câu là :
_là X
_chẳng phải là X
_tạm gọi là X
Trong Kinh Kim Cang, lý luận này được lập đi lập lại nhiều lần. Nhưng nếu bảo rằng lý luận này là đại ý Kinh Kim Cang thì lầm to, thì đưa đến hí luận !
Ngay những kẻ chập chững vào Thiền Tông cũng biết nghĩa ba câu : trong ‘Tiểu Lý Phi Đao’ ( truyện kiếm hiệp) của Cổ Long, hai nhân vật chính là Lý Tầm Hoan và Tiểu Phi cũng dùng ‘nghĩa ba câu’ dài dài, ý chừng Cổ Long tiên sinh cũng tự phụ là hiểu Thiền, biết thiền !
Sự thực, nghĩa ba câu chẳng phải là đại ý Kinh Kim Cang ; vì nếu đó là đại ý Kinh Kim Cang , thì Phật đã nói trắng ra rồi, cần gì phải vòng vo Tam Quốc cả cuốn Kinh !
Sự thực thì : chân lý không thể định danh được, vì ngôn ngữ không đủ lời để diễn tả chân lý ; do đó :
_định danh là X
_chẳng phải là X : phủ nhận X liền sau đó, vì X không đủ để diễn tả chân lý
_tạm gọi là X : lại khẳng định X, vì đại khái chỉ có X là tạm diễn tả được chân lý
Nghĩa ba câu là vậy. Nhưng hiểu như vậy, nghĩa ba câu vẫn chẳng phải là đại ý Kinh Kim Cang , vì không trả lời được câu hỏi :
_Làm sao an trụ tâm ? Làm sao hàng phục tâm ?
III ) Không phải phá chấp
Nhiều người nói rằng KINH Kim Cang là để phá chấp, nhất là để phá tâm chấp thật của người đời.
Sự thực thì ngược lại : Kinh Kim Cang là để diễn tả chân lý, để đưa đến chân lý ( đưa đến sự Kiến Tánh). Chẳng qua, ngôn ngữ không đủ lời để diễn tả chân lý ; do đó :
_định danh là X
_chẳng phải là X : phủ nhận X liền sau đó, vì X không đủ để diễn tả chân lý
. . .
IV ) Không phải xa lìa các tướng
Đại ý của Kinh Kim Cang không phải là xa lìa các tướng !
Trong Kinh Kim Cang có câu "xa lìa các tướng là chư Phật". Rất nhiều người không để ý rằng câu này không phải Phật nói mà là của ông Tu Bồ Đề ! ông Tu Bồ Đề nói thì có thể đúng có thể sai , vì ông không có Chánh Biến Tri của Phật !
Câu này sự thực là sai :
Phật thì xa lìa các tướng.
Còn xa lìa các tướng chưa đủ là chư Phật :
1) Những ai từng đọc kinh điển Đại thừa đều biết rằng xa lìa các tướng là giai đoạn đầu ; cần phải xa lìa cái xa lìa đó nữa mới được !
Bởi thế, mới xa lìa các tướng sao có thể gọi là chư Phật ???
2) Vô tướng với ‘xa lìa các tướng’ cái nào hơn ?
_Dĩ nhiên là vô tướng !
Vậy mà, trong Kinh Đại Bát Niết Bàn :
_đắc Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
_rồi tu : vô tướng, vô cầu, vô nguyện
thì đắc A La Hán !
Do đó, ‘vô tướng’ chỉ mới là điều kiện cần để đắc A La Hán mà thôi, chẳng phải là điều kiện đủ.
Cho nên, ‘xa lìa các tướng’ chưa đủ thành A La Hán
Huống chi là chư Phật !
3) Đoạn 28, 29
‘xa lìa các tướng’ ở trong đoạn 28, 29 ( phân loại theo bản dịch của Thích Thiện Hoa)
Trong hai đoạn này, ông Tu Bồ Đề tán thán công đức của Kinh Kim Cang, cuối cùng ông nói thêm : ‘xa lìa các tướng’.
Đại ý của hai đoạn này : ông Tu Bồ Đề tán thán công đức của Kinh Kim Cang, ‘xa lìa các tướng’ chỉ là nói phụ thêm vào !
Đoạn 30, Khi Phật nói "Đúng vậy ! " , đó chỉ là nói cái đúng của đại ý của đoạn 28,29, tức sự tán thán công đức của Kinh Kim Cang ! Điều này rõ là vậy ; vì sau khi nói ‘đúng !‘ , Phật nói ‘công đức hi hữu của Kinh Kim Cang’
Tóm lại :
câu "xa lìa các tướng là chư Phật" là sai ! Do đó câu này chẳng thể là đại ý của Kinh Kim Cang !
V ) Không phải như như bất động
Khi trụ được tâm, hàng phục được tâm, rồi thì như như bất động (NNBD) !
NNBD là hậu quả của : sự trụ được tâm, hàng phục được tâm,
Do đó, NNBD chẳng phải là câu trả lời cho :
_Làm sao an trụ tâm ? Làm sao hàng phục tâm ?
Do đó, NNBD chẳng phải là, chẳng thể là đại ý của Kinh Kim Cang !
Vả lại, Phật thì NNBD
Còn NNBD chưa đủ để làm Phật !
VI ) Không phải trụ vào không, hư không
Một số nhà chú giải, dịch Ưng Vô Sở Trụ là ‘trụ vào không, hư không’
‘trụ vào không, hư không’ thì còn có chỗ trụ ( đó là : không, hư không)
Ưng Vô Sở Trụ là không có chỗ trụ .
Do đó, ‘trụ vào không, hư không’ là dịch sai, chẳng thể là đại ý của Kinh Kim Cang !
Sau đây, ta thử xem xem ‘trụ vào không, hư không’ có phải là chân lý không ; đứng về mặt Thiền Tông
1) Trụ vào Hư Không thì vướng Hư Không.
2) Trụ vào Không thì vướng Không.
Và như thế, còn cách xa Phật Tánh muôn trùng.
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn , Lục Tổ đã dạy :
Không thấy pháp còn chấp thấy "Không" !
Cũng như mây án mặt trời đông !
Xem phần :
_Một trường hợp " Vướng Không" trong Kinh Pháp Bảo Đàn
của bài viết :
_Tâm Không chưa phải là chân lý
Nhắc lại và nói thêm :
a) Theo Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận, nếu đắc được 4 Không sau đây :
Thân Không
Tâm Không
Tánh Không
Pháp Không
thì đắc A La Hán.
b) Tâm Không Tánh Không là điều kiện cần thiết để đắc A La Hán.
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (dịch giả Thích Trí Tịnh), Phật nói :
Thinh Văn, Duyên Giác vì định lực nhiều nên không thấy Phật Tánh !
Tức là :
A La Hán không thấy Phật Tánh !
Phật Tánh là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, là Đại Niết Bàn, là Niết Bàn của Phật.
c) Tâm Không là điều kiện cần để đắc A La Hán.
Phật Tánh là Đại Niết Bàn, là điều kiện cần ( và đủ ) để thành Phật.
Sự khác biệt, hơn kém giữa Phật Tánh và Tâm Không thật rõ ràng lắm vậy.
‘Trụ vào không, hư không’ còn cách xa Phật Tánh muôn trùng.
VII ) Không trụ vào sắc, thanh , hương , vị , xúc, pháp
1) KINH Kim Cang :
a) Bản phiên âm chữ Hán :
"Thị cố, Tu-Bồ-Đề! Chư Bồ Tát Ma Ha Tát, ưng như thị sanh thanh tịnh Tâm :
Bất ưng trụ sắc sanh tâm
Bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp, sanh tâm
Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. "
b) Dịch :
"Này, ông Tu-Bồ-Đề! Vì thế bậc Đại Bồ Tát, phải nên sanh tâm thanh-tịnh như vầy :
Không nên trụ vào sắc mà sanh tâm.
Không nên trụ vào thanh, hương , vị , xúc, pháp mà sanh tâm.
Không trụ vào đâu cả mà sanh tâm ! "
2) Không trụ vào sắc, thanh , hương , vị , xúc, pháp
"Không trụ vào sắc, thanh , hương , vị , xúc, pháp" có phải là đại ý của Kinh Kim Cang ?
a) Đứng về phương diện lý, ý nghĩa, thì ta có thể xem đây là đại ý của Kinh Kim Cang !
Trở lại câu hỏi ở đầu kinh :
__Làm sao an trụ tâm ? Làm sao hàng phục tâm ?
Trả lời :
_ Không trụ vào sắc, thanh , hương , vị , xúc, pháp !
b) Đứng về phương diện Thiền Tông, đứng về phương diện kỹ thuật Kiến Tánh thì câu này chưa đủ !
‘Không trụ vào sắc, thanh , hương , vị , xúc, pháp‘ chẳng thể đưa đến sự Kiến Tánh vì :
_có đến 6 giai đoạn
_còn đối tượng để ‘Không trụ’ ; đó là còn Sắc để Không Trụ, còn Thanh để Không Trụ . . . còn Pháp để Không Trụ !
do đó, tâm ta không có đà, để
_Nhảy một cái vào thẳng đất Như Lai !
Vì KINH Kim Cang là kinh Thiền Tông , đứng về phương diện Thiền Tông, đứng về phương diện kỹ thuật Kiến Tánh thì ‘Không trụ vào sắc, thanh , hương , vị , xúc, pháp‘ chưa đủ làm đại ý của Kinh Kim Cang !
VIII ) Không trụ vào đâu cả !
1) KINH Kim Cang :
Không trụ vào đâu cả mà sanh tâm.
2) "Không trụ vào đâu cả !" là đại ý của Kinh Kim Cang !
Trở lại câu hỏi ở đầu kinh :
__Làm sao an trụ tâm ? Làm sao hàng phục tâm ?
Phật trả lời :
_ Không trụ vào đâu cả !
Câu trả lời này như sét đánh ngang trời !
là đại ý của Kinh Kim Cang !
"Không trụ vào đâu cả !" là yếu chỉ Thiền Tông ! Như mọi người đều biết, pháp tu thiền của Phật Pháp Cơ Bản là trụ tâm, định tâm.
Vì trong Kinh Đại Bát Niết Bàn , Phật nói :
Thinh Văn, Duyên Giác vì định lực nhiều nên không thấy Phật Tánh !
nên câu "Không trụ vào đâu cả !" quả nói lên được sự đặc thù của Thiền Thiền Tông !
Ngoài ra, "Không trụ vào đâu cả !" còn đưa đến sự Kiến Tánh
Xem bài viết : "Không trụ vào đâu cả !"
Nhắc lại :
Khi tâm ta làm được chuyện :
_ Không trụ vào đâu cả !
thì tâm ta sẽ :
_Nhảy một cái vào thẳng đất Như Lai !
tức là :
ta sẽ Kiến Tánh
tức là :
_chứng ngộ Phật Tánh ; tức là : chứng ngộ Thường , Lạc , Ngã, Tịnh. Tức là đắc đạo, đối với Thiền Tông.
Vì
_ Không trụ vào đâu cả !
thì rốt ráo không có chỗ trụ, rốt ráo không có đối tượng. Do đó, ta có thể chuyển tâm một cái rầm, làm một cái rột : tâm ta phiêu phiêu vượt rào Vô Thủy, nhảy một cái vào thẳng đất Như Lai . . .
*
* Lê Anh Chí *.