* Về danh tự :
- Toàn Giác Phật : Ứng cúng, Chánh biến tri, Lưỡng túc tôn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế tôn.
- Độc Giác Phật : là Bậc Giác Ngộ trong thời kỳ không có Chánh Pháp.
- A La Hán : Là Bậc hữu duyên Giác Ngộ trong thời kỳ có Chánh Pháp.
Về danh tự, về cái dụng thì chúng ta thấy 10 hiệu, 10 lực… chỉ là những tính từ miêu tả một Đức Phật toàn vẹn, hoàn hảo. Đó là 1 hình mẫu tốt đẹp, hoàn toàn; là tấm gương cho 3 cõi, 4 loài noi theo mà tu tập. Về khía cạnh này thì Phật Toàn Giác là 1 viên Kim Cương, viên ngọc quý cho Trời, Người quy ngưỡng.
* Về Đạo Quả :
Về khía cạnh “tâm chứng” và sự “Giác Ngộ” thì đạo quả của họ là như nhau, là rốt ráo tận cùng. Chúng ta dùng thuật ngữ “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác” để tham khảo. Về mặt từ ngữ thì :
- Vô Thượng nghĩa là
Không Trên (chỗ tận cùng, tuyệt đối).
- Chánh Đắng nghĩa là bình đẳng tuyệt đối.
- Chánh Giác nghĩa là rõ các Pháp đúng như thật.
Thuật ngữ này có xuất xứ từ Kinh Chuyển Pháp Luân :
Này các Tỳ kheo, cho đến khi nào tri kiến như thật về bốn Thánh đế với ba sắc thái, mười hai tướng như trên không hoàn toàn rõ ràng nơi Ta, thì khi ấy, Ta không tự nhận chứng đạt Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trong thế giới với chư Thiên, Ma vương, Phạm Thiên, quần chúng Sa môn, Bà La Môn, Trời và Người.
Này các Tỳ kheo, khi nào mà tri kiến như thật về bốn Thánh đế với ba sắc thái, mười hai tướng hoàn toàn rõ ràng nơi Ta, thì khi ấy, Ta mới tự nhận đã chứng đạt Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trong thế giới với chư Thiên, Ma Vương, Phạm Thiên, quần chúng Sa môn, Bà La Môn, Trời và Người. Bấy giờ, tri kiến khởi lên nơi Ta: "Bất động là tâm giải thoát của Ta; đây là lần sinh cuối cùng, Ta không tái sinh nữa".
Như vậy, Bậc trí nào có thể hành trì như Phật và tu chứng được như Phật thì đều có thể tuyên bố rằng :
"
khi nào mà tri kiến như thật về bốn Thánh đế với ba sắc thái, mười hai tướng hoàn toàn rõ ràng nơi Ta, thì khi ấy, Ta mới tự nhận đã chứng đạt Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trong thế giới với chư Thiên, Ma Vương, Phạm Thiên, quần chúng Sa môn, Bà La Môn, Trời và Người. Bấy giờ, tri kiến khởi lên nơi Ta: "Bất động là tâm giải thoát của Ta; đây là lần sinh cuối cùng, Ta không tái sinh nữa".
Vị ấy xứng đáng được gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đúng như Pháp. (tên topic nên đổi thành ‘A La Hán bậc Vô Thượng’ (không trên) sẽ khế hợp hơn
)
* Về nhân duyên :
Phật Toàn Giác : có khả năng + có đầy đủ nhân duyên hóa độ chúng sanh (vì trong quá khứ đã gieo duyên & cứu độ quá nhiều)
Độc Giác Phật : có khả năng + không có duyên để tiếp độ chúng sanh.
A La Hán : có khả năng + có một phần nhân duyên để tiếp độ chúng sanh.
Như vậy, danh tự “Toàn Giác, Độc Giác, Thanh Văn” là miều tả cho bối cảnh, diễn biến & nhân duyên các vị ấy trên con đường Thành Đạo. Giữa 3 vị ấy với nhau thì có sự sai khác như vậy nhưng 3 vị ấy đối với thế gian đều là bậc Thầy Vô Thượng.
* Về công đức :
“Như Lai là vị
đầu tiên đã khởi xướng con đường, là người tìm ra con đường, là người tuyên bố về con đường giải thoát. Ngài là vị đã biết rõ đạo, khám phá ra đạo và tuyên thuyết về đạo giải thoát. Đệ tử của Ngài cũng đi theo con đường ấy và sau đó cũng đắc đạo. Cả hai đều cùng đi một con đường và cùng đắc đạo giống nhau.”
Đây là chỗ sai khác duy nhất của 1 vị Phật Toàn Giác so với các vị khác :
vị đầu tiên tìm ra con đường.
Chỉ có chỗ này là sự sai khác giữa công đức của các vị Phật, vì Nhân đã khác nên Quả cũng khác. Khác như thế nào ?
Ví như : Có 1 ông chủ có số vốn ban đầu 100 đồng. Ông mở ra 1 ngân hàng cho vay có hiệu suất 10%/năm. Và tuần tự như vậy cho những nắm kế tiếp theo nguyên tắc lãi kép.
Giả sử ông chủ năm đầu tiên là đời F1. (dụ cho Toàn Giác Phật)
Năm thứ 2 là đời F2. (dụ cho Độc Giác Phật)
Năm thứ 3 là đời F3 (dụ cho A La Hán)
……………………………….
Cứ như thế cho đến 2500 năm.
Bạn nghĩ như thế nào ? Sự sai biệt có lớn chăng ?
Hãy mở Excel lên tính thử, sự sai khác còn lớn hơn cả Kinh Tứ Thập Nhi Chương 11
"Cho một trăm người ác ăn không bằng cho một người thiện ăn.
Cho một ngàn người thiện ăn không bằng cho một người thọ ngũ giới ăn.
Cho một vạn người thọ ngũ giới ăn không bằng cho một vị Tu Ðà Hoàn ăn.
Cho một trăm vạn (1.000.000) vị Tu Ðà Hoàn ăn không bằng cho một vị Tư Ðà Hàm ăn.
Cho một ngàn vạn (10.000.000) vị Tư Ðà Hàm ăn không bằng cho một vị A Na Hàm ăn.
Cho một ức (100.000.000)vị A Na Hàm ăn không bằng cho một vị A La Hán ăn.
Cho mười ức (1 tỷ) vị A La Hán ăn không bằng cho một vị Bích Chi Phật ăn.
Cho một trăm ức (10 tỷ) vị Bích Chi Phật ăn không bằng cho một vị Phật ba đời ăn (Tam thế Phật).
Cho một ngàn ức (100 tỷ) vị Phật ba đời ăn không bằng cho một vị Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng ăn".
Cho nên kể từ khi Thế Tốn ra đời, bất kể pháp lành nào đưa đến giải thoát đều có chút vốn (công đức
) của Ngài. Về khía cạnh này, thì không 1 chúng sanh nào trong Tam Giới có thể giàu bằng Phật, từ khi thế giới được dựng lập cho đến khi thế giới bị hoại diệt hoàn toàn. Chỗ này tạo thành danh hiệu Lưỡng Túc Tôn (Phước, Đức vô lượng) của Phật.
Như vậy, theo đạo lộ này thì tất cả các thành tựu, thành quả của hàng hậu học đều có công ơn của Bậc khai sáng, Bậc mở đường. Ấy là “ý nghĩa” về công đức vô lượng của vị Phật Toàn Giác. Cho nên hôm nay, một pho tượng Phật bằng đá cũng là Phước điền vô thượng cho những ai muốn tầm cầu giải thoát mà đảnh lễ dưới chân Ngài. Đức Phật không muốn độc chiếm vị trí này nhưng kỳ thật nhân duyên sự việc là như vậy.
Lại nói, giữa các Đấng Như Lai thì sao ? Đức Phật Thích Ca giảng về Chư Phật quá khứ như sau :
7. - Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vipassĩ bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, tuổi thọ loài người là tám vạn năm.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Sikhĩ, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, tuổi thọ loài người là bảy vạn năm.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vessabhũ, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, tuổi thọ loài người là sáu vạn năm.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, tuổi thọ loài người là bốn vạn năm.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Konãgamana, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, tuổi thọ loài người là ba vạn năm.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, tuổi thọ của loài người là hai vạn năm.
Này các Tỷ-kheo, nay tuổi thọ của Ta không bao nhiêu, ít oi, tuổi thọ loài người khoảng một trăm năm hay hơn một chút.
10. Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vipassĩ, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội sáu mươi tám triệu Tỷ-kheo, một Tăng hội mười vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội tám vạn Tỷ-kheo. Tất cả đều là bậc Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Sikhĩ, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội mười vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội tám vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội bảy vạn Tỷ-kheo. Tất cả đều là bậc Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Vessabhũ, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có ba Tăng hội: một Tăng hội tám vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội bảy vạn Tỷ-kheo, một Tăng hội sáu vạn Tỷ-kheo. Tất cả đều là bậc Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có một Tăng hội bốn vạn Tỷ-kheo. Tất cả đều là bậc Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Konãgamana, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có một Tăng hội ba vạn Tỷ-kheo. Tất cả đều là bậc Lậu tận.
Này các Tỷ-kheo, trong thời Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác có một Tăng hội hai vạn Tỷ-kheo. Tất cả đều là bậc A-la-hán .
Này các Tỷ kheo, nay trong thời của Ta có một Tăng hội một ngàn hai trăm năm mươi Tỷ-kheo, tất cả đều là bậc Lậu tận.
Kinh Đại Bổn - Trường Bộ Kinh tập I
Chúng ta Thấy :
Thời Thế Tôn Vipassĩ : tuổi thọ 80,000 (8 vạn nặm) ~ 68,180,000 (68 triệu 18 vạn) Tỷ-kheo
Thời Thế Tôn Sikhĩ : tuổi thọ 70,000 (7 vạn) ~ 250,000 (25 vạn Tỷ-kheo)
Thời Thế Tôn Vessabhũ : tuổi thọ 60,000 (6 vạn năm) ~ 210,000 (21 vạn Tỷ-kheo)
Thời Thế Tôn Kakusandha : tuổi thọ 40,000 (4 vạn năm) ~ 40,000 (4 vạn Tỷ-kheo)
Thời Thế Tôn Konãgamana : tuổi thọ 30,000 (3 vạn năm) ~ 30,000 ( 2 vạn Tỷ-kheo)
Thời Thế Tôn Kassapa : tuổi thọ 20,000 năm ~ 20,000 (2 vạn) Tỷ-kheo.
Thời Thế Tôn Gautama : tuổi thọ 100 năm ~ 1,250 Tỷ-kheo.
Giữa các Đấng Như Lai, đều là Bậc mở đường, Bậc khai sáng, đều đầy đủ: 10 Hiệu, 10 lực… cũng có sự sai khác do nhân duyên, thời kỳ, tuổi thọ thế giới…
Nếu xét về tỷ lệ thì Thế Tôn Vipassĩ là hiệu năng nhất (1:852), các Thế Tôn Kakusandha, Konãgamana, Kassapa thì đều nhau và thấp nhất (1:1). Nhưng không thể vì thế mà nói Thế Tôn Vipassĩ Công Đức và Trí tuệ hơn các Bậc Thế Tôn khác. Ấy là do nhân duyên và diễn biến sự kiện mỗi thời khác nhau. Tất cả họ đều là Phật Toàn Giác và
duy nhất trong mỗi thời, Công Đức & Trí Huệ đều vô lượng.
Đến đời kế tiếp, những bậc A La Hán kế thừa và duy trì chánh Pháp cũng là phước điền vô hạn ở thế gian. Nhờ có họ mà Chánh Pháp được lưu truyền, lan tỏa & soi sáng; hình thành ngôi Tam bảo : Phật Pháp Tăng để chúng sinh quy ngưỡng.
Trong danh tự Phật Pháp Tăng không có từ “Độc Giác”, vì sao vậy ? Trong khi Độc Giác Phật cũng xứng đáng là Thầy của Trời, Người. Như đã nói, thời kỳ Chánh Pháp là thời kỳ không có duyên với vị Độc Giác Phật. Cho nên, thời kỳ Chánh Pháp chỉ dùng danh tự Phật Pháp Tăng để biểu trưng cho Chánh Pháp. Như vậy là quá đủ, Ngôi Tam Bảo như kiềng 3 chân, vững chải để tiếp độ muôn loài. Chỉ sợ khuyết mất chân nào thì kiềng 3 chân sẽ sụp đổ.
Tỷ như : - Không có Phật ra đời thì thế giới hoàn toàn trầm luân, ngay cả danh tự Phật Pháp cũng không có.
- Hoặc giả cái chân Pháp gãy mất thì 2 chân kia chỉ là những danh tự rỗng không, không thể đứng được.
- Hoặc là cái chân “Tăng” bị khuyết lỡ thì 2 chân kia cũng siêu vẹo, gãy đổ không bao lâu.
Xét theo quá trình dựng lập thì ngôi Tam Bảo hình thành từ Phật => Pháp => Tăng. Nhưng theo lẻ Vô Thường thì thời kỳ hoại diệt sẽ theo tiến trình ngược lại là Tăng => Pháp => Phật. Điều này thực tế đang hiển bày. Tất cả đang trôi trên dòng chảy Vô Thường. Đời nay, thiếu những Bậc Thánh ở thế gian, cái chân “Tăng” đang thật là siêu vẹo. Chánh Pháp đang đi qua & hoàn thành sứ mạng của mình.
Vì vậy mà hàng hậu học chúng ta ngày nay việc cần làm phải đắp xây, dựng lại cái chân "Tăng" đang siêu vẹo = chính sự cần cầu, sự tu tập của bản thân, trở thành Phước điền Vô thượng ở thế gian để Chánh Pháp được trường tồn.
(
Tôi thấy ngày nay chúng ta tranh luận, chúng ta đấu đá nhằm vào cái chân “Pháp” hơn là cái chân “Tăng” nhưng không thật thấy là ngày nay chân “Tăng” đang siêu vẹo nhiều nhất vì thiếu những bậc Thánh).
Vài lời thiển cận. Mong mọi người hoan hỷ !!