CUỘC ĐỜI CỦA BỒ TÁT VÔ TRƯỚC

Nghiên cứu học hỏi tư tưởng Phật giáo bắc tông: Câu xá, thành thật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Du già, pháp tướng tông, trừ hệ bát nhã, thiền và chuyên mục đã có.

Điều hành viên: phuoctuong

Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

CUỘC ĐỜI CỦA BỒ TÁT VÔ TRƯỚC

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

CUỘC ĐỜI CỦA BỒ TÁT VÔ TRƯỚC
Nguyên tác: The Story of Arya Asanga
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 23/12/2010

1- Theo Pháp Tướng Duy Thức Tông [1]

Hình ảnh

Cùng với thầy của mình là Bồ Tát Di Lặc, Vô Trước là khai tổ của Du Già Tông, hay Duy Thức Tông, một trường phái của Đại Thừa Phật Giáo.

Ba người con trai lớn nhất, đều gọi là Thiên Thân (Vasubandhu), sinh ra ở Purusapura (Peshwar), là những thành viên của gia đình Kiều Thi Ca (Kausika) thuộc dòng dõi Bà La Môn, Ấn Độ. Tất cả ba người đều đã trở thành những Tỳ Kheo Phật Giáo. Người em trai út của Vô Trước được biết là Tỉ-Lân-Trì-Bạt-Bà (Virincivatsa), trong khi người em giữa được biết đơn thuần là Thiên Thân (Vasubandhu), tác giả của Duy Thức Tam Thập Tụng.

Vô Trước là một người được phú cho những đặc tính bẩm sinh của một vị Bồ Tát. Ngài trở thành một vị Tỳ Kheo của Thuyết Nhất Thuyết Hữu Bộ (Sarvastivada), mà sau này thực hành thiền quán và giải thoát khỏi tham dục. Mặc dù ngài khảo sát lý thuyết của tính không, nhưng không thể thấu hiểu. Ngài định tự tử. Pindola, một vị a la hán, người ở Đông bộ Purvavideha, nhận biết điều này, đã đến gặp ngài tại vùng ấy và giảng giải lý thuyết tính không đặc thù của Tiểu Thừa. Ngài đã điều chỉnh lại tư tưởng của ngài phù hợp với những gì ngài đã được dạy và lập tức lĩnh hội được. Mặc dù ngài đã đạt được giáo thuyết tính không đặc thù của Tiểu Thừa, tuy thế, ngài không tìm thấy sự thoãi mái trong ấy. Nghĩ rằng sẽ không đúng nếu từ bỏ vấn đề hoàn toàn, ngài đã lên cung trời Đâu Suất sử dụng tất cả những thần thông đặc biệt của Tiểu Thừa và hỏi Bồ Tát Di Lặc, (vốn lắng nghe Giáo Pháp một cách thân cận khi Đức Phật tại thế, và sau này lên cung trời Đâu Xuất để giảng dạy cho chư Thiên ở đấy) người đã giảng giải chi tiết cho ngài giáo thuyết tính không thuộc Đại Thừa. Khi ngài trở lại Diêm Phù Đề (Jambudvipa), ngài khảo sát tương hợp với những phương pháp đã giải thích cho ngài và chẳng bao lâu đã chứng ngộ. Trong khi ngài tiến hành khảo sát, trái đất bắt đầu chuyển động trong cách (theo cách của nó). Từ khi ngài thông hiểu giáo thuyết tính không, ngài tự gọi mình là “Vô Trước” (Asanga), có nghĩa là “không chấp trước”. Sau đó ngài thường lên cung trời Đâu Xuất nhằm đề hỏi Di Lặc về những lý thuyết của Đai Thừa Kinh Điển. Bồ Tát đã giải thích chi tiết cho ngài. Bất cứ khi nào ngài đạt được bất cứ sự thông hiểu mới nào, ngài sẽ trở lại Diêm phù Đề và giảng dạy cho người khác. Hầu hết những người nghe ngài giảng dạy đã không tin ngài. Vô Trước, Giáo Thọ Pháp Bảo, thế rồi đã cầu nguyện, nói rằng, “Con nay muốn đưa tất cả chúng sinh tin tưởng hoàn toàn trong giáo thuyết của Đại Thừa. Con chỉ cầu nguyện đến Thầy, Ôi Đại Sư, xin hãy xuống Diêm phù Đề để khai triển Đại Thừa để cho tất cả chúng sinh có thể hoàn toàn được thuyết phục với chân lý của nó.” Di Lặc, ngay sau đó, theo lời cầu nguyện của ngài , đã đến Diêm phù Đề vào ban đêm, tràn ngập ánh đại quang minh, có một chúng hội lớn của những ai liên hệ với Phật Pháp quy tụ trong giảng đường, và bắt trì tụng kinh Thập Thất Địa (Saptadasabhumi-sutra). Sau khi trì tụng một đoạn, ngài giảng giải ý nghĩa của nó. Mười Bảy Địa được hoàn tất vào ban đêm trong bốn tháng. Mặc dù tất cả đều cùng ở trong giảng đường nghe thuyết pháp kinh luận, tuy nhiên, chỉ riêng Vô Trước, Giáo Thọ của Pháp Bảo, thân cận với Bồ Tát Di Lặc, trong khi những người khác chỉ có thể nghe ngài từ xa. Vào ban đêm, tất cả đều cùng nghe luận điển từ Di Lặc, trong khi vào ban ngày, Vô Trước - Giáo Thọ của Pháp Bảo, luận giải một lần nữa, vì lợi ích những người khác, trên những gì mà ngài đã được dạy bảo bởi Di Lặc Bồ Tát. Trong cách này tất cả mọi người có thể nghe và tin tưởng giáo pháp Đại Thừa. Di Lặc Bồ Tát đã dạy Vô Trước - Giáo Thọ của Pháp Bảo, học hỏi “nhật quang” tam muội. Khi ngài nghiên cứu theo những gi ngài được dạy, sau đó ngài đã đạt được sự thâm nhập vào tam muội ấy. Sau khi nhập vào tam muội ấy, tất cả những gì xưa kia ngày không thể thấu hiểu đã trở nên dễ hiểu. Bất cứ điều gì ngài đã nghe hay đã thấy không bao giờ quên mất, sức nhớ của ngài trở nên dai dẳng. Bất cứ nơi nào, trước đây ngài không thể thấu hiểu hoàn toàn những kinh điển của Đại Thừa, chẳng hạn như kinh Hoa Nghiêm, được Đức Phật thuyết giảng xưa kia, Di Lặc Bồ Tát đã giải thích cho ngài tất cả những điều này ở cung trời Đâu Suất. Sau đó ở Diêm Phù Đề, ngài đã viết vài bộ luận về kinh điển, trong ấy ngài đã trình bày chi tiết tất cả giáo thuyết Đại Thừa được Đức Phật thuyết giảng. Vô Trước Tôn Giả tiếp nhận giáo huấn từ Di Lặc Bồ Tát và truyền bá khắp thế giới. Ngài giao phó truyền thừa Giáo Pháp này cho Thiên Thân. Giáo huấn Tịnh Độ được truyền đạt từ Di Lặc Bồ Tát cho Vô Trước Tôn Giả và rồi từ Vô Trước đến Thiên Thân Tôn Giả. Thụ nhận sự truyền thừa này Thiên Thân đã trước tác Tịnh Độ Luận [5].


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

CUỘC ĐỜI CỦA BỒ TÁT VÔ TRƯỚC

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

2- Theo Kim Cương Thừa Mật Tông [2]

Hình ảnh

Theo truyền thống Tây Tạng, Vô Trước sinh ra ở Purusapura, thủ phủ của Gandhara, từ một phụ nữ Bà La Môn xem như thông thạo trong giáo huấn của Đạo Phật, người đã dạy cho ngài “mười tám khoa học” là những điều ngài tiếp thu rất dễ dàng. Ngài đã trở thành một vị tu sĩ và sau năm năm thực hành cẩn trọng, ngài đã thuộc lòng một trăm nghìn bài kệ Pháp Bảo mỗi năm và thấu hiểu một cách chính xác ý nghĩa của chúng.

Sau đó ngài đã rời tu viện để thực tập nghi quỹ Tôn Giả Di Lặc trong một hang động tại chân một ngọn núi. Trong ba năm, không có một dấu hiệu thành tựu nhỏ nhoi nào, và ngài trở nên chán nản và quyết định rời bỏ sự ẩn tu của mình. Từ hang động, ngài chú ý một tổ chim lộ ra nơi ngọn núi chỉ lõm vào do cánh chim bay vào bay ra. Nhận ra sự nhẫn nại yếu kém của mình, ngài trở lại hang đá và thực tập. Ba năm nữa ngài thiền tập, nhưng cũng thế không có một dấu hiệu tốt đẹp nào xuất hiện. Ngài trở nên ngã lòng và đã rời hang động một lần nữa. Lần này ngài thấy một hòn đá bên cạnh đường tan hoại một cách chậm chạp do bởi những giọt nước liên tục rơi trên nó. Cảm hứng bởi điều này, ngài đã trở lại thực hành ba năm nữa.

Khi không có dấu hiệu gì khích lệ, ngài đã rời nơi ẩn tu lần thứ ba. Khi ngài gặp phải một ông lão đang mài một mãnh sắt với một mãnh vải bông nhẳn. “Tôi đang làm chính xác cho xong cây kim này,” ông nói với Vô Trước. “Tôi đã làm những cây kim ở đấy” và ông chỉ một đống nhỏ những cây kim nằm bên cạnh. Vô Trước nghĩ, “Nếu nổ lực như cậy đã được dành cho một công việc trần gian như thế này, nổ lực của mình từ trước đến nay chỉ là một giọt nước rơi.”

Ngài đã trở lại và thiền quán ba năm nữa. Mặc dù ngài đã tu tập mười hai năm về Di Lặc, ngài vẫn không có một dấu hiệu gia hộ cỏn con nào. Ngài trở nên cực kỳ thất vọng và bước đi khỏi hang động. Sau một lúc ngài đi qua một con chó gần chết năm bên vệ đường, đầy những con giòi bọ rút rĩa, kêu la trong đau đớn. Vô Trước nghĩ, “Con chó này sẽ chết nếu những con giòi bọ không được dời đi, nhưng nếu mình đem chúng ra bằng tay, mình sẽ làm tổn thương chúng.” Thế là ngài quyết định dùng lưỡi để không làm hại chúng, và cắt thịt mình để cho chúng sống, rồi ngài cúi xuống để hút những con giòi bọ ra. Ngay lúc ấy con chó biến mất và Di Lặc xuất hiện, ánh sáng chiếu rực khắp mọi phương.

Vô Trước bật khóc và than, “A, vị thầy duy nhất và nơi nương tựa của con, qua bao năm con đã bỏ ra bao nhiêu nổ lực trong sự thực hành, sử dụng hằng trăm phương cách, nhưng con chẳng thấy gì. Tại sao cơn mưa và năng lực của đại dương chỉ bây giờ mới đến, khi bị dày vò bởi đớn đau, con không còn khao khát nữa?”

Di Lặc trả lời, “Thật sự là, ta liên tục hiện diện trong con, nhưng do bởi nghiệp chướng cản trở nên con không thể thấy ta. Tuy nhiên, sự thực tập của con đã tịnh hóa nghiệp chướng và loại trừ những chướng ngại. Bây giờ, do năng lực của từ bi lớn con có thể gặp ta. Để thẩm tra lời ta, hãy đặt ta lên vai con cho người khác thấy và đem ta qua thành thị.”

Vô Trước vui mừng khôn tả. Đặt Di Lặc lên vai và cõng Ngài vào trong thành, tuy thế không ai thấy Di Lặc. Một bà lão thấy Vô Trước mang một con chó chết và điều ấy là cho bà ta may mắn vô tận. Một người phụng sự trung thành thấy bàn chân của Di Lặc và thấy mình ở trong một thể trạng tam muội và cho anh ta tất cả những sự thành tựu. Tự Vô Trước thực chứng tam muội gọi là “Tương tục Thực tại”.

“Con mong muốn gì bây giờ?” Di Lặc hỏi Vô Trước.

“Phục hưng giáo nghĩa Đại Thừa”, Vô Trước trả lời.

“Ô, thế thì, hãy nắm lấy vạt áo của ta.” Vô Trước làm như thế và thầy trò cùng lên đến Tịnh Độ Đâu Suất nơi mà họ đã ở lại trong năm mươi năm. Ở đây, Vô Trước quán triệt thành thạo giáo huấn Đại Thừa và tiếp nhận Năm Bộ Luận nổi tiếng của Di Lặc, mỗi bộ mở ra một cánh cửa khác nhau của tam muội.

Để dâng hiến cho sự hiện thực những giáo huấn này, Vô Trước đã trở lại trái đất và xây dựng một ngôi chùa nhỏ trong rừng. Đầu tiên chỉ một vài học nhân đến học hỏi giáo huấn từ ngài, nhưng dần dần danh tiếng giáo thuyết của ngài lan rộng và trường phái Du Già được thành lập. Ngài đã trở thành Viện trưởng của Na Lan Đà và sống khỏe mạnh đến hơn 100 tuổi, nhưng trông ngài luôn luôn trẻ trung, không có tóc bạc và da nhăn.

Ngài đã biên soạn nhiều công trình Đại Thừa quan trọng bao gồm những gì đã được biết như Năm bộ luận của Di Lặc. Những bộ sách này bao gồm

1- Hiện Quán Trang Nghiêm Luận, Abhisamayalamkara
2- Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận, Mahanaya Sutralankara
3- Trung Biên Phân Biệt Luận, Madhyanta-vibhanga
4- Pháp Bảo – Pháp Tính Phân Biệt Luận , Dharma-dharmata-vibhaga
5- Tương Tục Tối Thượng, Uttaratantra

Các tác phẩm nổi tiếng của ngài,

6- Đại Thừa Nhiếp Luận Tông, Mahayana-samparigraha
7- A Tỳ Đạt Ma Tập Luận, Abhidarma-samuccaya
8- Du Già Sư Địa Luận, Yogacharabhumi-shastra
Theo nhà sử học Tây Tạng Taranatha, giáo huấn Mật tông Tương Tục (tantra[3]) được truyền xuống trong bí mật qua truyền thừa của Du Già Hành Tông (Yogacara) từ thời Vô Trước. Trong ba tạng Tây Tạng là một vài tác phẩm Mật tông Tương Tục được cho là của Vô Trước bao gồm cả nghi quỹ Di Lặc (Maitreya Sadhana) và Bát Nhã Ba La Mật (Prajna-Paramita Sadhana).

3- Xem thêm về ngài Vô Trước trong Bách khoa toàn thư mở Wikipedia[4]

Chú thích:

[1] (Paramartha, "The Life of Vasubandhu", J. Takakusu, tr. [with some editing], pp. 273-275)

http://online.sfsu.edu/~rone/Buddhism/Y ... asanga.htm

[2] Through Tibetan Buddhism inspire compassion, loving-kindness and peace

http://asangainstitute.com/id1.html

[3] Từ ngữ ‘tantra’ có nghĩa là ‘sự tương tục’. Mật Điển Du-già có tên gọi là Trang Nghiêm Kim Cương Tâm Yếu Mật Điển giải thích rằng giải thích rằng tantra là một sự tương tục được định nghĩa là sự tương tục của tâm thức. Trên căn bản của tâm thức này, mà với cấp độ phát khởi chúng ta phạm phải những hành vi tiêu cực, như một kết quả của những điều đó, chúng ta trải qua vòng luân hồi tàn bạo của sinh tử. Trên con đường tâm linh, cũng trên căn bản của sự tương tục tâm thức mà chúng ta có thể tạo nên những sự cải thiện tinh thần, trải nghiệm những nhận thức cao thượng của đạo pháp và v.v… Nó cũng là căn bản của sự tương tục tâm thức mà chúng ta có thể đạt đến thể trạng toàn giác [nhất thiết trí]. Do thế, sự tương tục này của tâm thức luôn luôn hiện diện, đấy là ý nghĩa của tantra hay sự tương tục. - Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng.

http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-81 ... l_bookmark

[4] Bách Khoa toàn thư mở http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B4_Tr%C6%B0%E1%BB%9Bc

[5] xem Thiên Thân Tịnh Độ luận


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

CUỘC ĐỜI CỦA BỒ TÁT VÔ TRƯỚC

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

VÔ TRƯỚC
Bách Khoa Tòan Thư Mở Wikipedia

Hình ảnh

(Hình minh họa bên phải: Đại luận sư Vô Trước, được trình bày với ấn Sa-môn (sa. śramaṇa-mudrā, dấu hiệu của sự đoạn niệm, từ bỏ, thoát li). Sư mang một mũ đầu nhọn, dấu hiệu tượng trưng cho một Học giả (sa. paṇḍita), ba vòng trên mũ là dấu hiệu của một Pháp sư tinh thông Tam tạng. Bình đất đựng nước phía sau cho biết rằng, Sư là một luận sư Ấn Độ, xứ nóng. Bình đất đựng nước có công dụng giữ nước mát dưới ánh nắng gắt vì nước có thể bốc hơi một ít qua vành đất nung và giảm nhiệt. Các luận sư Tây Tạng không được trình bày với bình đất vì họ là người xứ lạnh, chỉ uống trà)
Vô Trước (zh. 無著; sa. asaṅga, nghĩa là "không bị ô nhiễm, vướng mắc"), cũng được dịch âm là A-tăng-già (zh. 阿僧伽), khoảng thế kỷ 4, là một Đại luận sư của Phật giáo Ấn Độ, người sáng lập Duy thức tông (sa. vijñānavādin). Sư khước từ quan điểm của Long Thụ (sa. nāgārjuna) về tính Không tuyệt đối và thiết lập giáo pháp của mình dưới ảnh hưởng của Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivādin). Tương truyền Sư được Bồ Tát Di-lặc trực tiếp giáo hoá. Có một số luận sư cho rằng Di-lặc này là một nhân vật lịch sử với tên Maitreyanatha (sa. maitreyanātha).

Cơ duyên & hành trạng
Theo Bà-tẩu-bàn-đậu pháp sư truyện (zh. 婆藪槃豆法師傳, tức là Thế Thân truyện) của Chân Đế (sa. paramārtha), Sư sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn và là người anh cả, Thế Thân (sa. vasubhandu) là người em kế và người em út có tên Tỉ-lân-trì-bạt-bà (zh. 比鄰持跋婆, sa. viriñcivatsa). Cả ba anh em đều tu học giáo pháp của Thuyết nhất thiết hữu bộ. Riêng Sư chú tâm tu tập để chứng ngộ được tính Không (sa. śūnyatā) của Long Thụ nhưng không đạt được. Đang lúc thất vọng thì một vị A-la-hán tên là Tân-đầu-la (sa. piṇḍola) đến, dạy Sư nhập môn phép quán Không theo Tiểu thừa. Sư theo học và đạt được kết quả nhưng vẫn không thoả mãn. Cuối cùng, Sư vận dụng Thần thông (sa. ṛddhi) lên Đâu-suất thiên (sa. tuṣita) để được nghe Bồ Tát Di-lặc thuyết giảng về tính Không. Về lại nhân thế, Sư truyền bá lí thuyết mới này nhưng không ai tin. Sau, Sư lại lên Đâu-suất để thỉnh Di-lặc xuống giáo hoá và sau đó Di-lặc giáng trần, thuyết giảng Thập thất địa (sa. saptadaśabhūmi, tức là 17 quyển của Du-già sư địa luận) trong một khoảng thời gian bốn tháng. Trong lúc này, Sư ban ngày thì thuyết giảng những lời dạy của Di-lặc, ban đêm lắng nghe và ghi chép lại những lời thuyết đó. Sau đó, Sư bắt đầu trình bày tất cả giáo lí Đại thừa qua những trứ tác quan trọng của mình và cũng khuyến dụ Thế Thân, người em cùng mẹ khác cha, vốn theo học giáo lí của Hữu bộ và cũng đã viết bộ luận lừng danh là A-tì-đạt-ma-câu-xá (sa. abhidharmakośaśāstra). Thế Thân nghe lời khuyên của Sư và từ đây, hai anh em trở thành hai Luận sư quan trọng của Đại thừa Phật pháp, đại diện cho nhánh Duy thức, để lại những tác phẩm vô cùng quý giá cho hậu thế.

Những nhà Phật học ngày nay đều nhất trí rằng, Đại thừa Phật pháp là sự phát triển của các giáo lí mà Phật Thích-ca lịch sử từng tuyên thuyết nhưng không hẳn là chính lời của vị này. Trong thời của Vô Trước, giáo lí Đại thừa này bị nhiều trường phái Tiểu thừa chỉ trích, cho là Dị giáo (sa. tīrthikā; pi. titthiyā), là giáo lí của tà ma, ngoại đạo. Sư cũng đứng trước vấn đề này và đã tìm cách chứng minh tính chất phù hợp, tiếp nối, phát triển của giáo lí mới, nêu ý kiến của mình trong Nhiếp đại thừa luận:

"Nếu Đại thừa là giáo lí sau này của một người nào đó thì Phật đã bảo rằng, đây là một mối nguy hại cho tương lai. Nhưng Ngài đã không nói. Đại thừa xuất phát cùng thời với Thanh văn thừa (sa. śrāvakayāna), không phải thời sau. Nếu như thế thì sao người ta không thể xem nó chính là lời Phật (sa. buddhavacana) thuyết? Giáo lí thâm sâu này không thể hội được qua biện luận nghi ngờ; những giáo lí này không thể nào tìm thấy được trong các Dị giáo luận (sa. tīrthikāśāstra) và nếu nó được thuyết giảng, ngoại đạo cũng không thể hiểu nổi..." Sư nhấn mạnh rằng ý nghĩa (sa. artha) được trình bày trong Đại thừa không nhất thiết theo ngôn ngữ trình bày trên giấy mực; nó chính là cái cốt tuỷ nằm sau những lời văn này. Người ta không thể thâm nhập huyền nghĩa nếu chỉ chú tâm, bám chặt vào văn tự.
Theo thuyết của Cao tăng Tây Tạng Đa-la-na-tha (zh. 多羅那他; bo. tāranātha ཏཱ་ར་ནཱ་ཐ་), Sư đến nhiều vùng tại Ấn Độ và xiển dương giáo lí Đại thừa Duy thức, thành lập khoảng 25 tu viện. Thời gian hoằng hoá của Sư được xem là nằm trong thế kỉ thứ tư, đặc biệt là trong những vùng Tây Bắc Ấn Độ, bây giờ thuộc về Pakistan.

Tác phẩm
Các tác phẩm quan trọng của Vô Trước là Du-già sư địa luận, Đại thừa trang nghiêm kinh luận, Đại thừa a-tì-đạt-ma tập luận và Nhiếp đại thừa luận, một bộ luận viết bằng văn vần trình bày giáo pháp của Duy thức tông, hiện nay chỉ còn bản dịch chữ Hán và Tây Tạng. Tác phẩm này gồm có mười chương và bàn luận các điểm sau:

A-lại-da thức;
Lí thuyết cho rằng tất cả thế giới đều từ tâm thức hiện nên, thuần tuý duy tâm (sa. cittamātra);
Cách chứng ngộ được thuyết này;
Các hạnh Ba-la-mật;
Thập địa;
Giới;
Thiền định;
Bát-nhã;
Trí huệ siêu việt vô phân biệt;
Tam thân (sa. trikāya).
Có thuyết cho rằng, Sư cũng là tác giả của Bí mật tập hội (sa. guhyasamāja-tantra), một tác phẩm quan trọng thuộc hệ Vô thượng du-già, và nếu vậy Sư giữ một vị trí quan trọng trong Mật tông Phật giáo.

Các tác phẩm còn lưu lại dưới tên Sư hoặc dưới tên Di-lặc (trích):

Hiển dương thánh giáo luận (sa. prakaraṇāryaśāsana-śāstra, ārya-śāsana-prakaraṇaśāstra), 20 quyển, Huyền Trang dịch;
Du-già sư địa luận (sa. yogācārabhūmi-śāstra), 100 quyển, Huyền Trang dịch;
Nhiếp đại thừa luận (sa. mahāyānasaṃgraha), 3 quyển, Chân Đế dịch;
Đại thừa a-tì-đạt-ma tập luận (sa. abhidharma-samuccaya), 7 quyển, Huyền Trang dịch;
Đại thừa kinh trang nghiêm luận tụng (sa. mahāyāna-sūtralaṅkāra-kārikā), 13 quyển, Ba-la-phả-mật-đa-la (sa. prabhakāramitra) dịch, cũng có bản Phạn và Tạng ngữ;
Thuận trung luận (sa. madhyāntānusāra-śāstra), 2 quyển, Bát-nhã Lưu-chi (sa. prajñāruci) dịch;
Năng đoạn kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh luận tụng (2 bản, sa. āryabhagavatī-prajñāpāramitā-vajracchedikā-saptārtha-ṭīkā và triśatikāyā-prajñāpāramitāyā-kārikā-saptati); 3 quyển, Bồ-đề Lưu-chi dịch, Nghĩa Tịnh cũng dịch một bản;
Giải thâm mật kinh chú (sa. ārya-saṃdhinirmocana-bhāṣya), chỉ còn bản Tạng ngữ;
Hiện quán trang nghiêm luận tụng (sa. abhisamayā-laṅkāra-nāmaprajñāpāramitā-upadeśa-śāstra [-kārikā] thường được viết ngắn là abhisamayālaṅkāra-śāstra), còn bản Phạn và Tạng ngữ;
Biện trung biên luận tụng (sa. madhyānta-vibhāga-kārikā), bản Hán và Tạng ngữ vẫn còn. Có hai bản dịch tại Trung Quốc, Huyền Trang dịch ra 3 quyển, Chân Đế dịch ra 2 quyển dưới tên Trung biên phân biệt luận;
Pháp pháp tính phân biệt luận (sa. dharma-dharmatā-vibhāga), chỉ còn bản Tạng ngữ.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ Điển. Phật Quang Đại Từ Điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

CUỘC ĐỜI CỦA BỒ TÁT VÔ TRƯỚC

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

Câu Chuyện Ngài Vô Trước --------------------------------------------------------------------------------

CON CHÓ CỦA NGÀI VÔ TRƯỚC


Sau một thời gian tu luyện thấy không đạt được kết quả mong muốn nào, Bồ Tát Vô Trước quyết định tránh những cảnh phồn hoa đô hội, ẩn mình trong cảnh rừng xanh núi biếc để nhập thất, mong được một ngày nào đó có thể thấy kim thân của Đức Phật Di Lặc.

Hơn 12 trường ròng rã, tinh tấn gạn lọc tâm ý, nhưng Vô Trước chỉ nghe hổ gầm vượn hú, công phu tu hành cũng chẳng tiến bộ là bao. Thấy công trình tu tập của mình hầu như vô ích, như chuyện mài ngói ngàn triệu kiếp, ngói vẫn là ngói, chớ chẳng bao giờ thành gương. Ngài thất vọng, quyết định bỏ dở việc tu tập trong hang thâm cùng cốc, xuống núi vào đời. Vào một buổi chiều, khi đang đến lưng chừng núi, Ngài Vô Trước bỗng gặp một con chó bên vệ đường. Con chó này hai chân sau bị dòi bọ cắn lở loét, vừa đi vừa lết, Thế nhưng nó vẫn hung hăng, gặp người qua đường nào cũng sủa và chỉ chực nhào đến cắn. Cảnh tượng vừa thương tâm, vừa buồn cười. Động lòng trắc ẩn, Vô Trước dừng lại tìm cách gạt dòi bọ ra khỏi vết thương. Trước hết, giống như trong truyện tiền thân của Đức Phật, Vô Trước cắt một miếng thịt từ thân thể của mình cho con chó ăn đở đói. Sau đó Ngài tìm cách chữa vết thương. Lần này con chó nằm im trong khi Ngài chữa thương. Vô Trước thấy là nếu gạt dòi bọ ra khỏi vết thương, thân thể chúng có thể bị dập nát. Ngài nghĩ ra một cách, vừa đem dòi bọ ra khỏi vết thương, vừa không làm tổn hại chúng. Ngài định dùng lưỡi liếm vết thương để đem dòi bọ một cách...an toàn! Ngài nằm xuống, nhắm hai mắt để lấy hết can đảm làm việc trị thương. Con chó bỗng nhiên biến mất và Vô Trước liếm đất! Trước mặt Ngài, sừng sững kim thân của Đức Phật Di Lặc.

Ngài Vô Trước trách: ‘Tôn Phật bấy lâu nay ở đâu mà bây giờ mới chịu thị hiện. Tôi đã đi tìm Ngài ở khắp rừng xanh núi thẵm mà có bao giờ thấy được tông tích của Ngài đâu!’ Đức Phật Di Lặc trả lời :’Con nói vậy là không đúng. Ta lúc nào cũng ở bên cạnh con! Đi nhập thất vào rừng xanh núi thẫm làm chi cho mất công và mất thì giờ! Tại nghiệp của con còn nặng, nên con không thấy cả con chó ghẻ lỡ, mong gì thấy được ta. Nhưng công trình tu hành 12 năm không phải hoàn toàn uổng công. Trong thời gian này con đã giải nghiệp chút ít, nhờ thế con đã thấy được con chó bị thương. Việc con không ngại ghê tỡm, muốn liếm dòi bọ vừa để trị thương cho con chó, vừa cứu mạng dòi bọ, đã giải được nghiệp chướng còn sót, nên cuối cùng con mới thấy được báo thân ta. Nếu không tin con thử vác con chó lên vai, đi khắp phố phường xem có bao nhiêu người thấy được con chó!

Ngài Vô Trước y lời Đức Phật Di Lặc, mang con chó trên vai, đi khắp hang cùng ngỏ hẽm. Gặp ai Ngài cũng hỏi: ‘Quý vị có biết tôi đang cõng trên vai tôi con vật gì không?’ Nhiều người tưởng Vô Trước là kẻ điên khùng, trả lời một cách gắt gỏng: ‘Có thấy gì trên vai ông đâu!’ Cuối cùng chỉ có một bà cụ già nói: ’Tội nghiệp con chó bị dòi bọ ăn đứt cả hai chân. Ông đi chôn mau kẻo tội nghiệp!’.

Vượt lên trên lãnh thổ và văn hóa thường tình, đạo đức tư tưởng đông tây có nhiều lúc trùng hợp nhau. Câu chuyện thứ hai là một câu chuyện ngụ ngôn ở Ái Nhĩ Lan. Để thử lòng năm vị hoàng tử, vua Eochaid gửi năm người đi tìm nước cho cha, trong một cơn đại hạn hán. Bốn vị hoàng tử đầu, sau khi đi hàng trăm dặm đến một giếng nước do một bà già ma chê quỹ hờn canh giữ. Khi các vị hoàng tử ngỏ ý muốn xin nước, bà già bèn nói: ‘Dễ thôí! Miễn là ông hôn tôi một cái, ông sẽ tha hồ lấy nước về mà uống!’ Các vị hoàng tử xinh trai, cành vàng lá ngọc, thấy dung nhan xấu xí của bà già giữ giếng, không chịu hôn và đành trở về tay không. Chỉ có người con thứ năm nói: ‘Xá gì cái chuyện hôn bà! Tôi còn muôn ôm bà để tỏ lòng biết ơn Bà đã cứu sống gia đình tôi’. Đây là một chuyện ngụ ngôn và độc giả cũng đoán đưọc kết quả. Bà già xấu xí bỗng dưng biến thành một thiếu nữ xinh đẹp. Vị hoàng tử út không những được truyền ngôi mà còn có vợ đẹp!

Cũng giống như các chuyện trong Nhị Thập Tứ Hiếu và các câu chuyện Tiền Thân của Đức Phật trong Jakatas, không ai lấy lý trí để phân tích xem các chuyện này có hợp lý hay không. Bài học rất nhỏ, vỡ lòng, sơ đẵng. Có bao nhiêu người theo con đường nhập thất của Vô Trước và tán gẫu các chuyện cao xa như từ bi hỷ xả, lục mật hay thức thứ tám thứ chín! Thế mà cái bài học vỡ lòng này Bồ Tát Vô Trước phải học 12 năm trước khi chứng ngộ được lòng từ bi. Y kinh giải nghĩa, nhai kinh điển như vẹt, tu 12 kiếp, hay hằng hà sa số kiếp cũng hoài công. Sulak Sivaraksa, một cư sĩ theo Phật Giáo nhập thế có nhắc đến trường hợp của một vị sư Thái Lan. Vào những năm 60, khi chế độ quân phiệt ngự trị, nhằm để lấy lòng các tướng lãnh Thái, vị sư này đã tuyên bố là trong vài trường hợp, việc giết người là một việc có thể biện chính được. Ở Mỹ có vị tăng tu hành lên đến chức vị Hoà Thượng, rất lấy làm đắc ý về lời tuyên bố ‘diệt những người ác là không phạm giới sát mà là bổn phận của người Phật Tử đúng theo chánh pháp’. Tu hành đến mức Hòa Thượng mà ăn nói kiểu đó nên không ai lấy làm ngạc nhiên khi thấy Hòa Thượng vác chiếu ra tòa về tội làm chuyện ‘đồi bại’ với trẻ con. Hòa Thượng có tu a tăng tỳ kiếp cũng không thấy được con chó ghẻ lở của Bồ Tát Vô Trước!

Tôi được một sa di trẻ cho một bài học vỡ lòng từ hơn mười năm trước. Vị sa di trẻ đến nhà thăm vào một đêm mùa hè có nhiều muỗi. Để tỏ lòng hiếu khách, tôi lấy chai thuốc xịt muỗi ra xịt. Vị sa di trẻ tuổi nói: ‘muỗi cắn một chút không sao!’. Tôi viết nhiều chuyện trên trời dưới đất, về Đại Thừa Tiểu Thừa, về Đạo Phật Nhập Thế vân vân... nhưng nhiều khi lại quên thực tập những bài học nho nhỏ. Hiện giờ thỉnh thoảng tôi cũng còn dùng thuốc xịt muỗi, nhưng để ‘đuổi’ muỗi, chứ không phải để ‘trừ’ muỗi. Ít ra tôi cũng thực hành được ái ngữ. Có nhiều người tự nhận là Phật Tử vẫn tiếp tục bán buôn thù hận bằng mồm và tiếp tục cổ động việc trừ gian diệt bạo, nhưng thực ra chỉ để thỏa mãn những quyền lợi riêng tư và ngã mạn của mình. Không dễ gì thấy được con chó của Ngài Vô Trước, huống chi là thấy được kim thân của Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật. Tôi nghĩ ông điêu khắc gia nào nặn ra tượng Di Lặc biết ý của Ngài, nên sáng tạo ra một bức tượng béo trục béo tròn, vừa xoa bụng, vừa cười toe toét.



ngay 05/7/2010
trich tu Chuyen Phap Luan
bai cua Quan Nhu

http://phatgiaovnn.com/upload1/bz/showthread.php?p=8258


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

CUỘC ĐỜI CỦA BỒ TÁT VÔ TRƯỚC

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

Truyền thuyết về cuộc đời của đại Luận Sư Vô Trước (Asanga)


Viết bởi Thích Tâm Thiện
Thứ năm, 27 Tháng tám 2009
Chúng ta biết rằng, trường phái Duy Thức Học (Vijnànavàda ) Phật giáo ra đời vào khoảng thế kỷ thứ V.TL ;và một trong những người được xem là Tổ sư của trường phái này là Ngài Vô Trước ( anh em cùng mẹ khác cha với Ngài Thế Thân) ; cả hai đều là Đại luận sư của trường phái triết học Duy Thức , một trường phái triết học đặc thù của Phật giáo mà tầm vóc và sự ảnh hưởng của nó ,về mặt lịch sử , không thua kém gì giòng triết học Trung Quán của Ngài Long Thọ (Nagàrjuna) .Bài viết dưới đây xin trích dẫn một giai thoại trong cuộc đời tu tập của Ngài Vô Trước, được giới thiệu trong "CANG –SKYA ON YOGACARA , nguyện bản tiếng Tây Tạng của CANG SKYA .YESHES BSTAN PAI’ I SGRON ME , bản dịch Anh ngữ của JOE WILSON.

Phần I . Kệ văn
Trong Manjushri Root Tantra( Manjushrimlakapa ) truyền tụng rằng, Đức Thế Tôn trước khi vào diệt độ, Ngài đã cho biết trước rằng , 900 năm sau, sẽ có một Đại sỹ ra đời xiển dương Luận tạng , tên là Asanga.Bài kệ tiên đoán đó được ghi lại nguyên văn như sau:
" Chín trăm năm sau có một người tăng sỹ,
Vị ấy tên là Asanga ,
Ngài sẽ chuyên chú vào giáo nghĩa của luận thư
Và sẽ khéo biện biệt giải thuyết.
Với biện tài vô ngại,
Vị thầy của thế gian,
Sẽ có thiên tư về luận thuyết,
Sự tựu thành của thông tuệ này
Sẽ đến từ sức thần của Mạn đà la-
Một vị nữ sứ giả của Sla;
Thông qua năng lực này mà thiện tâm trổi dậy;
Ngài sẽ tập hợp các giáo nghiã trọng yếu của luận thư.
Thọ mạng của Ngài sẽ kéo dài một trăm năm mươi năm,
{Rồi sau đó} khi thân Ngài tan rã;
Nơi Thiên cung , Ngài lại trở về;
Với niềm phúc lạc vô biên,
Ngài dạo chơi trong vòng hiện hữu.
Và cuối cùng, Đại sỹ sẽ chứng ngộ tuệ giác vô thượng".
Nguyên tác tiếng Tây Tạng :
Thogs Med Ces Bya'i Dge Slong Ni
Bstan Bcos De Ni Don La Mkhas
Mdo Sde Nges Don Drang Ba'i Don
Rnam Pa Mang * Po Rab Tu 'Byed
'Jig Rten Rig Pa Ston Bdag Nyid
Gzung 'Byed Ngang Tshul Can Du 'Gyur
De Yi Rig Pa Grub Pa Ni
Sa La'i Pho Nya Mo Zhes Brjod
De Yi * Sngags Kyi Mthu Yis Ni
Blo Ni Bzang Po Skye Bar 'Gyur
Bstan Pa Yun Ring * Gnas Bya'i Phyir
Mdo Yi De Nyid Don Sdud Byed
Lo Ni Brgya Dang Lnga Bcur 'Tsho
De Lus Zhig Nas Lha Yul 'Gro
'Khor Ba Rnams Su 'Khor Ba Na
Yun Ring Bde * Ba Rjes Myong Nas
Bdag Nyid Chen Po Mthar Gyis Te
Byang Chub 'Thob Par 'Gyur * Ba Yin
Zhes Gsungs Pa'o*
Bản dịch Tiếng Anh:
[When nine hundred years have passed,]
A monk named Asanga
Will be expert in the meaning of the treatises
And will in many ways discriminate
The s tras of definitive and interpretable import.
By disposition a teacher of worldly knowledge,
He will have a nature of explaining the texts.
The achievement of the knowledge for that
Will come through the power of the mantra
Of she called Lady Messenger of S la;
Through its power good mind will arise.
In order that the teaching might long remain
He will condense the essential meaning of the sutras.
He will live one hundred and fifty years
And, his body disintegrating,
will go to a country of the gods.
Having long experienced bliss
Travelling in cyclic existence,
This great being will finally attain enlightenment.

PhầnI I : Giai thoại:
Truyện kể rằng, sau ba lần nổi dậy của các nhàtư tưởng tiến bộ ( abhidharma ) thời đó1 tại Ấn Độ, lúc bấy giờ,có một người đàn bà đức hạnh phi thường thuộc dòng Bà la môn tên là Tịnh Đức ( Gsal Ba’I Tshulkhrims ). Bà nghĩ rằng, chánh pháp đã đến hồi suy vong do sự lạm thuyết của các học phái; nhưng ta ,mang phận đàn bà, làm sao có thể xiển dương "giáo nghĩa thư "để bảo vệ chánh pháp. Suy nghĩ như thế, bà quyết định dùng sinh thức tuệ giác của mình để truyền cho con trai.Sau khi quyết định, bà đã lấy một người đàn ông dòng Kshatriya và hạ sinh Vô Trước. Sau đó, bà lấy một tu sỹ Bà la môn (brahmin ) và hạ sinh đứa con thứ hai là Thế Thân. Trong suốt thời gian sinh dưỡng hai người con, bà không ngừng rèn luyện tâm thức chúng theo ý đồ của bà. Khi hai người con trưởng thành, chúng hỏi bà rằng:
- Thưa mẹ, cha của chúng con thuộc hạng người nào ,và chúng con phải chọn nghề gì để nối nghiệp cha ?
-Bà trả lời : Ta sinh dưỡng các con không phải để nối nghiệp cha, mà để học đạo và truyền đạo.
Sau đó, Thế Thân đã đến Kashmir học đạo với Thầy Samghabhadra.Còn VôTrước thì vào tu kín trong động ở núi Chân Chim để tìm Thầy Maitreya học đạo. Suốt ba năm tu luyện trong động, nhưng Vô Trước không hề thấy được một dấu hiệu khả quan nào , và điều đó đã làm cho Ngài chán nản . Suy ngĩ như thế,Ngài vội bỏ hang động ra đi. Khi vừa bước ra, Ngài liền gặp một ông già đang mài thanh sắt lớn làm kim. Ngài hỏi : Ông làm cái gì vậy ? Ông lão đáp kệ trả lời :
" Khi một người tu tập ,rèn luyện nội tâm,
Thì không có điều gì mà không thành tựu,
Cho dù núi non có trở thành các bụi,
Sức mạnh của tâm thức sẽ vượt qua tất cả".
Nghe xong bài kệ,tâm Ngài trở nên tươi tỉnh ,phấn chấn, và Ngài quyết định trở lại hang động để tu tập. Thế rồi, ba năm trôi qua , Ngài cũng không tìm thấy được điều gì, trong lòng buồn phiền ,Ngài lại bỏ hang động ra đi. Lúc ấy Ngài chợt thấy ảnh tượng của những giọt nước đang sói mòn vách đá trong hang động, bỗng dưng tâm Ngài bừng tỉnh; rồi Ngài trở lại hang tu tập.Một lần nữa, ba năm lại trôi qua, giờ đây trước mắt Ngài đầy dẫy nỗi ưu phiền,Thầy Maitreya vẫn biền biệt tung tích.Ngài bèn bỏ hang động ra đi. Lúc ấy ,Ngài lại thấy ảnh tượng của một vách đá bị sói mòn bởi những cánh chim bay, tâm thức Ngài bỗng dưng định tỉnh, và quyết chí trở lại hang đá tu tập. Thế rồi , ba năm nữa lại trôi qua, buồn phiền và chán nản lại kéo về trong tâm thức , rồi Ngài lại từ giả ra đi. Nhưng lần này, khi vừa bước ra khỏi hang đá,Ngài lại gặp một con chó sói tội nghiệp đang nằm dài , quằn quại.Phần nữa thân sau của nó thì đang lỡ lói bởi sự gặm nhắm của côn trùng, phần nữa thân trước của nó thì phều phào rên rĩ .Nhìn thấy cảnh đó bỗng nhiên tình thương thống thiết của Ngài trào dâng một cách phi thường ; và Ngài bèn tìm cách cứu giúp nó.Lúc đó , Ngài nghĩ rằng , ta nên cắt bớt thịt của mình, rồi dùng nó để dời những côn trùng đang gặm nhắm trên thân con cho sói tội nghiệp này. Ngài liền đi mượn một con dao và tự tay cắt thịt của Ngài. Thịt đã cắt xong, nhưng vì sợ rằng, nếu lấy tay mà bắt những côn trùng thì sẽ làm chúng chết , và làm cho con chó sói càng đau đớn thêm. Đắn đo suy nghĩ một lúc, Ngài quyết định dùng chính cái lưỡi của mình để liếm những côn trùng ra khỏi những chỗ bị lở trên thân con chó sói .Trong lúc Ngài vừa liếm vào vết lở, thì bỗng dưng Bồ Tát Maitreya ( Di Lạc ) xuất hiện.
-Vô Trước liền hỏi:
"Con đã tu tập qúa lâu trong hang đá để chờ Ngài, nhưng tại sao không hề thấy một dấu hiệu nào của Ngài?"
-Bố Tát đáp:
"Ta đã ở trong đó từ lúc ban đầu, nhưng do tâm thức của ngươi bị ngăn che bởi các dục vọng ,ưu phiền nên ngươi không nhìn thấy ta đó thôi. Nay do ngươi phát khởi một tình thương vô bờ nên mọi chướng ngại trong tâm thức của ngươi đã băng tiêu, vì thế mà ngươi thấy ta ".
Bấy giờ Vô Trước cầu xin Bồ Tát truyền pháp tu hành, Bồ Tát bảo Vô Trước hãy nắm lấy tà áo của Ngài , rồi họ cùng bay lên cung trời Tushita ( Đâu Suất ). Trên cung điện nhà trời ,Vô Trước ở lại một buổi sáng để học đạo, lúc trở về trần gian mới hay rằng , mình đã ở trên cung trời 53 năm rồi.2
Trên cung trời Tushita, Bồ Tát Maitreya đã truyền tâm pháp toàn thiện cho Vô Trước và năm phần giáo3, mà sau này Ngài đem về truyền bá ở trần gian .
Phần .III .Kệ Tán
Tôi kính lễ Đại sỹ Vô Trước
Người cứu độ trần gian,
Đã tiếp nhận nguồn mạch diệu âm từ dòng thánh thiện
Thúc dậy từ sức mạnh của suối nguồn đại định,
Dòng suối nguồn (giáo nghĩa ) thiêng liêng
Tuôn chảy từ miệng của Bồ tát Maitreya tôn qúi.
Nguyên bản Tiếng Anh: I bow down to he , called Asanga who,
in order to help all the world,
Received with the vessel of listening,
the stream of nectar
Drawn by the power of the meditative stabilization
of the Stream of Doctrine- A stream of nectar poured from the vessel [whose] mouth [was] the noble Maitreya.

- o0o -
http://www.capcodoc.net/index.php?optio ... &Itemid=95


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.18 khách