Các vị Thiền Sư Trung Hoa (tổng hợp)

Thảo luận tư tưởng thiền tông Việt Nam.

Điều hành viên: binh

phatphap
Bài viết: 375
Ngày: 19/06/10 05:11
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: không rõ

Các vị Thiền Sư Trung Hoa (tổng hợp)

Bài viết chưa xem gửi bởi phatphap »

Thiền Tông Việt Nam chịu ảnh hưởng phần lớn từ tư tưởng Thiền Tông Trung Hoa. TLNT cop nhặt được nhiều tài liệu về cuộc đời và hành trạng của các vị thiền sư TH từ sau đời Lục Tổ, nay xin tổng hợp và sắp xếp thứ tự để các vị dễ tra cứu.
Sửa lần cuối bởi phatphap vào ngày 09/03/11 21:55 với 2 lần sửa.


phatphap
Bài viết: 375
Ngày: 19/06/10 05:11
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: không rõ

Re: Các vị Thiền Sư Trung Hoa (tổng hợp)

Bài viết chưa xem gửi bởi phatphap »

THIỀN SƯ AN DÂN MẬT ẤN
đời thứ 16 sau Lục Tổ. Hệ truyền thừa Luc Tổ Huệ Năng->Nam Nhạc Hoài Nhượng->Mã Tổ Đạo Nhất->Bá Trượng Hoài Hải->Hoàng Bá Hy Vận->Lâm Tế Nghĩa Huyền->Hưng Hóa Tồn Tương->Nam Viện Huệ Ngung->Diên Chiểu Phong Huyệt->Tỉnh Niệm->Thiện Chiếu Phần Dương-> Từ Minh-> Phương Hội->Thủ Đoài -> Pháp Diển Ngũ Tổ-> Viên Ngộ Khắc Cần->An Dân Mật Ẩn

Ở Hoa Tạng

Sư họ Chu quê ở phủ Gia Định. Buổi đầu Sư giảng kinh Lăng Nghiêm ở Thành đô, là bậc được trọng vọng trong hàng nghĩa học. Khi ấy Viên Ngộ ở Chiêu Giác, Sư cùng Thiền sư Thắng kết bạn cùng đi đến.

*

Sư nghe Viên Ngộ tiểu tham nhắc: - Việc Quốc sư ba phen gọi thị giả. Triệu Châu niêm rằng: Như người viết chữ trong tối, chữ tuy chẳng thành văn thể đã bày. Trong kia chỗ nào là văn thể đã bày?

Sư tâm nghi, thắp hương vào thất. Viên Ngộ hỏi: - Tọa chủ giảng kinh gì?

Sư thưa: - Kinh Lăng Nghiêm.

Viên Ngộ hỏi: - Kinh Lăng Nghiêm có bảy chỗ hỏi tâm, biện thấy có tám hoàn, cứu kính tâm ở chỗ nào?

Sư trình nhiều kiến giải, Viên Ngộ đều chẳng nhận. Sư lại thưa thỉnh, Viên Ngộ dạy: - Tất cả chỗ dùng văn thể đã bày hội. Bỗng gặp vị Tăng thưa hỏi về Thập huyền đàm, mới nhắc hỏi tâm ấn anh nhan mạo gì? Viên Ngộ gằn giọng nói: - Văn thể đã bày.

Sư nghe liền có tỉnh, bèn cầu ấn chứng.

Viên Ngộ bảo: - Dùng bản sắc kiền chùy.

Sư lại mờ mịt. Một hôm Sư bạch Viên Ngộ: - Hòa thượng thôi nhắc thoại đợi con nói xem.

Viên Ngộ chịu. Sư thưa: - Bình thường cầm chùy dựng phất, há chẳng phải trong kinh nói, tất cả thế giới đã có các tướng đều là Bồ-đề diệu minh chân tâm.

Viên Ngộ cười bảo: - Ông xưa nay ở trong đây làm kế sống.

Sư lại thưa: - Khi hét hay gõ giường thiền, há chẳng phải phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo.

Viên Ngộ bảo: - Ông đâu chẳng thấy trong kinh nói ?Diệu tánh viên minh lìa các danh tướng?.

Sư ngay câu này liền thấu hiểu.

Viên Ngộ ra đất Thục trụ Giáp Sơn. Sư liền thôi giảng đi theo hầu. Viên Ngộ vì chúng dạ tham, nhắc nhân duyên ?buồm xưa chưa treo?. Sư nghe chưa lãnh ngộ bèn cầu quyết nghi. Viên Ngộ bảo: - Ông hỏi ta.

Sư nhắc thoại trước. Viên Ngộ bảo: - Cây bá trước sân.

Sư liền thấu suốt, thưa với Viên Ngộ: - Cổ nhân nói một giọt nước gieo vào hồ to, đâu chẳng biết biển cả gieo vào giọt nước.

Viên Ngộ bảo: - Làm gì được kẻ này.

Chưa bao lâu, Viên Ngộ cử làm Đệ nhất tọa. Viên Ngộ nói bài kệ:

Thôi khoa Tứ phần bãi Lăng Nghiêm.

Dưới án đầu mày triệt để tham.

Chớ học Lương Công gần Mã Tổ.

Lại như Đức Sơn hỏi Long Đàm.

Bảy năm qua lại dạo Chiêu Giác.

Tam tải bay lên thẳng Bích Nham.

Kim nhật phiền mời đệ nhất tọa.

Hoa trắng rặng tùng hiệu Ưu-đàm.

Sau Sư đến yết kiến Phật Giám ở Tương Sơn. Phật Giám hỏi: - Phật Quả có câu chẳng vì người loạn nói, từng vì ông nói chăng?

Sư thưa: - Ngậm lấy miệng chó.

Phật Giám gằn giọng nói: - Chẳng phải đạo lý này.

Sư thưa: - Không người cướp túi muối trà của Thầy, kêu to làm gì?

Phật Giám bảo: - Nếu Phật Quả chẳng nói, ta vì ông nói.

Sư thưa: - Hòa thượng nghi thì thối viện riêng tham đi.

Phật Giám cười: Hả! Hả!

*

Sư khai pháp ở Bảo Ninh, kế dời sang Hoa Tạng, xoay lại lãnh Trung Phong.

Sư thượng đường: ?Chúng mua hoa chừ ta mua tùng, xanh xanh nhan sắc chẳng bă?g hồng, tính ra trọn chẳng cùng thời hợp, về lại đi chừ trong rừng xanh.? Tức cười cổ nhân nói thế ấy, giống như trốn núi nhảy xuống hồ, tránh chìm gieo vào lửa, chi bằng tùy phần đến đầu cuốc thước tám, thước năm thảo luận một cái nửa cái. Tuy nhiên như thế, Bảo Ninh nửa cái cũng chẳng cần. Cớ sao? Giàu hiềm ngàn miệng thiếu, nghèo hận một thân nhiều.

*

Đông chí, Sư thượng đường nhắc: Hòa thượng Hạo ở Ngọc Tuyền nói: Tuyết tuyết mảnh mảnh chẳng rơi chỗ khác, đến tháng chạp lại theo, năm sau tháng giêng tháng hai tháng ba tháng tư tháng năm tháng sáu tháng bảy tháng tám tháng chín tháng mười, như trước chẳng thôi, chết lạnh chết đói, khỏi bảo nói hồ nói loạn. Sư bảo: Chẳng phải mắng người cũng chẳng tán thán, cao xuất Lâm Tế Đức Sơn, chẳng giống Vân Cư La-hán. Hãy nói, Ngọc Tuyền ý chỉ thế nào? Sư im lặng giây lâu nói: - Chỉ được tuyết tiêu đi, tự nhiên xuân lại về.

*

Sau Sư thị tịch ở Bổn Sơn, trà-tỳ lưỡi và tim không cháy.

*

Thiền Sư Ẩn Phong
Đời thứ 3 sau Lục Tổ. Hệ truyền thừa Luc Tổ Huệ Năng->Nam Nhạc Hoài Nhượng->Mã Tổ Đạo Nhất->Ẩn Phong

Sư họ Ðặng, quê ở Thiền Võ, Phước Kiến. Trước Sư đến tham vấn Mã Tổ mà chưa nhận được chỗ huyền áo, Sư lại đến Thạch Ðầu đôi ba phen vẫn không thấy đạo.

Lúc ở chỗ Thạch Ðầu, Sư hỏi:- Làm sao được hội đạo?

Thạch Ðầu bảo:- Ta cũng chẳng hội đạo.

- Cứu kính thế nào?

- Ngươi bị cái ấy bao vây rồi!

Một hôm, Hòa thượng Thạch Ðầu hớt cỏ. Sư khoanh tay đứng bên trái. Thạch Ðầu xoay nhanh chiếc kéo sang trước mặt Sư hớt một gốc cỏ.

Sư thưa:

- Hòa thượng chỉ hớt được cái ấy, không hớt được cái này.

Thạch Ðầu đưa chiếc kéo lên. Sư nắm chiếc kéo, làm thế hớt.

Thạch Ðầu bảo:

- Ngươi chỉ hớt được cái này, không hớt được cái ấy.

Sư không đáp được.

Sau, nơi Mã Tổ một câu nói, Sư ngộ đạo.

Một hôm, Sư đẩy xe đất, Mã Tổ ngồi duỗi chân trên đường.

Sư thưa:- Thỉnh Thầy rút chân.

Mã Tổ bảo:- Ðã duỗi thì không rút.

- Ðã tiến thì không lùi.

Sư bèn đẩy xe qua, cán chân Mã Tổ bị thương. Mã Tổ vào pháp đường cầm chiếc búa gọi:

- Vừa rồi ai đẩy xe cán chân Lão tăng bị thương, hãy ra đây!

Sư bước ra đưa cổ trước Mã Tổ. Mã Tổ liền dẹp búa.

*

Sư đến chỗ Nam Tuyền Phổ Nguyện, thấy chúng Tăng đang thẩm vấn. Nam Tuyền chỉ tịnh bình bảo:

- Bình đồng (bình bằng đồng) là cảnh, trong bình có nước, chẳng được động đến cảnh, đem nước đến cho Lão tăng.

Sư bèn nắm tịnh bình đem đến trước mặt Nam Tuyền đổ nước.

Nam Tuyền bèn thôi.

*

Sư đến Qui Sơn vào nhà Tăng, cổi y bát bỏ chỗ Thượng tọa. Qui Sơn nghe Sư thúc đến, sửa soạn oai nghi vào nhà Tăng chào. Sư thấy Qui Sơn đến bèn làm thế nằm ngủ. Qui Sơn trở về phương trượng. Sư ra đi giây lâu, Qui Sơn hỏi thị giả:

- Sư thúc còn đó chăng?

Thị giả thưa:- Ðã đi.

- Khi đi có nói lời gì chăng?

- Không nói lời nào.

- Chớ nói không nói lời nào, tiếng kia vang như sấm.

*

Sư mùa Ðông ở Hoành Nhạc, mùa Hạ dừng nơi Thanh Lương. Ðời Ðường khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (806-821 T.L.), Sư định lên Ngũ Ðài Sơn, đi đường đến Hoài Tây gặp Ngô Nguyên Tế khởi binh chống triều đình. Quân hai bên đang đánh nhau chưa phân hơn thua. Sư nghĩ: "ta phải cứu nạn này", bèn ném tích trượng trong hư không, phi thân bay qua. Tướng sĩ hai bên trông thấy, tâm tranh đấu dứt sạch, liền rút quân. Sư đã dùng phép lạ, ngại làm mê hoặc quần chúng, bèn vào Ngũ Ðài Sơn nơi hang Kim Cang thị tịch.

Trước khi thị tịch, Sư hỏi chúng:

- Tôi thường thấy các vị tiền bối khi tịch hoặc ngồi, hoặc nằm, có vị nào đứng tịch chăng?

Chúng thưa:- Có.

Sư hỏi:- Có vị nào lộn ngược tịch chăng?

- Chưa từng thấy.

Sư bèn lộn ngược mà tịch, nhưng y phục vẫn nguyên vẹn như đứng. Chúng định để vào áo quan trà-tỳ, mà xô không lung lay. Dân chúng xa gần đồn đãi nhau kéo đến xem đông vô số. Sư có người em gái xuất gia làm Ni cũng có mặt tại đây. Cô Ni ấy nắm thân Sư, vừa trách:

- Lão huynh ngày trước chẳng giữ luật, khi chết lại làm mê hoặc người.

Trách xong, cô xô một cái, thân Sư ngã xuống.

Chúng đem trà-tỳ lấy xá-lợi.
Sửa lần cuối bởi phatphap vào ngày 04/03/11 23:27 với 1 lần sửa.


phatphap
Bài viết: 375
Ngày: 19/06/10 05:11
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: không rõ

Re: Các vị Thiền Sư Trung Hoa (tổng hợp)

Bài viết chưa xem gửi bởi phatphap »

Cư sĩ Bàng Long Uẩn

Ông người huyện Hành Dương, Xung Châu, tự là Ðạo Huyền, gia thế chuyên nghiệp Nho, đời sống rất thanh đạm, hiểu ngộ ít phần trần lao, quyết chí cầu giải thoát.

Ðời Ðường niên hiệu Trinh Nguyên năm đầu (785 T.L.), ông đến yết kiến Hòa thượng Thạch Ðầu, hỏi:

- Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì?

Thạch Ðầu lấy tay bụm miệng ông. Ông bỗng nhiên tỉnh ngộ.

Một hôm Thạch Ðầu hỏi:

- Từ ngày ông thấy Lão tăng đến nay hằng ngày ông làm việc gì?

Ông thưa:

- Nếu hỏi việc làm hằng ngày tức không có chỗ mở miệng.

Ông liền trình một bài kệ:

Nhật dụng sự vô biệt

Duy ngô tự ngẫu hài

Ðầu đầu phi thủ xả

Xứ xứ vật tương oai

Châu tử thùy vi hiệu

Khưu sơn tuyệt điểm ai

Thần thông tịnh diệu dụng

Vận thủy cập ban sài.

Dịch:

Hằng ngày không việc khác

Chỉ tôi tự biết hay

Vật vật chẳng bỏ lấy

Chỗ chỗ nào trái bày

Ðỏ tía gì làm hiệu

Núi gò bặt trần ai

Thần thông cùng diệu dụng

Gánh nước bửa củi tài.

Thạch Ðầu hứa khả, bảo:- Ông làm cư sĩ hay làm xuất gia?

Ông thưa:- Xin cho con theo sở nguyện không cạo tóc xuất gia.

Ông đến tham vấn Mã Tổ, hỏi:

- Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì?

Mã Tổ bảo:

- Ðợi miệng ông hút hết nước Giang Tây, ta sẽ nói với ông.

Ngay câu nói này, ông ngộ được huyền chỉ. Ông dừng ở chỗ Mã Tổ hai năm.

Sau khi đốn ngộ, ông về nhà lấy thuyền chở của cải đem đổ xuống sông Tương. Ông chỉ cất một cái thất nhỏ ở tu hành. Có người con gái tên Linh Chiếu thường theo hầu hạ, chuyên việc chẻ tre bện sáo bán nuôi cha.

Ông có làm bài kệ:

Hữu nam bất thú

Hữu nữ bất giá

Ðại gia đoàn biến đầu

Cọng thuyết vô sanh thoại.

Dịch:

Có trai không cưới

Có gái không gả

Cả nhà chung hội họp

Ðồng bàn lời vô sanh.

Ông nói năng lanh lợi, các nơi đều nghe tiếng. Ông thường đến các chỗ giảng kinh phát tâm tùy hỉ.

Có vị Sư giảng kinh Kim Cang đến chỗ "vô ngã vô nhân". Ông bèn hỏi:

- Tọa chủ đã "vô ngã vô nhân" (không ta không người), vậy ai giảng ai nghe?

Tọa chủ không đáp được.

Ông nói:- Tuy tôi là người tục cũng tin biết thô thiển.

Tọa chủ hỏi:- Theo cư sĩ ý thế nào?

Ông bèn giải bằng bài kệ:

Vô ngã phục vô nhân

Tác ma hữu sơ thân

Khuyến quân hưu lịch tọa

Bất tợ trực cầu chân

Kim Cang Bát-nhã tánh

Ngoại tuyệt nhất tim trần

Ngã văn tịnh tín thọ

Tổng thị giả danh trần.

Dịch:

Không ngã lại không nhân

Làm gì có thân sơ

Khuyên ông đừng ngồi mãi

Ðâu bằng thẳng cầu chân

Tánh Kim Cang Bát-nhã

Chẳng dính một mảy trần

Tôi nghe với tin nhận

Thảy đều giả danh trần.

Tọa chủ nghe kệ rồi, vui vẻ khen ngợi:

- Chỗ cư sĩ đến phần nhiều các bậc lão túc đã qua.


Ông đến viếng Ðơn Hà. Ðơn Hà làm thế chạy.

Ông nói:- Vẫn là thế phóng thân, thế nào là thế tần thân?

Ðơn Hà liền ngồi.

Ông lấy gậy vẽ dưới đất chữ Thất.

Ðơn Hà vẽ đáp chữ Nhất.

Ông nói:- Nhân bảy thấy một, thấy một quên bảy.

Ðơn Hà đứng dậy đi.

Ông gọi:- Hãy ngồi nán một chút, vẫn còn câu thứ hai.

Ðơn Hà bảo: - Trong ấy nói được sao?

Ông bèn khóc ra đi.


Một hôm, ngồi trong am, ông chợt nói:

- Khó khó mười tạ dầu mè trên cây vuốt. (Nan nan thập thạch du ma thọ thượng than.)

Long bà đáp:

- Dễ dễ trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư. (Dị dị bách thảo đầu thượng Tổ sư ý.)

Linh Chiếu tiếp:

- Cũng chẳng khó cũng chẳng dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò. (Dã bất nan, dã bất dị, cơ lai khiết phạn khốn lai thùy.)


Ông ngồi hỏi Linh Chiếu:

- Cổ nhân nói: "sáng sáng đầu trăm cỏ, sáng sáng ý Tổ sư" (minh minh bách thảo đầu, minh minh Tổ sư ý) là sao?

Linh Chiếu thưa:

- Lớn lớn già già thốt ra lời nói ấy. (Lão lão đại đại tác giá cá ngữ thoại.)

Ông hỏi:- Con thế nào?

- Sáng sáng đầu trăm cỏ, sáng sáng ý Tổ sư.

Ông bèn cười.


Ông có làm bài kệ:

Tâm như cảnh diệc như

Vô thật diệc vô hư

Hữu diệc bất quản

Vô diệc bất cư

Bất thị Hiền Thánh

Liễu sự phàm phu

Dị phục dị

Tức thử ngũ uẩn hữu chân trí

Thập phương thế giới nhất thừa đồng

Vô tướng pháp thân khởi hữu nhị

Nhược xả phiền não nhập Bồ-đề

Bất tri hà phương hữu Phật địa.

Dịch:

Tâm như cảnh cũng như

Không thật cũng không hư

Có cũng chẳng quản

Không cũng chẳng cư

Chẳng phải hiền thánh

Xong việc phàm phu

Dễ lại dễ

Tức năm uẩn này có chân trí

Thế giới mười phương đồng một thừa

Pháp thân không tướng nào có nhị

Nếu bỏ phiền não vào Bồ-đề

Chẳng biết nơi nào có Phật địa?

Lại có bài kệ:

Hộ sanh tu thị sát

Sát tận thủy an cư

Hội đắc cá trung ý

Thiết truyền thủy thượng phù.

Dịch:

Hộ sanh cần phải giết

Giết hết mới ở yên

Hiểu được ý trong đó

Thuyền sắt nổi phao phao.


Sắp tịch, ông bảo Linh Chiếu ra xem mặt trời đúng ngọ vô cho ông hay. Linh Chiếu ra xem vào thưa:

- Mặt trời đã đúng ngọ, mà có nguyệt thực.

Ông ra cửa xem.

Linh Chiếu lên tòa của ông ngồi kiết già chấp tay thị tịch.

Ông vào xem thấy cười, nói:- Con gái ta lanh lợi quá!

Ông bèn chậm lại bảy ngày sau.


Châu mục Vu Công đến thăm bệnh ông.

Ông bảo:

- Chỉ mong các cái có đều không, dè dặt các cái không đều thật, khéo ở thế gian đều như bóng vang.

Nói xong, ông nằm gác đầu trên gối Vu Công mà thị tịch.


Tin ông tịch đưa về nhà cho bà hay.

Bà nói:

- Con gái ngu si với ông già vô tri, không báo tin mà đi, sao đành vậy?

Bà ra báo tin cho con trai đang làm ngoài đồng. Bà nói:

- Long công với Linh Chiếu đi rồi con!

Người con trai đang bừa đáp:- Dạ!

Rồi lặng thinh giây lâu bèn đứng mà tịch.

Bà nói:- Thằng này sao ngu si lắm vậy!

Lo thiêu con xong, bà đi từ biệt thân thuộc rồi biệt tích.


Ông Long Uẩn có làm thi kệ hơn ba trăm thiên còn lưu truyền ở đời.


Thiền sư Báo Ân

Ở Núi Đại Hồng
Sư họ Lưu, ông cha là dòng Nho, chưa được hai mươi tuổi, Sư đã được các nơi đề cử ra làm quan. Sau, Sư chán cảnh trần tục đệ đơn lên triều đình xin xuất gia. Vua Tống chấp nhận theo sở nguyện.
Sư dạo qua các thiền hội, đến núi Đầu Tử ra mắt Thiền sư Nghĩa Thanh. Ở lại đây chưa bao lâu, Sư ngộ được tâm yếu. Nghĩa Thanh nói với Sư: Ngươi là người tái sanh, phải tự gìn giữ.
*
Từ giã Nghĩa Thanh, Sư đi yết kiến các bậc cao đức để được ấn khả.
Thừa tướng Hàn Công Chơn thỉnh Sư khai pháp ở chùa Thiếu Lâm tại Tây Kinh.
Sư thượng đường:
- Những lời như đây hội được ai là tri âm? Dù cho nhằm trong một câu liền ngàn mắt chợt mở, chín chắn có mấy người mê gặp Đạt-ma. Các ông cần biết Tổ sư Đạt-ma chăng? Sư liền đưa tay làm thế nắm, nói: Lỗ mũi của Đạt-ma ở trong tay của Thiếu Lâm (chỉ Sư). Nếu buông ra đi thì, từ kinh thuyết cõi này Tây Thiên nói vàng nói đen dối Hồ lừa Hán. Nếu chẳng buông ra thì, chẳng tiêu một cái nắm. Có người nào cần Tổ sư làm chủ mời ra cùng Thiếu Lâm thấy nhau, lại có chăng?
Sư im lặng giây lâu, nói: Quả nhiên.
*
Không bao lâu, nơi chùa Đại Hồng chỗ chuyên về Luật tông thay đổi thành Thiền viện thỉnh Sư trụ trì.
Sư thượng đường đưa cây gậy lên, nói:
- Xem! xem! quả đất tuyết lênh láng, xuân đến khắp nơi lạnh. Linh Phong cùng Thiếu Thất, chia phân chẳng tương cang. Thôi luận Phật ý Tổ ý, chớ bàn đầu câu mối lời. Trâu sắt không dấu vết, trăng sáng hoa lan anh tự xem.
Sư đưa gậy lên bước xuống tòa.
*
Sư cùng cư sĩ Trương Vô Tận làm bạn trong đạo pháp. Cư sĩ thường biên thơ hỏi nhiều vấn đề Phật pháp và cả vấn đề đại yếu tam giáo. Sư tùy chỗ giải thích rất rành rẽ.
Không biết Sư qui tịch lúc nào? và bao nhiêu tuổi.

Thiền sư Bảo Ấn Sở Minh
Ở Tịnh Từ phủ Lâm An
Sư họ Trương, quê ở Bách Việt.
*Sư thượng đường: Tâm ấn Tổ sư chẳng dài chẳng ngắn chẳng vuông chẳng tròn chẳng trong chẳng ngoài cũng chẳng khoảng giữa. Xin hỏi đại chúng quyết định là hình mạo gì? Sư cầm gậy nói: Cổ triện chẳng thành văn, truy bạch khó đồng thể, từ trước tự phân minh, đâu cần lại chuyên tạo. Sư gõ giường thiền xuống tòa.
*
Sư thượng đường: Ra cửa thấy sông núi, vào cửa thấy điện Phật, linh quang chỗ chạm thông, các người sao chẳng tiến. Nếu chẳng tiến, Tịnh Từ ngày nay chẳng được tiện.
Sư thượng đường: Tổ sư nói: Ta xưa đến cõi này, truyền pháp cứu mê tình, một hoa nở năm cánh, kết quả tự nhiên thành. Khi ấy Tịnh Từ nếu thấy nói như thế, dùng cây gậy thông đen đập một gậy chết tốt, chôn trên đất không âm dương, khiến Ngài nhả hơi chẳng được, cớ sao nỡ để Ngài gạt người cả nước Đại Đường. Trong chúng có người vì Tổ nhả hơi chăng? Ra đây một lúc chôn hết.
*
Sư thượng đường: Nếu luận việc này như ném bảo bối, loạn gieo vàng ngọc, người quên mình tự cam nghèo cùng, người có mắt tin lấy đưa ra. Vì thế nói, Diêm-phù có báu lớn thấy ít được lại là hiếm, nếu người đem dâng ta, thành Phật chỉ trong bữa ăn. Sư cầm cây gậy nói: - Như nay một lúc trình tương tợ, khắp mời đại chúng để mắt nhìn lên. Sư ném cây gậy xuống tòa.

Thiền sư Bảo Ấn Biệt Phong

Ở Cảnh Sơn
Sư họ Lý quê ở Gia Châu. Từ nhỏ Sư thông cả sáu kinh mà chán việc thế tục. Sư theo Thiền sư Thanh Tố ở Đức Sơn xuất gia thọ giới cụ túc. Sau Sư nghe kinh Hoa Nghiêm luận Khởi Tín đã thấu được lý đó. Sư bỏ đây đi theo Thiền sư Mật Ấn ở Trung Phong. Một hôm Mật Ấn nhắc: - ?Tăng hỏi Nham Đầu: Khi khởi diệt chẳng dừng là sao? Nham Đầu quở nói: - Là gì khởi diệt??
Sư khai ngộ liền gật đầu. Gặp lúc Viên Ngộ trở về Chiêu Giác. Mật Ấn sai Sư đến thăm. Sư nhân theo chúng vào thất. Viên Ngộ hỏi: - Từ trước chư thánh lấy cái gì tiếp người?
Sư dựng đứng nắm tay. Viên Ngộ bảo: - Đây là lão tăng dùng.
Sư lấy nắm tay chao đó. Viên Ngộ cũng đưa nắm tay, giao nhau cười to rồi thôi.
Sau Sư đến Cảnh Sơn yết kiến Đại Huệ. Đại Huệ hỏi: - Ở đâu lại?
Sư thưa: - Tây Xuyên.
Đại Huệ bảo: - Chưa ra cổng Kiếm Môn cho ông ba mươi gậy rồi.
Sư thưa: - Chẳng nên khởi động Hòa thượng.
Đại Huệ vui vẻ quét thất mời ngồi. Đại Huệ dời về Nam, Sư trở lại Tây.
Sư tiếp tục trụ trì các ngôi chùa cổ, sau lại ra núi trụ Bảo Ninh, Kim Sơn, Tuyết Đậu, Cảnh Sơn.
Khai đường, Sư đăng tòa nói: Thế Tôn khi mới thành Chánh giác, ở trong vườn Lộc Uyển chuyển bánh xe pháp Tứ đế, Tỳ-kheo Kiều Trần Như ngộ đạo trước nhất. Sau này Thiền sư Chơn Tịnh mới trụ Động Sơn niêm rằng: Ngày nay trong động Tân Phong, chỉ chuyển cây trú trượng, bèn cầm cây gậy xoay bên trái nói: - Lại có người ngộ đạo trước nhất chăng? Nếu không, trượng phu tự có chí xung thiên, chớ nhằm chỗ Như Lai đi mà đi. Bèn hét một hét xuống tòa. Nếu là Thượng tọa Ấn thì chẳng thế, ngày nay nhằm trong núi Phụng Hoàng ban đầu không công phu chuyển bánh xe pháp Tứ đế, cũng không khí lực chuyển cây trú trượng, chỉ dạy mọi người đi nên bước chậm, nói cần nhỏ lời. Cớ sao? Muốn được không chuốc nghiệp vô gián, chớ chê chánh pháp luân Như Lai.
*
Sư thượng đường: Chư Phật ba đời dùng một câu diễn trăm ngàn muôn ức câu, thâu trăm ngàn muôn ức câu chỉ ở một câu. Dưới cửa Tổ sư nửa câu cũng không, chỉ thế ấy nên ăn bao nhiêu gậy đau. Chư nhân giả! Vả lại chư Phật phải, chư Tổ phải? Nếu nói Phật phải thì Tổ chẳng phải, tổ phải thì Phật chẳng phải, lấy bỏ chưa quên. Nếu nói Phật Tổ đồng thời phải, Phật Tổ đồng thời chẳng phải lầm lẫn chẳng ít. Một câu cắt đứt sắn bìm làm sao nói? Con cọp gói trong mũ chỉ, đáng cười lại kinh người. Sư lại nhắc: ?Tăng hỏi Nham Đầu: - Trong trần thênh thang làm sao biện được chủ? Nham Đầu bảo: - Trong cái chậu đồng đựng đầy dầu.? Sư nói: - Cả thảy Nham Đầu đánh mất lỗ mũi. Chợt có người hỏi Bảo Ninh (Sư): - Trong trần thênh thang làm sao biện được chủ? Chỉ đáp kia rằng: - Trời lạnh chẳng nên cổi mũ.
Sư thượng đường: Mùng một tháng sáu mặt trời đỏ đốt không, chữ thập (+) đầu đường tuyết sâu một thước, quét dọn chẳng rảnh xoay tránh chẳng kịp, động được thôn đông con liêu hồ, nửa đêm mang giày trên nước đứng.
Sư thượng đường: Đem tâm trừ vọng vọng khó trừ, tức vọng sáng tâm đạo càng xa, thùng thông lủng đáy không kỵ úy, thảnh thơi một bước một hoa sen.
Sư đến Cảnh Sơn, vua Hiếu Tông mời về điện Tuyển Đức hỏi đạo. Tuổi già Sư chán trụ trì tâu xin trở về am. Niên hiệu Thiệu Hy năm đầu (1190) tháng mười một, Sư đến thăm Thiền sư Trí Sách ở Giao Thừa để cùng nhau từ biệt, Trí Sách hỏi ngày đi, Sư đáp: - Nước tụ thành hồ.
Khi sắp về đòi giấy viết: Đêm mùng bảy tháng mười hai khi gà gáy. Đúng ngày này Sư tịch.


phatphap
Bài viết: 375
Ngày: 19/06/10 05:11
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: không rõ

Re: Các vị Thiền Sư Trung Hoa (tổng hợp)

Bài viết chưa xem gửi bởi phatphap »

Thiền sư Bảo Thông (Ðại Ðiên)

Không biết quê quán và tên tộc của Sư. Chỉ biết buổi đầu Sư đến tham vấn Thạch Ðầu. Thạch Ðầu hỏi:

- Cái gì là tâm ngươi?

Sư thưa:- Nói năng là tâm.

Bị Thạch Ðầu nạt đuổi ra.

Hơn một tuần, Sư lại đến hỏi:

- Trước đó đã chẳng phải, ngoại trừ cái này, gì là tâm?

Thạch Ðầu bảo:- Trừ bỏ nhướng mày chớp mắt, đem tâm lại!

- Không tâm có thể đem lại.

- Nguyên lai có tâm sao nói không tâm? Không tâm trọn đồng với không.

Nghe câu nói ấy, Sư đại ngộ.

*

Một hôm Sư đứng hầu, Thạch Ðầu hỏi:

- Ngươi là Tăng tham thiền hay là Tăng châu huyện?

Sư thưa:- Tăng tham thiền.

- Sao là thiền?

- Nhướng mày chớp mắt.

- Trừ ngoài nhướng mày chớp mắt, đem "bản lai diện mục" (bộ mặt thật xưa nay) của ngươi ra trình xem?

- Trừ ngoài nhướng mày chớp mắt, thỉnh Hòa thượng xem con!

- Ta trừ xong.

- Con trình Hòa thượng rồi.

- Ngươi đã đem trình, tâm ta thế nào?

- Chẳng khác Hòa thượng.

- Không quan hệ việc ngươi.

- Vốn không vật.

- Ngươi cũng không vật.

- Ðã không vật tức vật thật.

- Vật thật không thể được. Tâm ngươi thấy lượng ý chỉ như vậy phải khéo hộ trì.

*

Sau, Sư từ biệt Thạch Ðầu đến Linh Sơn, Triều Châu, ở ẩn. Học chúng bốn phương qui tụ về khá đông.

Sư thượng đường dạy chúng:
- Phàm người học đạo phải biết bản tâm nhà mình, đem tâm chỉ nhau mới có thể thấy đạo. Thấy nhóm người hiện thời phần nhiều chỉ nhận nhướng mày chớp mắt, một nói một nín, chợt nhận ấn khả cho là tâm yếu, đây thật là chưa rõ. Nay ta vì các ngươi nói trắng ra, mỗi người phải lắng nghe nhận lấy: "Chỉ trừ bỏ tất cả vọng động tưởng niệm xét lường, tức chân tâm của ngươi." Tâm này cùng trần cảnh và khi kềm giữ lặng lẽ hoàn toàn không dính dấp. Tức tâm là Phật không đợi tu sửa. Vì cớ sao? Vì hợp cơ tùy chiếu, lặng lẽ tự dùng, tột chỗ dùng kia trọn không thể được. Bảo là diệu dụng chính là bản tâm, cần yếu hộ trì chớ nên dễ ngươi.

Có vị Tăng hỏi:- Trong kia, khi người thấy nhau thì thế nào?

Sư đáp:- Trước chẳng có trong kia.

- Trong kia thế nào?

- Chẳng hỏi câu ấy.

*

Hàn Văn Công hỏi Sư:- Hòa thượng tuổi được bao nhiêu?

Sư cầm xâu chuỗi giở lên bảo:- Hội chăng?

Văn Công thưa:- Chẳng hội.

Sư bảo:- Ngày đêm trăm lẻ tám.

Văn Công không hiểu trở về.

Hôm sau, Văn Công lại đến, vừa tới cửa gặp Thủ tọa, Văn Công thuật câu nói hôm qua của Sư, hỏi ý kiến thế nào? Thủ tọa vỗ răng ba cái. Văn Công vào trong gặp Sư, hỏi lại ý kiến hôm qua. Sư cũng vỗ răng ba cái.

Văn Công thưa:- Nguyên lai Phật pháp không hai thứ.

Sư hỏi:- Là đạo lý gì?

Văn Công thưa:- Vừa đến hỏi Thủ tọa cũng như thế.

Sư gọi Thủ tọa hỏi:- Phải ngươi đáp như thế chăng?

Thủ tọa thưa:- Phải.

Sư đánh đuổi ra.

Lại một hôm Văn Công đến bạch Sư:

- Ðệ tử ở quận châu nhiều việc, xin Thầy cho một câu tóm tắt hết Phật pháp.

Sư lặng thinh.

Văn Công mờ mịt.

Lúc ấy Tam Bình làm thị giả đứng hầu, bèn gõ giường thiền ba cái.

Sư hỏi:- Làm gì?

Tam Bình thưa:- Trước lấy định động, sau lấy trí nhổ.

Văn Công thưa:- Môn phong Hòa thượng cao vót, đệ tử từ bên thị giả được chỗ vào.

*

Có vị Tăng hỏi:- Biển khổ sóng to lấy gì làm thuyền bè?

Sư bảo:- Lấy cây làm thuyền bè.

- Thế nào được qua?

- Người mù nương kẻ mù trước, người câm nương kẻ câm trước.

Không biết Sư tịch lúc nào và nơi nào.

Thiền sư Bảo Triệt (Ma Cốc)

Một hôm, theo Mã Tổ đi dạo, Sư hỏi Mã Tổ:

- Thế nào là Ðại Niết-bàn?

Mã Tổ đáp:- Gấp!

- Gấp cái gì?

- Xem nước.

*

Sư cùng Nam Tuyền, Qui Tông đến yết kiến Cảnh Sơn, đi đường gặp một bà già. Sư hỏi:

- Cảnh Sơn đi đường nào bà?

Bà già đáp:- Ði thẳng.

- Ðầu trước nước sâu qua được chăng?

- Chẳng ướt gót chân.

- Bờ trên lúa trúng gai tốt, bờ dưới lúa trúng gai gầy?

- Thảy bị cua ăn hết.

- Nếp thơm ngon.

- Hết mùi hơi.

- Bà ở chỗ nào?

- Chỉ ở trong ấy.

Ba người đồng vào quán ngồi. Bà già nấu một bình trà, bưng ba chén chung đến hỏi:

- Hòa thượng có thần thông thì uống trà?

Ba người nhìn nhau chưa nói câu nào.

Bà già liền bảo:- Xem kẻ già này trình thần thông đây.

Nói xong bà cầm chung nghiêng bình rót trà, rồi đi.

*

Sư cùng Ðơn Hà đi dạo núi, thấy cá lội trong nước, Sư lấy tay chỉ. Ðơn Hà nói:

- Thiên nhiên! Thiên nhiên!

Ðến hôm sau, Sư hỏi Ðơn Hà:- Hôm qua ý thế nào?

Ðơn Hà nhảy tới làm thế nằm.

Sư nói:- Trời xanh.

*

Sư cùng Sơn Hà đi đến núi Ma Cốc. Sư hỏi:

- Tôi đến trong đó trụ.

Ðơn Hà nói:- Trụ tức lại trở về, có cái này không?

Sư nói:- Trân trọng!

*

Có vị Tăng đến hỏi:

- Mười hai phần giáo con chẳng nghi. Thế nào ý Tổ sư từ Ấn Ðộ qua?

Sư bèn đứng dậy lấy trượng xoay quanh thân một vòng, đứng một chân, bảo:

- Hội chăng?

Tăng thưa:- Không hội.

Sư liền đánh.

*

Tăng hỏi:- Thế nào là đại ý Phật pháp?

Sư lặng thinh.

*

Ðam Nguyên hỏi:- Quan Âm mười hai mặt là phàm là thánh?

Sư đáp:- Là thánh.

Ðam Nguyên liền đánh Sư một cái.

Sư bảo:- Biết ông chẳng đến cảnh giới ấy.

Thiền Sư Bổn Tài Phật Tâm

Ở Thượng Phong Đàm Châu

Sư họ Đào, quê ở Phước Châu, thuở bé được xuất gia, thọ giới cụ túc xong đi du phương. Sư đến Đại Trung nương Thiền sư Long ở Hải Ấn thấy lão túc là Đạt Đạo xem kinh đến câu “một đầu sợi lông sư tử trăm ức đầu sợi lông đồng thời hiện”, Sư chỉ hỏi: - Một đầu sợi lông sư tử vì sao được trăm ức đầu sợi lông đồng thời hiện? Đạt đáp: - Ngươi mới vào tùng lâm đâu thể lý hội được việc này. Sư nhân đây sanh nghi. Sư phát tâm lãnh chức Tịnh đầu. Một hôm, Sư đến phiên quét dọn. Hải Ấn vừa đến dạ tham, đến nơi thấy sửa sang tòa liền ném cây gậy bảo: - Liễu thì đầu sợi lông nuốt bể cả, mới biết cả đại địa một hạt bụi. Sư bỗng nhiên có tỉnh.

*

Sau Sư ra xứ Mân đến Dự Chương núi Hoàng Long ở chỗ Tử Tâm mà cơ duyên không khế hợp. Sư đến tham vấn Linh Nguyên, mỗi khi vào thất ra ắt lau nước mắt nói: - Việc này ta thấy được rất rõ ràng, chỉ là lâm cơ nói chẳng ra. Nếu thế là tại sao?

Linh Nguyên biết Sư rất cần mẫn, bảo: - Phải đại triệt mới được tự tại.

Chưa bao lâu, bỗng thấy vị Tăng ở bàn bên cạnh đọc Tào Động Quảng Lục, đến Dược Sơn hái củi về có vị Tăng hỏi: - Chỗ nào lại?

Dược Sơn đáp: - Đốn củi lại.

Tăng chỉ con dao dưới lưng nói: - Khua ren ren là cái gì?

Dược Sơn rút dao làm thế chặt. Sư chợt vui mừng tát vị Tăng đang đọc một tát, vén rèm chạy tuôn ra cửa nói kệ:

Triệt! Triệt!

Đại hải càn khô hư không tịnh liệt

Tứ phương bát diện tuyệt già lan

Vạn tượng sum la tề lậu tiết.

Dịch:

Triệt! Triệt!

Biển cả khô khan hư không đều nát

Bốn phương tám mặt bặt ngăn che

Vạn tượng sum la đều tiết lộ.

Về sau, Sư được chia tòa giảng dạy ở Chơn Thừa, nhận trụ ở Thượng Phong và dời trụ nhiều chùa nổi tiếng.

Khi Sư trụ ở Càn Nguyên ngày khai đường dạy chúng: Trăm ngàn môn tam-muội vô lượng tạng phước đức, buông đi cũng như mở kho thì sâm sai xen lẫn, nắm đứng cũng giống tuyết phủ hoa lau khắp thân khó biện. Khiến cho người thấy đó khêu dậy liền đi, người nghe đó một đao thẳng vào, mỗi mỗi đủ chánh nhãn ở đảnh môn, người người mang theo tay một linh phù, quét tri kiến Phật Tổ, làm họa ương ở tùng lâm. Tôi nhớ ngày khai đường của Bảo Thọ, Tam Thánh đẩy một vị Tăng ra, Bảo Thọ liền đánh, Tam Thánh nói: Thế ấy vì người là làm mù mắt người cả một
thành Trấn Châu đi rồi. Vả như Càn Nguyên ngày nay khai đường, hoặc có vị Tăng ra đây, Sơn tăng cũng đánh, chẳng những thoại này đại hành, cốt yếu mở mắt người cả thành Phước Châu. Vì sao vậy? Kiếm vì bất bình lìa giáp báu, thuốc nhân cứu bệnh ra bình vàng.

Sư thượng đường: Đức Đạt-ma trước khi chưa sang Đông Độ, người người đều ấp hạt châu Mỵ Thủy, kẻ kẻ đều ôm hòn ngọc Kinh Sơn, đáng gọi là vách đứng ngàn nhẫn. Đến khi Nhị Tổ lễ ba lạy, về sau mỗi mỗi Nam hỏi các bạn, Bắc lễ Văn-thù, rất chẳng trượng phu. Hoặc có một người nửa người chẳng cầu chư Thánh chẳng trọng kỷ linh, một ngựa một thương nhằm trong hư không đấu kiếm, thật là thích thú bình sanh. Như hiện nay có chăng? Tự là chẳng về về liền được, mây cảnh ngũ hồ có ai giành.

*

Sư thượng đường: Nhất pháp có hình gồm động thực, trăm sông chảy xiết biển đua về, sáng đâu chẳng động trời mây nhạt, tưởng tượng Tỳ- da một bệnh ông. Duy-ma bệnh ắt Thượng Phong bệnh, Thượng Phong bệnh ắt cây gậy bệnh, cây gậy bệnh ắt sum la vạn tượng bệnh, sum la vạn tượng bệnh ắt phàm cùng thánh bệnh. Quí vị lại biết chỗ bệnh trước khởi chăng? Nếu là biết được, tình cùng vô tình đồng một thể, nơi nơi đều đồng chân pháp giới. Nếu chưa như thế, dưa ngọt tột rễ ngọt, dưa đắng gốc cũng đắng.

Thiền sư Bổn Tịnh

(? - 761)

Sư họ Trương, quê ở Ráng Châu, xuất gia từ thuở bé. Sau Sư đến tham học với Lục tổ Huệ Năng được Tổ truyền tâm. Sư từ giã Tổ, tìm đến núi Tư Không ở chùa Vô Tướng, chuyên ở nơi đây tu hành.

Ðời Ðường niên hiệu Thiên Bảo năm thứ ba (744 T.L.) vua Huyền Tông sai Trung sứ Dương Quang Ðình vào núi cắt dây thường xuân. Dương Quang Ðình tình cờ gặp được thất của Sư. Ðình lễ bái thưa:

- Ðệ tử mộ đạo đã lâu, cúi xin Hòa thượng từ bi tóm tắt chỉ dạy.
Sư bảo:
- Người nghiên học Thiền tông trong thiên hạ đều hội về Kinh sư (kinh đô vua), thiên sứ nên trở về triều thưa hỏi là đầy đủ. Bần đạo ở gọp núi cạnh khe không có chỗ dụng tâm.
Quang Ðình thiết tha khóc lóc lễ lạy.
Sư bảo:
- Thôi! Chớ lễ bần đạo. Thiên sứ vì cầu Phật hay vì hỏi đạo?
Ðình thưa:
- Ðệ tử trí thức tối tăm chưa biết Phật với Ðạo nghĩa ấy thế nào?
Sư bảo:
- Nếu muốn cầu Phật, tức tâm là Phật. Nếu muốn hội Ðạo, không tâm là Ðạo.
- Thế nào tức tâm là Phật?
- Phật nhân tâm mà ngộ, tâm do Phật được bày. Nếu ngộ không tâm thì Phật cũng chẳng có.
- Thế nào không tâm là Ðạo?
- Ðạo vốn không tâm, không tâm gọi là Ðạo. Nếu rõ không tâm thì không tâm tức là Ðạo vậy.
Quang Ðình đảnh lễ tin nhận.
Trở về triều, Quang Ðình tâu hết việc trong núi cho vua nghe. Vua ban sắc lệnh sai Quang Ðình đi thỉnh Sư. Ngày mười ba tháng chạp, Sư theo sứ về đến đế đô, Vua thỉnh ở chùa Bạch Liên.
Ðến ngày rằm tháng hai năm sau, Vua mời hết những danh Tăng và các người học Phật uyên bác đến nội đạo tràng (đạo tràng trong cung) cùng Sư xiển dương Phật lý.
Khi ấy, có Thiền sư Viễn lên tiếng hỏi Sư:
- Nay đối Thánh thượng để xét lường tôn chỉ, cần phải hỏi thẳng, đáp thẳng, không cần dùng nhiều lời. Như chỗ thấy của Thiền sư lấy gì làm đạo?
Sư đáp:- Không tâm là đạo.
Viễn hỏi:- Ðạo nhân tâm mà có, đâu được nói không tâm là đạo?
Sư đáp:
- Ðạo vốn không tên, nhân tâm có đạo. Tâm và tên nếu có thì đạo không rỗng suốt. Tột tâm đã không thì đạo nương đâu mà lập? Cả hai đều là giả danh.
Viễn hỏi:- Thiền sư thấy thân tâm là đạo rồi chăng?
Sư đáp:- Sơn tăng thân tâm xưa nay là đạo.
Viễn hỏi:
- Vừa nói không tâm là đạo, giờ lại nói thân tâm xưa nay là đạo, đâu không trái nhau?
Sư đáp:
- Không tâm là đạo, tâm mất đạo không, tâm đạo nhất như nên nói không tâm là đạo. Thân tâm xưa nay là đạo, đạo cũng vốn là thân tâm, thân tâm vốn đã là không, đạo cũng không tột nguồn chẳng có.
Viễn hỏi:- Xem hình thể Thiền sư rất nhỏ đâu thể hội được lý này?
Sư đáp:
- Ðại đức chỉ thấy tướng Sơn tăng, chẳng thấy được không tướng của Sơn tăng. Thấy tướng là chỗ thấy của Ðại đức, kinh nói "phàm có tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức ngộ được đạo kia". Nếu lấy tướng cho là thật thì cùng kiếp không thể ngộ đạo.
Viễn bảo:- Nay thỉnh Thiền sư ở trên tướng nói không tướng.
Sư đáp:
- Kinh Tịnh Danh nói: "Bốn đại không chủ, thân cũng không ngã, chỗ thấy không ngã, cùng đạo tương ưng." Ðại đức nếu cho tứ đại có chủ là ngã, nếu thấy có ngã thì cùng kiếp không thể hội đạo.

Viễn nghe nói thất sắc lặng lẽ rút lui.


phatphap
Bài viết: 375
Ngày: 19/06/10 05:11
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: không rõ

Re: Các vị Thiền Sư Trung Hoa (tổng hợp)

Bài viết chưa xem gửi bởi phatphap »

Thiền sư Biểu Tự

Ở Ngũ Tổ Kỳ Châu

Sư quê ở Hoài An, buổi đầu nương theo Thiền sư Pháp Diễn ở Ngũ Tổ, rất lâu mà không có tỉnh. Lúc đó Viên Ngộ làm Thủ tọa, Sư đến thưa thỉnh. Viên Ngộ bảo: - Huynh có chỗ nghi thử nói tôi xem. Sư liền nhắc lại Đức Sơn tiểu tham không đáp thoại, hỏi thoại ăn ba mươi gậy.

Viên Ngộ bảo: - Lễ bái đi ta làm thầy được ông, nhắc thoại còn chẳng hội.

Sư làm lễ xong, Viên Ngộ bảo nhắc lại thoại trước. Sư thưa: - Đức Sơn tiểu tham không đáp thoại.

Viên Ngộ bụm miệng Sư nói: - Chỉ thế ấy khán.

Sư to tiếng nói: - Bậy! Bậy! Đâu có công án, chỉ dạy người khán một câu đạo lý.

Có một vị bảo Sư: - Huynh không nên nói như thế, Thủ tọa phải có phương tiện.

Nhân đây, Sư tịnh tọa thể cứu một tuần, bỗng giải được chỗ nghi. Sư đến Viên Ngộ lễ tạ.

Viên Ngộ nói: - Huynh mới biết tôi chẳng khi huynh.

Sư lại đến phương trượng, Pháp Diễn đón Sư vui vẻ. Từ đây càng ngày Sư càng thâm nhập huyền áo. Pháp Diễn sắp qui tịch, để thơ cùng Huyện thú giới thiệu Sư trụ trì. Tăng chúng bốn phương vẫn kéo tới đông đảo.

Sư yết bảng trước cửa liêu thị giả rằng: “Đông Sơn có ba câu, nếu người nói được liền đeo mang.” Chư Tăng đều không nói được. Một hôm, có vị Tăng mang tọa cụ đi thẳng đến phương trượng, thưa Sư rằng: Con nói chẳng được chỉ cần đeo mang. Sư rất vui, gọi: Duy-na ở dưới cửa sổ an bày.

Sư thượng đường: Khi Thế Tôn đưa cành hoa, Ca-diếp cười chúm chím, người chỉ biết đưa hoa cười chúm chím, vẫn không biết Thế Tôn.

Có vị Tăng hỏi: - Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang?

Sư đáp: - Trong rừng gai góc múa Chá Chi (tên bản nhạc).

Tăng hỏi: - Thế nào là Phật?

Sư đáp: - Mới sanh hài tử ném bồn vàng.


Thiền Sư Bổn Tịnh

(? - 761)

Sư họ Trương, quê ở Ráng Châu, xuất gia từ thuở bé. Sau Sư đến tham học với Lục tổ Huệ Năng được Tổ truyền tâm. Sư từ giã Tổ, tìm đến núi Tư Không ở chùa Vô Tướng, chuyên ở nơi đây tu hành.

Ðời Ðường niên hiệu Thiên Bảo năm thứ ba (744 T.L.) vua Huyền Tông sai Trung sứ Dương Quang Ðình vào núi cắt dây thường xuân. Dương Quang Ðình tình cờ gặp được thất của Sư. Ðình lễ bái thưa:

- Ðệ tử mộ đạo đã lâu, cúi xin Hòa thượng từ bi tóm tắt chỉ dạy.
Sư bảo:
- Người nghiên học Thiền tông trong thiên hạ đều hội về Kinh sư (kinh đô vua), thiên sứ nên trở về triều thưa hỏi là đầy đủ. Bần đạo ở gọp núi cạnh khe không có chỗ dụng tâm.
Quang Ðình thiết tha khóc lóc lễ lạy.
Sư bảo:
- Thôi! Chớ lễ bần đạo. Thiên sứ vì cầu Phật hay vì hỏi đạo?
Ðình thưa:
- Ðệ tử trí thức tối tăm chưa biết Phật với Ðạo nghĩa ấy thế nào?
Sư bảo:
- Nếu muốn cầu Phật, tức tâm là Phật. Nếu muốn hội Ðạo, không tâm là Ðạo.
- Thế nào tức tâm là Phật?
- Phật nhân tâm mà ngộ, tâm do Phật được bày. Nếu ngộ không tâm thì Phật cũng chẳng có.
- Thế nào không tâm là Ðạo?
- Ðạo vốn không tâm, không tâm gọi là Ðạo. Nếu rõ không tâm thì không tâm tức là Ðạo vậy.
Quang Ðình đảnh lễ tin nhận.
Trở về triều, Quang Ðình tâu hết việc trong núi cho vua nghe. Vua ban sắc lệnh sai Quang Ðình đi thỉnh Sư. Ngày mười ba tháng chạp, Sư theo sứ về đến đế đô, Vua thỉnh ở chùa Bạch Liên.
Ðến ngày rằm tháng hai năm sau, Vua mời hết những danh Tăng và các người học Phật uyên bác đến nội đạo tràng (đạo tràng trong cung) cùng Sư xiển dương Phật lý.
Khi ấy, có Thiền sư Viễn lên tiếng hỏi Sư:
- Nay đối Thánh thượng để xét lường tôn chỉ, cần phải hỏi thẳng, đáp thẳng, không cần dùng nhiều lời. Như chỗ thấy của Thiền sư lấy gì làm đạo?
Sư đáp:- Không tâm là đạo.
Viễn hỏi:- Ðạo nhân tâm mà có, đâu được nói không tâm là đạo?
Sư đáp:
- Ðạo vốn không tên, nhân tâm có đạo. Tâm và tên nếu có thì đạo không rỗng suốt. Tột tâm đã không thì đạo nương đâu mà lập? Cả hai đều là giả danh.
Viễn hỏi:- Thiền sư thấy thân tâm là đạo rồi chăng?
Sư đáp:- Sơn tăng thân tâm xưa nay là đạo.
Viễn hỏi:
- Vừa nói không tâm là đạo, giờ lại nói thân tâm xưa nay là đạo, đâu không trái nhau?
Sư đáp:
- Không tâm là đạo, tâm mất đạo không, tâm đạo nhất như nên nói không tâm là đạo. Thân tâm xưa nay là đạo, đạo cũng vốn là thân tâm, thân tâm vốn đã là không, đạo cũng không tột nguồn chẳng có.
Viễn hỏi:- Xem hình thể Thiền sư rất nhỏ đâu thể hội được lý này?
Sư đáp:
- Ðại đức chỉ thấy tướng Sơn tăng, chẳng thấy được không tướng của Sơn tăng. Thấy tướng là chỗ thấy của Ðại đức, kinh nói "phàm có tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức ngộ được đạo kia". Nếu lấy tướng cho là thật thì cùng kiếp không thể ngộ đạo.
Viễn bảo:- Nay thỉnh Thiền sư ở trên tướng nói không tướng.
Sư đáp:
- Kinh Tịnh Danh nói: "Bốn đại không chủ, thân cũng không ngã, chỗ thấy không ngã, cùng đạo tương ưng." Ðại đức nếu cho tứ đại có chủ là ngã, nếu thấy có ngã thì cùng kiếp không thể hội đạo.

Viễn nghe nói thất sắc lặng lẽ rút lui.

Sư có bài kệ:
Tứ đại vô chủ phục như thủy
Ngộ khúc phùng trực vô bỉ thử
Tịnh uế lưỡng xứ bất sanh tâm
Ủng quyết hà tằng hữu nhị ý
Xúc cảnh đản tợ thủy vô tâm
Tại thế tung hoành hữu hà sự.
Dịch:

Bốn đại không chủ cũng như nước
Dù gặp cong ngay chẳng kia đây
Hai nơi nhơ sạch tâm không sanh
Thông bít chưa từng có hai ý
Xúc cảnh chỉ như nước không tâm
Ở thế tung hoành nào có việc?

Một đại như thế, bốn đại cũng vậy. Nếu rõ bốn đại không chủ tức ngộ không tâm. Nếu rõ không tâm tự nhiên hợp đạo.

*

Thiền sư Minh Chí hỏi:
- Nếu nói không tâm là đạo, ngói gạch không tâm cũng ưng là đạo? Thân tâm xưa nay là đạo, tứ sanh thập loại đều có thân tâm cũng ưng là đạo?
Sư đáp:
- Ðại đức nếu hiểu bằng vào thấy nghe hiểu biết thì cùng đạo khác xa, tức là người cầu thấy nghe hiểu biết, không phải là người cầu đạo. Kinh nói: "không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý...". Sáu căn còn không, thấy nghe hiểu biết nương đâu mà lập. Cùng tột gốc nguồn chẳng có thì chỗ nào còn tâm? Ðâu không đồng với cỏ cây ngói gạch.

Minh Chí lặng thinh thối lui.

Sư có bài kệ:

Kiến văn giác tri vô chướng ngại
Thanh hương vị xúc thường tam-muội
Như điểu không trung chỉ ma phi
Vô thủ vô xả vô tắng ái
Nhược hội ứng xứ bản vô tâm
Thủy đắc danh vi Quán Tự Tại.
Dịch:

Thấy nghe hiểu biết không chướng ngại
Tiếng mùi vị chạm thường tam-muội
Như chim trong không mặc tình bay
Không thủ không xả không thương ghét
Nếu hội mỗi nơi vốn không tâm
Mới được tên là Quán Tự Tại.

*

Thiền sư Chơn hỏi:
- Ðạo đã không tâm, Phật có tâm chăng? Phật cùng với đạo là một, là khác?
Sư đáp:- Chẳng một chẳng khác.
Chơn hỏi:
- Phật độ chúng sanh vì có tâm, đạo không độ chúng sanh vì không tâm. Một độ một không độ đâu được không khác?
Sư đáp:
- Nếu nói Phật độ chúng sanh, đạo không độ, đây là Ðại đức vọng sanh thấy hai. Theo Sơn tăng tức chẳng phải vậy. Phật là tên suông, đạo cũng dối lập, cả hai đều không thật, toàn là giả danh. Trong một cái giả sao lại phân làm hai?
Chơn hỏi:
- Phật với đạo đều là giả danh, chính khi lập danh nhân cái gì mà lập? Nếu có lập được, đâu thể nói là không?
Sư đáp:
- Phật với đạo nhân tâm mà lập, xét cùng cái tâm dựng lập, tâm ấy cũng không, tâm đã là không liền ngộ cả hai đều chẳng thật, biết như mộng huyễn liền ngộ vốn không. Gắng lập hai tên Phật, Ðạo, đây là cái thấy biết của người Nhị thừa.
Sư bèn nói bài kệ (Không Tu, Không Tác):

Kiến đạo phương tu đạo
Bất kiến phục hà tu
Ðạo tánh như hư không
Hư không hà sở tu
Biến quán tu đạo giả
Bác hỏa mích phù âu
Ðản khán lộng khối lỗi
Tuyến đoạn nhất thời hưu.
Dịch:
Thấy đạo mới tu đạo
Chẳng thấy lấy gì tu
Tánh đạo như hư không
Hư không tu chỗ nào?
Khắp xem người tu đạo
Vạch lửa tìm bọt nổi
Chỉ xem người gỗ máy
Ðứt dây một lúc dừng.

*

Thiền sư Pháp Không hỏi:
- Phật với đạo đều là giả danh, mười hai phần giáo (tất cả Kinh điển) cũng phải chẳng thật, vì sao các hàng tôn túc từ xưa đều nói có tu có đạo?
- Ðại đức lầm hội ý kinh; đạo vốn không tu, Ðại đức cưỡng tu, đạo vốn không tác, Ðại đức cưỡng tác, đạo vốn không sự, Ðại đức cưỡng sanh đa sự, đạo vốn không biết, ở trong ấy cưỡng biết. Thấy hiểu như thế cùng đạo trái nhau. Tôn túc từ xưa không như thế, tự Ðại đức không hội, xin suy gẫm đó.

Sư có bài kệ:

Ðạo thể bản vô tu
Bất tu tự hiệp đạo
Nhược khởi tu đạo tâm
Thử nhân bất hội đạo
Khí khước nhất chân tánh
Khước nhập náo hạo hạo
Hốt phùng tu đạo nhân
Ðệ nhất mạc hướng đạo.
Dịch:

Thể đạo vốn không tu
Chẳng tu tự hiệp đạo
Nếu khởi tâm tu đạo
Người này không hiệp đạo
Bỏ mất một tánh chân
Lại vào nơi phiền lụy
Chợt gặp người tu đạo
Bậc nhất chớ hướng đạo.

*

Thiền sư An hỏi:
- Ðạo đã giả danh, Phật nói dối lập, mười hai phần giáo (tất cả Kinh điển) cũng là phương tiện tiếp vật độ sanh, tất cả là vọng lấy gì làm chân?
Sư đáp:
- Vì có vọng nên đem chân đối vọng. Xét cùng tánh vọng vốn không, chân cũng chưa từng có. Thế thì biết chân vọng đều là giả danh, hai việc đối trị trọn không thật thể, tột cội gốc nó thì tất cả đều không.
An hỏi:
- Ðã nói tất cả là vọng, vọng cũng đồng chân, chân vọng không khác, lại là vật gì?
Sư đáp:
- Nếu nói vật gì, vật gì cũng vọng. Kinh nói "không tương tợ, không so sánh, bặt đường nói năng, như chim bay trong không".
Thiền sư An thầm phục mà không biết mối manh.

Sư có bài kệ:

Suy chân, chân vô tướng
Cùng vọng, vọng vô hình
Phản quán suy cùng tâm
Tri tâm diệc giả danh
Hội đạo diệc như thử
Ðáo đầu diệc tự ninh.
Dịch:
Xét chân, chân không tướng
Tìm vọng, vọng không hình
Quán lại tâm tìm xét
Biết tâm cũng giả danh
Hội đạo cũng như vậy
Ðến cùng chỉ lặng yên.

*

Thiền sư Ðạt Tánh hỏi:
- Thiền thật chí vi chí diệu, chân vọng cả hai đều bặt, Phật, đạo cả hai chẳng còn, tu hành tánh là không, danh tướng chẳng thật, thế giới như huyễn, tất cả đều giả danh. Khi người đạt đến cái hiểu biết này cũng không thể đoạn dứt hai gốc thiện ác của chúng sanh!
Sư đáp:
- Hai gốc thiện ác đều nhân tâm mà có, tìm tột tâm nếu có thì gốc ắt thật, xét tâm đã không thì gốc nhân đâu mà lập. Kinh nói:
"Pháp thiện pháp ác từ tâm hóa sanh, nghiệp duyên thiện ác vốn không thật có."

Sư nói bài kệ:

Thiện ký tùng tâm sanh
Ác khởi ly tâm hữu
Thiện ác thị ngoại duyên
Ư tâm thật bất hữu
Xả ác tống hà xứ
Thủ thiện linh thùy thủ
Thương nha nhị kiến nhân
Phan duyên lưỡng đầu tẩu
Nhược ngộ bản vô tâm
Thủy hối tùng tiền cựu.
Dịch:
Thiện đã từ tâm sanh
Ác đâu rời tâm có
Thiện ác là duyên ngoài
Nơi tâm thật chẳng có
Bỏ ác đẩy chỗ nào?
Lấy thiện bảo ai giữ?
Than ôi! Người thấy hai
Bám víu hai đầu chạy.
Nếu ngộ vốn không tâm
Mới hối lỗi từ trước.

*

Vị quan cận thần hỏi:
- Thân này từ đâu mà đến? Sau khi trăm tuổi trở về đâu?
Sư đáp:
- Như người khi mộng từ đâu mà đến? Khi thức giấc lại đi về đâu?
Quan thưa:
- Khi mộng không thể nói không, đã thức không thể nói có. Tuy có mà không từ đâu đến, đi không đi về đâu.
Sư nói:- Bần đạo thấy thân này cũng như mộng.

Có bài kệ:

Thị sanh như tại mộng
Mộng lý thật thị náo
Hốt giác vạn sự hưu
Hườn đồng thùy thời ngộ
Trí giả hội ngộ mộng
Mê nhân tín mộng náo
Hội mộng như lưỡng ban
Nhất ngộ vô biệt ngộ
Phú quí dữ bần tiện
Cánh diệc vô biệt lộ.
Dịch:
Thấy cuộc sống như mộng
Trong mộng thật là ồn
Chợt giác muôn việc hết
Lại đồng tỉnh cơn mộng
Người trí nhận biết mộng
Kẻ mê tin mộng ồn
Biết mộng như hai việc
Một ngộ không ngộ khác
Giàu sang cùng nghèo hèn
Lại cũng không đường khác.

*

Niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ hai (761 T.L.), ngày mùng năm tháng năm, Sư qui tịch.
Vua sắc ban hiệu là Ðại Hiển Thiền sư.


phatphap
Bài viết: 375
Ngày: 19/06/10 05:11
Giới tính: Nữ
Phật tử: Tại gia
Đến từ: không rõ

Re: Các vị Thiền Sư Trung Hoa (tổng hợp)

Bài viết chưa xem gửi bởi phatphap »

Thiền sư Cảnh Thâm

Ở Trí Thông Hưng Quốc

Sư họ Vương, quê ở Thai Châu, từ nhỏ Sư đã xuất chúng. Năm mười tám tuổi, Sư theo ngài Đức Chỉ ở viện Quảng Độ xuất gia. Trước Sư đến yết kiến Thiền sư Tượng ở Tịnh Từ. Một hôm nghe Tượng nói: Nghĩ mà biết, suy mà hiểu đều là kế sống nhà quỉ, dấy lên không thể tự ngăn. Sư đến Bảo Phong chỗ Thiền sư Duy Chiếu xin vào thất.

Bảo Phong bảo: Cần phải dứt niệm khởi diệt, nhằm trước không kiếp quét sạch huyền lộ, chẳng dính Chánh, Thiên dẹp sạch hiện nay, toàn thân buông hết, buông hết lại buông mới có phần tự do. Sư nghe qua liền đốn ngộ huyền chỉ. Bảo Phong đánh trống bảo chúng: Cảnh Thâm được đạo Xiển đề đại tử, kẻ hậu học nên nương y. Nhân đây, Sư được hiệu Đại Tử Ông.

Đến niên hiệu Kiến Viêm (1127), Sư khai pháp ở Trí Thông. Sư thượng đường: Lại chẳng vào cổng, đi chẳng ra cửa, đi lại không vết làm sao đề xướng. Dù được cổ lộ rêu phong, dê nai bặt dấu; ngô đồng trăng phủ phụng đỏ chẳng đậu. Vì thế nói: ?Chỗ ẩn thân không dấu vết, chỗ không dấu vết chớ ẩn thân.? Nếu hay như thế, đi đứng không nương trọn không hướng bối, lại thông cảm chăng? Mà nay phân tán như mây hạc, anh tôi đều mất chỗ chạm huyền.

*

Tăng hỏi: - Thế nào là Chánh trung thiên?

Sư đáp: - Bà lão mặt đen mặc lụa trắng.

Tăng hỏi: - Thế nào Thiên trung chánh?

Sư đáp: - Ông già đầu bạc mặc áo đen.

Tăng hỏi: - Thế nào là Chánh trung lai?

Sư đáp: - Trong phân bèn nhảy nhào.

Tăng hỏi: - Thế nào là Kiêm trung chí?

Sư đáp: - Đao tuyết thân lồng chẳng tự đứt.

Tăng hỏi: - Thế nào là Kiêm trung đáo?

Sư đáp: - Côn Lôn trong đêm đi.

Tăng hỏi: - Hướng thượng lại có việc hay không?

Sư đáp: - Bắt được rùa đen gọi là trạnh.

Tăng thưa: - Xin Thầy lại bày phương tiện.

Sư đáp: - Vào núi gặp cọp nằm, ra hang quỉ lại dẫn.

Tăng thưa: - Đâu được chiến tranh đãi nhau.

Sư đáp: - Ba lượng chỉ, một cân gai.

Niên hiệu Thiệu Hưng năm đầu (1131), Sư về trụ tại Bảo tàng Nham. Đến năm Nhâm Thân, Sư có chút ít bệnh, nói: Thế duyên hết vậy. Đến ngày mười ba tháng ba, Sư vì chúng tiểu tham, nói kệ:

Chẳng cần cạo tóc,

Nào phiền tắm gội,

Một đống lửa đỏ,

Ngàn chân muôn chân.

Tuy nhiên như thế, hướng thượng lại có việc hay không?

Sư liền nhắm mắt mà tịch.


Thiền sư Cảnh Sầm
(Trường Sa)

Sau khi đắc pháp nơi Nam Tuyền, Sư đến Lộc Uyển an trụ. Về sau, Sư không ở một chỗ nhất định, chỉ tùy duyên tùy cảnh giáo hóa độ sanh. Vì thế, người đương thời gọi Sư là Hòa thượng Trường Sa.

Sư thượng đường dạy chúng:

- Nếu ta một bề nêu cao tông giáo thì trong pháp đường này cỏ mọc cao một trượng. Vì sự bất đắc dĩ, ta bảo các ngươi rằng: Tột mười phương thế giới là mắt của Sa-môn, tột mười phương thế giới là thân của Sa-môn, tột mười phương thế giới là ánh sáng của mình, tột mười phương thế giới ở trong ánh sáng của mình, tột mười phương thế giới không có người nào là chẳng phải chính mình. Ta thường nói với các ngươi: Chư Phật trong đời cùng chúng sanh khắp pháp giới là ánh sáng Ma-ha Bát-nhã. Khi ánh sáng này chưa phát, cả thảy các ngươi đến nương nơi đâu? Khi ánh sáng này chưa phát, còn không có tăm dạng Phật và chúng sanh, thì chỗ nào có núi sông thế giới?

Có vị Tăng hỏi:- Thế nào là mắt Sa-môn?

Sư đáp:

- Dài dài ra chẳng đặng, thành Phật thành Tổ ra chẳng đặng, sáu đạo luân hồi ra chẳng đặng.

- Chẳng biết ra cái gì chẳng đặng?

- Ngày thấy mặt trời, đêm thấy sao.

- Con không hội.

- Núi Diệu Cao sắc xanh lại xanh.

*

Sư sai một vị Tăng đến hỏi bạn đồng sư là Hòa thượng Hiệp rằng:

- Hòa thượng sau khi thấy Nam Tuyền rồi thế nào?

Hòa thượng Hiệp lặng thinh.

Tăng hỏi:- Hòa thượng trước khi chưa thấy Nam Tuyền thì sao?

Hòa thượng Hiệp đáp:- Không thể lại riêng có.

Vị Tăng về thuật lại Sư nghe, Sư làm một bài kệ chỉ bày:

Bách trượng can đầu bất động nhân

Tuy nhiên đắc nhập vị vi chân

Bách trượng can đầu tu tấn bộ

Thập phương thế giới thị toàn thân.

Dịch:

Trăm trượng đầu sào vẫn đứng yên

Tuy là được nhập chẳng phải hiền

Ðầu sào trăm trượng cần vượt khỏi

Mười phương thế giới thảy thân mình.

*

Có quan khách đến yết kiến, Sư gọi:- Thượng thơ!

Quan khách:- Dạ!

- Chẳng phải bổn mạng thượng thơ.

- Không thể rời người đối đáp hiện nay lại có chủ nhân thứ hai.

- Gọi thượng thơ là chí tôn được chăng?

- Thế là khi chẳng đối, đâu không phải là chủ nhân của đệ tử?

- Chẳng những khi đối và khi không đối, mà từ vô thủy kiếp đến giờ cái ấy là cội gốc của sanh tử.

Sư làm bài kệ:

Học đạo chi nhân bất thức chân

Chi vị tùng lai nhận thức thần

Vô thủy kiếp lai sanh tử bản

Si nhân hoán tác bản lai nhân.

Dịch:

Học đạo mà không hiểu lẽ chân

Bởi tại lâu rồi nhận thức thần

Gốc nguồn sanh tử vô thủy kiếp

Người ngu lại gọi chủ nhân ông.

*

Tăng Hạo Nguyệt hỏi:

- Những vị thiện tri thức trong thiên hạ chứng được ba đức Niết-bàn chưa?

Sư đáp:

- Ðó là Ðại đức hỏi trên quả Niết-bàn hay trong nhân Niết-bàn?

- Trên quả Niết-bàn.

- Những thiện tri thức trong thiên hạ chưa chứng.

- Vì sao chưa chứng?

- Vì công chưa bằng chư thánh.

- Công chưa bằng chư thánh sao làm thiện tri thức.

- Thấy rõ Phật tánh cũng được gọi là thiện tri thức.

- Chẳng biết công bằng chừng nào mới được chứng Niết-bàn?

Sư có bài kệ:

Ma-ha Bát-nhã chiếu

Giải thoát thậm thâm pháp

Pháp thân tịch diệt thể

Tam nhất lý viên thường.

Dục thức công tề xứ

Thử danh thường tịch quang.

Dịch:

Trí tuệ lớn rộng soi

Pháp giải thoát sâu xa

Thể pháp thân vắng lặng

Ba một lý thường tròn.

Muốn biết chỗ công bằng

Ðây gọi thường tịch quang.

- Trên quả ba đức Niết-bàn đã nhờ chỉ dạy, thế nào là trong nhân Niết-bàn?

- Ðại đức ấy.

- Trong kinh nói ý huyễn là có chăng?

- Ðại đức nói gì?

- Thế là ý huyễn tại không chăng?

- Ðại đức nói gì?

- Thế là ý huyễn tại chẳng có chẳng không chăng?

- Ðại đức nói gì?

- Con ba phen nhận định chẳng hợp ý huyễn, chưa biết Hòa thượng thế nào để rõ được ý huyễn trong kinh?

- Ðại đức tin tất cả pháp không thể nghĩ bàn chăng?

- Lời thành thật của Phật đâu dám không tin.

- Ðại đức nói tin, trong hai thứ tin là thứ tin nào?

- Theo con hiểu, trong hai thứ tin là tin duyên (tín duyên).

- Y giáo môn nào được sanh tin duyên?

- Theo kinh Hoa Nghiêm nói: "Bồ-tát lớn lấy trí tuệ không chướng không ngại tin tất cả cảnh giới thế gian là cảnh giới Như Lai." Lại, kinh Hoa Nghiêm nói: "Chư Phật Thế Tôn thảy biết thế pháp và Phật pháp tánh không sai khác, quyết định không hai." Cũng kinh Hoa Nghiêm nói: "Phật pháp thế gian pháp, nếu thấy chỗ chân thật của nó, tất cả không sai khác."

- Ðại đức nêu chỗ tin duyên trong giáo môn rất có bằng cứ. Nghe Lão tăng vì Ðại đức nói rõ ý huyễn trong kinh:

Nhược nhân kiến huyễn bản lai chân

Thị tắc danh vi kiến Phật nhân

Viên thông pháp pháp vô sanh diệt

Vô diệt vô sanh thị Phật thân.

Dịch:

Nếu người thấy huyễn xưa nay chân

Thế ấy tức là thấy Phật nhân (người)

Suốt tròn các pháp không sanh diệt

Không diệt không sanh ấy Phật thân.

*

Có vị Tăng hỏi:- Hòa thượng nối tiếp người nào?

Sư đáp:- Tôi không có người được nối tiếp.

- Lại có tham học không?

- Tôi tự tham học.

- Ý Hòa thượng thế nào?

Sư có bài kệ:

Hư không vấn vạn tượng

Vạn tượng đáp hư không

Thùy nhân thân đắc văn

Mộc xoa quán giác đồng.

Dịch:

Hư không hỏi vạn tượng

Vạn tượng đáp hư không

Người nào gần được nghe

Trẻ con đầu hai chỏm

*

Có vị Tăng hỏi:- "Sắc tức là không, không tức là sắc", lý này thế nào?

Sư có bài kệ:

Ngại xứ phi tường bích

Thông xứ vật hư không

Nhược nhân như thị giải

Tâm sắc bản lai đồng

Phật tánh đường đường hiển hiện

Trụ tánh hữu tình nan kiến

Nhược ngộ chúng sanh vô ngã

Ngã diện hà thù Phật diện.

Dịch:

Chỗ ngại chẳng tường vách

Chỗ thông đâu hư không

Nếu người tìm hiểu như thế

Tâm sắc xưa nay đồng



Phật tánh hiển hiện rõ ràng

Trụ tánh hữu tình khó thấy

Nếu ngộ chúng sanh vô ngã

Mặt ta mặt Phật khác gì.



Sư có bài kệ khuyến học:

Vạn trượng can đầu vị đắc hưu

Ðường đường hữu lộ thiểu nhân du

Thiền sư nguyện đạt Nam Tuyền khứ

Mãn mục thanh sơn vạn vạn thu.

Dịch:

Muôn trượng đầu sào chẳng được dừng

Sờ sờ đường cái ít người đi

Thiền sư muốn đạt Nam Tuyền lộ

Ðầy mắt núi xanh muôn muôn thu.


Vì Sư không có nơi trụ nhất định nên không biết tịch lúc nào và nơi nào.


Sa Di Cao

Không biết tung tích và quê quán của Sư thế nào. Chỉ biết khi Sư mới đến tham vấn Dược Sơn, Dược Sơn hỏi:

- Ở đâu đến?

Sư thưa:- Ở Nam Nhạc đến.

- Ði lại đâu?

- Ði Giang Lăng thọ giới.

- Thọ giới mong làm gì?

- Mong khỏi sanh tử.

- Có một người không thọ giới cũng khỏi sanh tử, ngươi biết chăng?

- Thế thì giới Phật dùng làm gì?

- Vẫn còn quải môi lưỡi.

Sư lễ bái lui ra.

Ðạo Ngô đến đứng hầu, Dược Sơn bảo:

- Vừa rồi có một Sa-di mới đến, có chút khí tức này.

Ðạo Ngô thưa:

- Chưa nên toàn tin, cần phải khám phá mới được.

Ðến chiều, Dược Sơn thượng đường gọi:

- Sa-di mới đến ở đâu?

Sư ra khỏi chúng đứng im.

Dược Sơn hỏi:

- Ta nghe ở Trường An rất náo loạn, ngươi có biết chăng?

Sư thưa:

- Nước con an ổn.

- Ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được?

- Chẳng do xem kinh được, cũng chẳng do thưa hỏi được.

- Có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi, sao chẳng được?

- Chẳng nói họ không được, chỉ vì không chịu thừa nhận.

Dược Sơn ngó Ðạo Ngô, Vân Nham, nói:

- Chẳng tin ta nói.

*

Một hôm, Sư từ giã Dược Sơn.

Dược Sơn hỏi:- Ði ở đâu?

Sư thưa:

- Con ở trong chúng có ngại, nên đến bên đường cất một am tranh để tiếp đãi nước trà cho khách qua lại.

- Sanh tử là việc lớn, sao ngươi không thọ giới đi?

- Biết thì những việc ấy liền thôi, lại bảo thọ giới làm gì?

- Như thế chẳng được lìa xa ta, có khi ta cần gặp ngươi.

*

Sư dầm mưa đến thăm Dược Sơn.

Dược Sơn bảo:- Ngươi mới đến?

- Con mới đến.

- Ướt cả rồi.

- Không đánh cái trống sáo ấy.

Vân Nham nói:- Da cũng không đánh, cái gì là trống?

Ðạo Ngô nói:- Trống cũng không đánh, cái gì là da?

Dược Sơn bảo:- Hôm nay rất hay, một trường hòa nhạc.

*

Ðến giờ thọ trai, Dược Sơn tự đánh trống, Sư ôm bát múa đi vào trai đường.

Dược Sơn bỏ dùi trống xuống hỏi:- Hòa thứ mấy?

- Hòa thứ hai.

- Thế nào là hòa thứ nhất?

Sư đến thùng cơm lãnh một phần cơm rồi đi ra.


thiền sư Cảo Phật Chiếu
Ở Pháp Vân

Sư thuở thiếu niên đi du phương, yết kiến Thiền sư Cơ ở Viên Thông. Sư vào thất, Cơ nhắc lại ?Tăng hỏi Đầu Tử: người đại tử khi sống lại thì thế nào, Tử đáp: chẳng cho đi đêm đợi sáng sẽ đến?, ý thế nào?

Sư đáp: - Ân lớn khó đền. Cơ rất vui bèn sai thủ chúng. Đến chiều vì chúng cầm phất tử, cơ chậm lại vụng, chúng đều cười, Sư đỏ mặt. Hôm khác nơi Tăng đường, Sư pha trà nhân chạm bình trà rơi xuống đất, thấy cái bình nhào liền được ứng cơ tam-muội. Sau Sư nương Chơn Tịnh, nhân đọc bài kệ của Tổ: Tâm đồng cõi hư không.
Hiện đồng pháp hư không,
Khi chứng được hư không,
Không pháp phải pháp quấy.

Sư hoát nhiên đại ngộ. Mỗi khi nói chuyện với người Sư bảo: Tôi ở Thiệu Thánh thứ ba ngày hai mươi mốt tháng mười một ngộ được thiền tấc vuông.

Sư trụ Qui Tông, sau chiếu dời về Cư Tịnh. Có vị Tăng hỏi:- Đạt-ma Tây sang truyền cái gì?

Sư đáp:- Châu, Tần, Hán, Ngụy.

Tăng hỏi:- ?Xưa Tăng hỏi Vân Môn thế nào là câu thấu pháp thân, Vân Môn đáp: trong Bắc Đẩu tàng thân?,ý chỉ thế nào?

Sư đáp:- Lòng son mảnh mảnh.

Tăng thưa:- Nếu là con thì chẳng thế.

Sư hỏi:- Ông lại làm sao?

Tăng thưa:- Đêm qua ngưỡng đầu xem Bắc Đẩu, dường như lại giống nhân bánh trong.

Sư bảo:- Chỉ nhớ nước cỏ, ngoài ra không biết gì.

Sư thượng đường: Tây sang ý Tổ giáo ngoại biệt truyền, chẳng phải bậc đại căn khó bề chứng nhập, người chứng nhập chẳng bị văn tự ngữ ngôn xoay chuyển, thanh sắc phải quấy làm mê, cũng không có khác Vân Môn, Lâm Tế, có lạ Triệu Châu, Đức Sơn. Vì thế nói đạo phải rõ trong có lời là không lời, trong không lời là có lời. Nếu nhằm trong ấy tiến được, đáng gọi trọn ngày mặc áo mà chưa từng mang một sợi tơ, trọn ngày ăn cơm mà chưa từng nhai một hạt gạo. Như thế quở Phật mắng Tổ có lỗi lầm gì? Tuy nhiên như thế, muốn được chẳng chuốc nghiệp vô gián, chớ chê chánh pháp của Như Lai. Sư hét một tiếng xuống tòa.

*

Sư thượng đường cầm cây gậy nói: Qui Tông biết chém rắn, Hòa Sơn giỏi đánh trống, vạn tượng cùng sum la đều từ trong đây đi. Sư ném cây gậy nói: Về nhà uống trà.

*

Sư thường nói với chúng: Lão tăng niên hiệu Hy Ninh thứ tám (1075) chăn màn tại phủ Phụng Tường cung kính, năm này nhào núi Hoa Sơn bốn mươi dặm, đè sập nhà người tám mươi thôn, bọn các ông hậu sanh trái cà trái dưa bao giờ biết được. Có người hỏi: - Trên tòa Bảo Hoa Vương vì sao một bề thế đế? Sư đáp: - Kẻ si! Phật tánh há có hai thứ sao?.


Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.2 khách