KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Nghiên cứu học hỏi tư tưởng Phật giáo bắc tông: Câu xá, thành thật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Du già, pháp tướng tông, trừ hệ bát nhã, thiền và chuyên mục đã có.

Điều hành viên: phuoctuong

thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

XIII. VIÊN THÔNG VỀ NHĨ THỨC

Kinh:

Ngài Phổ Hiền Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:

- Tôi đã từng làm Pháp Vương Tử cho các Đức Như Lai như số cát sông Hằng. Mười phương Như Lai dạy các đệ tử có căn cơ Bồ Tát tu Hạnh Phổ Hiền, là do tôi mà đặt tên.

Thưa Thế Tôn, tôi dùng cái Nghe của Tâm mà phân biệt tất cả thấy biết của chúng sanh. Nếu ở phương nào khác, cách ngoài hằng sa thế giới, có một chúng sanh trong tâm phát khởi Hạnh Phổ Hiền, thì liền ngay khi ấy, tôi cỡi voi sáu ngà, phân thân thành trăm, ngàn đến chỗ người ấy. Dầu cho người ấy nghiệp chướng còn sâu dày, chưa thấy tôi được, tôi cũng âm thầm xoa đầu, ủng hộ an ủi khiến cho người ấy được thành tựu.

Phật hỏi về Viên Thông, tôi nói chỗ Bản Nhân của tôi là phát sáng cái Nghe của Tâm, tự tại mà phân biệt, đó là Thứ Nhất.

Thông rằng: Hạnh khắp pháp giới là Phổ, địa vị gần với Phật gọi là Hiền. Đức Phổ Hiền đã chứng quả vị, nói lại cái Bản Nhân của mình là từ cái Nghe của Tâm phát sáng, mọi phân biệt đều tự tại. Tận khắp pháp giới rỗng rang như hư không, không đâu mà Tâm chẳng nghe đến. Biết rành người tu Hạnh Phổ Hiền mà ủng hộ cho, ấy là trong sự biết rành đó; có một loại Tam Muội Tự Tại, chẳng có một mảy tơ tạo tác, là do đã chứng Pháp Thân, nên đầy khắp pháp giới, nơi nào vừa khởi niệm, nơi đó có ngay hạnh nguyện. Đó là Đức và Dụng vô ngại: Thể là Dụng, Dụng là Thể, nên gọi là Tự Tại.

Đức Quán Âm theo Căn Tai mà xoay lại cái Nghe, nên được Tịch Diệt Hiện Tiền. Đức Phổ Hiền theo Nhĩ Thức mà phát sáng, nên được Tự Tại trong phân biệt. Nói là Hiện Tiền thì chưa từng chẳng phân biệt. Nói là Tự Tại, thì chưa từng không tịch diệt. Chỗ chứng của hai vị Thánh thật không có chỗ hơn kém.

Ngài Đàm Dực ban đầu vào Lư Sơn theo học Ngài Viễn Công. Sau trở về Hội Kê, ở núi Tần Vọng, tụng kinh Pháp Hoa. Trải qua mười hai năm, cảm Đức Bồ Tát Phổ Hiền hóa thân người nữ, mặc áo quần màu, xách lồng tre, một con heo trắng và hai củ tỏi, đến trước Ngài nói: Thiếp vào núi hái rau quyết, mặt trời đã xế, sói cọp tung hoành, trở về thì khó sống, xin ở nhờ một đêm. Ngài hết sức từ chối, mà người con gái kêu khóc không thôi, bèn bảo nghỉ ở giường cỏ. Nửa đêm cô kêu la đau bụng, xin Ngài xoa bóp giùm. Ngài từ chối vì giữ Giới, không được chạm tay. Cô gái càng kêu la quá lắm. Ngài mới lấy cây tích trượng quấn vải vào rồi ở xa mà xoa cho. Sáng hôm sau, cô gái hóa áo quần thành mây lành, heo biến thành voi trắng, hai củ tỏi biến thành hai bông sen, bay lên không mà bảo rằng: Ta là Bồ Tát Phổ Hiền, đến để thử ông đó.

Quan Thái Thú ở đấy là Mạnh Nghi, tâu lên vua, vua ra lệnh xây chùa Pháp Hoa. Chuyện này cũng giống chuyện Đức Quan Âm thử Ngài Ngô Đạo Tử.

Việc phân thân thị hiện, xoa đầu an ủi thì không kể xiết. Ở Trung Hoa như thế, thì ngoài hằng sa thế giới cũng có thể biết là như vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Trường Sa:

- Vì sao đồng tử Thiện Tài đi dạo thế giới trong thân Bồ Tát Phổ Hiền suốt vô lượng kiếp mà không khắp hết?

Tổ Sa nói:

- Ông từ vô lượng kiếp đến nay dạo chơi được khắp hết chăng?

Hỏi:

- Như sao là Thân Phổ Hiền?

Tổ Sa nói:

- Ở trong Hàm Nguyên điện, lại chạy kiếm Trường An!

Lại có nhà sư từ giã Tổ Đại Tùy.

Tổ hỏi:

- Đi đâu thế?

Nhà sư đáp:

- Đến núi Nga Mi, làm lễ Đức Phổ Hiền.

Tổ Tùy dựng đứng cây phất tử, nói:

- Văn Thù, Phổ Hiền chỉ tại trong này!

Nhà sư vẽ một vòng tròn, ném về sau lưng.

Tổ Tùy nói:

- Thị giả! Đem thêm trà cho vị sư này!

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Biết pháp thì sợ,
Khinh địch thì mất.
Trong nước phân sữa,
Phải là ngỗng chúa!


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

XIV. VIÊN THÔNG VỀ TỶ THỨC

Kinh:

Ông Tôn Đà La Nan Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:

- Lúc tôi mới xuất gia, theo Phật vào Đạo, tuy đầy đủ Giới Luật, mà trong Tam Ma Địa thì tâm thường tán động, chưa được Vô Lậu. Thế Tôn dạy tôi và Ông Câu Hy La quán đầu mũi trắng. Lúc bắt đầu tu quán ấy trải qua ba lần bảy ngày, thấy hơi thở trong mũi ra vào như khói. Thân tâm bên trong sáng rỡ, rỗng suốt vẹn khắp thế giới, khắp hết thành rỗng không, sáng sạch, như ngọc lưu ly. Tướng khói lần lần hết mất, hơi thở hóa thành trắng. Tâm khai ngộ, các lậu hết sạch thì các hơi thở ra vào hóa thành hào quang, soi khắp mười phương thế giới, đắc A La Hán. Thế Tôn thọ ký cho tôi sẽ đắc Bồ Đề.

Phật hỏi về Viên Thông, tôi dùng sự tiêu mất hơi thở, yên lặng lâu thì phát ra sáng suốt, sáng suốt tròn khắp thì diệt hết các lậu, đó là Thứ Nhất.

Thông rằng: Ông Nan Đà là em ruột của Phật, rất thương vợ nên tâm thường tán động. Phật dùng nhiều phương tiện điều phục cho mà đắc quả. Trước điều khiển hơi thở là y nơi Căn, từ thô vào tế, từ tế vào Không, đó là xoay lại các Căn. Cách quán lỗ mũi trắng này là y nơi Thức. Hơi thở ban đầu như khói, kế hóa thành trắng, sau cùng thành quang minh, đó là phát từ Thức. Hơi thở trong mũi, sao lại thành khói? Hơi thở do gió và lửa khởi ra, làm động cái phiền não trược, nên hình dạng như khói. Đến khi tịnh quán phát sáng, thân tâm rỗng suốt, phiền não trược dần dần tiêu, nên hơi thở nơi mũi hóa thành trắng. Tâm khai ngộ, hết sạch các Lậu, không còn phiền não, cái sáng suốt bên trong phát chiếu ra, thì thấy thế giới như ngọc lưu ly, thế hơi thở chẳng hóa thành quang minh ư? Hai thứ này, các Đạo Gia dưỡng sanh cho là bí truyền; còn nếu nơi Căn Viên Thông mà chứng được, thì há chẳng phải là hột giống Phật ư?

Xưa, Ngài Bách Trượng đang đi cùng Tổ Mã Tổ, thì thấy một bầy vịt trời bay qua.

Tổ nói:

- Cái gì thế?

Ngài Trượng nói:

- Vịt trời.

Tổ nói:

- Đi đâu rồi?

Ngài Trượng nói:

- Bay qua rồi.

Tổ bèn nắm mũi Bách Trượng kéo mạnh, Ngài đau quá la lên.

Tổ nói:

- Còn nói bay qua nữa thôi?

Ngài Bách Trượng liền tỉnh ngộ, về liêu thị giả, tấm tức khóc lớn.

Vị thị giả khác hỏi:

- Ông nhớ cha mẹ ư?

Đáp:

- Không.

Hỏi:

- Bị người mắng chăng?

Đáp:

- Không.

Hỏi:

- Thế chuyện gì khóc?

Đáp:

- Lỗ mũi tôi bị đại sư vặn đau quá mà chẳng thấu triệt.

Hỏi:

- Có nhân duyên gì chẳng khế hợp được?

Đáp:

- Ông đi hỏi lấy đại sư đi!

Vị thị giả ấy đi hỏi Mã Tổ:

- Thị giả Hoài Hải Bách Trượng có nhân duyên gì không khế hợp, đang kêu khóc ở trong phòng, xin Hòa Thượng nói cho con!

Đại sư nói:

- Đó là hắn hiểu vậy, ông hãy tự mình hỏi lấy hắn ta xem.

Vị ấy về phòng nói với Bách Trượng:

- Hòa Thượng nói ông hiểu rồi, bảo tôi về tự hỏi ông?

Bách Trượng ha hả cười lớn.

Vị thị giả nói:

- Vừa mới khóc, sao giờ lại cười?

Bách Trượng nói:

- Hồi nãy khóc, bây giờ cười!

Vị thị giả chẳng hiểu sao cả.

Hôm sau, Mã Tổ lên tòa giảng, đại chúng vừa nhóm họp, thì Bách Trượng bước ra cuốn chiếu. Tổ bèn xuống tòa. Bách Trượng đi theo đến phương trượng. Tổ nói:

- Hồi nãy ta chưa hề mở lời, tại sao ông lại cuốn chiếu?

Bách Trượng nói:

- Hôm qua bị Hòa Thượng vặn lỗ mũi đau quá!

Tổ nói:

- Hôm qua ông lưu tâm chỗ nào?

Bách Trượng nói:

- Lỗ mũi hôm nay lại không đau.

Tổ nói:

- Ông thật biết rõ chuyện hôm qua.

Ngài Bách Trượng làm lễ rồi lui ra.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

Con vịt trời, biết sao đây?
Mã Tổ vừa thấy, nói cùng nhau.
Nói hết núi mây, trăng biển, tình,
Như xưa, chẳng hội, liền bay mất.
Muốn bay chăng?
Nắm đứng lại,
Nói, nói!

Lại có người nói được, thì phải như Bách Trượng lỗ mũi đau mà chẳng thấu triệt, mới được quang minh chiếu mười phương thế giới, đốn chứng Viên Thông.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

XV. VIÊN THÔNG VỀ THIỆT THỨC

Kinh:

Ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:

- Tôi từ bao kiếp đến nay, biện tài vô ngại, tuyên thuyết Khổ, Không, thấu suốt Thật Tướng. Như thế cho đến các Pháp Môn Bí Mật của hằng sa Như Lai, tôi đều ở trong chúng khai thị một cách vi diệu, được Vô Sở Úy. Đức Thế Tôn biết tôi có đại biện tài, nên dạy tôi tuyên dương bằng Pháp Luân Âm Thanh. Tôi ở trước Phật, giúp Phật chuyển Pháp Luân, nhân phát lên tiếng rống Sư Tử, thành A La Hán. Thế Tôn ấn chứng cho tôi thuyết pháp hơn hết thảy.

Phật hỏi về Viên Thông, tôi dùng Pháp Âm hàng phục tà ma ngoại đạo, tiêu diệt các Lậu, đó là Thứ Nhất.

Thông rằng: Đây là lấy Thiệt Căn tuyên dương chỗ toàn vẹn một ngàn hai trăm công đức, nên chẳng dùng sự nếm Vị để hiển bày Thiệt Thức. Rõ biết cái Khổ không có Khổ Tướng, cái Không không có Không Tướng, gọi là hiểu thấu sâu xa Thật Tướng. Ngay nơi Khổ, Không mà thuyết Thật Tướng, đó là pháp môn bí mật. Khai thị một cách vi diệu, rỗng suốt đến nguồn Pháp, nên được Vô Úy. Phật dùng ba Pháp Luân Thân, Khẩu, Ý mà ứng vật không vướng mắc. Ông Phú Lâu Na chỉ dùng Pháp Luân Âm Thanh mà thành A La Hán. Trong thì tiêu diệt các lậu, mật chứng Thật Tướng; ngoài thì rộng nói Pháp bí mật, hàng phục tà ma ngoại đạo. Biện tài vô ngại, là người Thuyết Pháp Số Một, đều do Thiệt Thức mà được Viên Thông vậy.

Tọa chủ Lượng ra mắt Ngài Mã Tổ. Tổ nói:

- Nghe nói tọa chủ giảng Kinh, Luận thông suốt lắm, có phải không ?

Thầy Lượng nói:

- Dạ, không dám.

Tổ nói:

- Lấy cái gì giảng?

Thầy Lượng nói:

- Lấy tâm giảng.

Tổ nói:

- Tâm như tay thợ đàn giỏi, Ý như con hát hòa theo, làm sao giảng được kinh?

Thầy Lượng cãi lại rằng:

- Tâm đã chẳng giảng được, chẳng lẽ hư không giảng được sao?

Tổ nói:

- Vậy mà hư không giảng được!

Thầy Lượng không chịu, bèn bỏ đi ra.

Vừa xuống thềm, Ngài Mã Tổ gọi lớn:

- Tọa Chủ!

Thầy Lượng quay đầu lại, hoát nhiên đại ngộ. Bèn lễ bái.

Tổ nói:

- Cái ông thầy độn căn này, lễ bái làm gì!

Thầy Lượng về chùa, nói với thính chúng rằng:

- Tôi giảng kinh không ai bì kịp, thế mà hôm nay bị đại sư Mã Tổ hỏi cho một câu, tất cả công phu trước giờ đều như băng rã tiêu tan.

Bèn vào núi Tây Sơn, không còn dấu vết.

Há chẳng tiêu diệt các lậu hay sao?

Thiền sư Bàn Am Thành nói trước đại chúng:

- Này các nhân giả! Hãy biết nay tôi hét lên một tiếng, có thể thấu đáo cả ngũ giáo.

Im lặng một lúc, rồi hét lớn một tiếng mà hỏi:

- Có nghe không?

Đại chúng đáp:

- Có nghe.

Thiền sư nói:

- Nay các ông có nghe một tiếng hét này, thế là Có, tức là vào Tiểu Thừa Giáo.

Rồi hỏi tiếp:

- Giờ các ông có nghe không?

Đáp:

- Không nghe.

Thiền sư nói:

- Giờ các ông không nghe, thì một tiếng hét này là Không, đó là vào Đại Thừa Thủy Giáo. Khi tôi mới hét, các ông đã bảo rằng Có; hét xong âm thanh tiêu mất, các ông lại nói rằng Không. Nhưng nói không, nghĩa là trước kia là có; nói rằng có, thì bây giờ là không. Thế là Chẳng Có, Chẳng Không, đó là vào Đại Thừa Chung Giáo. Khi tôi có hét, có chẳng phải là có, nhân nơi không mà có. Khi không hét, không chẳng phải là không, nhân nơi có mà không. Ấy là Tức Có Tức Không, là vào Đốn Giáo. Tôi ở nơi một tiếng hét, chẳng khởi ra cái Dụng của tiếng hét, thì Có và Không chẳng lập, ngộ và giải đều mất. Khi nói Có, mảy lông chẳng lập. Khi nói Không, rộng khắp hư không. Tức một tiếng hét này, tức là trăm ngàn vạn ức tiếng hét. Trăm ngàn vạn ức tiếng hét tức là một tiếng hét này. Đó là vào Viên Giáo.

Các lời biện luận ghê gớm này, người nghe đều phải khuất phục, há chẳng hàng phục được ma oán ư?


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

XVI. VIÊN THÔNG VỀ THÂN THỨC

Kinh:

Ông Ưu Bà Ly liền từ chỗ ngời đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:

- Chính tôi được theo Phật vượt thành xuất gia, được chính mình thấy Phật sáu năm khổ hạnh chuyên cần. Đích thân thấy Như Lai hàng phục các ma, chế ngự ngoại đạo, giải thoát các lậu tham dục của thế gian. Nhờ Phật dạy cho Giới Luật, như thế cho đến ba ngàn oai nghi, tám muôn Tế Hạnh, các Tánh Nghiệp và Giá Nghiệp đều thanh tịnh, thân tâm tịch nhiên, thành A La Hán. Tôi là cái mẫu mực trong chúng của Như Lai. Phật ấn chứng cho tôi giữ Giới thân tâm hơn cả trong chúng.

Phật hỏi về Viên Thông, tôi do lấy việc giữ gìn cái Thân, mà Thân được tự tại; lần đến giữ gìn cái Tâm, mà Tâm được thông suốt; rồi sau cả thảy Thân Tâm đều thông suốt, nhạy bén, đó là Thứ Nhất.

Thông rằng: Đức Như Lai sáu năm cần khổ, những cái gì ngoại đạo không làm nổi, Ngài đều làm hết. Thế nên có thể chế phục các ngoại đạo, lại giải thoát các lậu tham dục của thế gian, mà tà ma không thể quấy phá. Tức là các thứ binh khí của chúng đều hóa thành hoa sen, nên các ma chịu phục. Đều là do Thân giữ Giới Hạnh, ba ngàn tám vạn không đâu chẳng tròn đủ, bởi thế tà ma ngoại đạo chắp tay thán phục. Đi, đứng, nằm, ngồi, mỗi thứ có hai trăm năm chục, đối với ba tụ Tịnh Giới thành ra ba ngàn, lại lấy ba ngàn phối hợp với ba cái của Thân, bốn cái của Miệng là bảy chi thành ra hai vạn một ngàn. Lại phối hợp với bốn phần phiền não, thành tám vạn bốn ngàn. Phật chế định Luật này là Giới Hạnh của Sa Môn, khiến cho Thân Tâm đều thanh tịnh. Bốn lỗi lầm dơ đục như Sát, Đạo, Dâm, Vọng thì tánh của chúng vốn là tội, không đợi phải ngăn cấm, phạm liền thành nghiệp, nên gọi là Tánh Nghiệp. Còn lại thì nhân có phạm mới ngăn cấm. Trước khi chế định mà phạm thì không tội, nên gọi là Giá Nghiệp. Hai nghiệp đều trừ sạch liền được Không Tịch.

Ban đầu dùng sự giữ gìn Thân, thì Thân được tự tại, ấy gọi là Tánh Nghiệp thanh tịnh. Lần đến giữ gìn Tâm, thì Tâm được thông suốt, ấy gọi là Giá Nghiệp thanh tịnh. Giữ gìn Thân rồi đến Tâm, Tâm là cái Thân của Thức, cái Thức về Thân đã diệt, nên Chân Trí hiện bày trước mắt. Giới trong sạch là Trí Huệ, bèn được Đạo Đệ Nhất. Đó là Ông Ưu Bà Ly giữ Giới số một, làm mẫu mực trong chúng vậy. Cho đến khi cả thảy Thân Tâm đều thông suốt, nhạy bén là vào chỗ Ngộ vậy, há đợi giữ gìn riêng Thân ư?

Tôn giả Bà Tu Bàn Đầu thường ngày ăn chỉ một bữa, không nằm, sáu thời lễ Phật, trong sạch không dục, làm chỗ nương về của chúng.

Tổ Thứ Hai Mươi là Ngài Tôn Giả Xà Dạ Đa muốn độ cho Ngài, trước hết hỏi chúng kia rằng:

- Vị đầu đà Biến Hành này hay tu Phạm Hạnh, có thể đắc Phật Đạo không?

Đại chúng nói:

- Thầy chúng tôi tinh tấn, sao lại không thể?

Tổ nói:

- Thầy các của cùng với Đạo cách xa vậy. Giả sử có khổ hạnh trải qua nhiều kiếp như bụi cũng là cái gốc hư vọng đó.

Đại chúng nói:

- Tôn giả chứa nhóm được đức hạnh gì mà xét bàn thầy chúng tôi?

Tổ nói:

- Ta chẳng cầu Đạo, cũng chẳng điên đảo. Ta chẳng lễ Phật, cũng chẳng khinh mạn. Ta chẳng ngồi hoài, cũng chẳng giải đãi. Ta chẳng ăn một bữa, cũng chẳng ăn lộn xộn. Ta chẳng tri túc, mà cũng chẳng tham dục. Tâm không có chỗ mong cầu, gọi đó là Đạo.

Khi ấy. Ngài Biến Hành nghe xong, Trí Vô Lậu liền phát, hoan hỉ ca ngợi.

Tổ lại nói với đại chúng ấy rằng:

- Hiểu lời ta chăng? Ta sở dĩ làm thế, vì tâm cầu Đạo của người ấy tha thiết. Phàm là dây đàn căng thì đứt nên ta chẳng tán thưởng mà khiến giúp người trụ nơi chỗ An Lạc, vào Trí Huệ Chư Phật.

Tổ lại nói với Ngài Biến Hành:

- Ta vừa rồi ở trước chúng mà ức hiếp ông, trong lòng ông không buồn chứ?

Ngài Biến Hành nói:

- Tôi nhớ lại bảy kiếp trước, sanh ở nước Thường An Lạc, thầy là Trí Giả Nguyệt Tịnh thọ ký cho tôi chẳng bao lâu sẽ chứng quả Tư Đà Hàm. Lúc ấy có Bồ Tát Đại Quang Minh ra đời. Tôi vì đã già nên chống gậy lạy ra mắt.

Thầy la rằng:

- Trọng con khinh cha, sao lại thô lậu thế?

Khi ấy, tôi tự cho là không có lỗi, xin thầy dạy cho.

Thầy nói:

- Ông làm lễ Bồ Tát Đại Quang Minh, lại để cây gậy dựa vào mặt Phật vẽ trên vách. Vì lỗi coi thường này mà mất quả thứ hai.

Tôi tự ăn năn là từ xưa đến nay, nghe lời dữ thì như gió như vang, huống hồ nay được uống nước cam lồ vô thượng mà lại sanh buồn phiền ư? Xin Ngài rủ lòng đại từ, chỉ dạy Diệu Đạo cho.

Tổ nói:

- Ông trồng các Đức đã lâu, sẽ kế vị Tông ta.

Bèn phó chúc bài pháp kệ:

Dưới lời hợp Vô Sanh,
Đồng với pháp giới tánh.
Nếu tỏ hiểu như thế,
Thông suốt hết Sự, Lý.

Đây là Tổ Thứ Hai Mươi Mốt.

Ôi, chẳng tu Phạm Hạnh mà mong được Vô Thượng Bồ Đề, thì xưa giờ chưa hề nghe vậy.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

XVII. VIÊN THÔNG VỀ Ý THỨC

Kinh:

Ông Đại Mục Kiền Liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:

- Ban đầu tôi giữa đường khất thực thì gặp ba anh em họ Ca Diếp Ba là các Ông Ưu Lâu Tần Loa, Già Gia và Na Đề, tuyên nói thâm nghĩa Nhân Duyên của Như Lai, tôi liền phát tâm, được rất thông suốt. Như Lai ban cho tôi áo cà sa đắp thân, râu tóc tự rụng. Tôi ngao du mười phương, được không chướng ngại, Thần Thông hiển phát, được chúng cho là hơn cả, thành A La Hán. Không chỉ Thế Tôn, mà mười phương Như Lai đều khen sức Thần Thông của tôi là tròn sáng trong sạch, Tự Tại Vô Úy.

Phật hỏi về Viên Thông, tôi do xoay về Bản Tánh Trong Lặng, ánh sáng của Tâm mở phát, như lắng nước đục lâu thành trong sáng, đó là Thứ Nhất.

Thông rằng: Con người không thể tròn sáng, trong sạch là do ý thức trôi lạc theo trần, do đó tâm bị cái hình sử dụng, chẳng phải là cái thần sử dụng. Nếu thức không trôi lăn mà quay về Bản Tánh Diệu Trạm, thì như lắng nước đục, lâu ngày trong sáng, ánh sáng của Tâm mở phát, thần thông tự tại, cái ý thức được không-ngăn ngại. Trong Lục Thông, chỉ có Lậu Tận Thông là nội chứng, còn năm cái kia đều thuộc về sự dùng bên ngoài. Kinh Viên Giác nói: Như Huyễn Tam Muội, như mầm dần tăng trưởng. Thế nên tích tập lâu ngày, mới thật trong sáng.

Nhà sư Bảo Chí, ban đầu chỉ tập định, định lâu ngày bỗng nhiên được thần thông.

Thiền sư Đặng Ẩn Phong, mùa Đông ở núi Hành Nhạc, mùa Hạ ở núi Thanh Lương. Trong năm Nguyên Hòa, Ngô Nguyên Tế khởi binh, chống lại triều đình. Quân triều đình cùng giặc giao tranh không phân thắng bại. Thiền sư nói: Ta phải đi giải bỏ hoạn nạn này. Bèn ném cây gậy lên không, bay thân qua đến. Tướng sĩ hai bên ngước lên xem, sự việc hợp với giấc mộng báo trước, tâm tranh đấu mất ngay.

Sư đã hiện thần thông lạ lùng, e làm mê lầm đại chúng, bèn vào núi Ngũ Đài, trước động Kim Cương, trước khi thị tịch, dạy chúng rằng:

- Người ở các nơi khi thị tịch, ngồi mà chết, nằm mà chết, ta đều thấy cả, còn có ai đứng mà chết chưa?

Đại chúng đáp:

- Dạ, có.

Ngài nói:

- Còn có ai đứng ngược đầu chưa?

Đại chúng nói:

- Dạ, chưa từng thấy.

Thiền sư Phong bèn đứng ngược đầu mà hóa, áo quần vẫn xuôi theo thân mình. Khi chúng khiêng đi làm lễ hỏa táng, vẫn sừng sững chẳng động. Người xem xa gần thấy vậy, lạ lùng khen ngợi không dứt.

Ngài có một người em gái làm ni cô, khi ấy cũng ở đấy, bèn tát tai mà la rằng:

- Lão huynh khi sống thì chẳng theo pháp luật, lúc chết lại hoa mắt lừa người!

Rồi lấy tay xô ngã ầm xuống.

Cho nên thần thông là quả vị, mà người sáng mắt cũng chẳng màng.

Tổ Ngưỡng Sơn lên tòa giảng, có nhà sư Ấn từ trên không bay đến. Tổ Ngưỡng Sơn nói:

- Mới vừa rời chỗ nào ?

Đáp:

- Ấn Độ.

Tổ nói:

- Rời đó khi nào?

Đáp:

- Hồi sáng nay.

Tổ nói:

- Sao chậm quá vậy!

Đáp:

- Còn vui chơi non nước.

Tổ nói:

- Du hý thần thông thì chẳng phải không có. Nhưng đối với Phật Pháp, Xà Lê phải cần lão tăng mới được.

Đáp rằng:

- Định qua Đông Độ làm lễ Đức Văn Thù, lại gặp Tiểu Thích Ca.

Rồi lấy ra kinh điển Phạn bằng lá bối đưa cho Tổ Ngưỡng Sơn, rồi nương không trung mà đi.

Tổ Ngưỡng Sơn dạy chúng rằng:

- Ta nay hướng về các ông mà nói chuyện phía Thánh. Hãy chớ đem tâm mà níu, đậu. Chỉ hướng vào cái Biển Tánh chính mình, như Phật mà tu. Chẳng cần đến Tam Minh và Lục Thông. Vì sao thế? Vì đó là chuyện ngọn ngành rốt chót của Thánh. Như nay chỉ cốt rõ Tâm, đạt gốc, hễ đạt gốc thì lo gì cái ngọn, mai kia sẽ tự đầy đủ hết trong ấy. Nếu chưa đạt cái gốc, dầu cho đem vọng tình mà học cái việc ấy cũng không được. Các ông há chẳng thấy Hòa Thượng Quy Sơn nói, Tình phàm Thánh hết, Thể lộ Chân Thường, Sự Lý không hai, Tức Như Như Phật.

Đây là con đường Chánh Pháp tròn sáng, trong sạch vậy. Từ Ngài Xá Lợi Phất đến đây, nói rằng: Cái Thấy của Tâm, cái nghe của Tâm, ánh sáng của Tâm, đó là chẳng do căn, chẳng do cảnh, thoát hết căn trần, rốt ráo không tập khí mê lầm. Đây là do sáu Thức mà chứng Viên Thông vậy.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

XVIII. VIÊN THÔNG VỀ HỎA ĐẠI

Kinh:

Ông Ô Sô Sắt Ma ở trước Đức Phật, chấp tay đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:

- Tôi thường nhớ, trước kia trong kiếp xa xôi, tánh khí nhiều tham dục. Có Phật ra đời, hiệu là Không Vương dạy rằng: Người đa dâm thành đống lửa hồng. Ngài dạy tôi quán khắp các khí nóng, lạnh nơi trăm vóc tứ chi. Tôi quán như thế mà thần quang lặng đứng ở trong, hóa cái tâm thức đa dâm thành lửa Trí Huệ. Từ ấy, các Đức Phật đều gọi tôi tên là Hỏa Đầu. Tôi dùng sức Hỏa Quang Tam Muội mà thành A La Hán. Tâm phát đại nguyện khi các Đức Phật thành đạo, tôi làm lực sĩ ở bên Phật mà dẹp phục tà ma quấy phá.

Phật hỏi về Viên Thông, tôi quán sát các hơi ấm nơi thân tâm, lưu thông không ngại, các lậu đã tiêu, sanh ra ngọn lửa Đại Trí quý báu, chứng Vô Thượng Giác, đó là Thứ Nhất.

Thông rằng: Trong đoạn trước, về bảy Đại, nói Tánh lửa là Chân Không, Tánh Không là Chân Lửa, bản nhiên thanh tịnh, toàn khắp Pháp Giới. Vì Hỏa Quang Tam Muội vốn sẵn đủ cái lực không thể nghĩ bàn, nên Ông Hỏa Đà Kim Cang mới dùng cái Thần Quang lắng đọng, hóa cái tâm đa dâm thành ra ngọn lửa Trí Huệ. Chánh ở nơi chỗ bắt đầu động của Chân Hỏa mà phản bổn hoàn nguyên, quay về thanh tịnh, thành ra Trí Huệ. Người đa dâm thì hơi nóng bức bách phát ra, sống thì làm lửa dục, chết thì làm lửa nghiệp. Nghiệp lực lừng mạnh, thành đống lửa lớn.

Bồ Tát Di Lặc nói:

- Trai gái qua lại với nhau, đôi bên giao hợp, cái bất tịnh chảy ra. Chư Thiên cõi Dục Giới, tuy hành dâm dục, không có cái bất tịnh này, nhưng ở căn môn có hơi gió xuất ra, thì hơi nóng bức bèn hết. Các Trời ở cõi Tứ Thiên Vương, khi giao hợp thì cái nóng bức bèn hết. Như cõi Tứ thiên Vương, cõi Trời Thứ Ba Mươi Ba là Đao Lợi Thiên cũng thế. Cõi Trời Phần Thiên thì ôm lấy nhau, cái nóng bức liền hết. Cõi Trời Tri Túc, chỉ cần nắm tay nhau, cái nóng bức liền hết. Cõi Trời Hóa Lạc thì nhìn nhau mà cười thì cái nóng bức liền hết.

Đó há chẳng phải là lòng dục càng giảm thì cái chốn ở càng cao ư?

Cô Ma Đăng Già lòng Dâm tiêu tan hết, liền chứng Quả Thứ Ba. Ông Hỏa Đầu Kim Cang các Lậu đã tiêu, chứng Vô Thượng Giác, thì có gì lạ đâu?

Ngài Quy Sơn đang đứng hầu Tổ Bách Trượng.

Tổ Trượng hỏi:

- Ai đó?

Ngài Quy Sơn nói:

- Dạ, tôi.

Tổ Trượng nói:

- Ông bới trong lò xem có lửa không?

Ngài Quy bới, rồi nói:

- Không có lửa.

Tổ Trượng đứng lên, tự mình bới sâu xuống được chút lửa, đưa ra cho xem và nói:

- Ông nói là không, thế cái gì đây?

Quy Sơn do đó phát ngộ, làm lễ tạ ơn và trình chỗ hiểu.

Tổ nói:

- Đây mới là đường rẽ tạm thời thôi.

Kinh nói rằng:

Muốn rõ nghĩa Phật Tánh phải xem thời tiết nhân duyên.

Thời tiết đã đến thì như mê bỗng ngộ, như quên bỗng nhớ, mới biết cái vật ấy của ta chẳng do người mà được.

Bởi thế Tổ Sư nói:

- Ngộ rồi đồng chưa ngộ, không tâm cũng không pháp. Chỉ cái Tâm không phàm Thánh hư vọng là cái Tâm Pháp Bổn Lai, vốn tự sẵn đủ. Ông nay đã thế, hãy khéo hộ trì.

Ngày hôm sau, Ngài cùng Tổ Bách Trượng vào núi làm việc.

Tổ Trượng nói:

- Đem được lửa đến không?

Ngài Quy Sơn nói:

- Đem đến được.

Tổ nói:

- Ở đâu, nào?

Ngài Quy Sơn bèn cầm lên một cành củi, thổi hai cái, đưa cho Tổ Trượng.

Tổ nói:

- Như con trùng địch với cái cây.

Ngài Diệu Hỉ nói:

- Nếu Tổ Bách Trượng không có lời nói sau, thì sẽ bị thầy Điển Tòa khinh lắm.

Đây cũng là do Hỏa Đại mà lên Vô Thượng Giác vậy. Há phải quán sát cái khí nóng lạnh trong thân mới chứng Viên Thông ư?


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

XIX. VIÊN THÔNG VỀ ĐỊA ĐẠI

Kinh:

Ngài Trì Địa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:

- Tôi nhớ xưa kia, khi Đức Phật Phổ Quang xuất hiện giữa đời, tôi làm Tỳ Kheo, thường ở nơi các nẻo đường bến đò, chỗ đất hiểm trở eo hẹp không đúng quy tắc, có thể làm hư hại ngựa xe, tôi đều đắp bằng. Hoặc làm cầu cống, hoặc gánh đất cát, siêng năng khó nhọc như thế trải qua vô lượng Phật xuất hiện ra đời. Hoặc có chúng sanh ở nơi chợ búa, cần người mang đồ vật thì tôi tình nguyện mang hộ đến nơi, để đồ xuống là đi ngay, không lấy tiền thuê.

Khi Đức Phật Tỳ Xá Phù ra đời, thế gian phần nhiều đói kém, tôi cõng giúp người không kể gần xa, chỉ lấy một đồng tiền. Hoặc có xe bò bị lún sình lầy, tôi dùng thần lực đẩy giúp bánh xe, gỡ khỏi khổ não. Vị vua trong nước thời ấy thiết trai thỉnh Phật, lúc ấy tôi sửa sang đường đất bằng phẳng chờ Phật đi qua. Đức Phật Tỳ Xá xoa đảnh đầu tôi mà nói "Hãy bình đẳng nơi Tâm Địa, tức đất đai thế giới, tất cả đều bình". Tâm tôi liền khai ngộ, thấy vi trần nơi thân thể cùng với vi trần tạo thành thế giới đều bình đẳng không sai biệt. Tự tánh của vi trần không xát chạm nhau, cho đến các thứ đao binh cũng không chỗ nào đụng chạm. Tôi ở trong Pháp Tánh ngộ Vô Sanh Nhẫn, thành A La Hán. Hồi tâm về, nay vào trong địa vị Bồ Tát, nghe các Đức Như Lai bày chỗ Tri Kiến Diệu Liên Hoa của Phật, thì tôi chứng minh trước tiên mà làm vị Thượng Thủ.

Phật hỏi về Viên Thông, tôi do chánh quán hai thứ Trần nơi căn thân và nơi thế giới đều bình đẳng không sai biệt, vốn là Như Lai Tạng mà hư vọng phát ra trần tướng. Trần tướng tiêu tan, Trí Huệ liền tròn sáng, thành Đạo Vô Thượng, đó là Thứ Nhất.

Thông rằng: Các pháp bình đẳng, nào có cao thấp. Tâm Địa nếu bình đẳng, phân biệt chẳng sanh thì chẳng thấy mọi tướng đây kia, cao thấp, tức tất cả đều bình. Bồ Tát Trì Địa do đây mà ngộ nhập Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh. Tánh Sắc Chân Không, Tánh Không Chân Sắc, tự tánh của vi trần không xát chạm nhau, vốn tự bình đẳng, vốn tự Vô Sanh vậy. Vi trần này đây bên trong là Thân Trần, do vi trần tích tập; ngoài là Giới Trần, cũng do vi trần tích tụ. Vi trần ấy nguyên là không tự tánh, chỉ có trong hư vọng. Hiện là chốn hư vọng, tức ngay chỗ Vô Sanh, đó là Diệu Chân Như Tánh.

Cái Sắc Thân này của ta, chính là Diệu Chân Như Tánh. Tức cái Cõi Sắc này cũng là Diệu Chân Như Tánh. Tánh vốn không hai, Sắc Trần nào có sai biệt. Đã không sai biệt, thì cho đến đao binh cũng không có chỗ nào để đụng chạm. Ngộ Pháp Tánh ấy thì xúc chạm vốn chẳng sanh ra, xúc tức là không xúc, đó là Vô Sanh Nhẫn, vào Tri Kiến Phật. Nhập Tri Kiến Phật thì gọi là Trí, tức là Sắc Trần vốn chẳng phải Sắc Trần, thế nên Trần tự tiêu tan. Đó là chẳng lìa Sắc Trần mà thấu đạt Trí Huệ, thì Trí Huệ tròn đầy. Trí Huệ tròn khắp mới tự chứng sáng suốt được cái pháp Liên Hoa mầu nhiệm mà thành Vô Thượng Giác.

Tổ Quy Sơn một hôm chỉ đám ruộng hỏi Ngài Ngưỡng Sơn:

- Mẫu ruộng kia, phải đầu kia cao đầu này thấp?

Ngài Ngưỡng Sơn nói:

- Lại là đầu kia cao, đầu này thấp!

Tổ nói:

- Ông không tin, đứng ở giữa mà nhìn hai đầu xem.

Ngài Ngưỡng Sơn nói:

- Chẳng cần phải đứng giữa, mà cũng không trụ hai đầu.

Tổ Quy Sơn nói:

- Nếu thế thì đổ nước vào xem, nước hay làm bằng phẳng vật.

Ngài Ngưỡng nói:

- Nước cũng vô định, xứ cao bằng cao, xứ thấp bằng thấp!

Tổ Quy Sơn bèn thôi.

Như hai cha con Quy, Ngưỡng hai bên chẳng lập, mà Trung Đạo cũng chẳng thèm ở, thế có thể nói là khéo bình Tâm Địa, nên tất cả đều bình.

Có Hòa Thượng Đả Địa, lãnh được ý chỉ của Giang Tây Mã Tổ, thường che giấu chỗ sáng suốt. Phàm có người tu học đến hỏi, thì chỉ lấy cây gậy đánh xuống đất mà chỉ bày. Thời ấy gọi Ngài là Đả Địa Hòa Thượng. Hôm nọ, bị nhà sư kia dấu mất cây gậy, rồi mới hỏi. Ngài chỉ hả miệng ra mà thôi.

Nhà sư hỏi học trò của Ngài:

- Hòa Thượng thường ngày có người hỏi liền đánh xuống đất, ý chỉ thế nào?

Người học trò liền lấy một miếng củi trong bếp bỏ vào nồi.

Chẳng thấu suốt hết Trần Tiêu Trí Tròn Đầy, đắc Vô Sanh Nhẫn thì chẳng có thể hiểu được ý chỉ này.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

XX. VIÊN THÔNG VỀ THỦY ĐẠI

Kinh:

Ngài Nguyệt Quang Đồng Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:

-Tôi nhớ hằng sa kiếp về trước, có Đức Phật ra đời, hiệu là Thủy Thiên, dạy hàng Bồ Tát tu tập pháp quán về nước, để vào Tam Ma Địa. Quán ở trong thân, tánh nước không gì ngăn ngại: Ban đầu từ nước mắt, nước mũi, cho đến tất cả các thứ tân, dịch, tinh, huyết, đại tiểu tiện, xoay vần trong thân, đồng một Tánh Nước. Thấy nước trong thân cùng nước các hương thủy của các cõi Phật ở ngoài thế giới đều bình đẳng không sai biệt.

Khi ấy, tôi mới thành tựu Pháp Quán này, chỉ mới thấy nước, chưa được không thân. Lúc đó, đang làm Tỳ Kheo, ngồi thiền trong phòng, tôi có người học trò lén nhòm cửa sổ thấy trong phòng chỉ toàn nước trong, đầy khắp cả phòng ngoài ra không thấy gì khác. Nhỏ dại không biết, lấy một miếng ngói ném vào trong nước, chạm vào nước phát ra tiếng, ngó quanh rồi bỏ đi.

Sau, tôi xuất định liền cảm thấy đau tim, cũng như Ông Xá Lợi Phất bị quỷ Vi Hại đập. Tôi tự suy nghĩ: Nay đã đắc quả A La Hán, duyên bệnh đã lìa từ lâu, vì sao hôm nay bỗng sanh đau tim, chẳng lẽ lại bị lui sụt?

Khi ấy, đồng tử vừa đến, nói cho tôi nghe sự việc trước. Tôi mới bảo rằng:

- Khi ngươi lại thấy nước, hãy mở cửa vào trong nước, lấy miếng ngói ấy ra. Đồng tử vâng lời. Tôi lại nhập Định, đồng tử lại thấy nước với miếng ngói rõ ràng, bèn mở cửa lấy ra. Sau khi xuất định, thân thể tôi lại như cũ. Tôi đã gặp vô lượng Phật, như thế cho đến Đức Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như Lai mới được mất sạch thân, cùng với các biển hương thủy của mười phương thế giới đồng một tánh Chân Không, không hai, không khác. Nay ở nơi Đức Như Lai, được tên là Đồng Chân, dự hội Bồ Tát.

Phật hỏi về Viên Thông, tôi do quán thấy Tánh Nuớc, một vị suốt thông, đắc Vô Sanh Nhẫn, tròn đủ Bồ Đề, đó là Thứ Nhất.

Thông rằng: Mặt trăng là Thủy Tinh vậy. Tánh nước tròn sáng, nên hiệu là Nguyệt Quang. Mới đầu hết, tu tập quán về nước, quán sát tánh nước không gì ngăn ngại. Tinh huyết bên trong, biển các cõi nước bên ngoài, hình tướng của nước tuy khác, nhưng Tánh Nước không ngăn ngại. Vì chẳng ngăn ngại nhau, nên mới tựu thành pháp quán này thì chỉ thấy nước, đây là cái Định Mười Biến Xứ vậy. Nhập định thì có, xuất định thì không. Mười Biến Xứ là: Xanh, Vàng, Đỏ, Trắng, Đất, Nước, Lửa, Gió, Không, Thức. Như quán tưởng màu xanh thì tất cả chỗ đều xanh. Cái quả của định này tùy tâm biến hiện. Định Hỏa Quang cũng vậy, tuy được Định này, nhưng Căn Bản Vô Minh vẫn còn, nên chưa hết nhân duyên của bệnh, chưa mất được thân, vẫn còn Ngã Kiến, tức đó là Căn Bản Vô Minh.

Chỉ thấy là nước, hết thảy đều là nước, nên miếng ngói ném vào cũng hóa thành nước. Ngài Xá Lợi Phất nhập định ở bờ sông Hằng, bị quỷ Vi Hại đánh, khi xuất định thấy đầu đau.

Phật dạy:

- Ông mà không có Định Lực thì thân thể tan nát rồi.

Vi Hại là tên của Vua quỷ Dạ Xoa, có oán thù đời trước với Ông Xá Lợi Phất.

Phù Tràng Vương Sát, thì theo kinh Hoa Nghiêm, trong biển Hoa Tạng có một hoa sen lớn, trong hoa sen ấy có các biển Hương Thủy. Mỗi một biển Hương Thủy là chủng tử của thế giới cõi Phật. Thế giới Hoa Tạng ở trong biển Hương Thủy nên gọi là Phù Tràng Vương Sát. Mười hai lớp Hoa Tạng xếp cao như cây phướn (tràng). Cao hơn hết nên gọi là Vua (Vương).

Ngài Nguyệt Quang mới chứng Pháp Thân, mới được mất đi cái thân biến dịch, cùng với các biển Hương Thủy đồng Tánh Chân Không. Trong Như Lai Tạng, Tánh Thủy là Chân Không, Tánh Không là Chân Thủy, bản nhiên thanh tịnh, toàn khắp pháp giới, một vị suốt thông, cùng mất luôn cái tướng chẳng ngăn ngại nhau. Đây là y theo Thủy Đại mà chứng Viên Thông, gặp vô lượng Phật, mới thành tựu được. Há dễ nói sao?

Ngài Động Sơn từ giã Tổ Vân Nham. Khi sắp đi, Ngài hỏi:

- Trăm năm sau bỗng có người hỏi, Có được chút ít cái Chân Thật của thầy không? Thì trả lời thế nào?

Tổ Nham im lặng hồi lâu, nói:

- Chỉ thế đó.

Ngài Động Sơn trầm ngâm.

Tổ nói:

- Này Xà Lê Giới, nhận lãnh việc ấy, rất cần thẩm xét tinh tế.

Ngài còn nghi ngờ.

Sau này nhân đi qua giòng nước thấy bóng mình mà đại ngộ, có bài kệ rằng:

Rất kỵ nơi khác tìm,
Càng xa mình lắm lắm.
Ta nay tự mình qua,
Chốn chốn đều gặp Nó.
Nó nay chính là ta,
Ta nay chẳng là Nó.
Cần phải hiểu như thế,
Mới khế hợp Như Như.

Ngài Động Sơn đến đây mới được mất thân, tánh đồng Chân Không, không hai, không khác.

Hòa Thượng Thuyền Tử khi sắp từ giã bạn đồng học là Ngài Đạo Ngô, nói với Ngài Đạo Ngô rằng:

- Sau này có vị Tòa Chủ giảng kinh lanh lợi thì chỉ đến, nhé!

Ngài Đạo Ngô đến Kinh Khẩu, gặp lúc Ngài Giáp Sơn thượng đường có vị tăng hỏi:

- Như sao là Pháp Thân?

Ngài Giáp Sơn nói:

- Pháp Thân không có tướng.

Hỏi:

- Như sao là Pháp Nhãn?

Ngài Sơn đáp:

- Pháp Nhãn không có vết.

Đạo Ngô bất giác bật cười.

Ngài Giáp Sơn bèn xuống tòa hỏi Đạo Ngô:

- Vừa rồi đáp lại vị tăng, chắc có chỗ không đúng, khiến Thượng Tọa bật cười, mong Thượng Tọa chẳng tiếc từ bi dạy cho.

Đạo Ngô nói:

- Hòa Thượng bậc nhất ra đời mà chưa có thầy, hãy đến Hoa Đình tham học Thuyền Tử Hòa Thượng đi.

Hỏi rằng:

- Hỏi thăm có được chăng?

Đạo Ngộ nói:

- Người ấy trên thì không miếng ngói che đầu, dưới thì không chút đất để cắm dùi!

Giáp Sơn bèn thay y phục đến thẳng Hoa Đình.

Ngài Thuyền Tử vừa thấy, bèn hỏi:

- Đại Đức trụ chùa nào?

Đáp:

- Chùa tức chẳng trụ, trụ tức chẳng giống.

Hỏi:

- Chẳng giống thì chẳng giống cái gì?

Đáp:

- Chẳng phải là pháp trước mắt.

Hỏi:

- Vậy học được cái gì?

Đáp:

- Chẳng phải chỗ đến của tai mắt.

Nói rằng:

- Một câu hợp đầu ngữ, muôn kiếp đóng cọc lừa. Khám phá xong rồi vậy!

Ngài Thuyền Tử lại nói:

- Thả nhợ xuống ngàn thước, ý chỉ tại đầm sâu, ngoài lưỡi câu ba tấc, sao ông không nói?

Giáp Sơn định mở miệng, Ngài liền dùng cây sào đánh rớt xuống nước. Vừa leo lên thuyền, lại hét: Nói, Nói!
Giáp Sơn định mở miệng, lại đánh. Giáp Sơn bỗng nhiên đại ngộ, bèn gật đầu ba cái.

Ngài Thuyền Tử nói:

- Sợi nhợ đầu cần theo ông giỡn, chẳng phạm sóng trong ý tự riêng. Chút ít đó là nối thầy vậy.

Giáp Sơn bèn hỏi:

- Quăng nhợ, thả câu, ý thầy thế nào?

Đáp:

- Nhợ thả nước trong, nào định ý hữu vô.

Giáp Sơn nói:

- Lời mang huyền diệu mà không lộ, đầu lưỡi luận đàm mà chẳng đàm.

Ngài Thuyền Tử nói:

- Câu hết sóng trên sông, cá vảy vàng mới gặp.

Giáp Sơn bèn bịt tai.

Ngài Thuyền Tử nói:

- Như thế, như thế. Quả nhiên gã Tòa Chủ lanh lợi!

Bèn phó chúc rằng:

- Ông về sau, chỗ ẩn thân cần không dấu vết, chỗ không dấu vết chớ ẩn thân. Ta hai mươi năm ở Dược Sơn chỉ rõ biết việc này. Ông nay đã được, về sau chẳng được nương dừng phố xá, xóm làng; chỉ hướng về núi sâu, bên cái bừa lớn, tìm lấy một người, nửa người, tiếp tục chớ để dứt mất.

Ngài Giáp Sơn từ giã ra đi, cứ luôn ngó trở lại.

Ngài Thuyền tử bèn gọi:

- Xà Lê, Xà Lê!

Giáp Sơn quay đầu.

Thuyền Tử dựng mái chèo lên, nói:

- Ông sắp nói là có từ biệt.

Rồi lật thuyền xuống nuớc mà lìa đời.

Sau này, ở Hoa Đình, có am chủ Tánh Không gởi thơ cho thiền sư Tuyết Đậu Trì, viết:

- Tôi sắp thủy táng đó.

Sau đó, Ngài Tuyết Đậu Trì đến nơi, thấy vị này vẫn hãy còn, bèn làm bài kệ bỡn rằng:

- Thương thay lão Tánh Không. Quyết muốn nuôi cá trạnh. Đi chẳng dẫn Tánh đi. Chỉ lo nói với người.

Ngài Tánh Không cười, rằng:

- Đợi Huynh đến chứng minh đó!

Rồi báo với đại chúng.

Đại chúng họp lại, Ngài dạy pháp yếu rồi đọc bài kệ:

Ngồi chết, đứng mất,
Chẳng bằng thủy táng!
Một, đỡ củi lửa,
Hai, đỡ đào mồ.
Buông tay là đi,
Ngại gì, khoái sướng.
Ai bạn tri âm?
Hòa Thượng Thuyền Tử!
Ai kế nghiệp quý trăm ngàn năm?
Một khúc ngư ca ít người xướng.

Bèn ngồi trong một cái ảng, xuôi dòng trôi xuống. Chúng đều chạy theo cho đến cửa biển nhìn theo muốn mút mắt. Sư lấy cái gàu tát nước mà trở lại, chúng che mắt xem, nước không vào chút nào. Rồi Ngài lại theo dòng mà đi, xướng lên rằng:

Năm nay Thuyền Tử về cố hương,
Chốn không tung tích, diệu không lường.
Chân phong riêng gởi tri âm đó,
Tiêu sắt thổi ngang, chốn hợp tan.

Tiếng tiêu vang vọng giữa khoảng trời xanh mênh mông trong chốc lát, rồi thấy Ngài quăng ống tiêu lên không mà mất.

Đây quả là một vị lưu thông, đắc Vô Sanh Nhẫn vậy.

Có nhà sư hỏi Tổ Vân Môn:

- Phật Pháp như bóng trăng trong nước, có thật chăng?

Tổ Môn nói:

- Sóng xanh không đường thấu đến.

Hỏi:

- Hòa Thượng từ đâu mà vào được?

Tổ Môn nói:

- Lời hỏi ấy từ đâu đến?

Hỏi:

- Chính ngay lúc ấy thì như thế nào?

Tổ Môn nói:

- Trùng điệp lối quan sơn.

Cần phải đến gặp Thuyền Tử mới được!


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

XXI. VIÊN THÔNG VỀ PHONG ĐẠI

Kinh:

Ngài Lưu Ly Quang Pháp Vương Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:

- Tôi nhớ hằng sa kiếp về trước, có Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Thanh, khai thị Tánh Bổn Giác Diệu Minh cho hàng Bồ Tát, và dạy quán thế giới và thân chúng sanh này đều là do sức gió của vọng duyên chuyển biến ra. Tôi lúc bấy giờ quán sự an lập của không gian, quán sự trôi chuyển của thời gian, quán cái ngừng, cái động của thân, quán cái động niệm của tâm thức, các cái động đều không hai, bình đẳng không sai biệt. Khi ấy, tôi giác ngộ rằng cái Tánh của các động này đến không từ đâu, đi không đến đâu. Tất cả chúng sanh điên đảo trong mười phương nhiều như vi trần đồng một hư vọng. Như vậy cho đến tất cả chúng sanh trong một tam thiên đại thiên thế giới, như hàng trăm con muỗi mòng nhốt trong một đồ vật vo ve kêu loạn ở trong gang tấc, rối rít ồn ào.

Tôi gặp Phật chưa bao lâu thì được Vô Sanh Nhẫn. Khi ấy, tâm khai mở, mới thấy cõi Phật Bất Động ở phương Đông; làm vị Pháp Vương Tử thừa sự mười phương Phật, thân tâm phát ánh sáng, rỗng suốt không ngại.

Phật hỏi về Viên Thông, tôi do quán sát sức lay động như gió vốn không chỗ nương, ngộ Bồ Đề Tâm, vào Tam Ma Địa, hợp cùng một Diệu Tâm của mười phương Chư Phật, được nối tiếp nhau truyền dạy, đó là Thứ Nhất.

Thông rằng: Phương Đông có Lưu Ly Quang Như Lai, Hạnh Nguyện cũng như Phật Di Đà không khác. Vị Pháp Vương Tử cũng như Đức Quan Âm, Thế Chí vậy. Sao là quán sát sức lay động như gió không chỗ nương mà vào Tam Ma Địa? Tánh gió là động, do động mà có tiếng nên Phật Vô Lượng Thanh chỉ dạy hàng Bồ Tát quán các chúng sanh của thế giới này cũng như hàng trăm con muỗi mòng nhốt trong một đồ vật, vo ve kêu loạn, đều là gió Vọng Duyên chuyển biến ra. Cái động của gió thì rất vi tế, mà sức của gió thì rất lớn, đầy khắp pháp giới. Cái động và dừng của thân, cái động niệm của tâm thì gần mà có thể thấy. Còn cái chuyển đổi của không gian, cái trôi chảy của thời gian thì xa xôi nên khó thấy. Dầu khó thấy hay dễ thấy, đều là cái Động này. Tánh của cái Động này đến không từ đâu, đi không đến đâu, toàn khắp thế gian, không có nơi chốn. Vì không nơi chốn, nên vốn không sanh diệt. Vì không sanh diệt, vốn tự chẳng động. Ở chỗ ấy mà quán sát, đắc Vô Sanh Nhẫn, tức là ngộ Bồ Đề, vào Tam Ma Địa vậy. Đây là trong cái Động có Tánh Chẳng Động, chẳng phải là lìa ngoài cái Động mà có riêng cái gọi là Chẳng Động.

Phương Đông thuộc Chấn. Chấn là Động. Phương Đông có cõi Phật Bất Động, tức là động mà tĩnh, đây là ý chỉ của Bổn Giác Diệu Minh vậy. Tánh Giác Diệu Minh vốn tự chẳng động. Bổn Giác Minh Diệu là động mà chẳng động. Nói tóm lại, tất cả chỉ là một Tánh Diệu Chân Như. Mười phương Chư Phật cùng một Diệu Tâm này. Nếu lìa động để cầu tĩnh, tức là chẳng phải Diệu vậy. Cái Bổn Giác cứng bền như kim cương trong sáng, Phong và Kim xát nhau, nên ánh sáng như lưu ly, rỗng suốt không ngại. Truyền một Diệu Tâm, thì không những tự chứng Viên Thông mà còn khiến chúng sanh trong thế giới, hễ có Tánh Động này đều chứng suốt một Viên Thông vậy.

Sa di Cao ban đầu ra mắt Tổ Dược Sơn.

Tổ Dược Sơn hỏi:

- Ở đâu đến?

Đáp:

- Nam Nhạc đến.

Tổ hỏi:

- Đi đến đâu?

Đáp:

- Đến Giang Lăng thọ giới.

Tổ hỏi:

- Thọ giới để làm gì?

Đáp:

- Để khỏi sanh tử.

Tổ nói:

- Có một người chẳng thọ giới, cũng chẳng có sanh tử để khỏi, ông có biết chăng?

Sa di Cao ngay dưới lời nói, đại ngộ mà nói:

- Như thế thì Giới của Phật nào có dùng!

Tổ Sơn nói:

- Sa Di này còn quảy môi răng đấy.

Thầy Cao lễ bái rồi lui ra.

Ngài Đạo Ngô đến đứng hầu, Tổ Dược Sơn nói:

- Vừa rồi có anh Sa Di què giò, có được chút ít hơi hám.

Đạo Ngô nói:

- Chưa thể tin hoàn toàn, cần khám nghiệm mới được.

Đến tối, Tổ Dược Sơn thượng đường gọi rằng:

- Sa Di mới đến hồi sáng đâu rồi?

Thầy Cao bước ra khỏi chúng, đứng.

Tổ Dược Sơn hỏi:

- Ta nghe Trường An rất náo nhiệt, ông có biết chăng?

Thầy Cao nói:

- Nước con hằng yên ổn.

Tổ hân hoan hỏi:

- Chú do xem kinh mà được hay do hỏi Pháp mà được?

Thầy Cao nói:

- Chẳng do xem kinh được hay do hỏi Pháp được.

Tổ Sơn nói:

- Vậy có người chẳng xem kinh, chẳng hỏi Pháp, vì sao chẳng được?

Thầy Cao nói:

- Không nói chẳng được, chính vì kẻ kia chẳng chịu nhận lãnh.

Tổ Sơn quay lại nhìn Đạo Ngô.

Ngài Vân Nham thì nói:

- Chẳng tin Đạo!

Ngài Đầu Tử tụng rằng:

Hưng vong mây đến với mây đi,
Y không quốc độ, bặt trần ai.
Đỉnh Tu Di ấy, cây không rễ,
Chẳng đợi gió xuân, hoa tự khai.

Như chỗ thấy của Sa Di, thật là thấy cõi Phật Bất Động ở phương Đông, chẳng bị sức gió vọng duyên chuyển đổi vậy.

Ngài Ma Cốc chống tích trượng đến Ngài Chương Kính, đi quanh thiền sàng ba vòng, dộng tích trượng một cái, ngang nhiên mà đứng.

Tổ Kính nói:

- Phải, phải.

Ngài lại đến Nam Tuyền, đi quanh thiền sàng ba vòng, dộng tích trượng một cái, ngang nhiên mà đứng.

Tổ Tuyền nói:

- Chẳng phải, chẳng phải.

Ngài Ma Cốc nói:

- Ngài Chương Kính nói Phải, Hòa Thượng vì sao nói Chẳng Phải?

Tổ Tuyền nói:

- Chương Kính thì phải, chính ông chẳng phải.

Đây là sức gió chuyển, rốt cuộc hư hoại.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Chính ông chẳng phải,
Kìa xem cuốn, mở.
Tợ trải, tợ co,
Khó anh, khó em.
Thả ra: kia đã đến thời,
Nắm lại: ta nào lạ chỗ.
Trượng vàng một dộng, thái cô nêu,
Thiền sàng ba vòng, nhàn du hý.
Tùng lâm rối rắm, thị phi sanh,
Tưởng tượng, trước sọ khô thấy quỷ.

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

Đây lầm, kia lầm!
Rất kỵ nắm bỏ.
Bốn biển sóng bằng,
Trăm sông đổ lại.
Ý cổ cao xa mười hai cửa,
Cửa cửa đường hoang, luống tiêu điều.
Chẳng tiêu điều,
Thiền giả khéo cầu: Không bệnh thuốc.

Nếu biết cái thuốc Không Bệnh, thì thị phi ở chốn tùng lâm nào có sanh ra, tự chẳng gió nào chuyển được.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

XXII. VIÊN THÔNG VỀ KHÔNG ĐẠI

Kinh:

Bồ Tát Hư Không Tạng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật mà thưa rằng:

-Tôi cùng Đức Như Lai chứng được Thân Vô Biên nơi Phật Định Quang. Lúc ấy, tay tôi cầm bốn hạt bảo châu lớn soi sáng mười phương cõi Phật số như vi trần đều hóa thành hư không. Lại nơi tự tâm, hiện gương tròn lớn, trong ấy phóng ra mười thứ hào quang vi diệu quý báu, tràn khắp mười phương, cùng tột bờ cõi hư không. Các cõi Phật đều vào trong gương Đại Viên Cảnh ấy, nhập vào thân tôi. Thân đồng hư không chẳng có gì ngăn ngại, thân lại khéo vào vi trần quốc độ rộng làm Phật sự, được Đại Tùy Thuận. Đại thần lực này là do tôi chánh quán bốn Đại không chỗ nương, vọng tưởng sanh diệt và hư không không hai, cõi Phật vốn đồng. Do phát minh được tánh đồng, đắc Vô Sanh Nhẫn.

Phật hỏi về Viên Thông, tôi do quan sát Hư Không vô biên, vào Tam Ma Địa, diệu lực tròn sáng, đó là Thứ Nhất.

Thông rằng: Bồ Tát Hư Không Tạng đã cùng Như Lai ở nơi Phật Định Quang, chứng đắc Ba Thân, Bốn Trí.
Trong ba Thân, thì chỉ trọng Pháp Thân, nên nói: Đắc Thân Vô Biên. Bốn Trí thì chỉ trọng Đại Viên Cảnh Trí, nên nói: Lại ở nơi Tâm, Hiện gương tròn lớn.

Pháp Thân vô biên, hư không không ranh giới, vì sao lại có thể cùng với bốn Đại chẳng hề ngăn ngại nhau? Bởi do đế quán bốn Đại không chỗ nương, Tánh Sắc là Không, nên bốn Đại là thanh tịnh, giống như ngọc báu. Dùng sức quán chiếu, soi sáng mười phương hóa thành hư không. Tức bốn Đại là hư không, hư không là Pháp Thân, có gì ngăn ngại! Vốn là một Đại Viên Cảnh Trí, vì sao phóng ra mười thứ ánh sáng? Ấy là do tu hành mười thứ Ba La Mật, tròn đầy vi diệu vậy.

Gồm hết trong gương tự tại phát hiện, tràn khắp mười phương, cùng tột bờ mé hư không. Chỉ một cái gương thu nhiếp hết, thì gương ấy là Thân, và Thân tức là gương vậy. Ba Thân tức là bốn Trí, bốn Trí đó là ba Thân. Thân, Trí dung hợp nhau, Tâm và Cảnh đều chuyển hoá, nên nói: Các cõi Phật đều nhập vào trong gương, Hòa vào thân tôi. Ánh sáng và bóng ảnh giao nhập lẫn nhau, không thể phân biệt. Vì Thân là Trí, nên đồng hư không, chẳng ngăn ngại nhau. Vì Trí là Thân, nên khéo vào các cõi nước; rộng làm Phật sự, thuyết pháp Tam Thừa, được Đại Tùy Thuận. Thấy Vọng Tưởng Sanh Diệt tức là Hư Không, Hư Không và Vọng Tưởng Sanh Diệt không hai. Thấy cõi nước tức là Phật Tánh, Phật Tánh và cõi nước không khác. Lý chẳng ngại Sự, Sự chẳng ngại Lý. Ở trong Tánh Đồng mà phát minh được, đắc Vô Sanh Nhẫn, chứng Hư Không Vô Biên Thân, diệu lực tròn sáng, thân và cõi nước nhập vào nhau, đó là chỉ chứng Lý Sự Vô Ngại Pháp Giới.

Nếu gương gương chiếu nhập lẫn nhau, trùng trùng lưới báu, một tức tất cả, tất cả tức một, mới là Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới. Chỉ Như Lai chứng, nên Ngài Bồ Tát Hư Không Tạng còn ở trong hàng đệ tử vậy. Đó là vì còn mắc vướng trong Hư Không Vô Biên Xứ, còn Thân để đắc vậy.

Tổ Hoàng Bá nói:

- Chân Pháp Thân Phật giống như Hư Không. Đây là tỷ dụ Pháp Thân tức Hư Không, Hư Không tức Pháp Thân. Người thường nói rằng Pháp Thân cùng khắp Hư Không, trong Hư Không hàm chứa Pháp Thân mà chẳng biết rằng Pháp Thân tức Hư Không, Hư Không tức Pháp Thân đó vậy. Nếu nói nhất định có Hư Không thì Hư Không chẳng phải là Pháp Thân. Nếu nói nhất định có Pháp Thân, thì Pháp Thân chẳng phải là Hư Không. Chỉ đừng khởi ra cái hiểu biết về Hư Không, thì Hư Không tức Pháp Thân. Chỉ không khởi ra cái hiểu biết về Pháp Thân, thì Pháp Thân tức Hư Không. Hư Không và Pháp Thân không có tướng khác nhau. Sanh Tử và Niết Bàn không khác tướng. Lìa tất cả tướng, tức đó là Phật.

Như lời nói của Tổ Hoàng Bá đây, thật là thấy rõ cái Thân Vô Biên của Hư Không Tạng Bồ Tát vậy.

Tổ Tào Sơn hỏi Thượng Tọa Đức:

- Chân Pháp Thân Phật, giống như Hư Không, ứng vật hiện hình, như trăng trong nước, làm sao nói cái đạo lý ứng hiện đó?

Thầy Đức nói:

- Như lừa dòm giếng.

Tổ Sơn:

- Nói thì quá lắm, mà chỉ nói được tám tướng!

Thầy Đức nói:

- Hòa Thượng thì thế nào?

Tổ Sơn nói:

- Như giếng dòm lừa.

Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

Lừa dòm giếng, giếng dòm lừa,
Trí gồm khắp, không gì ngoài.
Tràn đầy, thanh tĩnh có thừa,
Sau cùi chỏ ai phân ấn.
Trong nhà chẳng chứa sách, thơ,
Khung cửi nào quản chuyện thoi đưa.
Màu sắc dọc ngang ý tự khác!

Rõ chỗ này thì có thể biết Khéo Vào Cõi Nước, như giếng dòm lừa. Vốn tự chẳng sanh, thì hợp với Hư Không!


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

XXIII. VIÊN THÔNG VỀ THỨC ĐẠI

Kinh:

Đức Di Lặc Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:

- Tôi nhớ vi trần kiếp về trước, có Đức Phật ra đời tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh, tôi được xuất gia theo Đức Phật ấy, nhưng tâm còn trọng danh đời, thích giao du với hàng vọng tộc. Lúc ấy, Đức Thế Tôn dạy tôi tu tập định Duy Tâm Thức vào Tam Ma Địa. Trải nhiều kiếp đến nay, dùng Tam Muội ấy phụng sự hằng sa Phật, cái tâm cầu danh đời diệt hết không còn. Đến khi Đức Phật Nhiên Đăng ra đời, tôi mới đắc thành Vô Thượng Diệu Viên Thức Tâm Tam Muội. Cho đến tận hư không các cõi nước của Như Lai dơ, sạch, có, không, đều là sự biến hóa hiện ra của tâm tôi. Thưa Thế Tôn, tôi thấu rõ Duy Tâm Thức như thế, nơi Thức Tánh lưu xuất vô lượng Như Lai. Nay được thọ ký, kế tiếp làm Phật.

Phật hỏi về Viên Thông, tôi do đế quán mười phương đều Duy Thức, thức tâm tròn sáng, chứng nhập Viên Thành Thật Tánh, xa lìa Y Tha Khởi Tánh và Biến Kế Chấp Tánh, đắc Vô Sanh Nhẫn, đó là Thứ Nhất.

Thông rằng: Tôi do đế quán mười phương Duy Thức”. Hai chữ Duy Thức ý vị thật sâu xa. Chữ Duy che mất cái cảnh đang có, chữ Thức rút về Tâm Không. Lại nữa, Thức để nói tất cả mọi sự hiện bày, Duy để nói che hết. Hiện bày tất cả ấy, là nói tất cả hữu tình đều có tám Thức, sáu vị Tâm Sở, cùng hai Kiến Phần và Tướng Phần được biến hiện ra, đều là sai biệt nhau, cùng với cái Lý Không để hiển bày Chân Như, tất cả các pháp như vậy đều chẳng rời Thức, cho nên dùng chữ Thức để hiển bày tất cả vậy. Che hết là vì hạng phàm phu chấp rằng lìa ngoài Tâm Thức thật có các pháp, nên dùng chữ Duy, để che hết cái Kiến của phàm phu vậy.

Thức Tâm tròn sáng, chứng nhập Viên Thành Thật Tánh là do ban đầu tu tập định Duy Tâm Thức, đến chỗ thành tựu Vô Thượng Diệu Viên Thức Tâm Tam Muội, đã chuyển Thức thành Trí, nên nói là nhập vào Viên Thành Thật Tánh. Khi chưa chuyển được Thức, ban đầu bị cảnh trói buộc, đó là thô hoặc( ), gọi là Biến Kế Chấp. Kế đó là bị pháp trói buộc, đó là tế hoặc, gọi là Y Tha Khởi.

Tâm trọng danh đời, ưa giao du với hàng vọng tộc, đó là tướng dạng của Biến Kế Chấp.

Cái Tâm cầu danh đời diệt hết không còn, đó là tướng dạng của Y Tha Chấp vậy.

Cho đến: Thấu rõ Duy tâm thức như thế, nơi Thức Tánh lưu xuất vô lượng Như Lai, là tướng dạng của Viên Thành Thật Tánh vậy.

Kinh Giải Thâm Mật nói:

- Biến Kế Chấp là như người nhặm mắt; Y Tha Khởi là như hiện ra xanh, vàng; Viên Thành Thật là như mắt trong sáng.

Luận Bảo Trượng nói: Như người thấy vật động đậy cho là rắn, nhưng khi nhìn kỹ thấy là sợi dây. Thì cái tâm nghi là rắn không phải đoạn trừ mà tự hết. Đó là lìa Biến Kế Chấp. Nhưng dây vẫn còn. Lại xem kỹ lưỡng nó mà nói: Chẳng phải dây mà là sợi gai. Liền cái tâm chấp là dây lại chẳng đoạn trừ mà tự hết. Đó là lìa: Y Tha Khởi Chấp.

Sợi gai và dây vốn là một, có bện lại gọi là dây, không bện gọi là gai, là để dụ cho Tánh và Thức vốn là Một. Có trói buộc thì gọi là Thức, không trói buộc gọi là Tánh. Đến chỗ rõ thấy Duy Thức thì ngoài Thức không có Tánh; Thức đó là Tánh. Tức Đệ Bát Thức là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh vậy.

Đã lìa Y Tha Khởi cùng Biến Kế Chấp, ắt tiêu tan chủng tử sanh diệt, mà y theo cái Chân Tánh chẳng sanh, chẳng diệt, nên đắc Vô Sanh Nhẫn. Đó là tất cả cõi nước dơ sạch, có không đều là chỗ biến hiện của Tâm. Ta chẳng phân biệt, thì hiện đây là tịch diệt, ngay nơi Tướng Phần chứng Vô Sanh Nhẫn.

Thức Tánh lưu xuất vô lượng Như Lai, ấy là Lý tức Pháp Thân, Trí tức Báo Thân, Hạnh tức Hóa Thân. Trí tức Văn Thù, Hạnh tức Phổ Hiền, Bi tức Quán Thế Âm, đều từ Nhất Tâm lưu xuất. Ta không có sự phân biệt, thì hiện đây là tịch diệt, ngay nơi Kiến Phần chứng Vô Sanh Nhẫn.

Ngài Pháp Nhãn tụng rằng:

Ba cõi Duy Tâm,
Mắt thanh, tai sắc.
Sắc chẳng đến tai,
Thanh nào chạm mắt!
Mắt sắc, tai thanh,
Vạn pháp thành khác.
Muôn pháp chẳng duyên,
Nào quán như huyễn?
Đất đai sông núi,
Chi bền, chi biến?

Tổ Pháp Nhãn, thức tâm tròn sáng, mới nói được lời tròn vẹn này.

Tổ Bàn Sơn dạy rằng:

- Ba cõi không pháp, nơi nào cầu tâm? Bốn Đại vốn không, Phật nương đâu trụ? Trăng sao chẳng động, lặng đứng không ngần. Đối mặt trình nhau, còn chuyện gì nữa!

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

Ba cõi không pháp,
Nơi nào cầu tâm?
Mây trắng làm lọng,
Nước chảy làm đàn.
Một khúc, hai khúc, không người hiểu,
Đêm mưa ao vắng, nước thu trong.

Có nhà sư hỏi Tổ Thạch Sương:

- Muôn cửa đều đóng thì chẳng hỏi, muôn cửa đều mở thì thấy nào?

Tổ Sương nói:

- Chuyện trong nhà thì thế nào?

Nhà sư không đáp được. Trải qua nửa năm, mới nói được rằng:

- Không người tiếp được y.

Tổ Sương nói:

- Nói thì nói cho lắm, mà chỉ nói được tám tướng.

Nhà sư nói:

- Hòa Thượng thì thế nào?

Tổ Sương nói:

- Không người biết được y!

Ngài Đầu Tử tụng rằng:

Điện xưa cao ngất trăng phủ tùng,
Sương ngưng, tuyết lộ, nói không cùng.
Đối sao, nằm ngắm, nhà ngàn núi,
Phật, Tổ không nhân, biết HẮN chân!

Bồ Tát Di Lặc tu tập định Duy Tâm Thức, vào Tam Ma Địa. Nay Tổ Bàn Sơn lại nói:

- Nơi nào cầu tâm?

Tổ Thạch Sương thì nói:

- Không người biết được y!

Hai chuyển ngữ này, đợi đời sau hạ sanh. Bổ Xứ thành Phật sẽ trùng trùng khai diễn.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
thienquang
Bài viết: 266
Ngày: 13/04/09 20:45
Giới tính: Nam

Re: KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG

Bài viết chưa xem gửi bởi thienquang »

XXIV. VIÊN THÔNG VỀ KIẾN ĐẠI

Kinh:

Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với năm mươi hai vị Bồ Tát đồng tu liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:

- Tôi nhớ hằng sa kiếp trước, có Đức Phật ra đời, hiệu Vô Lượng Quang. Thuở ấy, mười hai vị Như Lai kế nhau thành Phật trong một kiếp. Đức Phật sau cùng, hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang, Ngài dạy tôi pháp Niệm Phật Tam Muội. Ví như có người, một bên thì chuyên nhớ, một bên thì chuyên quên thì hai người ấy, dầu gặp cũng như không gặp, dầu thấy cũng là không thấy. Nếu cả hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ mãi, khắc sâu và tâm niệm, như thế từ đời này qua đời khác, như hình với bóng, chẳng hề xa cách nhau, mười phương Như Lai thương tưởng chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh tuy nhớ cũng chẳng được gì. Con mà nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không hề ngăn cách. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì hiện giờ hay mai sau nhất định thấy Phật, cách Phật không xa. Chẳng nhờ phương tiện, tâm tự khai ngộ, như người ướp hương, thân có mùi thơm. Đây gọi là Hương Quang Trang Nghiêm. Nhân Địa Căn Bản của tôi là dùng Tâm niệm Phật, vào Vô Sanh Nhẫn. Nay tôi ở cõi này tiếp dẫn người niệm Phật về nơi Tịnh Độ.

Phật hỏi về Viên Thông, tôi không riêng lựa chọn mà nhiếp trọn cả sáu Căn, tịnh niệm nối tiếp nhau, đắc Tam Ma Địa. Đó là Thứ Nhất.

Thông rằng: Quán kinh nói, Dùng Ánh Sáng Trí Huệ, chiếu khắp tất cả. Nay rời ba đường, được Vô Thượng Lực, gọi là Đại Thế Chí . Bạn đồng tu có năm mươi hai vị Bồ Tát cũng đủ để chứng nghiệm chuyện vãng sanh Tịnh Độ là dễ thành tựu. Phàm người niệm Phật không được trong khoảnh khắc như gảy móng tay mà thấy Phật, chỉ vì niệm năm Dục thế gian, đó là niệm trói buộc. Còn tịnh niệm kế tiếp nhau, như con nhớ mẹ, thì ngay hiện giờ hay về sau nhất định thấy Phật. Miệng niệm tâm nhớ, tai mắt chuyên nhất, mỗi mỗi oai nghi, đều nhiếp trọn cả sáu Căn, nhất tâm không loạn. Trong chánh định như thế, chắc chắn thấy được Phật, cách Phật không xa, ánh sáng Trí Huệ rực rỡ, chẳng mượn tu hành mà tự thành khai ngộ, như người xông ướp hương, chẳng mong thơm mà tự thơm. Đây là nguyện lực của Phật A Di Đà nhiệm mầu không thể nghĩ bàn vậy.

Ngài Đại Thế Chí đã dùng Tâm niệm Phật mà đắc Vô Sanh Nhẫn. Lại tiếp dẫn người niệm Phật về Tịnh Độ, thì tự giác giác tha đầy đủ Hạnh Bồ Tát chân thật.

Sáu Căn đều thuộc về Kiến Phần. Ở đây chú trọng về sự thấy Phật, nên dùng Kiến Đại để mà thu nhiếp. Kiến Đại sao lại để sau Thức Đại? Bởi vì trước phải chuyển Thức Thứ Tám để chứng Hậu Đắc Trí rồi sau chuyển năm Thức trước. Đã chuyển Thức thành Trí, sanh về Tịnh Độ của Phật là cái quả cùng cực, cớ sao ở sau lại còn pháp môn Xoay Lại Cái Nghe của Đức Quan Âm? Phàm cái chỗ quý báu của chuyện vãng sanh Tịnh Độ, chứng Viên Thông thì không phải chẳng những tự cho mình mà thôi, mà là độ thoát chúng sanh. Ắt như ba mươi hai Ứng Thân, chốn chốn nơi nơi đều là Tịnh Độ, đều chứng Viên Thông, thì sau mới tròn đủ quả Phật vậy.
Thiền sư Vĩnh Minh Thọ, thuở nhỏ tụng kinh Pháp Hoa, năm Hạnh( ) đầy đủ trong sáu tuần lễ. Sau tham học với Thiều quốc sư, phát rõ tâm yếu, đến ngọn núi Thiên Thai của Ngài Trí Giả tu định trong chín tuần( ), chim chóc làm tổ trên áo. Ngài làm hai cái thăm, khấn bói: một là, một đời thiền định; hai là, tụng kinh, muôn thiện trang nghiêm Tịnh Độ. Rồi chí thành cầu nguyện, bảy lần đều rút được tụng kinh, muôn thiện. Bèn chuyên tu Tịnh Nghiệp. Tụng kinh ba năm, trong lúc thiền quán, thấy Đức Quan Âm rót cam lồ vào miệng, bèn được biện tài.
Vua Trung Ý thỉnh Ngài trụ trì chùa Linh Ẩn, hai năm sau sang chùa Vĩnh Minh. Khóa biểu mỗi ngày có một trăm lẽ tám việc, không hề gián đoạn. Học giả đến tham học thì Ngài chỉ Tâm làm tông chỉ, lấy Ngộ làm phép tắc. Mỗi đêm lại sang nơi khác để tu hành niệm Phật.

Vua Trung Ý than rằng:

- Từ xưa đến nay, chưa có ai chuyên tâm tha thiết cầu sanh Tây Phương cho bằng!

Bèn làm điện Tây Phương Hương Nghiêm để Ngài hoàn thành chí nguyện. Đệ tử đến một ngàn bảy trăm người. Ngài thường cùng đại chúng thọ Giới Bồ Tát, thí thực cho quỷ thần, hàng ngày phóng sanh đều hồi hướng trang nghiêm Tịnh Độ. Làm trăm pho sách, nhan đề là Tông Cảnh Lục, lại viết các quyển Vạn Thiện Đồng Quy và Chỉ Về Tịnh Độ.

Sau khi Ngài diệt độ, tháp ở trong núi, có một nhà sư từ Lâm Xuyên đến nói:
- Khi tôi bệnh nặng, chết xuống cõi u minh, được thả về. Tôi thấy trong điện Diêm Vương có tượng một vị tăng, Diêm Vương tự thân đảnh lễ, tôi hỏi: Tượng ấy là ai?”
Vị Chủ Lại nói rằng:
- Đó là thiền sư Thọ ở Chẩm Châu. Nghe rằng Ngài đã vãng sanh bậc thượng phẩm ở Tây Phương. Diêm Vương kính trọng Ngài nên lễ bái.

Ông Dương Kiệt, tự là Thứ Công, phu nhân Kinh Châu cũng trong mộng thấy Ông Kiệt ngồi trên đài hoa sen, tiêu dao tự tại. Trước kia ông Dương Kiệt thấy mặt trời như cái mâm vọt lên, có điều tỏ ngộ, làm bài kệ rằng:

Trai lớn thì cưới vợ,
Gái lớn thì lấy chồng.
Hỏi công phu: nhàn lắm!
Lại nói lời Vô Sanh.

Rất nên cùng Ông Bàng cư sĩ thẩm tra!

Khi ông sắp từ biệt cõi đời, có bài kệ:

Không chi để mến,
Không chi để bỏ!
Trong khoảng thái hư,
Ờ, à, thế, đó!
Từ an tới an,
Tây Phương Cực Lạc.

Đó là Ngài Vĩnh Minh Thọ và Ông Dương Kiệt đều sanh về Tịnh Độ, sáng tỏ pháp Niệm Phật Tam Muội, như con nhớ mẹ.

Tổ Động Sơn có nói:

- Đối với Đạo thì chớ đi, còn quay về thì nghịch lại với cha.

Có nhà sư hỏi Tổ Tào Sơn:

- Con quay về với cha, sao cha chẳng thèm nhìn đến?

Tổ Sơn nói:

- Lý hợp như thế đấy!

Nhà sư hỏi:

- Thế thì ân tình cha con ở đâu?

Tổ Sơn nói:

- Thế mới thành ân tình cha con.

Nhà sư hỏi:

- Thế nào là ân tình cha con?

Tổ Sơn nói:

- Đao búa chặt chẳng rời.

Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng:

- Rèm biếc buông rồi, lệnh vua chưa xuống. Màn hoa đã khép, thấy nghe khó thông! Động nhằm đầu lông, trăng lên song cửa. Im dời một bước, hạc ra lồng bạc. Có biết chăng? Thoát thân một sắc, không lưu bóng. Chẳng tọa đồng phong, lạc đại công.

Lại có nhà sư hỏi Tổ Hộ Quốc:

- Như thế nào là cha mẹ xưa nay?

Tổ Quốc nói:

- Ấy đầu chẳng bạc.

Nhà sư hỏi:

- Lấy gì phụng hiến?

Tổ Quốc nói:

- Ân cần không cơm gạo, trong nhà chẳng hỏi thân.

Ngài Đơn Hà tụng rằng:

Ra cửa khắp đời không tri kỷ,
Vào nhà ngập mắt: chẳng ai thân.
Nhà không đêm lạnh, không gì có,
Trời xanh, trăng sáng: cũng bạn gần.

Hai tắc trên thật rõ ràng Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ, phải thấy như thế mới là cái Thấy chân chánh.
Xưa, có vị ni cô ra mắt Tổ Vân Nham.

Tổ Nham hỏi:

- Cha cô còn không?

Ni cơ nói:

- Dạ, còn.

Tổ Nham hỏi:

- Tuổi bao nhiêu?

Ni cô nói:

- Sáu mươi lăm.

Tổ Nham nói:

- Cô có người cha chẳng phải sáu mươi lăm tuổi, cô biết hay chăng?

Ni cô nói:

- Chẳng phải là cái như vậy đến ư?

Tổ Nham nói:

- Cái như vậy đến vẫn còn là con cháu.

Ngài Động sơn nói:

- Dù được cái chẳng như vậy đến cũng là con cháu!

Ô hô! Cha mẹ xưa nay đâu có dễ thấy! Nên thấy được cha mẹ xưa nay thì thấy Tự Tánh Di Đà mà Thiền Tịnh viên dung, đều thuộc về cảnh giới không thể nghĩ bàn vậy.


Tự đáy lòng con luôn luôn nhớ ơn Thầy.
TÂM BÌNH THẾ GIỚI BÌNH
Cầu mong sự bình an và sáng suốt đến với TẤT CẢ
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.16 khách