Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Nghiên cứu học hỏi tư tưởng Phật giáo bắc tông: Câu xá, thành thật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Du già, pháp tướng tông, trừ hệ bát nhã, thiền và chuyên mục đã có.

Điều hành viên: phuoctuong

Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

9 - KẾT BẢY THỨ VÔ THƯỜNG VỌNG CHẤP

Như thế thảy, các thứ ngoại đạo chấp vô thường, vọng tưởng khi lửa đốt tứ đại, tự tướng chẳng đốt. Mỗi mỗi tự tướng tướng hoại thì tứ đại tạo sắc ưng đoạn
.

Đây nói chung bảy thứ hư vọng phân biệt. Đại lược đều cho hiện hình bên ngoài của tứ đại riêng có tự thể tứ đại lửa không thể đốt. Nếu hay đốt được thì năng tạo, sở tạo đều đoạn diệt. Đây là phân nửa sanh diệt, phân nửa chẳng sanh diệt. Bởi do chẳng giác tự tâm hiện lượng, chẳng đạt các pháp duy tâm, vốn không có sanh cũng không có chỗ diệt. Vọng thấy sanh diệt, vọng phân tánh tướng, thường chấp vô thường, vô thường chấp thường, để hiển bày tự tâm hiện lượng.

10 - NHƯ LAI NÓI RA PHI THƯỜNG - PHI VÔ THƯỜNG, ĐỂ HIỂN TỰ TÂM HIỆN LƯỢNG.

Đại Huệ ! pháp duyên khởi của ta phi thường, phi vô thường. Vì cớ sao ?
Vì ngoại tánh không quyết định, chỉ nói ba cõi duy tâm, chẳng nói các thứ tướng có sanh diệt. Tứ đại hội hiệp sai biệt, tứ đại và tạo sắc, nên vọng tưởng hai thứ năng nhiếp - sở nhiếp. Biết hai thứ vọng tưởng , lìa hai thứ chấp ngoại tánh không tánh, giác tự tâm hiện lượng.
Vọng tưởng là : tư tưởng tác hành sanh, chẳng phải tác hành. Lìa tâm vọng tưởng tánh, không tánh thì thế gian, xuất thế gian, xuất thế gian thượng thượng tất cả pháp phi thường, phi vô thường … Chẳng giác tự tâm hiện lượng rơi vào hai bên ác kiến tiếp nối. Tất cả ngoại đạo chẳng giác vọng tưởng mình, phàm phu này không có căn bản. Nghĩa là thế gian, xuất thế gian, xuất thế gian thượng thượng nói từ vọng tưởng sanh, chẳng phải chỗ giác của phàm ngu.


Như Lai đã nói các pháp phi thường - vô thường, vì chẳng chấp nhận ngoại tánh có sanh diệt , chỉ nói ba cõi duy tâm. Đây là ba đời chư Phật đồng một chỉ thú. Bởi vì các thứ sanh diệt do tứ đại và tạo sắc nhơn duyên hiệp hội dường như có sai biệt. Song thật không có năng tạo - sở tạo, do vo thủy bất giác, một lúc liền hiện, nên nói “ba cõi duy tâm”. Không thể liễu đạt duy tâm mà khởi hai thứ vọng tưởng năng tạo - sở tạo , tức rơi vào kiến chấp có - không, liễu đạt thì chóng lìa , chỉ một tâm lượng. Cho nên biết tứ đại trong ngoài, sắc tâm các pháp đều do vọng tưởng phân biệt mà sanh tất cả hạnh nghiệp. Các hạnh nghiếp ấy chẳng thật có sanh thì chẳng lại đọi không. Chỉ lìa hai thứ phân biệt có - không thì tự tâm hiện ngjthawngr đó hiện tiền, Vì thế Như Lai nói phi thường - vô thường vậy. Nhơn vọng tưởng mà hiện bày thế, xuất thế, xuất thế thượng thượng ba thứ pháp phân biệt, không thể nói là thường.
Tức nhơn vọng tưởng mà bày hiện thế, xuất thế, xuất thế thượng thượng, ba thứ trí vô phân biệt không thể bảo vô thường. Ngoại đạo có hai thứ ác kiến bởi chẳng giác tự tâm hiện lượng, nơi vọng tưởng phân biệt không thể chính đó phát minh được vô phân biệt căn bản tánh trí. Cho nên Như Lai ba thứ pháp theo chúng sanh phân biệt mở nói phương tiện, chẳng phải chỗ giác của phàm ngu.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

11 - TỔNG TỤNG

Khi ấy Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Xa lìa nơi mới tạo ……………………………….. Và cùng hình xứ khác
Tánh cùng sắc vô thường ……………………… Ngoại đạo ngu vọng tưởng.
Các tánh không có hoại…………………………. Đại đại tự tánh trụ
Ngoại đạo tưởng vô thường……………………..Chìm tại các thứ chấp
Các chúng ngoại đạo kia…………………………Không : hoặc sanh hoặc diệt
Đại đại tánh tự thường………………………….. Sao nói tưởng vô thường.
Tất cả duy tâm lượng……………………………. Hai thứ tâm lưu chuyển
Nhiếp thọ và sở nhiếp…………………………… Không có ngã, ngã sở
Phạm thiên là cội cây……………………………. Cành nhánh trải khắp giáp
Như thế ta nói ra ………………………………… Chỉ là tâm lượng kia.


Tụng nói ngoại đạo chấp tất cả vô thường đều do vọng tưởng làm ngu, kỳ thật tất cả pháp không có tướng hoại. Chủng tánh các đại mỗi mỗi trụ nơi pháp vị, tất cả sanh diệt là tự tướng chơn như. Bởi do chẳng biết tâm lượng lầm cho là vô thường, bị kiến chấp làm chìm. Nếu biết tất cả duy tâm thì hai kiến chấp lưu chuyển cũng duy tâm hiện, thẳng đó, năng nhiếp, sở nhiếp toàn không, không có tác giả. Toàn vọng là toàn chơn, đâu lại có riêng.
Cho nên chính ngay chỗ chấp kia cho Phạm thiên là cội rễ hay sanh tất cả hữu tình kháp giáp ba cõi. Các thứ tà vọng, Như Lai nói đều duy tâm lượng, giác tức Bồ đề, chẳng nhọc chuyển biến. Đây là đến chỗ vọng chấp của ngoại đạo, khiến họ thoạt nhiên biết quấy liền đồng bản đắc.
Như Lai dạy người có thể nói là từ bi cùng tột vậy.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

NHƯ LAI ĐỆ NHẤT NGHĨA CHÓNG VƯỢT CÁC ĐỊA. RIÊNG HIỂN DUY TÂM.
(Có 5 phần)

1 - ĐẠI HUỆ HỎI CHÁNH THỌ. TRƯỚC CHỈ HÀNH TƯỚNG THẤT, BÁT ĐỊA.

Khi ấy Bồ tát Đại Huệ bạch Phật : Thế Tôn ! Cúi xin vì nói tất cả Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác diệt chánh thọ (diệt tận định) thứ lớp tương tục. Nếu giỏi nơi tướng diệt chánh thọ thứ lớp tương tục, con và Bồ tát trọn chẳng vọng bỏ diệt chánh thọ lạc môn, chẳng rơi vào tất cả Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo, ngu si.
Phật bảo Đại Huệ : Lắng nghe! Lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, tôi sẽ vì ông nói. Phật bảo Đại Huệ : Đại Bồ tát đệ lục địa và Thanh văn, Duyên giác nhập diệt chánh thọ. Đại Bồ tát đệ thất địa niệm niệm chánh thọ, lìa tất cả tướng tánh tự tánh chánh thọ, chẳng phải Thanh văn, Duyên giác. Thanh văn Duyên giác rơi vào có hành giác, tướng năng nhiếp, sở nhiếp diệt chánh thọ. Bồ tát Thất địa phi niệm chánh thọ, được tất cả pháp tướng không sai biệt, chẳng phải được từng phần các thứ tướng tánh, giác tất cả pháp thiện, chẳng thiện tánh tướng chánh thọ. Thế nên Bồ tát thất địa không thiện niệm chánh thọ.
Đại Huệ ! Bồ tát bát địa và Thanh văn Duyên giác , tâm - ý - ý thức tướng vọng tưởng diệt.


Nhập “diệt tận định” tam thừa đều có. Thảy vì đối trị tâm - ý - ý thức của phàm phu, lìa tất cả tâm niệm phân biệt ngã và ngã sở. Chỉ vì nhị thừa chẳng giác tự tâm hiện lượng như huyễn mộng, vì đối trị nên thành thật pháp. Nơi pháp chánh định chưa quên năng sở, có giác có hạnh, cho nên chẳng bằng bồ tát thất địa niệm niệm chánh thọ. Sơ địa đến lục địa vẫn không thể như Bồ tát thất địa niệm niệm chánh thọ.
Đại thừa vào phận kiến đạo, tuy có đối trị chưa lìa giác hạnh, nhưng đều thuộc phương tiện, không cho là thật pháp.
Mới biết lý do thất địa được niệm niệm chánh thọ, do giác tự tâm hiện lượng rồi xả phương tiện, lìa tất cả tướng tánh tự tánh , được huệ vô sai biệt, đây là nguyên nhơn nhị thừa chẳng có phần.
Được các thứ tướng tánh, giác tất cả pháp tánh tướng thiện, chẳng thiện chánh thọ là : Chính chỉ nhị thừa sợ rơi vào tướng không sai biệt, muốn được các thứ tánh tướng thiện - chẳng thiện mà vào chánh thọ, bỏ sanh đến diệt, phân biệt chưa quên, nên nói “ dùng trạm hiệp trạm về tột mé thức”, cho nên không có thiện niệm chánh thọ của thất địa (thiện niệm tức là niệm niệm, cũng tức là phi niệm).
Nói đệ bát địa mới hay diệt vọng tưởng tâm - ý - ý thức nhị thừa là : đến đệ bát địa được pháp vô ngã, tâm thức mới hết. Sơ địa đến thất địa tuy giác tự tâm hiện lượng, đều hay lìa tâm - ý - thức, nhưng đến bát địa mới hết, nên nói “bát địa diệt “. Thất địa đã không phương tiện giác hạnh, được niệm niệm chánh thọ, mà chẳng nói thất địa diệt, bởi sức chánh thọ thắng, pháp vô ngã chưa hiện, bản nguyện đại bi vẫn đợi nhớ niệm, cho nên chẳng nói cứu cánh diệt. Song đến bát địa, vẫn nhờ chánh định, giác tâm trí gia trì, mới hay cứu cánh viên mãn Như Lai địa, huống là thất địa.
Đại Huệ nhơn ở trên tướng thường - vô thường đã biện tà chánh, nơi đây lại thỉnh nói về các địa chánh thọ, muốn rõ được chỗ sai biệt của đại thừa và nhị thừa, cùng chỗ sai biệt của mỗi địa, vì những người tu hành phát minh để tăng tiến.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

2 - TỪ SƠ ĐỊA ĐẾN THẤT ĐỊA CÙNG VỚI NHỊ THỪA , ĐỒNG - KHÁC.

Đại Bồ tát từ sơ địa đến thất địa quán tam giới lượng tâm, ý, ý thức , lìa ngã - ngã sở , tự vọng tưởng tu, rơi vào ngoại tánh các thứ tướng. Ngu phu hai thứ tự tâm, nhiếm - sở nhiếp thảy không biết, chẳng giác vô thủy lỗi ác hư ngụy tập khí huân nên
.

Sơ địa đến thất địa (các bản dịch đời Đường, Ngụy đều nói từ sơ địa đến lục địa Bồ tát đã có chánh thọ, cùng nhị thừa đồng. Bản dịch này nói chỗ thấy của Bồ tát cùng nhị thừa khác nên nói đến thất địa).
Sơ địa đến thất địa Bồ tát đạt tự tâm lượng nên hay quán tam giới trong ngoài đều do tâm, ý, ý thức bất giác hiện ra, vốn không có ngã sở, chỉ tự vọng tưởng nên ngoài thấy có tánh tướng. Nhị thừa chẳng đạt tự tâm, rơi vao hai bên có - không, khởi cảnh giới năng thủ - sở thủ, cho nên tuy cùng với lục địa đồng một chánh thọ mà Bồ tát liễu đạt tất cả tánh không có tướng tự tánh mà vào chánh thọ. Nhị thừa giác các thứ tướng khác mà vào chánh thọ.
Một bên dùng sức phương tiện trừ sạch tập khí hiện tại, Một bên do chẳng giác , chẳng biết bị vô thủy hư ngụy tập khí chuyển.

3 - BÁT ĐỊA TAM MUỘI GIÁC TRI

Đại Huệ ! Đại Bồ tát Bát địa là Niết bàn của Thanh văn, Duyên giác. Bồ tát là do giác tam muội gia trì nên tam muội môn lạc chẳng vào Niết bàn. Nếu chẳng gia trì thì Như Lai địa chẳng đầy đủ , vì ném bỏ tất cả việc hữu vi của chúng sanh, hạt giống Phật ắt phải đoạn.
Chư Phật Thế Tôn vì muốn chỉ vô lượng công đức bất khả tư nghị của Như Lai . Thanh văn, Duyên giác nơi tam muội môn được lạc bị dẫn, nên khởi tưởng Niết bàn.


Bồ tát Bát địa cũng có tam muội lạc môn của Nhị thừa, do sức bản nguyện, tuy ở trong tam muội, do giác gia trì nên chẳng vào Niết bàn. Nếu chẳng gia trì thì không đầy đủ địa Như Lai, dẹp bỏ chúng sinh thì hạt giống Phật ắt phải đoạn. Cho nên trong kinh Hoa Nghiêm Bồ tát Bát địa được mười phương Như Lai đồng thanh khuyến phát , bảo “Chỗ sở đắc của ông, Nhị thừa cũng có. Phải nhớ vô lượng bất khả tư nghị công đức”. Thế nên biết : Bát địa phát khởi thảy do thần lực của chư Phật, chẳng bị say cái tam muội lạc của Nhị thừa. Thần lực chư Phật mà nói tam muội giác gia trì là : Bồ tát từ sơ phát tâm trụ do giác tự tâm hiện lượng vào Như Lai giác, đồng thể nhiếp trì cảm ứng đạo giao, dùng Phật tự giác, ở trong tam muội tự nhiên thức tỉnh, không thể nghĩ bàn.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

4 - THẤT ĐỊA XẢ LY TAM MUỘI, HIỆN TỰ TÂM LƯỢNG.

Đại Huệ ! Ta phân bộ Thất địa khéo tu tướng tâm, ý, ý thức, khéo tu ngã - ngã sở nhiếp thọ, nhơn pháp vô ngã, tự tướng - cộng tướng sanh diệt , khéo được tứ vô ngại, sức quyết định tam muội môn địa thứ lớp tương tục, vào pháp đạo phẩm. Chẳng khiến đại Bồ tát chẳng giác tự tướng - cộng tướng, chẳng rành về Thất địa rơi vào lối tà của ngoại đạo, cho nên lập địa thứ lớp.
Đại Huệ ! Kia thật không có hoặc sanh hoặc diệt, trừ tự tâm hiện lượng, nên nói “Địa thứ lớp tương tục và tam giới các thứ hạnh”, chỗ kẻ ngu không thể giác. Chỗ kẻ ngu không thể giác là : Ta và chư Phật nói địa thứ lớp tương tục và nói tam giới các thứ hạnh.


Phân bộ là phân biệt, diễn nói. Như Lai nơi Thất địa phân biệt diễn nói. Thất địa sanh nhơn đã đoạn, đồng với nhị thừa, rất dễ đắm nhiễm nên vì phân biệt.
Người khéo phân biệt thì tâm, ý, ý thức đều do tự tâm hiện, không có ngã và ngã sở. Không ngã thì nhiếp thọ không người. Không sở thì nhiếp thọ không pháp. Không người không pháp thì lìa vọng kiến đồng tướng - dị tướng. Nhị thừa giác các thứ dị tướng, vọng kiến chánh định, nên dễ chấp lấy Niết bàn. Nếu hay khéo biết chỗ này thì hay hiểu rộng nghĩa pháp nhất thừa, giỏi tứ vô ngại, nơi tam muội môn được sức quyết định tự giác gia trì, dùng đây để soi sáng các địa, tăng tiến đạo phẩm. Cho nên nói “chẳng khiến Bồ tát chẳng giác tự tướng cộng tướng, chẳng rành về Thất địa, rơi vào lối tà của ngoại đạo”.
Đây là chỉ thú Như Lai lập địa , mà nơi Thất địa lại phải rất dè dặt, e rơi vào lối tẻ. Lại nói “kia thật không có hoặc sanh hoặc diệt, trừ tự tâm hiện lượng”. Nên nói “địa thứ lớp tương tục và tam giới các thứ hạnh”. Như Lai trước sau nêu cao, bảo vệ pháp môn duy tâm. Nghĩa là duy tự tâm, không có các địa thứ lớp. Lại cùng tất cả hành tướng trong tam giới, khi giác tự tâm hiện lượng thì được không thật có. Từ không thật có kiến lập tất cả pháp, vì độ kẻ bất giác chẳng phải vì người giác.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Lại nữa, Đại Huệ ! Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát đệ Bát địa diệt tam muội môn lạc say bị say, chẳng ránh tự tâm hiện lượng , bị tập khí tự tướng - cộng tướng làm chướng , rơi vào nhơn pháp vô ngã kiến chấp pháp nhiếp thọ, vọng tưởng khởi tưởng Niết bàn, chẳng phải trí tuệ giác tịch diệt.
Đại Huệ ! Bồ tát thấy diệt tam muội môn lạc, bổn nguyện thương xót, đại bi thành tựu, biết phân biệt mười câu vô tận, chẳng vọng tưởng khởi tưởng Niết bàn. Kia đã Niết bàn vì vọng tưởng chẳng sanh, lìa vọng tưởng năng nhiếp sở nhiếp. Giác rõ tự tâm hiện lượng thì tất cả các pháp vọng tưởng chẳng sanh, chẳng rơi vào ngoài tâm, ý, ý thức chấp trước vọng tưởng tướng tánh tự tánh, chẳng phải Phật pháp nhơn chẳng sanh, tùy trí tuệ sanh được Như Lai tự giác địa
.

Trên vì Thất địa phân bộ chẳng khiến rơi vào lối tẻ, đây đối với Bát địa thống thiết đinh ninh. Thanh văn, Duyên giác khi đăng quả đồng với Bồ tát đệ bát Bất động địa, tất cả tưởng niệm về thế gian, xuất thế gian hằng dứt, chỉ chẳng rành tự tâm lượng bèn bị tập khí tự tướng - cộng tướng ngăn che, thấy pháp ngoài tâm khởi tưởng Niết bàn, không có huệ tịch diệt. Cho nên Bồ tát Bát địa đối diệt tam muội lạc hiện tiền liền nhớ nghĩ bản nguyện, khởi tâm đại bi, dùng mười câu vô tận thành tựu Phật địa, chẳng vào Niết bàn. Nghĩa là đã vào Niết bàn chẳng lẽ lại vào Niết bàn. Bồ tát này giác tự tâm hiện lượng, không có năng thủ - sở thủ, thấy tất cả pháp chẳng phải riêng có, hằng lìa tâm, ý , ý thức và các thứ tướng trong tam giới, chuyển thân vọng tưởng làm “Tự giác thánh trí”, ý thánh trí sanh đến cứu cánh giác địa. Cho nên nói “Vọng tưởng chẳng sanh, mà chẳng phải Phật pháp nhơn chẳng sanh”.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Như người trong mộng dùng phương tiện qua sông, khi chưa qua đã thức, thức rồi suy nghĩ là chánh hay tà? Chẳng phải chánh, chẳng phải tà. Các cái thấy nghe, hay biết từ vô thủy nhơn tưởng các thứ tập khí, các thứ hình xứ rơi trong tưởng có - không, nên tâm, ý, ý thức mộng hiện.

Đây dụ tập khí vọng thấy tự tướng cộng tướng khởi tưởng Niết bàn, mà thật đều từ tự tâm hiện ra, không có nhơn pháp, cũng không có cảnh giới năng độ, sở độ. Như người trong mộng dùng phương tiện qua sông, thức rồi tâm dừng, không thể nói là chánh hay tà, chỉ là từ vô thủy, tập khí còn thừa thấy nghe hiểu biết phân biệt. Nơi tất cả sắc tâm các pháp vọng chấp có- không đều là việc mộng do tâm, ý, ý thức hiện ra, không có cảnh giới thật.

Đại Huệ ! Như thế đại Bồ tát đệ bát địa thấy chỗ vọng tưởng sanh. Từ sơ địa đến thất địa thấy tất cả pháp phương tiện như huyễn v.v… độ tâm hạnh vọng tưởng năng nhiếp sở nhiếp rồi, khởi Phật pháp phương tiện, người chưa được khiến được.
Đại Huệ ! Đây là Bồ tát Niết bàn phương tiện chẳng hoại, lìa tâm, ý, ý thức được vô sanh pháp nhẫn. Đại Huệ ! đối với đệ nhất nghĩa không có thứ lớp tương tục, nói pháp không thật có vọng tưởng tịch diệt
.

Nương trên dụ qua sông, Đệ Bát địa Bồ tát cũng lại như thế. Bồ tát đến đệ bát địa mới thấy chỗ sanh vọng tưởng. Nghĩa là giác tự tâm hiện lượng, đạt tất cả vọng tưởng đều do bất giác vọng thấy có - không, đến đệ bát địa các vọng tưởng dứt, mới thấy chỗ sanh vọng tưởng. Thấy chỗ sanh vọng tưởng mới biết từ sơ địa đến đệ thất địa đã có tất cả pháp tướng trọn như mộng huyễn, được trí phương tiện bình đẳng , độ tâm năng sở vọng tưởng hằng dứt, liền dùng huệ phương tiện tự lợi, lợi tha đến cứu cánh Phật địa. Đây là Bồ tát vô trụ xứ Niết bàn, lìa tâm, ý, ý thức đối tất cả chỗ không, hoặc phương tiện, được vô sanh nhẫn, đây là đệ nhất nghĩa pháp không thật có tịch diệt. Nên nói “Nơi đệ nhất nghĩa không có thứ lớp tương tục, nói pháp không thật có vọng tưởng tịch diệt.
Không thứ lớp là không có các địa thứ lớp.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

5 - DUY TÂM TRỪ CÁC ĐỊA

Khi ấy Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ :

Tâm lượng không thật có ………………. Đây trụ đến Phật địa
Khứ, lai và hiện tại………………………. Ba đời chư Phật nói.
Tâm lượng địa đệ thất…………………… Không thật có đệ bát
Hai địa tên là trụ………………………….. Phật địa tên tối thắng
Tự giác trí và tịnh………………………….Đây tức là địa ta
Chỗ tự tại tối thắng………………………. Thanh tịnh khéo trang nghiêm
Chiếu sáng như lửa mạnh………………. Ánh sáng soi khắp nơi
Sáng lòa chẳng mờ mắt ………………… Xoay vòng hóa ba cõi.
Hiện tại hóa ba cõi……………………….. Hoặc có khi trước hóa
Nơi kia diễn nói thừa……………………...Đều là Như Lai địa.
Thập địa tức là sơ…………………………Sơ tức là bát địa
Đệ cửu tức là thất…………………………Thất cũng lại là bát
Đệ nhị là đệ tam………………………….. Đệ tứ là đệ ngũ
Đệ tam là đệ lục………………………….. Không có thứ lớp gì
.

Bài kệ thư nhất nói các địa Phật đều không thật có, thảy là một duy tâm, ba đời Như Lai không có nói khác.
Bài kệ thứ hai nói thất địa chưa lìa tâm lượng, bát địa lìa nhưng chưa cứu cánh, chưa phải hành xứ của Như Lai.
Bài kệ thứ ba về sau đều nói về Phật địa. Tự giác trí và tịnh tức là trí và tịnh dung nhau , nên nói “pháp thân thanh tịnh cùng pháp thân vô cấu” hiệp hai nghĩa này thành tựu Như Lai tự giác. Cho nên người được tự giác thánh trí tức ở cõi trời Sắc cứu cánh trong cung Đại bảo hoa, thành Đẳng chánh giác, làm Bồ tát thập địa hiện thân rộng lớn ánh sáng chiếu soi, do đó đại hóa, tiểu hóa tùy thuận hóa khắp giáp hiện tại, hoắc trước, hoắc sau, đã có kiến lập thừa đều là nhất thừa, thừ nào cũng là Phật thừa. Bởi vì sơ địa cho đến tappj địa, một địa tức tất cả địa, tất cả địa tức một địa.
Kinh Hoa Nghiêm hàng thập trụ sơ tâm thành Đẳng chánh giác cùng Phật không khác. Ở đây Như Lai kiến lập pháp mônđệ nhất nghĩa, chóng trừ các địa riêng bày duy tâm.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

NHƯ LAI CHÁNH GIÁC THƯỜNG TRỤ
Có bốn phần

1 - CHÁNH GIÁC CHẲNG ĐỒNG LỖI TẠO TÁC

Khi ấy Bồ tát Đại Huệ lại bạch Phật : Thế Tôn ! Như Lai ứng cúng Đẳng chánh giác là thường hay vô thường ?
Phật bảo Đại Huệ : Như Lai ứng cúng Đẳng chánh giác chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Nghĩa là cả hai đều có lỗi.
Nếu là thường thì có lỗi làm chủ, thường ấy, tất cả ngoại đạo nói tác giả vì không có chỗ tác, thế nên Như Lai thường phi thường. Chẳng phải tác thường, vì có lỗi. Nếu Như Lai vô thường có lỗi tác vô thường, sở tướng của ấm tướng thì không tánh, ấm hoại nên đoạn, mà Như Lai chẳng phải đoạn.


Trước hỏi tất cả pháp thường cùng vô thường, đây hỏi pháp Như Lai sở chứng là thường hay vô thường. Như Lai chánh giác không thể nói thường hay vô thường, nghĩa là cả hai đều có lỗi. Nếu thường thì rơi vào lỗi tác giả, như ngoại đạo chấp thần ngã nói là năng tác, Như Lai giác tánh không phải sở sanh của sanh nhơn, mà là sở liễu của liễu nhơn, vì không có chỗ tác, chẳng phải thường, chẳng phải tác thường. Nếu vô thường thì rơi vào lỗi sở tác , đồng với tướng ấm, ấm thuộc về sở tác , không tánh, ấm hoại liền đoạn, mà Như Lai giác tánh chẳng đoạn, cho nên chẳng phải vô thường.

Đại Huệ ! tất cả sở tác đều vô thường, như bình, y v.v… tất cả đều là lỗi vô thường thì nhất thiết trí đầy đủ phương tiện ưng vô nghĩa, vì cho là sở tác. Thế thì, tất cả sở tác đều ưng là Như Lai, vì không nhơn tánh sai biệt. Thế nên, Đại Huệ ! Như Lai phi thường, phi vô thường.

Đoạn trên nói sở tác vô thường. Nghĩa là phàm có sở tác thảy đều vô thường, đồng với bình lọ, y áo v.v…Như Lai cũng có sở tác mà chẳng phải vô thường. Do không nhơn tánh sai biệt, nghĩa là Như Lai đã tu phước trí đều thuận tánh khởi dụng, không có nhơn riêng, chẳng đồng sở tác.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

2 - CHÁNH GIÁC TRÍ VÔ GIÁN THƯỜNG BÀY HIỆN

Lại nữa , Đại Huệ ! Như Lai chẳng phải như hư không thường. Như hư không thường thì mắc lỗi tự giác thánh trí đầy đủ phương tiện thành vô nghĩa.
Đại Huệ ! Thí như hư không phi thường, phi vô thường, lìa thường - lìa vô thường, một - khác, chung - chẳng chung. Thường - vô thường đều lỗi nên không thể nói , vì thế Như Lai phi thường.
Lại nữa Đại Huệ ! Nếu Như Lai vô sanh thường như sừng thỏ, sừng ngựa v.v…, cho vô sanh thường thì phương tiện vô nhĩa.
Lại nữa, Đại Huệ ! Còn có các việc khác biết Như Lai thường. Vì cớ sao ? vì đã được trí vô gián thường nên Như Lai thường
.

Đây nói Như Lai phi thường, chẳng như hư không. Bởi hư không thường lìa thường - vô thường, một - khác, chung - chẳng chung v.v… bốn câu thường bị lỗi vô thường. Song tuy Như Lai bị lỗi vô thường mà chẳng như hư không, vì có tự giác thánh trí sự.
Như Lai phi thường chẳng như sừng thỏ, do sừng thỏ có lỗi vô sanh thường. Song Như Lai không bị lỗi vô sanh thường , nên chẳng như sừng thỏ, vì có phương tiện nhận được. Cho nên biết , Như Lai sở tác chẳng đồng các vật, Như Lai vô tác chẳng đồng hư không, sừng thỏ. Ở giữa hai bên kia mà được trí Như Lai vô gián thanh tịnh, nên nói Như Lai thường.
Như Lai từng ở trên hội Niết bàn tuyên nói “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh” đều vì lìa lỗi hiển bày. Ba đời Như Lai vô thượng pháp ấn không có hai chỉ thú


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

3 - NHƯ LAI TÁNH THƯỜNG BÌNH ĐẲNG.

Đại Huệ ! Hoặc Như Lai ra đời, hoặc chẳng ra đời , pháp quyết định trụ, Thanh văn, Duyên giác, chư Phật Như Lai vô gián trụ, chẳng trụ hư không, cũng chẳng phải chỗ hiểu biết của ngu phu.
Đại Huệ ! Như Lai đã được trí là do bát nhã huân, chẳng phải tâm, ý, ý thức các ấm, giới, nhập xứ huân.
Đại Huệ ! tất cả ba cõi đều là vọng tưởng chẳng thật sanh, Như Lai chẳng từ tưởng hư vọng chẳng thật sanh.
Đại Huệ ! Do hai pháp nên có thường - vô thường, chẳng phải hai, chẳng phải hai là lặng lẽ , và tất cả pháp không hai tướng sanh.



Đây thẳng bày Như Lai vô gián thánh trí , tam thừa đều bình đẳng , có Phật hay không Phật bản giác vẫn thường trụ. Chẳng trụ hư không, chẳng đồng giác tưởng, vì hư không là không, vì tưởng chẳng thật.Nếu hay nơi đây sáng ngộ bèn chuyển tập khí hư ngụy từ vô thủy là vô gián bát nhã. Tất cả tâm, ý, ý thức các ấm, giới, nhập thuần một tịch tĩnh , cứu cánh chẳng hai. Kẻ ngu chẳng giác khắp thể toàn vọng, mê Như Lai vô gián thánh trí làm tâm, ý, ý thức, lưu chuyển trong ba cõi, đồng với huyễn hóa, nên nói “từ vọng tưởng, cái chẳng thật sanh”.
Tóm lại pháp thể không hai, mê thì thấy có thường - vô thường, vọng thấy dường như hai, giác thì vọng kiến chóng mất, chỉ một tịch tĩnh. Song mê cùng giác xưa nay có đủ, đều có nghĩa huân.
Kinh Viên Giác nói “Tất cả chúng sinh đồng chứng viên giác”
Kinh Pháp Hoa nói “Phật chủng từ duyên” Mới tin bát nhã thánh trí trọn chẳng mai một . Thời tiết nếu đến thì lý ấy tự bày.

Thế nên, Như Lai ứng cúng Đẳng chánh giác phi thường, phi vô thường.
Đại Huệ ! Cho đến ngôn thuyết phân biệt sanh thì có lỗi thường - vô thường. Phân biệt giác diệt thì lìa kiến chấp thường - vô thường của ngu phu, chẳng có huệ tịch tĩnh, hằng lìa sự huân của thường - vô thường, phi thường - phi vô thường.


Tất cả chúng sanh chẳng thành Vô thượng Chánh giác, xét tột mà nói chẳng ngoài ngôn thuyết phân biệt hai thứ lỗi lầm. Do phân biệt mà khởi ngôn thuyết , lại nhơn ngôn thuyết mà sanh phân biệt. Chỗ nương của ngôn thuyết là lỗi tại phân biệt. Cho nên phân biệt giác diệt thì hai kiến chấp chóng lìa, không rơi vào ngu phu huệ chẳng tịch tĩnh, khởi huân tập thường - vô thường


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: Một bài kệ trong kinh Lăng Già

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

4 - TỔNG TỤNG

Khi ấy Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ :

Các duyên hạnh vô nghĩa………………. Sanh lỗi thường - vô thường
Nếu không phân biệt giác………………. Hằng lìa thường - vô thường
Từ kia lập nên tông………………………. Ắt có các nghĩa tạp
Đẳng quán tự tâm lượng…………………Ngôn thuyết không thể được
.

Duyên hạnh vô nghĩa là chẳng giác tự tâm hiện lượng thì không gốc có thể y cứ, hội qui về vô cực. Bên trong đã không nguồn thầm hợp thì bên ngoài ắt sanh lỗi phân biệt. Đây là lý do rơi vào hai bên.
Nếu bỏ phân biệt, giác được nguồn chơn tự chứng bên trong, chẳng rơi vào đoạn - thường. Song không y cứ nơi đây lập tông. Nơi đây mà lập tông vẫn là mê giác đối đãi nhau, các nghĩa tạp dấy lên, mà chẳng phải đẳng quán tâm lượng mình.
Đẳng quán tâm lượng thì chỉ có thầm hợp nên chẳng phải ngôn thuyết đến.


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.26 khách