Sơ lược Vi Diệu Pháp(Abhidhamma)

Mời các bạn thảo luận giáo lý và phương pháp hành trì Phật giáo Nam truyền.
zelda
Bài viết: 682
Ngày: 22/08/07 09:21
Giới tính: Nam
Đến từ: HCM
Nghề nghiệp: Đi làm , đi học

Sơ lược Vi Diệu Pháp(Abhidhamma)

Bài viết chưa xem gửi bởi zelda »

Vi Diệu Pháp xuất phát từ đâu?

Theo lịch sữ Phật Giáo thì Vi Diệu Pháp được Ðức Phật thuyết vào hạ thứ bảy tại cung trời Ðạo Lợi (Tam Thập Tam Thiên - Tāvatimsa) với mục đích là độ thân mẫu của Ngài.

Theo một vài học giả thì Vi Diệu Pháp không phải do chính Ðức Phật thuyết mà là do các vị Sư uyên bác soạn thảo ra sau nầy. Ðại Ðức Nārada, một nhà học Phật lão thành đã viết: "Ðúng theo truyền thống thì chính Ðức Phật đã dạy phần chính yếu của tạng nầy. Những đoạn ấy được gọi là Ðầu đề (Mātikā) hay nồng cốt nguyên thủy của giáo lý như Pháp Thiện (Kusalā Dhammā), hay Pháp Bất Thiện (Akusalā Dhammā), Pháp Vô-Ký (Abyākatā Dhammā)."

Trong 6 tập của Tạng Diệu Pháp (trừ tập Ngữ Tông - Kathāvatthu - do Ngài Mục Kiền Liên Đế-tu (Moggallanaputta) viết; cũng có thuyết cho rằng tập này do chính Ðức Phật thuyết nhưng Ngài Moggallana thêm vào 500 câu) đều do Ðức Phật thuyết và Ðại Ðức Xá lợi Phất (Sārīputta) được danh dự giảng rộng và sâu vào chi tiết.

Dầu tác giả là ai, nhưng chắc chắn Tạng Diệu Pháp là một công trình sáng tác của một bộ óc kỳ tài có thể so sánh với một vị Phật.

Chúng ta không cần phải biết là Vi Diệu Pháp có phải do chính Ðức Phật thuyết hay không mà chỉ cần sáng suốt nhận định về những điều mà Tạng Diệu Pháp đề cập đến. Bởi người nào thấu rõ được chân lý thì người đó chính là người giác ngộ (hay Phật) và chỉ người nào hiểu được lẽ thật, người đó mới nói lên được sự thật.

Vi Diệu Pháp là gì?

Phạn ngữ Abhidhamma có nghĩa là những giáo lý cao siêu, vi diệu. Tiếp đầu ngữ Abhi dùng để diễn đạt sự tinh tế, thù thắng, sâu xa. Danh từ Dhamma dịch là Pháp, một Phạn ngữ có nhiều nghĩa, ở đây nó có nghĩa là lời dạy của Ðức Phật, giáo điều hay giáo lý. Vậy Vi Diệu Pháp là những giáo lý tinh hoa của Ðức Phật, giáo lý này có tính chất đặc thù hơn Kinh tạng và Luật tạng.

Chúng ta có thể thắc mắc là tại sao Kinh tạng và Luật tạng nói riêng, và toàn thể giáo lý của Ðức Phật nói chung, đều có hiệu năng đưa đến giải thoát; tại sao lại có phần này gọi là Vi Diệu mà phần kia thì không?.

Ở đây, tiếng Vi Diệu (cao sâu) không dùng với ý niệm giải thoát mà dùng trên phương tiện diễn đạt. Trong khi tạng Kinh và Luật trình bày Pháp lý theo ngôn từ phổ thông, theo Pháp Tục Ðế; thì tạng Abhidhamma trình bày những pháp bản thể chơn tướng hay pháp Chơn Ðế (Paramattha).

Một điều cần ghi nhận là tạng Diệu Pháp dùng các danh từ diễn đạt pháp lý theo một thuật ngữ chuyên môn, tức là các danh từ chơn đế (danh chơn chế định).

Như ở Kinh tạng và Luật tạng, khi nói đến chúng sanh, Phật dùng các danh từ mặc ước, khái niệm như Chư thiên, Ma vương, Vua, Quan, ... Còn ở tạng Abhidhamma khi đề cập đến chúng sanh, Phật dùng các từ như Uẩn, Xứ, Giới, Ðế, ...

Về phương diện diễn đạt, tạng Abhidhamma chú trọng về 4 pháp gọi là Vô Ngại Giải (Patisambhidā, sự thông suốt, không có ngăn ngại trong việc giảng giải). Bốn pháp vô ngại giải ấy là:

1) Pháp vô ngại giải (Dhammapatisambhidā): là sự diễn đạt thông suốt các pháp, vì ở tạng Vi Diệu Pháp các pháp được gom lại thành một giềng mối và phân tích rõ ràng.

2) Nghĩa vô ngại giải (Atthapatisambhidā): là các ý nghĩa được trình bày, giải thích một các rộng rải, không sai lầm. Trong tạng Diệu Pháp, các ý nghĩa của danh từ, của các pháp được minh định một cách rõ ràng chứ không có sự lôi thôi trong vấn đề định nghĩa.

3) Từ vô ngại giải (Niruttipatisambhidā): là sự dùng từ để diễn đạt pháp rất thông suốt, không lẩn lộn. Trong tạng Diệu Pháp các từ ngữ được dùng một cách rất chính xác, đâu ra đấy. Thí dụ như tiếng "tư tưởng" mà ta thường dùng theo phổ thông được hiểu là ý nghĩ, nhưng ở tạng Diệu Pháp, "Tư" là sự cố ý, suy nghĩ và "Tưởng" được dùng để chỉ sự nhớ lại, ôn lại ...

4) Biện vô ngại giải (Paiibhānapatisambhidā): là sự thông suốt, lưu loát trong sự biện bác. Trong tạng Diệu Pháp, pháp lý được trình bày đầy đủ, nghĩa lý được giải thích rõ ràng, ngôn từ dùng đúng chỗ không lẩn lộn. Nhờ các ưu điểm ấy, người học Abhidhamma sẽ không lúng túng khi trình bày các pháp lý.

Với những lý do trên, nên tạng này được gọi là Vi Diệu. Ngoài ra, chữ Abhidhamma còn được các dịch giả Trung Hoa dịch là :

Vô tỷ pháp: là pháp cao siêu, không có pháp nào so sánh bằng.
Thắng pháp: là pháp thù thắng hơn Kinh tạng và Luật tạng.
Ðại pháp: là pháp cao sâu, rộng rãi hơn các pháp trong Kinh tạng và Luật tạng.
Ðối pháp: là đối tượng của trí tuệ cao siêu, sáng suốt.
Hướng pháp: là pháp có khả năng hướng đến sự giải thoát, giác ngộ, liểu tri các pháp.

Yếu lược nội dung Vi Diệu Pháp :

Theo bà Rhys David, một học giả người Anh, khi nói về nội dung Vi Diệu Pháp, đã viết: "Vi Diệu Pháp nói gì? - Vi Diệu Pháp nói những gì trong ta, ngoài ta và chung quanh ta".

Cái gì trong ta? - Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức hay Ngũ Uẩn- những thành phần hợp lại thành một con người, một chúng sanh. Vi Diệu Pháp trình bày con người về cả hai phương diện Tâm lý và Vật lý.

Cái gì ngoài ta và cái gì chung quanh ta? - Ngoài việc trình bày cho thấy bản thể, chơn tướng của chúng ta, Vi Diệu Pháp còn chỉ cho ta thấy những gì thuộc về ngoại thân, những hiện tượng sanh diệt của những gì thuộc về thế giới bên ngoài của chúng ta và sự thoát ly thế gian (Niết Bàn).

Như vậy, bà David đã cho ta thấy rằng Vi Diệu Pháp trình bày những chơn tướng, thực thể của cái gì thuộc về nội thân và những gì thuộc về ngoại thân. Cũng nên nói thêm là khi trình bày những điều ấy, Vi Diệu Pháp đã mô tả về trạng thái, nhân sinh, sở hành, ..., của từng pháp một cách rất chi tiết.

Tóm lại, với câu giải trên, chúng ta đã thấy Vi Diệu Pháp nói gì và đề cập đến những gì. Sang một khía cạnh khác, chúng ta có thể hỏi: "Khi trình bày, phân giải những điều ấy, Vi Diệu Pháp muốn cho ta biết những gì?".

Ngài Hòa thượng Tịnh Sự Santakicco - một học giả chuyên môn về Abhidhamma - đã nói: "Vi Diệu Pháp trình bày về sự vô thường, khổ não, vô ngã và cái gì vượt ngoài ba tướng trạng ấy".

Câu nói trên đã hàm tận những ý nghĩa hết sức sâu xa và cô động một cách đầy đủ về nội dung của Vi Diệu Pháp.

Ở tạng Diệu Pháp, bốn vấn đề trọng yếu được trình bày là Tâm (thành phần tri giác của chúng sanh); Sở hữu tâm (Thành phần phụ thuộc của tâm); Sắc pháp (thành phần vật chất) và Niết Bàn (sự vắng lặng các pháp hành).

Khi bàn về Tâm cũng như Sở hữu tâm, Vi Diệu Pháp đã cho ta thấy những Duyên (Paccayo) hay yếu tố tạo thành sự hiện hữu của Tâm và sự diễn tiến hoại diệt của từng tâm sát na trong Lộ trình tâm (Cittavithā).

Cũng vậy, khi nói về Sắc pháp, Vi Diệu Pháp đã trình bày về thể trạng của Sắc pháp, những duyên trợ tạo và gìn giữ sắc pháp, cũng như tiến trình sanh diệt của từng sát na sắc pháp trong Lộ sắc.

Cuối cùng, sau khi đã trình bày về các pháp hữu vi (pháp do duyên trợ tạo), Vi Diệu Pháp còn trình bày về Niết Bàn (một trạng thái vô vi), không bị chi phối bởi vô thường, khổ não, vô ngã.

Ðể kết luận, ta có thể nói, nội dung của Vi Diệu Pháp là dạy cho chúng ta rõ về con người, thế gian và xuất thế gian (Niết Bàn).

Mục đích của việc học Vi Diệu Pháp.

Khi đã hiểu biết Vi Diệu Pháp nói gì thì vấn đề cần bàn đến là học Vi Diệu Pháp để làm chi? Hay mục đích của việc học Vi Diệu Pháp là gì? Học Vi Diệu Pháp có lợi ích gì?

Phật giáo đã dạy về bản chất giả tạm, khổ não của thế gian và con đường vượt khỏi những điều ấy là con đường siêu thế gian. Vì vậy, khi đánh thức giấc mộng vô minh của chúng sanh, Phật đã dùng nhiều phương tiện, trình bày về bản chất thật thể của thế gian là như thế nào để chúng sanh có thể ý thức được bản chất thật của thế gian là vô thường, khổ não và vô ngã.

Trong tinh thần đó, Vi Diệu Pháp nói lên lẽ thật, chơn tướng bản thể của các pháp để chúng ta có được ý niệm đứng đắn về thế gian (dẹp bỏ những thành kiến sai lầm).

Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con người và thế gian.

Trên con đường tu tập, người Phật tử cần làm hai việc: học pháp hành pháp. Học pháp là tìm hiểu, thu lượm cho mình một kiến thức đúng, lợi ích cho việc tu tập. Hành pháp là đem những điều học được áp dụng cho đời sống hàng ngày. Vi Diệu Pháp sẽ thích ứng, và hết sức bổ ích cho cả hai việc làm đó.

Vi Diệu Pháp giúp cho ta một kiến thức cơ bản, không bị lầm lẩn khi nghiên cứu Phật pháp, bằng những cách diễn đạt Pháp vô ngại giải, Từ vô ngại giải và Biện vô ngại giải. Nhờ đó ta có thể lảnh hội dể dàng những ý nghĩa trong những lời dạy của Ðức Phật.

Thí dụ: Trong tạng Kinh, Ðức Phật dạy về Pháp Vô Ngã (không có cái ta, không phải là của ta), rồi trong tạng Luật, Phật lại dạy: "Lấy vật có chủ là trộm cắp", hai điều trên sẽ gây hoang mang cho chúng ta nếu chúng ta không biết về pháp Tục đế (Sammuttisacca) và pháp Chơn đế (Paramattha sacca) được giảng trong Vi Diệu Pháp. Ðó là lợi ích đối với việc học pháp. Về mặt hành pháp, nhất là đối với những người hành thiền quán, Vi Diệu Pháp lại là một môn học thiết yếu nhất, nó cho chúng ta một sự hiểu biết rõ ràng về Danh Sắc, phân tích, giải thích rõ ràng các pháp hữu vi, nhờ đó, khi thực hành thiền quán, minh sát, chúng ta sẽ nhận định rõ ràng và chính xác về các đề mục (Thân, Thọ, Tâm, Pháp).

Một người đã học Abhidhamma, khi hành Tứ Niệm Xứ sẽ nhận định rõ ràng và chính xác các đề mục. Trái lại, một người hành Tứ Niệm Xứ mà không biết gì về Vi Diệu Pháp thì có thể lẩn lộn, sai lầm trong việc quán sát các đề mục.

So sánh.

- Nếu nói trên phương diện đặc biệt riêng của tạng Diệu pháp trong Tam Tạng thì:

Tạng Kinh: sâu xa về nghĩa lý (Suttana Attha Gambhiro).
Tạng Luật: sâu xa về việc làm (Vinaya Kicca Gambhiro).
Tạng Diệu pháp: (tạng Luận), sâu xa về bản thể của các pháp (Abhidhamma Sabhāva Gambhiro).

- Nếu nói về tính chất quan trọng của tạng Diệu pháp trong Tam Tạng qua thí dụ của "cây" thì :

Tạng Kinh: là phần bông hoa, cành lá của cây, bởi tạng Kinh tiêu biểu cho vẽ đẹp của giáo lý Phật giáo.
Tạng Luật: là gốc rể của cây, bởi tạng Luật là nền tảng, là sự sống còn của giáo lý. Tạng Luật còn, Phật giáo còn. Tạng Luật mất, Phật giáo mất.
Tạng Diệu pháp: là lõi cây, vì nó là phần tinh túy, tinh hoa của giáo lý.

- Nếu nói trên bước tiến tu tập của người Phật tử thì giá trị của tạng Diệu pháp trong Tam Tạng là:

Tạng Kinh gọi người đến: vì tạng Kinh rất hấp dẫn, thu hút.
Tạng Luật trói người lại : vì tạng Luật ghép đời sống vào khuôn khổ, qui củ.
Tạng Diệu Pháp giết người chết: vì bài trừ tất cả mọi kiến thức sai lầm, nhất là ngã chấp.

Do đó, ta có thể nói, nếu nghiên cứu và tìm hiểu Phật pháp mà không biết về tạng Diệu Pháp là một thiếu sót lớn; hơn thế nửa, việc học hỏi Phật pháp cũng không bảo đảm chắc chắn được.

Tỳ khưu Giác Chánh
(Trích "Vi Diệu Pháp Giảng Giải")


Gieo suy nghĩ, gặt hành động
Gieo hành động, gặt thói quen
Gieo thói quen, gặt tính cách
Gieo tính cách, gặt số phận

Dick Lyles
zelda
Bài viết: 682
Ngày: 22/08/07 09:21
Giới tính: Nam
Đến từ: HCM
Nghề nghiệp: Đi làm , đi học

Re: Sơ lược Vi Diệu Pháp(Abhidhamma)

Bài viết chưa xem gửi bởi zelda »

Những hiểu biết sai lầm về Vi Diệu Pháp :

Trích đoạn của một Phật Tử Bắc Tông :
Kẻ nào xem Sở Hữu Tâm là Thật, là của Ta (tự ngã) kẻ ấy tự MÊ LẦM, kẻ ấy sẽ theo sự "suy diễn" của Sở-Hữu-Tâm mà mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi. Đây là điều chắc thật mà đức Thế-Tôn đã KHẲNG ĐỊNH
-Khi đọc qua các bạn thấy rõ rằng người này không tin rằng sở hữu tâm , tâm , sắc pháp trong tạng VI Diệu Pháp là thực có . Và cho rằng người còn còn tin vào sở hữu tâm , tâm , sắc pháp là thực có thì là mê lầm . Và cho rằng Đức Phật khẳng định như vậy.

1/Trước nhất thì qua các sử liệu xác định rõ 80% tạng Vi Diệu Pháp là do Phật thuyết , sau là do các bậc Thánh Alahan phân tích rõ lại thêm . Do vậy không có lý nào Đức Phật lại khẳng định sự không có của tâm , sơ hữ tâm , sắc pháp ,v,,v, được.

2/Vốn dĩ người này không biết rằng Pháp là thế nào cả .
Pháp : Pháp là những gì có chơn tướng riêng biệt ,có nghĩa là thể trạng, trạng thái, bản chất, chơn tướng riêng biệtNhư vậy, những gì có thể trạng đều gọi là pháp, dù thể trạng ấy là gì đi nửa cũng vậy. Thí dụ như vuông, tròn, dài, ngắn, tốt, xấu...
Tóm lại, Pháp là danh từ chỉ vật gì có trạng thái riêng mà tri giác có thể nhận biết được, dù vật đó thuộc về vô vi hay hữu vi, giả danh hay bản thể, hiệp thế hay siêu thế

Như vậy những gì có trạng thái riêng biệt, sự vật hiện tượng khác biệt thì đó là Pháp . Ví dụ phép cộng , trừ , nhân , chia, hữu cơ , vô cơ ...v.v..
NGười ta càng phát triển khi càng tìm ra sự khác biệt giữa các pháp trong thế gian . Để từ đó biết thiện , ác, nhân , quả không bị mê lầm .

3/Có ngừoi cho rằng người tu theo Nguyên Thủy là Chấp Pháp
Chấp Pháp : thường thì chia ra 2 loại,nhân vô ngã,pháp vô ngã.Nói chấp pháp tức là cho rằng các pháp có ngã.
Theo quan điểm của PG đại thừa thì những người theo PGNT còn ...chấp pháp,nên chưa đạt đến giải thoát rốt ráo
Đây là quan điểm sai lầm vì pháp vốn vô ngã . Tam pháp ấn trong kinh điển nguyên thủy vẫn là " vô thường, khổ , vô ngã" .
Nhưng pháp là thực có, không phải là không có như một số người thường nghĩ .
Chân lý có 2 đó là Chân Đế và Tục Đế . Do vậy pháp cũng có 2 Chân Đế , Tục Đế .
Chân lý là thực tại khách quan nó có tự lâu rồi , dù muốn hay không muốn nó vẫn có không tùy thuộc vào ta mê hay ngộ , không tùy thuộc ta vô minh hay hết vô minh.

Pháp tuy có rất nhiều nhưng Ðức Phật đã gom lại và chia thành hai loại:
- Pháp Tục Ðế (Sammuttisacca): Sự thật thế tình thông thường.
- Pháp Chơn Ðế (Paramatthasacca): Sự thật bản thể, chơn tướng của các pháp
Do vậy thấy pháp là thấy rõ sự khác biệt vạn pháp, thấy rõ như chân như thực, thấy chân lý . Đây là ngộ không phải là chấp.
Nhưng nếu như không phân biệt được các pháp, không thấy rõ chân lý , thì đây là mê chứ không phải ngộ.


Nói vậy thấy rằng các bạn không hiểu vì sở tri kiến che lấp .

Ví dụ:
Cột bê tông
Tục đế : nói gói gọn là cột bê tông
Chân đế: đá, cát, ciment, sắt hòa quyện vào nhau.
Cách nói nào cũng đều là chân lý cả, nhưng cách nói chân đế là cách nói khác của tục đế, và tục đế là cách nói khác của chân đế . Nhưng cả 2 cách nói này đều là chân lý hoàn toàn bổ sung và minh chứng cho nhau không sai khác.

Nhân viên Zelda
Tục đế : 0246
Chân đế: NGuyễn Văn A, nơi ở, ngày sinh , trình độ, trước 1975 , sau 1975 .v.v..
Qua ví dụ này các bạn thấy rằng tục đế là cách nói mã hóa, nói ngắn gọn của chân đế , tức là nói một cách khác mà thôi. Và chân đế cũng tương tự như vậy đối với tục đế. Cả 2 đều là chân lý cả

Có người hiểu sai thế này : tục đế là hữu vi , còn chân đế là vô vi . Nhưng thực ra vô vi , hữu vi đều thuộc về chân đế .
Lại có người mê lầm cho rằng : người ngộ chỉ thấy chân đế người mê thấy tục đế . Đây cũng là sai , vì người ngộ thấy chân lý tức rằng thấy chân và cả tục đế.
Nhưng người mê thì sẽ lầm chân là tục và tục là chân. Khi bỏ tục chỉ cho rằng có chân thì người này mê lầm hơn nữa .


Gieo suy nghĩ, gặt hành động
Gieo hành động, gặt thói quen
Gieo thói quen, gặt tính cách
Gieo tính cách, gặt số phận

Dick Lyles
Hình đại diện của người dùng
yen-phuong
Bài viết: 361
Ngày: 20/06/08 06:00
Giới tính: Nữ

Re: Sơ lược Vi Diệu Pháp(Abhidhamma)

Bài viết chưa xem gửi bởi yen-phuong »

Trích từ: http://community.vietfun.com/showthread ... 22&page=23



http://community.vietfun.com/showthread ... 859&page=6

Tại sao Đức Phật được coi là vị Toàn Giác ? (Loa ... Loa : VL đang quảng cáo Đức Thế Tôn .)

Lấy một ví dụ rất nhỏ thôi nhé (được dạy trong Vi Diệu Pháp).

Ngài dạy mắt chỉ có phận sự ghi nhận màu sắc .

Với tài pha màu, một hoạ sĩ có thể cho chúng ta thấy hình vẽ như thật .

Tấm ảnh sau cho chúng ta thấy tất cả chỉ là phối hợp của màu sắc :

Hình ảnh


============================================
Thử bàn về TỤC ĐẾ và CHÂN ĐẾ:

Nếu mắt chỉ ghi nhận màu sắc, tại sao ta nhìn vào tấm ảnh trên và thấy núi, nước, mây , bầu trời ?

Trả lời:
Nếu người mù từ lúc lọt lòng vừa được chữa khỏi bệnh mù được xem tấm ảnh này, người đó sẽ không thể biết đây là hình ảnh của núi, của nước, của mây .

Nhưng ...

Người có cặp mắt bình thường nhận ngay ra đây là núi, nước, mây trong tấm ảnh .

Vì sao ?

Vì chúng ta đuợc dạy từ nhỏ núi, nước, mây trông như thế nào . Từ đó, chúng ta nhận định đây là núi, đây là nước, đây là mây theo QUY ƯỚC được dạy, được định sẵn .

Khi mới thoáng nhìn, chúng ta chỉ thấy màu sắc . Nhìn lâu hơn một chút , chúng ta nhớ lại (tiếng nhà Phật gọi là TƯỞNG) và phân biệt núi, nước, mây .

Núi, nước, mây là SỰ THẬT THẾ GIAN, nên được gọi là TỤC ĐẾ .

Màu sắc là CHÂN ĐẾ, còn được gọi là SỰ THẬT TUYỆT ĐỐI . Tuy nhiên, danh từ MÀU SẮC lại là TỤC ĐẾ . Các bạn biết tại sao không ? :)

---------------------------------

Đây chỉ là một phần rất nhỏ thuộc Vi Diệu Pháp . Vi Diệu Pháp tuy khô khan nhưng cần thiết cho người học Phật biết bao . Một khi hiểu chút đỉnh Vi Diệu Pháp, chúng ta sẽ thật sự thán phục TRÍ TUỆ VÔ BIÊN của Đức Thế Tôn .


=============================================
Đức Phật dạy chúng ta như thế đó . Ngài không hề đe doạ hay dùng chính sách mỵ dân để chúng ta phải tin vì lòng tham hay vì sợ hãi . Phật pháp không hề MÊ TÍN vì Đức Thế Tôn tôn trọng sự suy tư của con người . Ngài THUYẾT PHỤC TẤT CẢ những người mang danh là trí thức tìm đến để thách đố Ngài vì Ngài dùng LẼ PHẢI .

Giáo pháp của Ngài kết hợp với nhau chặt chẽ như những bánh xe của cái đồng hồ analog :), như ta học cửu chương:

2 x 2 = 4

vậy :) .


Ví như nước trong đại dương chỉ có một vị, đó là vị mặn, pháp và luật của Như Lai cũng thế, chỉ có một vị, đó là vị giải thoát (vimuttirasa)” Lời Đức Thế Tôn (c.566 BC - c.480 BC)
"Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật ."
"Chỉ có người giác ngộ và kẻ chưa giác ngộ." (Tông Phái Phật Giáo - Nội Quy Chuyên Mục)
zelda
Bài viết: 682
Ngày: 22/08/07 09:21
Giới tính: Nam
Đến từ: HCM
Nghề nghiệp: Đi làm , đi học

Re: Sơ lược Vi Diệu Pháp(Abhidhamma)

Bài viết chưa xem gửi bởi zelda »

Bài viết của YP rất hay ^^


Gieo suy nghĩ, gặt hành động
Gieo hành động, gặt thói quen
Gieo thói quen, gặt tính cách
Gieo tính cách, gặt số phận

Dick Lyles
Hình đại diện của người dùng
yen-phuong
Bài viết: 361
Ngày: 20/06/08 06:00
Giới tính: Nữ

Re: Sơ lược Vi Diệu Pháp(Abhidhamma)

Bài viết chưa xem gửi bởi yen-phuong »

Cám ơn bạn zelda :) .


Thân Tâm

A/ Tâm (trong Thân Tâm) chỉ 4 uẩn: Thức uẩn (còn được gọi là Tâm Vương), Thọ uẩn, Tưởng uẩn và Hành uẩn .

1/ Tâm vương (hay "Tâm" trong Vi Diệu Pháp) là Thức uẩn .

2/ Tâm sở: có 52 tâm sở, bao gồm Thọ uẩn, Tưởng uẩn và Hành uấn . Có sách gọi là "Tam Uẩn Tâm Sở" .

-Thọ uẩn: chỉ có 1 tâm sở, gọi là Thọ tâm sở (Vedana), là 1 trong 7 biến hành tâm sở . Đứng bên cạnh Xúc tâm sở (Phasso).

-Tưởng uẩn: chỉ có 1 tâm sở, gọi là Tưởng tâm sở (Sanna), là 1 trong 7 biến hành tâm sở . Đứng bên cạnh Thọ tâm sở (Vedana).

-Hành uẩn: 50 tâm sở còn lại, được gọi là Hành tâm sở (Sankhara).

B/ Thân (trong Thân Tâm) chỉ có 1 uẩn là Sắc uẩn (rupa).



Tóm lại, khi học Vi Diệu Pháp, chúng ta học Tâm (Thức Uẩn), Tâm Sở (Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn), Sắc (Sắc Uẩn), và Niết Bàn .

Nói một cách khác, chúng ta học sự cấu tạo của Thân Tâm (Ngũ Uẩn) và Niết Bàn . Như vậy, chúng ta học Pháp Chân Đế (Sự Thật Tuyệt Đối) .



Note: Khi hành thiền Minh Sát, kinh nghiệm đầu tiên căn bản cho mọi thiền sinh là phân biệt được Thân và Tâm .



Điều sau này là cho YP ôn lại bài cũ:

Giáo Pháp mà Đức Phật giáo hoá chúng sinh trong 45 năm có thể chia làm 2 phần:

Phần 1: Sự thật ước định hay Pháp Tục đế: (Không thể là đối tượng của Thiền Minh Sát) bao gồm:

o Tạng Luật
o Tạng Kinh
o Phẩm Nhân Chế Định của tạng Luận hay Vi Diệu Pháp: giải thích sự hiện hữu của các pháp theo sự hiểu biết và công nhận của thế gian .

Phần 2: Sự thật tuyệt đối hay Pháp Chân đế: (ngoại trừ Niết Bàn (VL quên tại sao), các phần còn lại có thể là đối tượng của Thiền Minh Sát) bao gồm 6 phẩm còn lại của tạng Luận hay Vi Diệu Pháp, giải thích sự hiện hữu đúng theo bản chất thật sự của nó . Chia làm hai:

o Bản chất trung thực của các pháp theo đặc tính . Thí dụ: thiện pháp, bất thiện pháp .
o Diệu đế: là sự thật của các pháp được thấy biết qua sự chứng ngộ của bậc thánh nhân . Có 4 Diệu đế là: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế .


Ví như nước trong đại dương chỉ có một vị, đó là vị mặn, pháp và luật của Như Lai cũng thế, chỉ có một vị, đó là vị giải thoát (vimuttirasa)” Lời Đức Thế Tôn (c.566 BC - c.480 BC)
"Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật ."
"Chỉ có người giác ngộ và kẻ chưa giác ngộ." (Tông Phái Phật Giáo - Nội Quy Chuyên Mục)
zelda
Bài viết: 682
Ngày: 22/08/07 09:21
Giới tính: Nam
Đến từ: HCM
Nghề nghiệp: Đi làm , đi học

Re: Sơ lược Vi Diệu Pháp(Abhidhamma)

Bài viết chưa xem gửi bởi zelda »

HỎi :
Có nghiệp nào mà sẽ không có quả không YP?


Gieo suy nghĩ, gặt hành động
Gieo hành động, gặt thói quen
Gieo thói quen, gặt tính cách
Gieo tính cách, gặt số phận

Dick Lyles
Hình đại diện của người dùng
yen-phuong
Bài viết: 361
Ngày: 20/06/08 06:00
Giới tính: Nữ

Re: Sơ lược Vi Diệu Pháp(Abhidhamma)

Bài viết chưa xem gửi bởi yen-phuong »

zelda đã viết:HỎi :
Có nghiệp nào mà sẽ không có quả không YP?
YP hiểu là khi đầy đủ điều kiện, nghiệp sẽ trổ cho quả .

Khi đắc quả Dự Lưu, 4 tâm tham có tà kiến và 1 tâm si có sự nghi ngại (đồng nghĩa với 3 kiết sử là Thân Kiến, Hoài Nghi và Giới Cấm Thủ) không còn, những nghiệp đã gây ra nằm trong 3 kiết sử vừa kể trên không thể cho quả là 4 đường ác đạo, vì 4 đường ác đạo chỉ có thể hiện diện với điều kiện 3 kiết sử này tồn tại .

YP có trả lời theo câu hỏi của zelda không ?


Ví như nước trong đại dương chỉ có một vị, đó là vị mặn, pháp và luật của Như Lai cũng thế, chỉ có một vị, đó là vị giải thoát (vimuttirasa)” Lời Đức Thế Tôn (c.566 BC - c.480 BC)
"Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật ."
"Chỉ có người giác ngộ và kẻ chưa giác ngộ." (Tông Phái Phật Giáo - Nội Quy Chuyên Mục)
zelda
Bài viết: 682
Ngày: 22/08/07 09:21
Giới tính: Nam
Đến từ: HCM
Nghề nghiệp: Đi làm , đi học

Re: Sơ lược Vi Diệu Pháp(Abhidhamma)

Bài viết chưa xem gửi bởi zelda »

Cám ơn YP rất nhiều,bạn trả lời rất hay.
Vậy cho Zelda hỏi thêm : Có nghiệp nào sau khi hội đủ duyên mà không sinh quả không ?


Gieo suy nghĩ, gặt hành động
Gieo hành động, gặt thói quen
Gieo thói quen, gặt tính cách
Gieo tính cách, gặt số phận

Dick Lyles
Hình đại diện của người dùng
yen-phuong
Bài viết: 361
Ngày: 20/06/08 06:00
Giới tính: Nữ

Re: Sơ lược Vi Diệu Pháp(Abhidhamma)

Bài viết chưa xem gửi bởi yen-phuong »

zelda đã viết:Cám ơn YP rất nhiều,bạn trả lời rất hay.
Vậy cho Zelda hỏi thêm : Có nghiệp nào sau khi hội đủ duyên mà không sinh quả không ?
Có lẽ không . Cho dù là Đức Phật hay các bậc Thánh A la hán như Ngài Mục Kiền Liên vẫn phải trả quả khi hội đủ điều kiện . Ví dụ: Đức Thế Tôn bị chảy máu chân, Ngài Mục Kiền Liên bị kẻ dữ giết chết .

Theo ý bạn thì sao ?


Ví như nước trong đại dương chỉ có một vị, đó là vị mặn, pháp và luật của Như Lai cũng thế, chỉ có một vị, đó là vị giải thoát (vimuttirasa)” Lời Đức Thế Tôn (c.566 BC - c.480 BC)
"Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật ."
"Chỉ có người giác ngộ và kẻ chưa giác ngộ." (Tông Phái Phật Giáo - Nội Quy Chuyên Mục)
zelda
Bài viết: 682
Ngày: 22/08/07 09:21
Giới tính: Nam
Đến từ: HCM
Nghề nghiệp: Đi làm , đi học

Re: Sơ lược Vi Diệu Pháp(Abhidhamma)

Bài viết chưa xem gửi bởi zelda »

Những quả mà các bậc Alahan phải thọ lãnh đó ,là cực trọng nghiệp . Và theo Zelda không cần duyên quả vẫn trổ .
Nếu nói rằng các bậc Alahan có duyên thì trong VI Diệu Pháp , duyên thế nào để trổ được quả ?
Theo Zelda thì duyên luôn luôn có chứa khuynh hướng hay ngủ ngầm . Vì đây là những Phiền não vi tế

Phiền não vi tế (Anusayakilesa): Phiền não vi tế ẩn tàng ngấm ngầm trong tâm thức, không hiện rõ. Loại phiền não nầy chỉ có thể diệt bằng cách hành thiền minh sát (Vipassana). Khi chứng đắc Thánh Ðạo Tuệ, hành giả mới có thể đoạn tuyệt được loại phiền não nầy.

Vi dụ như nhờ có tâm sân nên mới trổ quả bất thiện, như vậy tâm sân là duyên của quả bất thiện .( đúng không YP ?)

5. Nhân sanh tâm bất thiện

1) Tâm không khéo tác ý (Ayoniso mānasikāra): là sự không khéo dùng tâm hay vụng về trong cách suy nghĩ, thí dụ: trước sự bất hạnh, đau khổ xảy đến, một người khéo tác ý sẽ nghĩ rằng "Ðây là một cơ hội để ta hành pháp nhẫn nại", rồi người ấy hoan hỷ đón nhận nghịch cảnh đó. Trái lại, người không khéo tác ý sẽ than thở, phát tâm sầu muộn (tâm Sân dấy lên). Do đó, có thể nói không khéo tác ý là một nguyên nhân sanh tâm bất thiện.

2) Ở xứ không nên ở (Appatirāpadanevada): là trú ngụ ở những nơi phát sanh nhiều phiền não, gây tai hại cho tinh thần, khiến tâm hằng giao động, như những nơi thường có chiến tranh, những nơi gần chốn ăn chơi, ... đều là những nơi không nên ở vì tục ngữ có câu "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài", ngoài lý do bản tánh và thói quen ở kiếp trước, con người còn dể bị ảnh hưởng bởi môi trường chung quanh mình. Vì vậy, có thể nói, cư ngụ ở những nơi không nên ở cũng là một nguyên nhân sanh tâm bất thiện.

3) Thân cận phi thiện nhơn (Asappurisapanissaya): Phi thiện nhơn là những người có thân ác, khẩu ác và ý ác; những người thiếu giới đức, kém trí tuệ. Khi giao thiệp với những người ấy, ta dể bị ảnh hưởng theo ("gần mực thì đen!"), do đó việc thân cận phi thiện nhơn cũng là một nguyên nhân sanh tâm bất thiện.

4) Ðời trước không có thói quen tạo phước (Pubbe akata puññata): Có thể nói phiền não của chúng sanh giống như cỏ, thiện pháp của chúng sanh giống như lúa; lúa khó trồng mà dể chết, còn cỏ không trồng nhưng khó diệt. Nói một cách khác, tâm bất thiện là mộât bản năng thường có của chúng sanh ("nhân chi sơ, tính bổn ác!"). Vì vậy, một người không có thói quen tạo phước thì rất dể sinh ác tâm.

5) Hướng mình theo tà vậy (Attamicchapanidhi): tức là có khuynh hướng làm điều ác, nuôi hoài bảo bất chánh, có lập trường bất hảo. Như một người muốn làm du côn; muốn trở thành tướng cướp ... Do thực hành theo những ý hướng bất chánh đó, người ấy tạo ra những hành động bất thiện.


Số 5 (Attamicchapanidhi) theo Zelda cũng có nghĩa là có phiền não vi tế ngấm ngầm .

YP cứ nói thẳng để giúp Zelda hiểu nha.
^^ Thank !!!


Gieo suy nghĩ, gặt hành động
Gieo hành động, gặt thói quen
Gieo thói quen, gặt tính cách
Gieo tính cách, gặt số phận

Dick Lyles
Hình đại diện của người dùng
yen-phuong
Bài viết: 361
Ngày: 20/06/08 06:00
Giới tính: Nữ

Re: Sơ lược Vi Diệu Pháp(Abhidhamma)

Bài viết chưa xem gửi bởi yen-phuong »

zelda đã viết: Những quả mà các bậc Alahan phải thọ lãnh đó ,là cực trọng nghiệp . Và theo Zelda không cần duyên quả vẫn trổ .
Chữ duyên mà bạn dùng đây có phải là chữ "nhân" (hetu) không ?
zelda đã viết: Nếu nói rằng các bậc Alahan có duyên thì trong VI Diệu Pháp , duyên thế nào để trổ được quả ?
YP không biết vì thật ra, YP chưa tìm hiểu nhiều nơi các bậc A la hán lắm .
zelda đã viết: Theo Zelda thì duyên luôn luôn có chứa khuynh hướng hay ngủ ngầm . Vì đây là những Phiền não vi tế
Có lẽ vậy . Các ngài A la hán không còn những Phiền não thô hay vi tế .
zelda đã viết: Phiền não vi tế (Anusayakilesa): Phiền não vi tế ẩn tàng ngấm ngầm trong tâm thức, không hiện rõ. Loại phiền não nầy chỉ có thể diệt bằng cách hành thiền minh sát (Vipassana). Khi chứng đắc Thánh Ðạo Tuệ, hành giả mới có thể đoạn tuyệt được loại phiền não nầy.

Vi dụ như nhờ có tâm sân nên mới trổ quả bất thiện, như vậy tâm sân là duyên của quả bất thiện .( đúng không YP ?)
Thật ra SI là nguyên nhân của mọi TÂM BẤT THIỆN . Vì SI, chúng sanh làm mọi chuyện trong THAM SÂN SI không từ nan . Bốn tâm sở bất thiện đầu tiên: "Si, Không Hổ Thẹn, Không Sợ và Phóng Dật" thuộc tâm SI .

Khi bị tâm SI che án, chúng ta luôn luôn nghĩ mình ĐÚNG . Lấy sai làm đúng và lấy đúng làm sai là đặc tính của SI .
zelda đã viết: 5. Nhân sanh tâm bất thiện

1) Tâm không khéo tác ý (Ayoniso mānasikāra): là sự không khéo dùng tâm hay vụng về trong cách suy nghĩ, thí dụ: trước sự bất hạnh, đau khổ xảy đến, một người khéo tác ý sẽ nghĩ rằng "Ðây là một cơ hội để ta hành pháp nhẫn nại", rồi người ấy hoan hỷ đón nhận nghịch cảnh đó. Trái lại, người không khéo tác ý sẽ than thở, phát tâm sầu muộn (tâm Sân dấy lên). Do đó, có thể nói không khéo tác ý là một nguyên nhân sanh tâm bất thiện.

2) Ở xứ không nên ở (Appatirāpadanevada): là trú ngụ ở những nơi phát sanh nhiều phiền não, gây tai hại cho tinh thần, khiến tâm hằng giao động, như những nơi thường có chiến tranh, những nơi gần chốn ăn chơi, ... đều là những nơi không nên ở vì tục ngữ có câu "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài", ngoài lý do bản tánh và thói quen ở kiếp trước, con người còn dể bị ảnh hưởng bởi môi trường chung quanh mình. Vì vậy, có thể nói, cư ngụ ở những nơi không nên ở cũng là một nguyên nhân sanh tâm bất thiện.

3) Thân cận phi thiện nhơn (Asappurisapanissaya): Phi thiện nhơn là những người có thân ác, khẩu ác và ý ác; những người thiếu giới đức, kém trí tuệ. Khi giao thiệp với những người ấy, ta dể bị ảnh hưởng theo ("gần mực thì đen!"), do đó việc thân cận phi thiện nhơn cũng là một nguyên nhân sanh tâm bất thiện.

4) Ðời trước không có thói quen tạo phước (Pubbe akata puññata): Có thể nói phiền não của chúng sanh giống như cỏ, thiện pháp của chúng sanh giống như lúa; lúa khó trồng mà dể chết, còn cỏ không trồng nhưng khó diệt. Nói một cách khác, tâm bất thiện là mộât bản năng thường có của chúng sanh ("nhân chi sơ, tính bổn ác!"). Vì vậy, một người không có thói quen tạo phước thì rất dể sinh ác tâm.

5) Hướng mình theo tà vậy (Attamicchapanidhi): tức là có khuynh hướng làm điều ác, nuôi hoài bảo bất chánh, có lập trường bất hảo. Như một người muốn làm du côn; muốn trở thành tướng cướp ... Do thực hành theo những ý hướng bất chánh đó, người ấy tạo ra những hành động bất thiện.


Số 5 (Attamicchapanidhi) theo Zelda cũng có nghĩa là có phiền não vi tế ngấm ngầm .

YP cứ nói thẳng để giúp Zelda hiểu nha.
^^ Thank !!!
Về 5 Nhân sanh tâm bất thiện (Ayoniso mānasikāra), YP được Sư dạy như sau:

1) Không tích trữ phước báu từ kiếp trước (Pubbeakatapunnata).
2) Ở xứ không nên ở (Appatirāpadanevada).
3) Không được thân cận với các bậc thiện trí (Asappurisapanissaya).
4) Không được học hỏi theo Chánh Pháp (Asaddhanimassavaya).
5) Không biết giữ mình theo lẽ chánh (Attamicchapanidhi).

Như vậy, nhân (1, 4) của bạn khác với nhân (1, 4) YP được dạy .

Theo Sư dạy YP, nhân (1) "Không tích trữ phước báu từ kiếp trước (Pubbeakatapunnata)" thuộc quá khứ, chúng ta không thay đổi được . Bốn nhân còn lại thuộc hiện tại, chúng ta có thể thay đổi được để tạo nhân sanh tâm Thiện . Tuy nhiên, cả 5 nhân liên quan chặt chẽ với nhau .

Đọc kỹ lại, nhân (4) của bạn là nhân (1) YP được dạy . YP nhận ra nhờ so sánh các danh từ Pali với nhau ./..,., .

Mến,
YP


Ví như nước trong đại dương chỉ có một vị, đó là vị mặn, pháp và luật của Như Lai cũng thế, chỉ có một vị, đó là vị giải thoát (vimuttirasa)” Lời Đức Thế Tôn (c.566 BC - c.480 BC)
"Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật ."
"Chỉ có người giác ngộ và kẻ chưa giác ngộ." (Tông Phái Phật Giáo - Nội Quy Chuyên Mục)
Hình đại diện của người dùng
kimcang
Bài viết: 1894
Ngày: 19/12/07 16:28
Giới tính: Nam
Phật tử: Tại gia
Đến từ: Canada
Được cảm ơn: 1 time

Re: Sơ lược Vi Diệu Pháp(Abhidhamma)

Bài viết chưa xem gửi bởi kimcang »

zelda đã viết:HỎi :
Có nghiệp nào mà sẽ không có quả không YP?
Vô Ký Nghiệp Không Có Quả



Om Amitabha Hri, Om Mani Padme Hum, Om Vajrapani Hum.
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.12 khách