.Không phải, Như Thật Trí đó đầy đủ 5 uẩn, không nói ngược điều này, nếu nói ngược là kiến lập chúng sanh
Đáp
Như thật trí có đầy đủ 5 uẫn ,như vậy đây rõ ràng là chúng sinh cỏi dục giới . Như vậy chúng ta có một chúng sinh cỏi dục giới có tên là Như Thật Trí . Hãy cẫn thận coi chừng chấp 5 uẫn là " ta " .
Đáp : Sai !!! Zelda sẽ dùng kinh và luận để minh chứng :5 Uẩn chẳng ở hữu vi, cũng chẳng phải vô vi,
Phần tạng Kinh :
1/Và Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
Này các Tỷ-kheo, nay Ta khuyên dạy các ngươi: "Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật".
Trích : Kinh Ðại Bát-Niết-Bàn(Mahàparinibbàna sutta).
2/Này A Nan Ða! Như lai không có gì để di chúc tối hậu cả! Những điều đáng truyền lại cho các hàng đệ tử, Như Lai đã thuyết ra hết rồi. Hiện tại không còn một pháp nào có thể gọi là bí mật để di chúc tối hậu. Như Lai từ khi Thành Ðảo đến giờ đã tiếp tục hiện hữu là nương vào "thân Phật". Ông chớ hiểu lầm có một vị Phật đang sống để lãnh đạo Giáo Hội, và trước khi viên tịch, vị Phật ấy phải chuẩn bị mọi lời di chúc để chuyển giao quyền hành như các hàng vua chúa còn mắc dính trong bản ngã phàm tình. Thân Như Lai hiện giờ giống như một cỗ xe đã cũ. Ở cái tuổi 80 thân Phật của Như Lai chỉ được yên ổn khi tâm thường an trú trong các bậc Thiền, nhất là Thiền Phi Tửơng và Vô Sở Hữu Xứ (animitta céto vimutti). Và khi ra khỏi hai bậc thiền ấy nhục thân Như Lai cũng chịu mọi trạng thái tàn hoại của luật vô thường.
Trích : Kinh Ðại Bát-Niết-Bàn(Mahàparinibbàna sutta).
Từ bản kinh 1,2 thuộc Kinh Ðại Bát-Niết-Bàn(Mahàparinibbàna sutta) . Chúng ta sẽ thấy Đức Phật dạy thế này :
Và khi ra khỏi hai bậc thiền ấy nhục thân Như Lai cũng chịu mọi trạng thái tàn hoại của luật vô thường + Này các Tỷ-kheo, nay Ta khuyên dạy các ngươi: "Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật = nhục thân Như Lai pháp hữu vi .
Nếu vậy thì chúng ta đã thấy Đức Phật khẳng định 5 uẫn của ngài là hữu vi, vô thường và biến hoại .
Xong phần kinh !!!
Phần Tạng Luận ( Vi Diệu Pháp) :
Tâm Ðại Hạnh (Duy Tác) Dục Giới Tịnh Hảo (Mahākiriyakāmavacaracitta):
Là những tâm chỉ xuất hiện để đối xử với cảnh và khi diệt đi không để lại dấu vết (Duy=chỉ; Tác=làm. Duy Tác=Chỉ làm). Những tâm này chỉ sanh nơi cơ tánh của vị A-La-Hán. Trừ lúc nhập thiền, trong đời sống bình nhật vị A-La-Hán xử dụng tâm duy tác tịnh hảo để đối xử với cảnh.
Sở dĩ vị A-La-Hán hành động những việc giống như việc thiện mà không có tạo quả vì các vị này đã đoạn trừ vô minh và ái dục (tức là hai nguồn gốc của nghiệp). Ðiều cần ghi nhận ở đây là tuy các vị A-La-Hán hay Ðức Phật tuy làm việc thiện mà không tạo quả, nhưng các ngài vẩn nhận 23 tâm quả dục giới sanh ra do những hành động thiện hay ác mà các ngài đã làm trước khi chứng được quả vị thanh tịnh.
Tâm Ðại Hạnh (Duy Tác) Dục Giới Tịnh Hảo gồm có 8 tâm giống như tâm đại thiện.
Trường hợp vị A-La-Hán gặp đối tượng tạo sự hoan hỷ, các ngài dùng tâm thọ hỷ, còn lúc bình thường thì dùng tâm thọ xã.
Những lúc cần dùng trí như thuyết pháp, thiền định, quán xét đạo quả, ... thì các ngài dùng tâm hợp trí, còn lúc bình thường như đi bát, ăn uống, ... thì các ngài dùng tâm ly trí.
Ở trường hợp cần phải phán đoán cẩn thận thì các ngài dùng tâm hữu trợ, còn lúc bình thường thì dùng tâm vô trợ.
Tâm duy tác dục giới tịnh hảo giống như tâm đại thiện là làm công tác đổng tốc, chỉ khác chăng là những việc cải chánh thì các ngài không làm và điểm cần nhắc lại ở đây là các tâm duy tác không hề sinh những tâm quả.
Kết luận : Như vậy từ tạng Luận và Tạng Kinh chúng ta có đủ minh chứng rằng Ngũ Uẫn của Đức Phật phải là hữu vi không phải là vô vi .