có dịp đọc bài thơ này của Đường "thi phật" Vương Duy và chút hứng dịch thử xem
Hạ Nhật Quá Thanh Long Tự Yết Thao Thiền Sư
long chung nhất lão ông
từ bộ yết Thiền cung
dục vấn nghĩa tâm nghĩa
dao tri không bệnh không
sơn hà thiên nhãn lý
thế giới pháp thân trung
mạc quái tiêu viêm nhiệt
năng sinh đại địa phong
Ngày Hè Ðến Thanh Long Tự Ra Mắt Thiền Sư Họ Thao
lụ khụ một lão ông
rảo bước viếng thiền phòng
hỏi nghĩa này tâm nghĩa
học không đây bệnh không
nước non trong thiên nhãn
thế giới ấy pháp thân
lạ chi hết nóng bức
là sắp có cuồng phong
Sửa lần cuối bởi hlich vào ngày 17/10/13 11:05 với 1 lần sửa.
Thức đắc tối sơ cú
Tiện hội mạt hậu cú
Mạt hậu dữ tối sơ
Bất thị giả nhất cú.
nghĩa
Biết được câu khởi đầu
Hiểu liền câu rốt chót
Rốt chót với đầu câu
Phải đâu là câu ấy.
Câu ấy là câu gì ?
Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Dư kim châu Giáp Tý
Thực khả tri sanh tử
Tứ đại mộng trung âu
Nhất thân diệp phương thủy.
Phù vân bất cửu đình
Cam giá khởi trường mỹ
Duy hữu nhất linh quang
Khoáng kiếp hà tằng tụng.
Dư kim lục tập nhất
Bạch phát tương thôi xuất
Huyễn chi tỷ phù vân
Không tâm đồng Tổ Phật.
Xuân lai bất tiên hoa
Thu khứ thời hiềm vật
Cánh dữ tam thập niên
Miết nhiên như điện phất.
(Thiền sư Thiện Chiêu)
Dịch:
Nay tôi vòng Giáp Tý
Ai biết được sanh tử
Bốn đại bọt trong mơ
Một thân nước trên lá.
Mây nổi chẳng dừng lâu
Cây mía nào ngon mãi
Chỉ có một linh quang
Nhiều kiếp đâu từng mất.
Nay tôi sáu mươi mốt
Tóc bạc đuổi nhau điểm
Chắt huyễn dường mây trôi
Tâm Không đồng Phật Tổ.
Xuân đến chẳng chê hoa
Thu sang nào ghét vật
Nhìn lại năm ba mươi
Nhanh như luồng điện phất.
Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Ngoài song non xanh giăng màn hoa
Triền non thanh tuyền buông cầm ca
Trong song kìa ai im như mơ
Ngồi xem Thiên Như câu Di Đà
Người đời đều ưa cơ Thiền sâu
Hành nhơn ai vào tâm vương mầu
Đèn sương trơ vơ ngoài trời thu
Non Tu vi trần đều gồm thâu
Mà trong A Di hồng danh thâm
Ngàn muôn khôn tìm ra tri âm!
Thiên Như lòng từ soi chân đăng
Đưa người mau ra vòng mê lầm
Hư không chim bay dường như tranh
Lưu tuyền quanh co triền non xanh
Người đi xa xa làn mây trôi
Di Đà chân như nầy tâm lành
Ôi câu hồng danh mầu thâm xa
Sâu cùng chư tông làng thiền na
Buông ra thâu vào đều như như
Tương tư tâm đầy trời Liên Hoa.
Thuật ý Thành Thời Đại Sư.
Liên Du
Bài thơ mở đầu trong "Tịnh Độ Hoặc Vấn" của Duy Tắc thiền sư được cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm dịch lại văn vần.
Cả bài thơ đều viết theo vần bằng (không dấu, dấu huyền), không giống như những bài thơ khác viết theo luật bằng trắc đối nhau. Đọc bài thơ ta cảm thấy như một cung đàn êm ái, trầm trầm, tĩnh tĩnh, thể hiện câu: "Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ" hay nói khác là: "Tâm tịnh thì quốc độ tịnh" của hòa thượng Thiền Tâm.
Hiếm thấy một cung cách nào như thể này trong thi văn Việt Nam!
Làm, mà không thấy mình làm, tạm gọi tùy duyên mà làm (vô tác, Kinh Kim Cang)
Tôi thấy bài thơ trên không có dì là thiền cả, cũng chẳng phải thể hiện câu tự tánh di đà duy tâm tịnh độ, cũng chẳng phải tâm tịnh thì quốc độ tịnh. Chỉ là đề cao hồng danh mà chê thiền thôi. Đâu hợp với "Bài thơ thiền" ở đây.
Ở đoạn:
Ngồi xem Thiên Như câu Di Đà
Người đời đều ưa cơ Thiền sâu
Hành nhơn ai vào tâm vương mầu
Có lẽ không hợp với thời đại giờ. Bởi đi khắp các chùa người người đều giảng pháp trì danh, cầu sanh tây phương. Tôi không thấy có một chùa nào dạy tham thiền.
Vậy thì bây giờ phải đổi là "người đời đều ưa pháp hồng danh, hành nhơn ai vượt khỏi tâm mình"
"Tri Kiến Lập Tri Tức Vô Minh Bổn
Tri Kiến Vô Kiến Tư Tức Niết Bàn"
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm