Cám đh Binh.
Ngũ uẩn:
Sắc (zh. 色; sa., pi. rūpa), chỉ thân và sáu giác quan (hay còn gọi là lục căn, bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), do Tứ đại chủng (sa., pi. mahābhūta) tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của chúng.
Thọ (zh. 受, sa., pi. vedanā), tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính.
Tưởng (zh. 想, sa. saṃjñā, pi. saññā), là nhận biết các tri giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị..., kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện.
Hành (zh. 行, sa. saṃskāra, pi. saṅkhāra), là những hoạt động tâm lí sau khi có tưởng, ví dụ chú ý, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác. Hành là đối tượng đã tạo nên nghiệp thiện ác...
Thức (zh. 識, sa. vijñāna, pi. viññāṇa), bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Thức phụ thuộc vào sáu căn tiếp xúc với sáu trần để hình thành nên sáu thức. Nếu không có thức người ta sẽ không phân biệt được màu sắc hay âm thanh v.v
6 thức:
1. Nhãn thức: Cái biết của con mắt. Vì thức này nương Nhãn căn, khởi ra tác dụng phân biệt về sắc trần, nên gọi là "Nhãn thức".
2. Nhĩ thức: Cái biết củalỗ tai. Vì thức này nương Nhĩ căn, khởi ra tác dụng phân biệt về thinh trần, nên gọi là "Nhĩ thức".
3. Tỹ thức: Cái biết củamũi. Vì thức này nương Tỹ căn, khởi ra tác dụng phân biệt về hương trần, nên gọi là "Tỹ thức".
4. Thiệt thức: Cái biết củalưỡi. Vì thức này nương Thiệt căn, khởi ra tác dụng phân biệt về vi trần, nên gọi là "Thiệt thức".
5. Thân thức: Cái biết củathân. Vì thức này nương thân căn, khởi ra tác dụng phân biệt về xúc trần, nên gọi là "Thân thức".
6. Ý thức: hức này nương Ý căn (thức thứ 7) khởi tác dụng phân biệt Pháp trần, nên gọi là "Ý thức".
Phật học phổ thông-Thích Thiện Hoa
Theo tại hạ hiểu chính 6 thức này sẽ hoại diệt khi chết,cùng với sắc,thọ,tưởng,hành.Đây là các thức hoạt động lúc ta đang tỉnh.
Còn 2 thức là
7.Mạt-na thức:Thức này có nhiều tên: 1. Mạt na (goị theo nguyên âm tiếng Phạn), 2. Ý căn: Thức này là căn của ý thức (Thức thứ Sáu); Vì thức thứ Sáu nương thức này phát sanh. 3. Thức thứ Bảy: Theo thứ đệ thì thức này đứng nhằm thứ Bảy. 4. Truyền thống thức: Vì thức này có công năng truyền các pháp hiện hành. 5. Ý thức, vì thức này sanh diệt tương tục không gián đoạn nên gọi là "Ý". Song, sợ người lầm lộn với ý thức thứ Sáu, nên thức thứ Bảy này chỉ gọi là "Ý", mà không thêm chữ "Thức". Thức này chỉ duyên kiến phần cuả thức A lại da chấp làm thật ngã và thật pháp.
8.A lại da thức: Tàu dịch là "Tàng thức": Thức này có công năng chứa đựng chủng tử của các pháp. "Thức" là thể, mà "chứa" là dụng. Hiệp cả thể và dụng, nên gọi là "thức chứa" (Tàng thức). Có 3 nghĩa:
a. Năng tàng: Năng chứa. Thức này co công năng chứa đựng và gìn giữ chủng tử (hạt giống) của các pháp.
b. Sở tàng: Bị chứa. Thức này là chổ để chứa các pháp.
c. Ngã ái chấp tàng, gọi tắt là "chấp tàng": Thức thứ Bảy chấp kiến phấn của thức này làm Ta và thường ái luyến.
Phật học phổ thông-Thích Thiện Hoa
Chính A-lại-đa là cơ sở để để đi tái sanh.Ngoài ra,theo tài liệu của Mật tông,thì lúc nằm ngủ mộng cũng chính là thức này hoạt động.
Bồ-tát Vô trước,trong luận "Nhiếp Đại thừa luận" đã cảnh báo rằng không được lầm cho rằng A-lại-đa thức là "Ngã":
A lại da cũng mệnh danh là a đà na. Ở đây, khế kinh là như kinh Giải thâm mật nói: A đà na thức cực kỳ vi tế, tất cả chủng tử tựa như dòng nước dốc (21) , Như lai không nói cho phàm phu và tiểu thừa, vì sợ họ phân biệt chấp làm tự ngã. Nhưng vì lý do nào mà mệnh danh a lại da là a đà na? Là vì nó chấp thọ sắc căn, chấp thủ tự thể. Tại sao, vì các sắc căn do nó chấp thọ mới không biến hoại, tùy chuyển suốt đời; lại lúc mới liên tục kiết sinh thì nó chấp thủ kiết sinh ấy làm tự thể (22) . Do vậy mà a lại da cũng mệnh danh là a đà na.
http://www.bodetam.org/Vietnamese/BoDeT ... a02.htm#P2
Tại hạ cũng đang thắc mắc ở đây:Tại sao A-lại-đa không phải là tự Ngã?