ĐỨC PHẬT CỦA MÙA XUÂN - TƯƠNG LAI - HỘI LONG HOA

Nghiên cứu học hỏi tư tưởng Phật giáo bắc tông: Câu xá, thành thật, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Du già, pháp tướng tông, trừ hệ bát nhã, thiền và chuyên mục đã có.

Điều hành viên: phuoctuong

Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

ĐỨC PHẬT CỦA MÙA XUÂN - TƯƠNG LAI - HỘI LONG HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

ĐỨC PHẬT LONG HOA
Nguyên tác: Who is Maitreya Buddha?
Tác giả: Lama Yeshe
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 30/01/2011

Hình ảnh

Vô lượng kiếp về trước, sau nhiều sự cúng dường, Di Lặc phát thệ nguyện Bồ Tát từ Đức Thế Tôn Đại Lực trước mặt nhiều Đức Phật khác. Từ lúc ấy trở đi, ngài đã đưa vô lượng chúng sinh đến giác ngộ, hướng dẫn họ trên con đường của giới đức, thiền định và tuệ trí bằng những phương tiện của ba cổ xe: Thinh Văn, Duyên Giác và Đại Thừa Bồ Tát.

Trong khi thực hành như một vị Bồ Tát, ngài thân chứng qua thiền quán về tâm đại từ - lòng yêu thương lớn. Ngài không chỉ dạy con đường này cho những người khác mà cũng thiền quán về điều này một cách liên tục với chính mình, thường ở tại cửa của một thành phố và quán chiếu về lòng từ ái. Sự thiền quán của ngài năng lực vô cùng vì thế người đi ngang qua gần đủ để xúc chạm chân ngài tự họ sẽ thụ nhận sự thể chứng về lòng yêu thương lớn. Điều này làm chư Thế Tôn trong mười phương vô cùng hoan hỉ, các ngài tùy hỉ trong hành động của Di Lặc và tiên đoán rằng trong toàn bộ tương lai của ngài, ngài sống như một vị Bồ Tát và một vị Phật, ngài được biết như Di Lặc hay Từ Thị hay Yêu Thương (E: Love; Skt: Maitreya; Tib: Jampa). Đây là việc ngài nhận danh hiệu của ngài như thế nào.

Một trong những đời sống khác, Di Lặc được sinh ra như một trong một nghìn người con trai của một vị Đại Quốc Vương. Vị vua này muốn biết theo thứ tự nào mà những người con của ông sẽ trở nên giác ngộ, vì thế ông đặt tất cả tên của họ vào trong một cái bát, thiền quán thâm sâu trong bảy ngày, trong khi thực hiện nhiều nghi thức cúng dường, rồi lấy danh tánh ra khỏi bát từng tên một. Tên của Di Lặc đứng vào hàng thứ năm, và Đức Phật vào lúc ấy, Đức Thế Tôn Vô Lượng Tri Thức, tiên đoán rằng Di Lặc sẽ trở thành vị Phật thứ năm của kiếp hiện tại. Đức Thế Tôn Thích Ca là vị Phật thứ tư.

Cuối cùng Di Lặc tiến bộ qua tất cả những trình độ phát triển tâm linh, đạt đến tầng bậc thứ mười của Bồ Tát – Pháp Vân Địa – và sau đó trở thành một Đức Phật Toàn Giác. Đã đạt đến tầng bậc toàn thiện tối thượng, ngài biểu thị nhiều khía cạnh khác nhau trong vô lượng lĩnh vực của Phật; hiện tại nơi cư trú đặc biệt của ngài là Tịnh Độ Đâu Suất, nơi ngài truyền đạt giáo huấn Đại Thừa cho vô lượng đệ tử Bồ Tát thượng thủ. Ở đây ngài đã dạy năm bộ luận nổi tiếng cho Bồ Tát Vô Trước [1]. Di Lặc cũng ban bố nhiều giáo huấn khác phù hợp với nhu cầu của những đệ tử khác nhau. Ngài đã xuất hiện như vô lượng đạo sư tâm linh khắp trong mười phương hư không thế giới, thế nên đã hướng dẫn vô số chúng sinh trên con đường đến sự tỉnh thức trọn vẹn.

Hình ảnh

Cuối cùng thời gian sẽ đến để Di Lặc xuất hiện như vị Phật thứ năm trong pháp giới của hiện kiếp này và chuyển pháp luân vì lợi ích cho tất cả. Điều này sẽ xãy ra trong sự kiện theo sau.

Trong tương lai, do bởi vọng tưởng lớn mạnh, chúng sinh trong thế giới này sẽ suy thoái – tuổi thọ của họ sẽ giảm và đời sống của họ sẽ tràn đầy với nhiều khổ đau hơn. Khi tuổi thọ con người giảm chỉ còn mười năm, ngài Di Lặc sẽ biểu hiện trong hình thức một lĩnh tụ tâm linh vĩ đại và minh chứng con đường đạo đức. Đặc biệt, ngài sẽ truyền bá rộng rãi giáo huấn về lòng ân cần tử tế - yêu thương - và như một kết quả , sự cát tường thịnh vượng của con người trong thế giới này sẽ bắt đầu cải thiện – họ sẽ dần dần từ bỏ những quan điểm gian dối và thái độ tổn hại và rồi tuổi thọ của họ sẽ bắt đầu tăng lên. Sau nhiều a tăng kỳ kiếp thọ mạng sẽ tăng trường một cách kỳ diệu và con người sẽ sống đến tám mươi nghìn năm. Sau đó, tuổi thọ của họ sẽ suy giảm một cách chậm chạp một lần nữa cho đến khoảng một trăm tuổi. Theo những sự tiên đoán của tất cả chư Phật và hứa nguyện của chính ngài, đây là lúc mà Đức Phật Di Lặc sẽ thị hiện trên thế giới như một vị đạo sư phổ biến, hay Đức Phật Tổ, như Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni.

Cha của ngài, sẽ là một vị Vua Bà La Môn Đại Từ Bi, và mẹ của ngài là Hoàng Hậu Thanh Xuân Triền Vọng (nhìn trẻ mãi). Ngài Di Lặc sẽ sinh ra phía một bên của bà khi bà đứng trong một khu vườn và vua trời Đế Thích sẽ tiếp nhận vị Phật mới sinh với lòng tôn kính lớn. Lập tức thiếu nhi Di Lặc sẽ bước đi bảy bước trong bốn hướng chính và trên mỗi bước chân mà ngài đặt chân những hoa sen báu sẽ nở ra. Sau đó ngài sẽ tuyên bố, “Ta là đấng cứu độ tối thượng của thế giới và đến để giải thoát tất cả chúng sinh khỏi khổ đau. Đây là lần sinh cuối cùng của ta; sẽ không có lần tái sinh nào nữa đối với ta.” Khi nghe điều này, tất cả các hàng trời người chúng sinh cao thượng của thế giới sẽ hoan hỉ, hiển hiện nhiều hành động tịnh hóa và dâng hiến cho ngài nhiều sự cúng dường kỳ diệu. Vua cha tự hào của ngài sẽ đưa ngài đi vòng quanh thành phố vì thế dân chúng có thể cũng cùng vui mừng với trân bảo mới của họ. Những vị thiên nữ xinh đẹp sẽ dâng cúng hoa cho ngài và những đại hiền nhân sẽ tiên đoán rằng trong chính đời sống này ngài sẽ trở thành một vị Phật toàn giác.

Sau đó, ngài sẽ tuân theo lối sống của một hoàng tử. Khi thời gian đến cho ngài học tập, Di Lặc sẽ dẫn đầu trong bốn nghìn tám mươi học sinh; đúng thời lập gia đình, ngài sẽ có nhiều vợ, và sống với những phu nhân cho đến mười nghìn năm. Rồi thì một lễ hội tôn giáo lớn của những Bà la môn sẽ xãy ra trong vương quốc của ngài, mà lúc ấy Di Lặc sẽ chứng minh rằng ngài đã đến để thực chứng tính vô thường của mọi hiện tượng; thấy hình dáng của những vị sa môn du phương, ngài sẽ tuyên bố từ bỏ thế giới luân hồi và ngài hướng đến việc lìa bỏ đời sống vương giả rồi đi theo con đường tôn giáo, một cuộc sống tâm linh. Quyết định này sẽ làm sửng sốt những người chung quanh ngài và toàn bộ cung điện cùng tất cả những người vợ của ngài sẽ bay vào hư không.

Đã quyết chí với quyết định này, từ bỏ cung cách của đời sống vương giả, Di Lặc sẽ khởi hành vào rừng. Tất cả chư thiên và thánh chúng sẽ hoan hỉ với giải pháp của ngài, cúng dường tán thán cho sự thành công và bảo vệ cho ngài và chăm sóc khi ngài thiền quán. Noi theo gương này, nhiều vị phu nhân của ngài, một nghìn bốn mươi người tùy tùng và vô số thị dân sẽ đi theo con đường của ngài trong một sự dâng hiến lớn lao và cũng thọ giới như những hành giả tôn giáo.

Trong bảy ngày, Di Lặc sẽ đi theo cung cách sống của sa môn tu khổ hạnh, kiêng khem mọi thức ăn và thức uống. Sau đó, khi xuất thiền từ một thể trạng tập trung thiền định sâu xa, ngài sẽ nhận một bát sửa từ người vợ của ngài tên Dawa’i Tongchen. Tươi tỉnh lại, ngài sẽ quyết định ngồi trong tư thế kim cương tọa và hạ quyết tâm ‘không xuất thiền cho đến khi đạt được giác ngộ.’ Đêm ấy ngài sẽ đánh bại tất cả những sự quấy rầy của ma quỷ và tất cả những năng lực tiêu cực (ma vương) và vào giữa đêm ngài sẽ nhập vào một thể trạng thiền định thậm thâm. Cuối cùng, với ánh nắng mặt trời chiếu soi của buổi sáng, Di Lặc – người thật sự đã đạt đến toàn giác trong nhiều a tăng kỳ kiếp về trước – sẽ minh chứng vì lợi ích của những đệ tử may mắn của ngài, sự đạt đến của Quả Phật hoàn toàn và toàn thiện. Sau đó, trong cùng cách của tất cả chư Phật của quá khứ, hiện tại và tương lai, ngài sẽ hướng dẫn vô lượng chúng sinh khỏi khổ đau và trên con đường của sự tỉnh thức tâm linh trọn vẹn.

Hình ảnh

Trong bảy tuần, sau khi minh chứng sự giác ngộ, Di Lặc sẽ tiếp tục im lặng, quán chiếu những đệ tử tương lai của ngài. Rồi thì, Đế Thích, vị vua của hàng chư thiên sẽ tặng ngài một bánh xe bằng vàng và những đối tượng xinh đẹp phổ biến của năm giác quan và thỉnh ngài chuyển pháp luân vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Trong sự đáp ứng đến lời cầu thỉnh, ngài Di Lặc sẽ giảng dạy bốn chân lý cao quý, do thế hướng dẫn nhiều triệu đệ tử đến giải thoát.

Trong sự giáo hóa lâu dài của ngài, Di Lặc sẽ chuyển bánh xe pháp giáo huấn vĩ đại ba lần [2] và mỗi lần vô lượng đệ tử sẽ đến để nghe pháp. Những giáo huấn này sẽ là những sự kiện kỳ diệu hấp dẫn không chỉ con người, những đệ tử sinh ra trên Trái Đất, mà cũng thu hút nhiều chư thiên, không hành nam, không hành nữ và những chúng sinh từ những thế giới khác, nhiều người trong ấy sẽ lập tức trở thành những vị a la hớn, Bồ Tát, và ngay cả là những vị Phật toàn giác. Qua năng lực của thân thể, lời nói và tâm ý thánh thiện, Di Lặc sẽ hướng dẫn và làm toại nguyện tất cả những ai tập họp theo nhu cầu và năng lực cá nhân của họ, trao truyền Tiểu Thừa cho một số, và Đại Thừa cho một số khác. Trong cách này, ngài sẽ hướng dẫn vô lượng đệ tử qua ba cổ xe [3] để giải thoát và giác ngộ.

Di Lặc sẽ hiện hữu trong sáu mươi nghìn năm, ban bố sự hướng dẫn tâm linh đến nhiều đệ tử trong kiếp sống của ngài và sau khi ngài nhập diệt, giáo huấn của ngài sẽ tồn tại tám mươi nghìn năm nữa, gián tiếp lợi ích nhiều người nữa. Vì thế, qua năng lực từ ái bi mẫn vĩ đại của ngài, Di Lặc sẽ ban vô lượng lợi ích đến vô lượng chúng sinh không trừ một ai.

Trong ý nghĩa siêu việt, Di Lặc không lệ thuộc đến sự chết cũng không phải sự tái sinh; ngài mãi mãi làm lợi ích cho tất cả chúng sinh không trừ một ai. Xa hơn thế, một lần ngài đã tuyên bố, “Bất cứ người nào giữ chỉ một thệ nguyện kỷ luật đạo đức một cách thanh tịnh trong thời của Đức Phật Thích Ca giáo hóa sẽ trở thành đệ tử riêng của ta khi ta thị hiện và ta sẽ giải thoát tất cả những đệ tử như vậy,” và ngài giữ lời hứa, lời thệ nguyện và cam kết này một cách chân thành.

Do vậy, những ai trong chúng ta có đủ may mắn đã từng gặp gở những giáo huấn của Đức Phật Thích Ca và duy trì một trình độ nào đấy của kỷ luật, thệ nguyện thuần khiết là bảo đảm hiện thực sự tiếp xúc với Đức Phật Di Lặc, trở thành đệ tử của ngài và đạt đến giác ngộ một cách nhanh chóng.

Từ trong Thương Yêu Phổ Quát ( Universal Love), đoạn mở đầu này được xuất bản lần đầu tiên trong nghi quỹ (sadhana) được ban bố bởi Viện Di Lặc (Maitreya Institute) khi Lama Yeshe thuyết giảng giáo huấn này vào năm 1981.

Lama Yeshe hồi hướng công đức việc phiên dịch này như sau: “Do bởi công đức này, nguyện cho tất cả năng lượng của sự sống được dâng hiến đến sự thân chứng lòng yêu thương của Di Lặc, vũ khí hạt nhân thật sự có thể phá hủy tất cả mọi kẻ thù ngoại tại và nội tại, giống như Đức Phật Di Lặc, và nguyện cho chúng con đạt đến thể trạng vĩ đại của bình đẳng, mà trong ấy, không có những người bạn, những kẻ thù, hay những kẻ xa lạ sợ hãi.”

http://www.mandalamagazine.org/archives ... ya-buddha/

Phụ chú:

[1] Xem bài ‘Cuộc đời của Bồ Tát Vô Trước’

[2] Long Hoa tam hội

Xưng Tán Bụt

Phật bảo sáng vô cùng
Đã từng vô lượng kiếp thành công
Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông
Sáng rực đỉnh Linh Phong
Trên trán phóng hào quang rực rỡ
Chiếu soi sáu nẻo hôn mông
Long Hoa hội lớn nguyện tương phùng
Tiếp nối Pháp chánh tông
Xin quy y thường trú Phật đà gia !

http://www.thuvien-thichnhathanh.org/in ... /200-k-tan

[3] Thinh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, và Bồ Tát Thừa


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

ĐỨC PHẬT CỦA MÙA XUÂN - TƯƠNG LAI - HỘI LONG HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

ĐỨC DI LẶC VÀ Ý NGHĨA SÁU ĐỨA BÉ
HT. Thích Thanh Từ

Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc. Như vậy đức Phật Di-lặc có liên hệ gì đến mùa Xuân, mà chúng ta cầu chúc nhau như thế. Có nhiều người cho rằng ngày mồng một Tết là ngày vía đản sanh của đức Di-lặc. Tôi chưa biết đó là ngày đản sanh của Hóa thân nào, vào thời đại nào.

Bởi vì lịch sử của Bồ-tát ứng thân vô lượng, làm sao chúng ta căn cứ một bề, lấy đó làm tiêu chuẩn. Chúng tôi chỉ biết một điều thật là quan trọng trên danh nghĩa Di-lặc mà chúng ta thường tụng thường nguyện.

Khi chúng ta tụng: Nam-mô Long Hoa giáo chủ đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật, đó là thể theo lời huyền ký của đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni rằng, sau khi Bồ-tát Di-lặc sanh lên cung trời Đâu-suất mãn công hạnh, sẽ đến thế giới Ta-bà này thuyết giảng. Lúc tuổi thọ con người giảm tột cùng chỉ còn mười tuổi, rồi do nhờ phát tâm tu hành, gìn giữ Thập thiện, tuổi thọ tăng lên đến sáu mươi bốn ngàn tuổi, chừng đó đức Phật Di-lặc ra đời. Như vậy thời gian Ngài ra đời còn xa lắm. Tôi đã từng nói mỗi đức Phật ra đời không làm việc trùng lập nhau. Bao giờ giáo lý của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, danh từ Tam Bảo không còn được biết tới nữa thì đức Phật Di-lặc mới ra đời.

Đức Phật Thích-ca được gọi là Ta-bà giáo chủ, là vị Giáo chủ trong cõi Ta-bà này. Còn đức Phật Di-lặc sẽ thành đạo dưới cội Long Hoa, cho nên được gọi là Long Hoa giáo chủ. Tuy thời gian Ngài ra đời còn lâu xa, nhưng chúng ta tin rằng tương lai sẽ có Phật ra đời. Đức Phật ra đời, đó là một diễm phúc cho chúng sanh, là ngọn đuốc sáng cho nhân loại. Vì vậy khi nghĩ đến đức Phật ra đời, chúng ta cảm thấy cả một nguồn hạnh phúc an lành. Ngày mồng một Tết là ngày vía đức Phật Di-lặc, cũng là ngày hứa hẹn hạnh phúc cho chúng sanh. Hạnh phúc bằng cách giải thoát khổ đau, ra khỏi luân hồi, chớ không phải hạnh phúc trong ngũ dục tầm thường. Đầu năm Tăng Ni cùng Phật tử lễ vía đức Phật Di-lặc, Ngài là hình ảnh bên ngoài mà cũng là sự hứa hẹn ở nội tâm chúng ta. Nhớ đến đức Phật sẽ thành, chúng ta cũng nhớ luôn mai kia mình sẽ thành Phật. Vì vậy chúng ta không chỉ lạy đức Phật với lòng thành kính, mà còn cầu chúc cho nhau một mùa Xuân hứa hẹn sẽ thành Phật. Đó là ý nghĩa thâm sâu của ngày vía đức Phật Di-lặc.

Bây giờ chúng ta đi vào ý nghĩa hình tượng của Ngài. Chắc rằng chúng ta ai cũng từng thấy hình tượng đức Di-lặc ở các ngôi chùa. Có khi người ta thờ Ngài với vẻ mập mạp, cười toe toét; có chỗ khác cũng thờ hình tượng như vậy mà có sáu đứa nhỏ: đứa thì chọc ngón tay vô rún, đứa thì móc lỗ mũi, đứa thì móc miệng, đứa thì dùi lỗ tai v.v... mà Ngài cứ vui cười không phiền, không chướng ngại gì hết.

Tại sao như vậy? Hình ảnh đó nói lên cái gì? Điều này rất thiết yếu, chúng ta nên chú tâm như trong kinh Lăng Nghiêm, có đoạn mười phương chư Phật dị khẩu đồng âm tuyên bố cho ngài A-nan và đại chúng: “Khiến ông phải luân hồi sanh tử, chính là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì khác; khiến ông chóng chứng Vô thượng Bồ-đề, cũng chính là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì khác.” Như vậy cội gốc sanh tử cũng là sáu căn của chúng ta: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; cội gốc Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn của chúng ta. Như vậy con đường trở về giác ngộ hay con đường sanh tử luân hồi là một hay hai? Sanh tử luân hồi cũng đi con đường đó mà Bồ-đề Niết-bàn cũng đi con đường đó, có khác nhau. Người thì đi theo chiều thuận gọi là thuận lưu, người đi theo chiều nghịch, gọi là nghịch lưu. Đi theo chiều thuận là sanh tử luân hồi, đi theo chiều nghịch là giải thoát sanh tử. Như vậy thì không có hai đường. Ví dụ chúng ta về Sài Gòn, cũng đi trên đường Vũng Tàu - Sài Gòn. Sài Gòn - Vũng Tàu cũng đi đường đó. Nhưng nói về Sài Gòn là đi trở về, nói đi Vũng Tàu là đi trở ngược ra. Chỉ khác một người đi trở ra, một người đi trở vô thôi. Khác nhau ở chỗ đó. Đường thì một mà hai người đi nghịch hoặc thuận chiều, kết quả sẽ có hai ngả khác nhau, và hai địa điểm khác nhau. Cũng như vậy, nếu sáu căn của chúng ta nếu ta thuận chiều với nó, đó là chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Chúng ta đi ngược chiều với nó là chúng ta trở về Niết-bàn, Bồ-đề, giải thoát v.v... Nếu sáu căn đi theo sáu trần gọi là thuận lưu, đi theo chiều luân hồi. Nếu sáu căn không chạy theo sáu trần, không nhiễm, không dính, không mắc, đó là người trở về Bồ-đề Niết-bàn không đâu xa lạ. Như vậy để thấy rõ con đường tu tuy có rất nhiều, nhưng sự tu căn bản chỉ đừng cho sáu căn chạy theo sáu trần bên ngoài. Đức Phật Di-lặc là một vị Phật sẽ thành ở ngày mai do Ngài tu hạnh gì? Chính hình ảnh đó là câu trả lời cụ thể nhất. Mỗi đứa bé soi lỗ tai móc lỗ mũi của Ngài mà Ngài vẫn cười không tỏ vẻ bực dọc, không tỏ vẻ chướng ngại buồn bã. Vì vậy Ngài sẽ thành Phật chắc chắn.

Còn chúng ta thì sao? Nếu ai móc lỗ tai mình thì không đánh cũng đá, không đập cũng la; móc lỗ mũi mình cũng thế... Như vậy đối sáu căn, có ai động tới thì chúng ta không chịu nổi. Chỗ không chịu nổi đó làm chướng ngại chúng ta. Sáu đứa bé gọi là lục tặc, tức là sáu đứa cướp phá phách. Nhưng thật tình chúng có phá mình hay không? Nếu bị móc lỗ tai mà mình không cảm thấy khó chịu lại thấy đã ngứa thêm thì không bị chướng ngại. Hiện tại hầu hết chúng ta đều bị chướng ngại bởi những lời nói bên ngoài. Nếu những lời chửi mắng gièm pha, nguyền rủa tới lỗ tai, mà mình coi như gió thổi lá dương cành liễu cho nó nương theo gió đi đâu thì đi, đừng vướng mắc tự nhiên mình an lành tự tại. Nếu thấy đó là lời nói thù hằn, mỉa mai sâu độc mà mình bực bội tức tối, ghi nhận nó vào với những tâm niệm hận thù, đen tối thì nó sẽ thành giặc cướp làm tan hoang của báu nhà mình. Tai nghe những tiếng khen chê hoặc là chửi bới đề cao v.v... mình cũng xem thường, vì tiếng nói không thật. Chính bản thân mình còn không thật, huống là tiếng nói bên ngoài. Tâm không động đó là mình đã thắng đứa bé móc lỗ tai rồi.

Khi con mắt thấy tất cả hình ảnh phía trước, có đẹp có xấu, dù hình ảnh nào mình cũng dửng dưng không lay động không dính mắc, như vậy bao nhiêu hình ảnh dàn trải tràn trề trước mắt, mình cũng vẫn an lành tự tại. Ngược lại khi thấy một hình ảnh, mình liền cho là đẹp là xấu, đẹp thì sợ mất, xấu thì sanh tâm bực tức, thế là hình ảnh nào cũng gây phiền não hết, không có hình ảnh nào là an vui tự tại. Sự thật những hình ảnh đó có phải là phiền não không? Phiền não là tự ai? Gốc tại mình. Nếu thấy nó mà không luyến ái, không ghét bỏ, thì nó vẫn là nó. Có lỗi lầm gì đâu! Lỗi lầm là chính lòng luyến ái, lòng sân hận của mình chớ không phải hình ảnh có lỗi lầm. Khi chứa chấp sân hận, chứa chấp luyến ái, thì của báu nhà mình bị cướp mất. Con mắt đem những hình ảnh vào để cướp mất của báu nhà mình, đó là cái chướng biểu trưng qua hình ảnh đứa bé móc mắt. Còn nếu ngược lại mình không mắc kẹt, hình ảnh là hình ảnh, mình vẫn an nhiên, thì đứa bé ấy có làm gì thì làm, mình vẫn an ổn.

Lỗ mũi cũng thế, ngửi mùi hôi mùi thơm đừng mắc kẹt, coi như khói như gió vừa qua mũi rồi mất, không có gì thật, thì có gì làm cho mình nhiễm, tự nhiên trong lòng được tự tại. Ngược lại, tại chúng ta si mê, cho nên mùi thơm đến thì thích, mùi hôi đến thì bực. Do đó tự mình đem giặc vào cướp của báu nhà mình, tự làm chướng ngại.

Như lưỡi chúng ta nếm những vị cay, đắng, mặn, ngọt; cái nào hợp thì thích, cái nào không hợp thì không thích. Vì vậy mà chúng ta chạy tìm kiếm, khổ từ năm này sang năm khác. Mỗi khi lên mâm cơm, thấy món gì mình cảm nghĩ là hợp với lưỡi của mình thì vui, món gì không hợp thì bực. Vui và bực đó làm mình phải chướng, rồi nói lời thô ác làm cho người chung quanh không vui. Vì lẽ đó chúng ta tập cho lưỡi mình đừng tham đắm vị. Tất cả cái ngon cái dở chẳng qua là tạm mà thôi, cốt sao cho mình được an ổn tu hành là quí. Như vậy chúng ta thắng được các thứ vị, tức là đã thắng đứa bé móc miệng rồi.

Tôi đã đơn cử các căn như mắt tai mũi lưỡi để thấy chúng ta tu là phải tu ngay tại sáu căn của mình, đó là các cơ quan hằng tiếp xúc với những hoàn cảnh thuận tiện làm cho mình ưa, những hoàn cảnh trái ngược làm cho mình giận. Tuy nói sáu căn chớ thật tình có năm căn quan trọng, tức là mắt tai mũi lưỡi thân, năm cửa đón tiếp bên ngoài. Mỗi khi năm căn tiếp xúc với năm trần thì ý theo đó phân biệt để thương ghét buồn giận. Vì vậy, ngay năm căn kia mà chúng ta đón nhận đúng pháp thì căn thứ sáu (ý căn) không còn trở ngại nữa. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà chúng ta mắc kẹt, nhiễm theo thì gọi là sáu đứa cướp, bởi vì kho báu nhà mình bị chúng cướp đi. Cướp bằng cách nào? Ví dụ lỗ tai nghe tiếng rồi phân biệt tiếng khen tiếng chê, sanh buồn sanh mừng là bị mất của. Của đó giặc mang đi đường nào và lấy ở đâu? Nói suông thì khó biết. Cần phải biết của mình ở đâu và dấu vết giặc mang đi đường nào, mới có thể giữ của được.

Sự thật nó không mang đi đâu, đó chỉ là hình ảnh tượng trưng thôi. Nhưng chúng ta thường nghĩ khi có lấy tức là có mang đi, không ngờ nếu thật tình nó mang đi thì sau này dù có giữ cũng là giữ cái kho không còn của đâu mà giữ. Vì vậy phải biết rõ ràng là tuy nói nó cướp của mình, nhưng không cướp gì hết. Chỉ do năm căn tiếp xúc bên ngoài, rồi tâm mình xao xuyến hoặc buồn hoặc giận. Đó là những đám mây đen nổi dậy che lấp mặt trời trí tuệ của mình, gọi là đã cướp. Khi nào nghe những tiếng khen chê mà trong lòng không xao động, những đám mây đen không nổi dậy, thì mặt trời trí tuệ của chúng ta vẫn sáng rực, gọi là giữ được của báu.

Khi trí tuệ chúng ta hằng sáng tỏ, lúc đó gọi là giàu. Còn nếu phút giây nào trí tuệ bị mờ tối không còn phát hiện nữa gọi là mất của báu, ta nghèo đi. Cái nghèo đó là cái nghèo tạm thời, nhưng cũng có thể là nghèo muôn kiếp. Nếu giờ phút nào bị mây phiền não che khuất thì chúng ta mất trí tuệ, nhưng khi nào chúng ta dẹp tan những đám mây đó, thì mặt trời trí tuệ sáng trở lại gọi là nghèo tạm thời. Còn cứ nuôi dưỡng những đám mây đen, hết đám này tới đám khác, dù có mặt trời trí tuệ mà cả đời vẫn sống trong đen tối. Đời này đen tối, đời sau đen tối, cứ tiếp nối như thế mãi thì không bao giờ hết nghèo. Thế nên người biết tu và không biết tu khác nhau tại chỗ đó. Dù chúng ta cũng bị cướp của báu, cũng bị mây đen che lấp mặt trời trí tuệ, nhưng chúng ta tin rằng chỉ bị che trong một phút một giây, rồi sẽ sáng lại.

Vì vậy ý nghĩa Đương lai hạ sanh của đức Phật Di-lặc là một ý nghĩa hứa hẹn trong tâm chúng ta, chúng ta sẽ sáng ra ở ngày mai chớ không tối mãi. Đó phải là cái hứa hẹn thật sự chớ không phải hứa hẹn suông, hứa hẹn rỗng. Có người cũng hứa hẹn, nhưng hứa hẹn suông, nghĩa là cũng có hình thức người tu, đi chùa lễ Phật, nhưng cứ chất chứa bao nhiêu phiền não. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, cứ như thế mà dồn hết vào trong lòng. Lo kiếm những món ngon, lo chứa những mùi thơm, lo chứa những hình tướng đẹp v.v... cả ngày cứ xao xuyến lo buồn làm khuất đi mặt trời trí tuệ sáng ngời, cho nên phải chịu khổ đen tối. Còn người biết tu, khi trí tuệ bị che khuất thì hối hận, ăn năn cố làm cho tan đám mây mờ, và nguyện làm sao đừng để mặt trời trí tuệ bị che khuất phút giây nào hết. Đó là hứa hẹn thật, hứa hẹn của người biết tu, chớ không phải hứa hẹn suông.

Chính chỗ thiết yếu đó mà đức Phật Di-lặc được gọi là con người hạnh phúc, con người hạnh phúc thường mập mạp vui tươi. Cái mập mạp vui tươi đó là nhờ trong lòng không có những đám mây phiền não che lấp mặt trời trí tuệ, mà dù sáu đứa giặc có móc tai, móc mũi v.v... Ngài vẫn thấy như không. Còn chúng ta thấy chướng nên trán nhăn, mày cau, mắt đỏ, gương mặt đau khổ. Cái khổ đó chính vì mình không chịu nổi sáu đứa giặc phá phách nên tự nhiên sanh ra bực dọc, khó chịu. Nếu nó phá phách mà mình không thấy chướng, thì cái phá đó trở thành đùa vui với nhau. Chúng ta không ai chẳng có sáu đứa giặc, sáu đứa cướp đó nhưng nó thành giặc hay bạn là chính tại mình. Thế nên biết tu nơi sáu căn rồi tự nhiên được an lành tự tại. Dù chưa thành Phật, hiện đời ta cũng hạnh phúc tràn trề. Ngày nào tháng nào cũng đều là ngày tháng vui tươi, năm nào cũng là năm đẹp đẽ. Vì vậy mà chúng ta hay chúc nhau một mùa Xuân viên miễn.

Đó là mùa Xuân Di-lặc, mùa Xuân hạnh phúc, mùa Xuân mà trong lòng không phiền muộn lo âu. Còn lo âu, còn phiền muộn thì chưa phải là hạnh phúc. Cho nên nhớ đến đức Phật Di-lặc, nhớ đến sáu đứa bé móc tai, móc mũi của Ngài, chúng ta nên hằng giờ hằng phút kiểm điểm lại mình, thử xem giặc có cướp của mình hay không. Nếu chúng ta cứ nuôi dưỡng sáu đứa giặc khiến chúng luôn cướp của mình, thì dù có khao khát nguyện cầu thành Phật mấy đi nữa, quả Phật cũng còn xa lơ xa lắc. Trái lại nếu chúng ta ở mọi trường hợp, đi đứng nằm ngồi, tiếp duyên đối cảnh, đều sống đúng với tinh thần của đức Phật Di-lặc thì tôi tin rằng dù không cầu được an vui, tự nhiên cũng được an vui, không cầu thành Phật, tự nhiên cũng thành Phật.

Tóm lại chỗ tu thiết yếu là biết trở về mình, chính là đừng để cho sáu căn dẫn giặc vào, gọi là nghịch lưu. Nghịch lưu tức là trở về Tánh giác. Còn nếu luôn luôn bị sáu căn dẫn giặc về cướp mất của báu nhà mình gọi là thuận lưu, tức là thuận theo chiều sanh tử. Do đó, hôm nay nhân ngày vía đức Phật Di-lặc và cũng là ngày Tết Nguyên Đán, tôi cầu chúc cho tất cả quí vị Tăng Ni, cư sĩ nam nữ đều trở về nguồn giác của mình. Nguyện cầu cho tất cả quí vị kể từ ngày mồng một Tết này cho đến trọn năm và cho đến suốt đời đều luôn luôn là “bối trần hiệp giác”.

Trích từ sách: Xuân trong cửa thiền


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

ĐỨC PHẬT CỦA MÙA XUÂN - TƯƠNG LAI - HỘI LONG HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

SỰ TÍCH ĐỨC DI LẶC BỒ TÁT

Đức Di Lặc là một vị Phật thứ năm trong Hiền kiếp (Bốn vị Phật trong Hiền kiếp đã ra đời, kể ra sau đây: 1. Đức Cấu Lưu Tôn, 2. Đức Câu Na Hàm, 3. Đức Ca Diếp, 4. Đức Thích Ca Mâu Ni) để nối ngôi Phật Thích Ca, ra đời mà giáo hóa chúng sanh.

Nhưng số kiếp chưa đến, Ngài còn ở trên cung Trời Đâu Suất, thường hay hóa thân trong mười phương thế giới mà thuyết pháp độ sanh.

Khi Ngài ứng tích tại Song Lâm, thì tên của Ngài là: Phó Đại Sĩ, và lúc Ngài hóa thân ở Nhạc lâm, thì hiệu của Ngài là: Bố Đại Hòa Thượng.

Công việc hành tàng bước đường lai khứ trong hai khoảng chuyển sanh ấy, nào là lời phương tiện quyền xảo, nào là lời vi diệu pháp âm, làm cho người đời đều tỉnh giấc mộng mà quy đầu về Chánh giáo.

Nay xin lược thuật sự tích lúc Ngài hóa thân làm vị Bố Đại Hòa Thượng ra sau đây cho quý vị độc giả xem.

Đương thời kỳ nước Lương thuộc về đời Ngũ quí, Ngài ứng tích ở nơi Châu Minh, tại huyện Phụng hóa, thân hình khác hơn người thế tục, trán thì nhăn, bụng thì lớn, và hình vóc mập mạp.

Lúc đó không ai biết tên họ của Ngài, chỉ thấy Ngài thường mang theo một cái túi vải mà thôi, nên người kêu là: Bố Đại Hòa Thượng.

Tánh Ngài hay khôi hài và chỗ ăn và nằm ngày đêm không có nhứt định, mà Ngài đi đâu rồi cũng thấy trở về Chùa Nhạc Lâm mà trú ngụ.

Mỗi khi đi đường, Ngài thường cầm gậy Tích trượng và mang cái túi bằng vải, không khi nào rời hai vật ấy ra khỏi mình, lại có 18 đứa con nít (là lục căn, lục trần, và lục thức) nhỏ thường đeo đuổi theo một bên mà diễu cợt làm cho Ngài tức cười mãi mãi. Thường khi Ngài đi vào chốn thôn quê hay là nơi đồng ruộng, hễ ai cho những vật gì, khi Ngài ăn xong, còn dư lại bao nhiêu đều bỏ vào túi.

Lúc đi tới nơi chợ quán, thì Ngài ngồi xuống, mở túi lấy những đồ ăn dư đưa lên, kêu mấy người đứng xung quanh mà nói rằng: “Các ngươi xem coi đó là cái gì ?“ Ngài nói rồi một giây lâu bỏ đồ ấy vô túi mà mang đi. Còn có khi Ngài gặp Thầy Sa Môn đi ngang qua, Ngài ở sau vỗ lưng một cái, làm cho Thầy Sa Môn giựt mình, ngó lại mà hỏi rằng: “Hòa Thượng làm cái gì vậy ?”

Ngài liền giơ tay nói: “ Ngươi cho Ta xin một đồng tiền”.

Thầy Sa Môn thấy vậy, bèn nói rằng: “Nếu tôi hỏi một điều mà Hòa Thượng nói đặng, thì tôi cho”.

Ngài liền để cái túi xuống, chấp tay đứng một bên, rồi lấy túi mang trở lại mà lật đật quày quả đi liền. Một bửa kia, Ngài đi vào trong đám đông người, có một ông Tăng hỏi Ngài rằng: “Hòa Thượng ở trong đám đông người làm chi đó?”

Ngài trả lời rằng: “Ta đương đợi một người đến”

Ông Tăng hỏi: “Hòa Thượng đợi ai ?”

Ngài bèn thò tay vào túi lấy một trái quít đưa cho ông Tăng.

Ông vừa giơ tay ra lấy trái quít, Ngài liền thục tay lại mà nói rằng: “Ngươi chẳng phải người ấy”

Lại có một bửa, ông Tăng chợt thấy Ngài đứng bên đường gần chợ, bèn hỏi rằng: “Hòa Thượng ở đây làm chi ?”

Ngài liền đáp rằng: “Ta đi hóa duyên”.

Ông Tăng thấy vậy mới nói rằng: “Hóa duyên ở đâu nơi ngã tư như vậy ?”

Ngài trả lời: “ Ngã tư chính là chỗ Ta muốn hóa duyên”.

Ông Tăng vừa muốn hỏi chuyện nữa, thì Ngài liền mang cái túi vải rồi cười ngất mà đi một hơi.

Có một khi, ông Bạch Lộc Hòa Thượng gặp Ngài, liền hỏi rằng: “ Thế nào gọi là: cái túi vải ?”

Ngài nghe hỏi liền để túi xuống, rồi khoanh tay mà đứng.

Ông Bạch Lộc Hòa Thượng lại hỏi rằng: “Công việc của cái túi vải ra làm sao ?”

Ngài liền mang túi mà đi, không trả lời chi hết.

Có một bửa kia, ông Bảo Phước Hòa Thượng gặp Ngài hỏi rằng: “Thưa Ngài! Duyên cớ tại sao mà xưa Đức Tổ Sư ở bên Tây phương qua đây là có ý gì ?”

Ngài nghe hỏi liền để cái túi vải xuống, rồi đứng tự nhiên.

Ông Bảo Phước Hòa Thượng lại hỏi nữa rằng: “ Chỉ như vậy, hay là còn có cái gì nữa hay không ?”

Ngài nghe hỏi như thế, bèn lấy túi vải mang trở lại mà đi, không hề trả lời.

Từ đó về sau, hễ Ngài đi đến đâu, thì người ta tranh nhau mà chận đón và níu kéo, đặng mời Ngài vào nhà, chớ không cho đi luôn. Bởi vậy cho nên trong các quán rượu và tiệm cơm, người người tha hồ ăn uống no say, không có chút gì nhàm chán, vì Ngài vào đâu thì buôn bán đắt đến bội phần.

Lúc nào gặp trời mưa, thì tản sáng Ngài ngủ dậy mang guốc cao gót, đi ra nằm ngửa trên cái cầu to, co chưn lại dựng hai bắp vế lên, thì ngày ấy nắng. Còn khi nào trời nắng, mà Ngài mang đôi dép cỏ đi ra ngoài đường, ngày ấy trời lại mưa.

Thường bửa Ngài hay tới nhà một nông phu kia mà ăn cơm. Có một hôm người vợ tên ấy thấy vậy nổi giận mà rầy rằng: “Đương lúc lo việc ruộng nương rộn ràng không xiết, mình có công đâu mà nuôi lão Hòa Thượng điên đó hoài! “

Ngài nghe nói mấy lời ấy, liền đem cơm đổ dưới gốc cây dâu ở bên nhà rồi bỏ đi.

Cơm ấy tự nhiên hoàn lại trong nồi của người nông phu. Hai vợ chồng thấy vậy rất kinh, bèn cùng nhau đi kiếm Ngài, rồi lạy lục mà xin sám hối.

Có một khi, đương buổi mùa hạ, khí trời nóng nực, Ngài cởi quần áo để trên bờ mà xuống khe tắm.

Lũ trẻ khuấy chơi, bèn lén lại lấy cả áo quần. Đương lúc tắm, Ngài thấy vậy thì lật đật để mình trần truồng mà rượt theo bọn con nít. Mấy người ở trên bờ xúm nhau lén coi , thì thấy âm tàng của Ngài như trẻ nhỏ vậy.

Gần chỗ đó có tên Lục Sanh, nghề vẽ rất tinh xảo. Người ấy thấy Ngài, bèn vẽ một bức tượng in hệt mà dán tại Chùa, nơi vách nhà Đông.

Bửa nọ Ngài đi ngang qua bên vách, thấy tượng ấy liền khạc nhổ rồi bỏ đi.

Khi Ngài ở tại xứ Mân Trung, có một người cư sĩ họ Trần, thấy Ngài làm nhiều việc kỳ thần, nên đãi Ngài rất cẩn trọng.

Lúc Ngài từ giã ông Trần cư sĩ mà đi qua xứ Lưỡng Chiết, ông muốn rõ tên họ Ngài, bèn hỏi rằng: “Thưa Hòa Thượng! Xin cho tôi biết họ Ngài là chi, sanh năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ nào, và xuất gia đã bao lâu rồi ?”

Ngài đáp rằng: “Ta tỏ thiệt cho ngươi rõ rằng Ta chính là họ Lý, sanh ngày mùng tám tháng hai. Ta chỉ biểu hiệu cái túi vải này mà để độ đời đó thôi. Vậy ngươi chớ tiết lộ cho ai biết”.

Ông Trần cư sĩ nghe nói như vậy, bèn thưa rằng: “Hòa thượng đi đâu, nếu có ai hỏi việc chi thì Ngài trả lời làm sao cho hợp lý, chớ tùy thuận theo người thì không khỏi bàng nhơn dị nghị tiếng thị phi.

Ngài bèn đáp một bài kệ rằng:

Ghét thương phải quấy biết bao là,
Xét nét lo lường giữ lấy ta;
Tâm để rỗng thông thường nhẫn nhục,
bửa hằng thong thả phải tiêu ma;
Nếu người tri kỷ nên y phận,
Dẫu kẻ oan gia cũng cộng hòa;
Miễn tấm lòng này không quái ngại,
Tự nhiên chứng đặng “Lục ba la”
Ông Trần cư sĩ lại hỏi rằng: “Bạch Hòa thượng!

Ngài có pháp hiệu hay không ?”

Ngài liền đọc bài kệ mà đáp rằng :

Ta có cái túi vải,
Rỗng rang không quái ngại;
Mở ra khắp mười phương,
Thâu vào Quan tự tại.
Ông Trần cư sĩ hỏi rằng: “Hòa thượng đi đây có đem đồ hành lý hay không?”

Ngài đáp bài kệ :

Bình bát cơm ngàn nhà,
Thân chơi muôn dặm xa;
Mắt xanh xem người thế,
Mây trắng hỏi đường qua.
Ông Trần cư sĩ thưa: “Đệ tử rất ngu, biết làm sao cho đặng thấy tánh Phật”.

Ngài bèn đáp bài kệ:

Phật tức tâm, tâm ấy là Phật,
mười phương thế giới là linh vật;
Tung hoành diệu dụng biết bao nhiêu,
Cả thảy chẳng bằng tâm chơn thật.
Ông Trần cư sĩ thưa rằng: “Hòa thượng đi lần này nên ở nơi chùa, chớ đừng ở nhà thế gian.

Ngài bèn đáp bài kệ rằng:

Ta có nhà Tam Bảo,
Trong vốn không sắc tướng;
Chẳng cao cũng chẳng đê,
Không ngăn và không chướng;
Học vẫn khó làm bằng,
Cầu thì không thấy dạng;
Người trí biết rõ ràng,
Ngàn đời không tạo đặng;
Bốn môn bốn quả sanh,
Mười phương đều cúng dường.
Ông Trần cư sĩ nghe bài kệ lấy làm lạ, liền đãnh lễ Ngài mà thưa rằng: “Xin Hòa thượng ở nán lại một đêm mà dùng cơm chay với tôi, đặng tỏ dấu đệ tử hết lòng cung kính, xin Ngài từ bi mà hạ cố”.

Đêm ấy Ngài ở lại nhà Trần cư sĩ. Đến khi đi, thì Ngài viết một bài kệ dán nơi cửa:

Ta có một thân Phật,
Có ai đặng tường tất;
Chẳng vẽ cũng chẳng tô,
Không chạm cũng không khắc;
Chẳng có chút đất bùn,
Không phải màu thể sắc;
Thợ vẽ, vẽ không xong,
Kẻ trộm, trộm chẳng mất;
Thể tướng vốn tự nhiên,
Thanh tịnh trong vặc vặc;
Tuy là có một thân,
Phân đến ngàn trăm ức.
Khi Ngài đi đến quận Tứ minh, Ngài thường giao du với ông Tưởng Tôn Bá một cách rất thân mật, Ngài có khuyên bảo ông mỗi ngày trì niệm câu chú: “Ma ha bát nhã ba la mật đa”. Vì vậy người ta đều kêu ông Tưởng Tôn Bá là: Ma ha cư sĩ.

Có một ngày nọ, ông Ma ha cư sĩ cùng Ngài đồng tắm dưới khe Trường đinh. Khi Ngài đưa lưng bảo ông Ma Ha kỳ giùm, thì ông thấy nơi lưng Ngài có bốn con mắt rực rỡ chói lòa, bèn lấy làm kinh dị vô cùng. Ông liền đãnh lễ Ngài mà nói rằng: “Hòa thượng quả là một vị Phật tái thế”.

Ngài liền khoát tay bảo nhỏ rằng: “Ngươi chớ nói tiết lộ. Ta cùng ngươi ở với nhau đã ba bốn năm nay, vốn là có nhân duyên rất lớn, rồi đây Ta sẽ từ biệt ngươi mà đi, vậy ngươi chớ buồn rầu thương nhớ “.

Ngài nói rồi, bèn về nhà ông Ma Ha cư sĩ mà hỏi rằng: “Ý ngươi có muốn giàu sang hay không?”

Ông Ma Ha cư sĩ thưa rằng: “Sự giàu sang như lùm mây nổi, như giấc chiêm bao, có cái gì là bền lâu chắc chắn đâu, nên tôi nguyện làm sao cho con cháu tôi đời đời được miên viễn mà thôi”.

Ngài bèn lấy cái túi của Ngài thọc tay vào móc ra một cái túi nhỏ, một cái hộp, và một sợi dây, liền đưa cho ông Ma Ha cư sĩ mà nói rằng: “Ta cho ngươi mấy vật này mà từ biệt. Song Ta căn dặn ngươi phải giữ gìn cho kỹ càng mà làm biểu tín những việc hậu vận của nhà ngươi”.

Ông Ma Ha cư sĩ vâng lãnh mấy món ấy mà chẳng rõ được là ý gì. Cách vài bữa sau Ngài trở lại nhà ông mà hỏi rằng: “Nhà ngươi có hiểu được ý Ta hay không?”

Ông thưa rằng: “Thưa Ngài! Đệ tử thiệt chẳng rõ”.

Ngài nói rằng: “Đó là Ta muốn con cháu nhà ngươi ngày sau cũng như mấy vật của Ta cho đó vậy”.

Nói rồi Ngài bèn từ giã mà đi liền.

Đến sau, quả nhiên con cháu của ông Ma Ha cư sĩ được vinh hoa phú quý, hưởng lộc nước đời đời. Đó là mấy vật của Ngài cho có hiệu nghiệm như vậy.

Nhằm ngày mùng ba tháng ba, năm thứ ba, niên hiệu Trịnh Minh, Ngài không tật bệnh gì cả, ngồi trên bàn thạch, gần nơi mái chùa Nhạc Lâm mà nhập diệt.

Nhắc lại khi Ngài chưa nhập diệt, có ông Trấn Đình Trưởng thấy Ngài hay khôi hài không lo sự gì cả, nên mỗi lần gặp Ngài thì buông lời cấu nhục, rồi giựt cái túi vải mà đốt.

Hễ bửa nay đốt rồi, thì qua ngày sau ông Trấn Đình Trưởng cũng thấy Ngài mang cái túi ấy như cũ. Ông nổi giận đốt cháy rụi luôn đến ba lần, cũng vẫn thấy Ngài còn mang còn mang cái túi vải đó.

Từ đó về sau, ông Trấn Đình Trưởng lấy làm lạ, nên đem lòng khâm phục Ngài không dám khinh dễ nữa.

Khi Ngài nhập diệt, thì ông Trấn Đình Trưởng lo mua quan quách mà tẩn liệm thi hài, là cố ý chuộc tội lỗi của ông ngày trước. Nhưng đến chừng đi chôn, thì người khiêng rất đông, mà cứ cái quan tài lên không nổi.

Trong bọn ấy có một người họ Đồng, ngày thường tỏ lòng tôn kính Ngài một cách rất trọng hậu, nên thấy việc linh hiển như vậy, liền vội vã mua cái quan tài khác, rồi liệm thi hài của Ngài lại. Đến khi khiêng đi, thì số người cũng bấy nhiêu đó, mà khiêng nhẹ phơi phới như bông. Ai nấy thấy vậy cũng đều kinh sợ và cung kính.

Lúc đó các người trong quận thiết lập ra một hội rất lớn, xây tháp cho Ngài ở nơi núi Phong Sơn. Núi ấy toàn là đá lởm chởm, hòn cao, hòn thấp, trong mấy hang đá đều là chỗ di tích của Ngài còn lưu truyền lại, nào là chỗ để tích trượng, nào là chỗ để bình bát, v.v..

Những chỗ sâu, chỗ cạn, chỗ lớn, chỗ nhỏ, hình tượng giống như cái bình bát, đều có nước đầy hoài, dẫu cho Trời đại hạn đi nữa, thì cũng chẳng có lúc nào khô kiệt.

Thiệt là nhiều việc anh linh hiển hách vô cùng!



http://www.buddhismtoday.com/viet/botat ... tDilac.htm


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

Re: ĐỨC PHẬT CỦA MÙA XUÂN - TƯƠNG LAI - HỘI LONG HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

SỰ TÍCH ĐỨC DI LẶC BỒ TÁT
(ĐỜI KHÁC)
Hồi đời Lục Triều, Đức Di Lặc lại ứng tích làm phó Đại sĩ ở tại Chùa Song Lâm một thời kỳ nữa.

Khi Ngài ra mắt Lương Võ Đế, vua liền hỏi Ngài rằng: “Xin Đại sĩ cắt nghĩa cho quả nhơn nghe làm sao kêu là : Đạo?”

Ngài liền bạch rằng: “Tâm thiệt là Đạo”, tôi xin chứng nghiệm như vầy, thì bệ hạ đủ hiểu.

Khi bệ hạ chưa lên ngự tại điện này, trong tâm lúc ban đầu chưa khởi niệm, bổn trí vẫn tự nhiên mà được diệu tịnh quang huy, sáng suốt hiện buổi nay, rực rỡ đến thuở trước, và đầy lấp tất cả cõi Thái hư, cái tịnh quang ấy muôn đời không sanh, vĩnh kiếp không diệt, chẳng phải Thánh mà cũng chẳng phải Phàm, không thúc phược mà cũng không giải thoát.

Đó là tâm thể rất mầu nhiệm và rất vắng lặng. Ngoài cái tâm không có đạo gì riêng khác, và ngoài đạo cũng không có tâm nào phân biệt nữa, vì thế cho nên mới gọi: “tâm là đạo”.

Vua Võ Đế lại hỏi nữa rằng: “Vậy chớ Đại sĩ có tôn ai làm Thầy hay không?”

Ngài bạch rằng: “Thầy thì không có ai là Thầy của bần đạo, còn tôn thì bần đạo cũng không có tôn ai, đến việc tùng sự, thì cũng không có tùng sự với người nào cả”.

Vua Võ Đế nghe Ngài nói như vậy, thì biết là một vị Bồ Tát lâm phàm, nên càng tôn trọng Ngài một cách rất đặc biệt.

Đoạn Ngài lại thưa với Vua rằng: “Bệ hạ ngày nay mà đặng hưởng điều tôn vinh như vầy, nguyên nhân cũng là một vị Bồ Tát hạ trần mà cứu thế.

Vậy xin Bệ hạ phải mở thông ý địa, nên tự lượng nơi mình, tâm để cho thanh tịnh, đừng trước nhiễm vật gì, lấy đó làm căn bản, cần nhứt phải dùng chỗ hư linh làm cơ sở, lấy sự vô tướng làm nguyên nhơn, nguyện vọng chí thành cầu cho đạt tới chỗ Niết bàn mà làm cực quả.

Nếu bệ hạ thi thố những phương pháp trị quốc, thì phải dùng chánh pháp mà sửa trị trong thế gian, và thi hành những điều nhơn đức, đặng làm cho lê dân cảm hóa.

Trong triều thì trọng dụng những người hiền tài mà trừ khử mấy kẻ cưu lòng gian nịnh, còn ngoài thì thi nhơn chánh đến kẻ quan quả, cô độc, bỏ những hình phạt trừng trị nặng nề, và ban chánh lịnh cho có nghiêm minh trật tự. Nếu Bệ hạ trị vì trong thiên hạ, thi nhơn bố đức được như thế, thì kẻ xa người gần đều gội nhuần ơn đức vô cùng vô tận. Chừng đó việc can qua phải dứt, mà trong đội ngũ lại ninh bình, thì ngôi trời được hùng tráng mà an hưởng cuộc thái bình. Nếu chánh sách thi thố được công hiệu như thế, thì Bệ hạ thiên cơ đã thần diệu, lại còn nối ngôi quốc tổ được lâu dài nữa. Đó là bần đạo hi vọng sao cho Bệ hạ được như vậy”.

Có một ngày kia, ông Lưu Trung Thừa ngồi tại chỗ trạm dịch với Ngài, thoạt thấy có Thánh giá vừa đến, liền lật đật đứng dậy làm lễ, còn Ngài ngồi yên lặng một chỗ.

Khi Thánh giá qua khỏi rồi, ông Lưu Trung Thừa bèn hỏi Ngài rằng: “Theo ý tôi tưởng, Ngài chẳng chịu làm tôi với Thiên tử, không muốn làm bạn với Chư hầu, cớ sao mà lại ngã mạn như vậy, xin Ngài nói cho tôi rõ”.

Ngài liền đáp rằng: “Để bần đạo giải cho ông rõ. Phàm việc kỉnh mà biểu lộ ra hình tướng, thì không có tánh kỉnh, còn bề ngoài chẳng cử động sự kỉnh về lễ nghe tham bái, thì thiệt trong tâm có ẩn điều kỉnh vô giá. Bần đạo thấy Thánh giá mà động thân, thì pháp địa tự nhiên cũng rúng động. Hễ pháp địa rúng động, thì tất cả các pháp cũng chẳng an nhẫn, nếu các pháp chẳng an nhẫn, tức là không có kỉnh, nên bần đạo vẫn ngồi tự nhiên là vậy đó”.

Ông Lưu Trung Thừa nghe Ngài nói như thế, thì rất kỉnh phục.

Vua Lương Võ Đế biết Ngài là một vị Bồ Tát tái lai, nên thiết lập một chỗ pháp hội rất nghiêm trang, rồi thỉnh Ngài lên diễn kinh cho bá tánh nghe.

Khi trần thiết xong rồi, Ngài lên ngồi trên pháp tòa, lẳng lặng làm thinh được giây phút, chớ không nói một lời chi cả.

Trong đám người đến nghe kinh đó, có một vị Thái tử thấy vậy mới hỏi Ngài rằng: “Thưa Ngài! Đáng lẻ chỗ Chư Thiên nhơn cưu hội đây, Ngài phải giảng giải cho mọi người rõ thấu lẽ chơn chánh của Phật, đặng nhờ đó mà tu học mới phải, cớ sao Ngài làm thinh mà không biện luận nghĩa lý chi, lại vội xuống pháp tọa như vậy ?”

Ngài liền trả lời rằng: “Phàm việc gì nói hay là nín, đều thuộc về Phật sự cả. Như thế có phải làm đúng theo Phật lý hay không? Vậy mà ông còn buộc tôi nói năng làm chi nữa”.

Thái tử nghe mấy lời bèn làm thinh, trong lòng càng khâm phục Ngài vô cùng.

Cách ít lâu, Ngài ra mắt vua, rồi quì xuống mà tâu rằng: “Muôn tâu bệ hạ! Bần đạo có như ý bửu châu và thanh tịnh giải thoát, chiếu diệu rõ rệt đến mười phương. Nếu Bệ hạ chịu thọ lãnh mấy vật ấy, thì có ngày sẽ chứng đến quả Bồ đề. Vả lại các pháp chẳng phải có, mà cũng chẳng phải không, phàm vật gì thuộc về hữu tình đồng quy nơi thiệt tế . Các việc trong thế gian đều là bức tranh huyễn hóa, rốt cuộc rồi hoàn về chỗ không, cũng ví như trăm sông tuy phân ra muôn dòng ngàn mạch, nhưng tóm lại cũng chảy về biển.

Pháp Thế gian và pháp Xuất thế gian cũng chẳng qua là lý chơn như. Vì lý chơn như thiệt không có sanh và không có diệt, nên không có Niết bàn, tam thế cũng bình đẳng, mười phương đều thanh tịnh. Nếu lấy phần thanh tịnh bình đẳng ấy làm sự nhiêu ích cho các giống hữu tình, thì được đồng lên bờ giác ngạn.

Nếu chỗ sắp đặt phương pháp đặng như thế, thì cuộc trị bình trong thiên hạ sẽ hóa ra cảnh giới trang nghiêm. Đó là Bệ hạ dùng diệu pháp mà tế độ nơi đời, được như vậy thì các khác nào như một vị Từ Bi Vương tái thế”.

Vua Lương Võ Đế nghe mấy lời của Ngài biện giải, càng thêm tôn sùng kính trọng hơn nữa.

Khi Ngài ở tại Chùa Song Lâm, thấy Kinh tạng chứa đầy, Ngài biểu mấy đạo chúng đem từ cuốn mà tả ra. Bổn ý của Ngài muốn khiến cho kẻ sơ địa phàm phu nhờ công đức chuyển kinh đó mà đạt tới nơi chánh chơn của Phật.

Bởi vậy trong thiên hạ, duy có chỗ Song Lâm, thì Thiên Long thường ủng hộ, nên kinh tạng được toàn bổn mà lưu truyền đời sau.

Thoạt một ngày kia, có một làn định quang kim túc của Đức Thích Ca, mùi thơm bát ngát, từ phương đông bay đến mà nhóm nơi mình của Ngài.

Bỗng nhiên có tiếng xướng rằng: “Phó Đại Sĩ xuất hiện ra đây, là thay thế cho Đức Thích Ca mà thuyết pháp, ngồi trên chỗ Long Hoa thắng hội mà chỉ rõ cái bổn nguyện từ mẫn của Đức Văn Thù và xiển dương huệ tập phổ thế của Đức Quan Âm”.

Rõ ràng Ngài cũng như bực y vương, đại thí những lương phương diệu tể mà điều trị tất cả bịnh vô minh phiền não. Thiệt là Ngài có công phu rất lớn và nhiều phương pháp khởi tử siêu sanh.

Có một bửa kia, khí trời nóng nực, Ngài ra ngoài gành biển mà hóng mát, dòm thấy dưới mé có một vùng quanh co theo bờ, và dân cư tại đó chỉ làm được ruộng muối mà thôi. Hễ đến thời tiết mùa thu, thì nước biển tràn lên linh láng, không thế nào mà ngăn cản cho đặng.

Ngài thấy vậy, liền nói với những người bổn xứ rằng: “Bần đạo muốn làm sao cho chỗ này thành ra ruộng tốt, để cho bá tánh cày cấy đặng nhờ đó mà an cư lạc nghiệp”.

Dân chúng nghe mấy lời ấy, đều cười rộ lên mà nói rằng: ” Ông này thiệt điên cuồng! Thuở nay thiền biển mà ai làm thành ruộng cho đặng bao giờ ?”

Ngài thấy dân chúng không đem lòng tin, liền lấy bao đựng cát đem chất xây giáp vòng như vách lũy mà bao ngạn luôn bãi cát ấy.

Lạ thay! Trọn một vùng bờ đê của Ngài làm đó, cách ít lâu cứng cũng như đá vậy, ngăn được ngọn nước thủy triều ngoài biển, không thế nào chảy vô được nữa, nhưng hồi Ngài làm đó có chia ra ba chặng, để ngừa khi Trời hạn và nước lụt.

Đến sau, nội trong khu đất ấy đều thành ra ruộng cả, ước chừng hơn hai ngàn mẫu, thường năm cày cấy đặng mùa luôn luôn. Dân cư trong xứ mỗi năm gặt lúa rồi, trích ra một phần ba để cung cấp cho tăng đồ trong các Chùa lân cận, mua chim cá mà phóng sanh, và làm nhiều việc phước thiện khác nữa.

Hiện nay mấy cái bờ bằng cát của Ngài làm đó hằng bền chắc, không có hư rã chút nào.

Thiệt là linh cảm thay chỗ di tích của bực Đại Thánh ngày xưa! Cho nên dân cư ở dọc theo mé biển ấy đều được phong y túc thực luôn luôn, cùng nhau lập Chùa thờ Ngài và truy tặng ruộng ấy là “phước điền”.

Sau Ngài qua phía Nam núi Phong Sơn mà chỉ điểm những chỗ ẩn tích nơi thâm khê cùng cốc, rồi mấy nơi ấy lần lần trở nên phong cảnh rất thiên nhiên và nét xuân quang bốn mùa đều xuất sắc.

Bửa nọ, Ngài đi chơi tới xứ Bắc thượng, chợt thấy một người đương sửa soạn làm thịt loài súc.

Ngài lật đật chạy lại can rằng: “Bần đạo xin tỏ cho nhà ngươi nghe. Tất cả loài súc sanh, nguyên nhân cũng là người thế gian, chớ không phải khác đâu, vì tạo ác nghiệp rất nặng nề, nên nay phải chịu khổ quả như vậy. Thoảng như mình làm điều phước thiện mà một đời chẳng được giàu sang, thì cũng còn có ngày trông giải thoát, chớ tạo nghiệp sát sanh như vậy, thì ngày sau khó tránh khỏi luân hồi khổ thú.

Bần đạo nguyện sao nhà ngươi hồi tâm tự lượng, đem tấm lòng nhân từ mà dung thứ những loài động vật, vì nó cũng đủ cả Phật tánh và cũng biết ham sống sợ chết như ta vậy.

Những người có nhơn hằng lấy con mắt Từ mà quán xét, xem vạn vật với ta đồng một thể, và muôn tượng với ta đồng một gốc. Nếu tấm lòng nhơn ái được như thế, thì chẳng những trọn đức từ bi lợi vật một thuở mà thôi, lại nhiều kiếp được trường thọ là khác nữa”.

Người ấy nghe Ngài phân giải như vậy, liền tỏ ngộ và chung thân không dám sát sanh loài động vật nữa.

Lại có một khi, Ngài đương đi ngoài đường, tình cờ gặp một người nông phu vừa cột một con trâu, đặng tính bề làm thịt.

Ngài đi hối hả lại can rằng: “Phàm ở đời, có nhơn thì có quả, không có sai chạy mảy nào, đó là lẻ cố nhiên như vậy. Hễ giết loài vật, thì có ngày chúng nó cũng giết lại, vậy mà trong đời có ai biết sợ sệt đâu, non dao rừng kiếm với vạc dầu ở chốn âm ty, để trừng trị những người tạo ác nghiệp như ngươi vậy, thì đời kiếp nào mà trông phần giải thoát cho đặng”.

Người nông phu nghe Ngài nói như thế, liền cúi đầu đãnh lễ và nguyện trọn đời không dám tái phạm nữa.

Ngài thường đi chơi ngoài đồng, bữa nọ lại gặp một ông Sa di hỏi Ngài rằng: “Thưa Đại Sĩ! Làm thế nào mà hàng phục được vọng tâm của mình ?”

Ngài nghe hỏi, liền trả lời rằng: “Tâm là vật gì đâu mà ông phải tìm cho uổng công phu. Vả lại vọng tâm thiệt không có căn bản, hễ buông nó ra thì không thấy dấu tích gì là vọng. Bởi bị các duyên đeo đuổi lăng xăng, nên mới thành ra vọng niệm như vậy. Nếu nhứt chơn của ta đặng yên tịnh rồi, thì toàn thể như như phóng ra khắp cả pháp giới và bốn thể vẫn tự nhiên mà rõ rệt. Chừng đó, dẫu cho bụi trần cấu cũng không có thế nào mà che lấp cho đặng, thì có vật chi đâu mà ngươi gọi rằng điều phục”.

Ông Sa di nghe Ngài biện bạch như thế, vùng tỏ ngộ và tôn kính vô cùng, rồi đãnh lễ mà từ giã.

Cách ít lâu Ngài đi chơi, chợt thấy một ông Sa môn còn nhiễm theo tục trần, cứ khu trục trong trường mộng ảo.

Ngài bèn đón lại mà chỉ dụ rằng: “Bần đạo coi ông vốn thiệt là Phật. Lẽ nào ông nên tự độ lấy mình, đặng mong có ngày chứng đặng quả vô sanh pháp nhẫn, cớ sao ông lại còn yễm trợ theo thói phàm tình, đành che lấp bổn lai diện mục như vậy?

Bây giờ ông phải bỏ các duyên cấu trược, mà giũ sạch những thói tà phong, ráng sức công phu mà suy tìm trong tâm thể vô sanh, thì có ngày sẽ đạt tới chỗ diệu minh chơn tánh. Nếu ông hồi quang phản chiếu cho toàn thủy toàn chung rồi, sẽ đặng vô ngại viên thông.

Bần đạo ao ước làm sao cho ông được như thế, thì có khác nào một vị La Hán xuất trần, nếu chẳng vậy thì cũng làm một vị Khuất sát trượng phu. Chớ cách hành động như ông đó, thì đã không có ích cho mình, mà lại uổng công xuất thế học đạo vô vi, đến chung quy cũng còn lăn lộn trong đường Lục đạo, biết chừng nào mà thoát ra khỏi đặng vòng sanh tử. Như vậy có khổ hay không ?”

Ông Sa môn nhờ Ngài điểm hóa, nên liền tỏ ngộ lý chơn thừa. Từ đó về sau, ông càng lo tu học, không còn nhiễm nữa.

Thiệt cách phô tế của Ngài không khác nào một ông lương y, đã điều trị không biết bao nhiêu là chứng trầm kha phế tật, rõ ràng một hột minh châu có thể chỉ sắt hóa nên vàng, một lời pháp ngữ có thể đổi người phàm trở nên bực Thánh.

Bởi vậy cho nên Ngài thường dùng những phương pháp thiền định rất giản dị mà độ thoát tất cả chúng sanh qua khỏi sông mê bể khổ, dẫn dụ người đời ra khỏi nhà lửa đường mờ.

Ngài lại chẳng nên sự cấu nhục của thế tình, cứ xen lẫn trong chốn trần lao, mà thi hành những sự lợi ích cho hạng người còn sống say thác ngủ. Vì vậy cho nên trong tám phương hồ hải, chỗ nào cũng là chỗ viên giác đạo tràng của Ngài thế thác cả.

Còn đối với thập loại chúng sanh, thì Ngài càng đem lòng quyến luyến như con một cha, như người một nhà, không phân biệt nhơn ngã, và không biện luận Bắc Nam, vì tất cả chúng sanh thảy đều đủ chơn như diệu tánh như Ngài vậy, nhưng vì bị màn vô minh che lấp, nên phải trì trục trong vòng khổ hải sầu thành đó thôi!

Ngài thường đối với quần chúng mà nói rằng: “Muôn tượng chỉ bao la, song một mảy trần chẳng lập, nhứt chơn trong pháp giới, trăm hạnh đều phân vân. Tuy vậy chớ không lọt ra ngoài vòng như như chí lý, cho nên động tịnh đều là pháp tham thiền, nếu một niệm mà được khế chơn, thì sẽ có ngày mau lên bờ bỉ ngạn.

Đó là lời pháp ngữ của Ngài phát ra những lý mầu nhiệm của thiền gia, để bủa khắp chốn mê đồ, đặng mở rộng những nghĩa huyền tôn trong tâm địa, trước là thâu thập những người có lợi căn, sau là thức tỉnh số người còn độn trí. Thiệt công phu của Ngài đến vô lượng vô biên, lòng phổ tế trong đời cũng vô cùng vô tận.

Đến đời Lương, nhằm khoảng vua Quân Vương trị vì, niên hiệu Trinh Minh, năm thứ hai, ngày mùng ba tháng ba, Ngài đối trước chúng nhơn mà nói rằng: “Qua năm tới đây, cũng ngày này và tháng này, thì ta đem trái “Di Lặc” mà cúng dường cho đại chúng”.

Quả nhiên qua năm sau, cũng trong ngày ấy và tháng ấy, đại chúng thấy Ngài ngồi kiết già trên bàn thạch, gần bên Chùa Song Lâm mà nhập diệt. Ai nấy thảy đều kinh dị và than thở vô cùng.

Trong đại chúng mới hiệp lực cùng nhau kết khám mà để thi hài của Ngài, rồi làm một tòa bửu tháp rất tôn trọng, ngoài ngạch bia có khắc hiệu là: Định Ứng Tháp.

Hiện nay tại chỗ bửu tháp ấy, tuy trãi mấy phen tang thương biến đổi, mà công trình vẫn còn đồ sộ như xưa, thánh tích nguy nga, xa trông vọi vọi, bốn mùa người đàn Việt tới lui chẳng ngớt, một phương trời chuông trống rất oai nghiêm.

Đức Di Lặc tuy chưa đến thời kỳ xuất thế, nhưng tấm lòng từ bi vô hạn đối với tất cả quần sanh, đôi phen tùy theo cơ duyên thục thác mà ứng tích nơi đời, đặng nêu bày lẽ chánh tôn định huệ, cố ý nhiếp trì những hạng người đương chìm đắm nơi sông ái hà, và ra công phổ độ những kẻ bị chới với giữa dòng khổ hải.

Thiệt công đức của Ngài không có bút mực nào mà mô tả ra cho hết đặng.

Từ ấy chí nhẫn nay, có trên ngàn năm mà phước điền của Ngài còn lưu trụ các điện Đại hùng, thiện quả vẫn còn bủa khắp nơi trong thế giới.

Chẳng những mười phương đảnh lễ tôn sùng Ngài mà thôi, cho đến sáu chữ “Nam Mô Di Lặc Tôn Phật” thì người thường một lòng trì niệm, chẳng có chút nào biến đổi cả.

Nói tóm lại, Đức Di Lặc còn nhiều số kiếp nữa mới xuất hiện ra đời, để nối ngôi cho Đức Thích Ca mà làm một vị Phật thứ năm trong Hiền kiếp, đặng đại chuyển pháp luân mà tế độ muôn loài và phổ lợi trong sa giới.

Nhưng ngặt vì chúng sanh chưa rõ lẽ thiện chơn, cứ vọng tưởng những việc huyễn hoặc, mà đành chịu sa chìm vào nơi khổ hải và tự mình chuốc lấy nẻo luân hồi.

Chớ Chư Phật tuy đã nhập diệt rồi, song Tam Bảo còn lưu trụ khắp cõi nhơn gian, nếu ai hết lòng tinh tấn vui theo mà thọ trì, thì cũng như Phật đương trụ thế vậy.

Tiếc thay! Người đời trí cạn chướng sâu và tội nhiều phước ít, cho nên đối diện ngôi Tam Bảo coi như cách xa ngàn dặm.

Vì nguyên nhân của chúng sanh như thế, nên bất đắc dĩ Ngài mới ứng tích nhiều thời kỳ, đặng hóa độ các kẻ phàm loại trong nhơn gian đó thôi


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
binh
Điều Hành Viên
Bài viết: 8304
Ngày: 21/11/07 20:32
Giới tính: Nam

Re: ĐỨC PHẬT CỦA MÙA XUÂN - TƯƠNG LAI - HỘI LONG HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi binh »

Những bài viết này rất hay ! Thật là tài liệu quí giá.
tangbong tangbong tangbong kinhle tangbong tangbong tangbong


Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục chiến đấu.
Tổ Ngẫu Ích đã nói :“Được vãng sanh hay chăng toàn là do có Tín - Nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời phán định chắc như sắt này. Hễ Tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông phải có phần
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

ĐỨ PHẬT CỦA MÙA XUÂN - TƯƠNG LAI - HỘI LONG HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT DI LẶC


THÂN THẾ VÀ Ý NGHĨA TÊN NGÀI

Ngài người dòng Bà-la-môn ở Nam-Thiên-Trúc; thân sinh tên là Ba-bà-Lợi, họ A-Dật-Ða, tên là Di-Lặc. A-Dật-Ða nghĩa là Vô năng thắng, hạnh tu và lòng Từ Bi của Ngài không ai sánh kịp, Di-Lặc dịch là Từ thị, nghĩa là có lòng Từ rộng lớn. Sở dĩ gọi là Từ thị là vì khi mẹ Ngài chưa thọ thai thì từ tâm rất kém, khi thọ thai Ngài thì phát tâm từ bi. Lại trong một kiếp trước, Ngài làm vị tiên tên là Nhất Thế Trí Quang, nhờ Ðức Phật dạy pháp tu Từ tâm tam muội, Ngài tu pháp ấy đến khi thành Phật, nên gọi Ngài là Từ thị.
Ðức Phật Di Lặc...

II. TIỀN THÂN CỦA NGÀI

Trong một tiền kiếp đời Ðức Phật Ðại Thông Trí Thắng, Ngài cùng Ðức Phật Thích Ca đồng thời phát Bồ Ðề Tâm tu các pháp lành. Ðến đời Ðức Phật Nhựt Nguyệt Ðăng. Ngài cũng xuất gia tu hành, nhưng Ngài có lòng từ bi, lại thiếu hạnh tinh tấn, nên khi Ðức Phật Thích Ca thành Phật, Ngài mới lên vị Bồ Tát bổ xứ, nghĩa là sẽ thành Phật trong một đời sau. Ngài được Ðức Phật Thích Ca thọ ký sẽ thành Phật Di Lặc sau này tại hội Long Hoa.

III. HạNH TU, HạNH NGUYệN CỦA NGÀI
Hạnh tu - Ngài nhờ Ðức Phật Nhật Nguyệt Ðăng dạy tu pháp tu Duy Thức mà ngộ nhập được viên thông. Chúng sanh đều chấp trước các pháp, các danh tướng của thế gian là thực có (kiến kế), nên bị danh tướng ràng buộc. Sự thật các pháp đều y nơi nhơn duyên giả hợp mà in tuồng có sanh, có diệt (y tha). Chung quy các pháp không ra ngoài một chơn tánh viên mãn thành tự (viên thành thật).
Hạnh nguyện - Hiện nay Ngài ở trên cõi Ðâu Suất nội viện, độ thoát cho vô số chúng sanh. Ngài thường ngồi trên pháp tọa sư tử, thân thể trang nghiêm, trí hạnh đầy đủ. Do lòng từ bi và hạnh nguyện rộng lớn của Ngài, nên những ai sanh lên cõi Ðâu Suất nội viện thì không còn thối đọa; vì tất cả những hiện tượng trên thế giới ấy đều là tiếng thuyết pháp khuyến tu, nhứt là được sự hộ trợ của Ngài. Ðến khi nhơn loại sống lâu trên tám vạn tuổi, Ngài mới hiện sanh và thành Phật dưới cây Long Hoa.
IV. MỘT HÓA THÂN CỦA NGÀI

Một thời kia, sau khi Ðúc Phật Thích Ca nhập diệt, Ngài hiện thân làm một vị Hòa thượng tại đất Minh Châu huyện Phụng Hóa tên là Khê Thử. Mình Ngài rất to lớn, tánh tình hoan hỷ nói năng khác thường, ngủ nghỉ không chọn sang hèn. Ngài thường quảy đãy vải đi khất thực, đem về nuôi trẻ con, và thường làm những việc rất ly kỳ, mắt phàm không thể hiểu được. Người đời thường gọi là Bố Ðại Hòa Thượng (Vị Hòa Thượng mang đãy vải). Trước khi thị tịch, Ngài có di chúc bài kệ:
"Di Lặc thiệt là ta.
Phân thân như bằng sa
Thường hiện làm thường dân,
Mắt phàm không thấy ta."

Hiện nay, người ta thờ Ngài tại Chùa Nhạc Lâm ở Trung Hoa.

V. BIỂU TƯỚNG VÀ LÒNG QUI NGƯỠNG CỦA PHẬT TỬ

Hiện nay các chùa thờ tượng: Ðức Phật Thích Ca là Ðức Phật hiện tại, ngồi ở giữa; A-Di-Ðà là Ðức Phật quá khứ ngồi bên tả Ðức Thích Ca, Ðức Di Lặc là Ðức Phật vị lai, ngồi bên hữu Ðức Thích Ca. Tượng Ngài Di Lặc cũng giống như các Ðức Phật khác. Có chỗ tạc hình Ngài thân thể to lớn, mặt mày vui vẻ hoan hỉ vô cùng, để thị hiện từ tâm hoan hỷ của Ngài. Lại có sáu đứa con nít leo trên mình chọc Ngài. Ngài vẫn hoan hỷ tự tại, vui vẻ như thường. Sáu đứa con nít là biểu hiệu cho sáu thức luôn luôn quấy rầy phá rối Ngài. Nhưng Ngài đã tu phép quán Duy thức, cho nên dầu bị quấy rầy Ngài cũng như không, tự tại vui vẻ như thường. Tượng này là phỏng theo sự tích Ngài Bố Ðại Hòa Thượng.

Ðức Phật Di Lặc là vị Bồ Tát bổ xứ, sẽ thành Phật trong một kiếp sau. Ngài tượng trưng cho lòng từ, hoan hỷ, cho vui, nên Phật tử luôn luôn tôn thờ.

Niệm hiệu Ngài tức là:

Niệm hạnh hoan hỷ, luôn luôn vui vẻ tự tại không bị hoàn cảnh xung quanh chi phối.
Cầu mong Ngài trở về hóa độ và hộ trì cho lòng thành kính của mình.
Kết duyên với Ngài mong sau này dự vào hội Long Hoa được Ngài giáo hóa.

http://thienphuong.forumotion.net/t64-topic


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

Re: ĐỨC PHẬT CỦA MÙA XUÂN - TƯƠNG LAI - HỘI LONG HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

Nụ Cười của Phật Di Lặc
HT.Thích Hiển Pháp
Hằng năm,khi các loạt pháo hồng liên hồi nổ, người con Phật bắt đầu lên chùa lễ Phật đầu năm. Giờ phút ấy, trước Điện Phật khói nhang nghi ngút nhưng chúng ta không thể không bắt gặp tượng Đức Phật Di Lặc với nụ cười tươi thắm trên môi. Chúng ta cũng được biết ngày mồng một Tết là ngày Vía của Ngài. Có ý nghĩaa gì về nụ cười và ngày Vía của Phật Di Lặc trong ngày Tết dân tộc?

Đức Di Lặc được thờ qua ba hình tượng:

- Tượng Ngài ngồi một mình, áo hở ngực, bụng phệ.

- Tượng Ngài ngồi như trên nhưng chung quanh Ngài có 6 em bé - tượng trưng cho Lục tặc.

- Tượng Ngài đứng, tay vác bị lớn, tượng này được gọi là Bố Đại Hòa Thượng (hoá thân của Ngài ở Trung Hoa).

Di Lặc, tiếng Phạn là Maitrya, theo nghĩa dịch là Từ Thị. Di Lặc là họ, còn chính tên là A Dật Đa (Aadjita), dịch là Vô Năng Thắng. Ngài thuộc dòng dõi Bà La Môn, Nam Thiên Trúc (Ấn Độ).Theo kinh Di Lặc thì Đức Phật Thích Ca thọ ký Ngài là vị Phật tương lai ở cõi Sa Bà này và hội của Ngài là Hội Long Hoa. Cho nên khi lễ Ngài chúng ta thường xưng "Nam Mô Long Hoa Giáo Chủ Di Lặc Tôn Phật" hay " Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật".

Ngày đầu một năm thật quan trọng. Tất cả mọi việc làm, cử chỉ phải thật nhẹ nhàng, thận trọng. Từng lời ăn, tiếng nói phải vui vẻ, hòa nhã. Tập quán đó để nói lên lòng ao ước một năm an vui, cát tường. Trong bối cảnh của ngày Xuân như thế, Đức Phật Di Lặc đến với chúng ta với nụ cười vui tươi thì thật đầy ý nghĩa.

Trước hết, nụ cười của Ngài là bài học quý báu về đức hỷ, xả trong đạo Phật. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc. Có hạnh phúc thì cuộc sống mới có ý nghĩa và thật đáng sống.

Hỷ tức là vui theo việc làm tốt của người, danh từ Phật học gọi là "Tùy hỷ công đức". Thông thường chúng ta hay có chứng bệnh "trầm kha": Thấy ai hơn mình, như đẹp hơn, giàu hơn, học giỏi hơn..., thì sinh tâm đố kỵ, ghen ghét, không vui. Chính chứng bệnh này đã làm cho nụ cười đầu Xuân héo đi và thay vào đó khuôn mặt ủ rũ chiều thu. Muốn chữa căn bệnh đó chúng ta phải luôn luôn tâm niệm: Thí dụ trong xóm có một người bạn học giỏi hơn thì ta mong có thêm hai, ba, bốn,... bạn học giỏi hơn ta. Như thế thì trình độ dân trí sẽ cao và cuộc sống cũng theo đó mà phát triển. Nếu ngược lại, nghĩa là chúng ta không vui theo, thì chúng ta không những tự hành hạ chúng ta, tự cô lập chúng ta mà vô hình trung chúng ta đã ngăn chận bước tiến của nhân loại. Một lỗi lầm thật to lớn. Nếu hiểu được như thế thì nụ cười tự nhiên vui tươi nở trên môi bạn và đó là mùa Xuân rồi đó. Không cần phải gỡ hết 365 tờ lịch mới là ngày Xuân.

Xả tức là bỏ, bỏ tất cả những điều phiền muộn do người tạo ra cho ta. Nếu chúng ta không xả được những điều phiền muộn ấy thì cũng như chúng ta không tiêu hóa được cặn bã của thực phẩm trong cơ thể. Do đó chúng ta chỉ cứ than thân trách phận. Suy cho cùng, sở dĩ chúng ta ôm ấp những điều phiền não đó là vì chúng ta từ vô thủy kiếp đến nay cứ chấp có cái TA đáng yêu, cái TA chân thật, thường tồn cho nên nếu ai đụng đến, nói xấu...,thì chúng ta sinh ra buồn rồi ôm mối hận. Hình ảnh Đức Di Lặc với 6 em bé (Lục tặc) cho thấy rằng: Muốn chiến thắng ngoại cảnh, nhứt là nghịch cảnh, chúng ta phải thực hành pháp quán "Chư pháp vô ngã". Khi quán được các pháp đều vô ngã thì ta thấy không có ai gây ra hành động và cũng không có ai thọ lãnh hành động đó cả, cả bản thân của hành động đó cũng chỉ là hư ảo. Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy:" Người kia lăng mạ tôi, đánh đập tôi, phá hoại tôi và cướp đoạt của tôi. Ai còn ôm ấp tâm niệm ấy thì sự oán giận không thể nào dứt hết". Oán giận không dứt hết thì ngay đến cành mai tronh ngày Xuân cũng úa tàn chứ đừng nói gì đến nụ cười trên môi.

Chính nhờ nụ cười hỷ xả này mà người phương Tây đã tặng Đức Di Lặc (qua hình ảnh Bố Đại Hòa Thượng) một từ ngữ khiêm tốn, giản dị:" Người Trung Hoa hạnh phúc". Không phải cuộc sống trong đạo, mà ngay ngoài đời, nụ cười giữ một vị trí rất quan trọng, nên ông Fletcher đã nói:" Nụ cười bồi dưỡng kẻ mệt nhọc, là hình ảnh bình minh cho kẻ ngã lòng, là nắng Xuân cho kẻ buồn rầu, và là thuốc mầu nhiệm nhất của tạo hóa để chữa lo âu".

Ngày mồng một Tết là ngày mà chúng ta hoạch định chương trình cho một năm tới. Lễ Vía Phật Di Lặc trùng với ngày đầu tiên của một chương trình sống 365 ngày là để nhắc nhở chúng ta phải thực hành đức hỷ xả để hướng đến một đời sống an vui, hạnh phúc. Tương lai, chắc chắn chúng ta sẽ được gặp Phật Di Lặc trong Hội Long Hoa. Đó cũng là mùa Xuân mà Đức Phật đã tặng chúng ta trong ngày Xuân, ngày Xuân của bất sanh, bất diệt:

"Mạc vị Xuân tàn, hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai"
(Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một nhành mai).
(Mãn Giác Thiền sư)

http://www.buddhismtoday.com/viet/xuan/008-conson.htm


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

ĐỨC PHẬT CỦA MÙA XUÂN - TƯƠNG LAI - HỘI LONG HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

Cương lĩnh Di Lặc

Hoàng Nguyên Nhuận

Hai tiếng “Phật giáo” thường làm cho người ta tưởng ngay đến mái chùa cong, câu kinh hoàng hôn, tiếng chuông bình minh, chiếc áo nâu lam khiêm tốn quê mùa, hay chiếc y vàng rực rỡ trong nắng chói chang...

Hai tiếng “Phật giáo” thường làm cho người ta tưởng ngay đến Niết Bàn Giải Thoát Tịnh Độ Diệt Dục xa lánh hồng trần...

Hai tiếng “Phật giáo” cũng thường là cho người ta tưởng ngay đến những vụ tự thiêu tán đởm kinh hồn, những vụ xuống đường bất bạo động mà bão táp, những đối kháng trường kỳ của những kẻ trước đấu tranh thì chỉ “dưa cá tương muối”, đấu tranh xong dù thành công lại cũng vẫn “tương muối dưa cà...”

Và rồi có người đã tự hỏi cái lý tưởng thoát vòng luân hồi sinh tử để vào hư vô tịch diệt, cái hoài bảo thắng vạn hùng binh không bằng thắng chính mình đó liệu có thể là một lý tưởng, một hoài bảo làm căn bản cho một cương lĩnh đạo đức xã hội, một chủ trương thế trị tích cực không ?

Dĩ nhiên, có người đã trả lời rằng tư tưởng Phật giáo là vị ngã yếm thế thoái hóa, rằng không thể xây dựng đạo đức chính trị trên căn bản Phật pháp, rằng lý tưởng niết bàn không phải là nền tảng hoạt động thế trị, rằng từ bi chỉ là ảo tưởng.

Nhưng lý tưởng của Phật giáo là gì ? Là thực hiện giải thoát, là chứng niết bàn. Giải thoát là niết bàn, niết bàn là giải thoát.

Con đường giải thoát, đường “vào” niết bàn là Giới Định Huệ. Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ Huệ Năng có nói giới để giữ cho tâm “không quấy, không dữ, không ganh ghét, không tham lam, không hờn giận, không si mê ám hại.” Định giúp cho tâm “thấy cảnh tượng lành dữ mà không loạn động.” Huệ là trạng thái “tự làm không chuớng ngại, hằng lấy trí tuệ soi xét tự tánh, chẳng tạo các điều ác, mặc dầu tu các nghiệp thiện, nhưng tâm không chấp trước, tôn kính người trên, chiếu cố kẻ dưới, thương xót hạng cô đơn nghèo khổ.” Giới định huệ là tu, là tự giác.

Nhiệm vụ của người tu, nhất là hàng lãnh đạo thế tục, không phải chỉ là do chính mình có điều kiện thể nghiệm giới định huệ, nhưng là phải tạo điều kiện cho người chung quanh – từ trong gia đình thôn xóm rộng ra đến nước nhà, cũng có được điều kiện để tu, để thể nghiệm giới định huệ. Điều kiện đó trước tiên hẳn phải là cơm ăn áo mặc nhà ở và các phúc lợi căn bản tối thiểu.

Nỗi khổ tối thượng của đời người là sự sống. Sống không phải là một ân sủng, cũng không phải là một đọa đày trừng phạt. Sống là một chuyển hóa hữu duyên vô thường và cũng là nguyên nhân của mọi nỗi khổ. Mục đích tối thượng của đời người do đó là giải thoát, vượt khỏi vòng sanh tử. Và điều này tiên quyết chỉ có thể thực hiện bằng cá nhân, chứ không phải nhờ một thế lực ngoại tại nào như giai cấp quốc gia chính quyền. Phật giáo không thừa nhận một uy quyền chính trị tuyệt đối nào. Những điều này không thể tồn tại ngoài cá nhân. Chính quyền chỉ là để phục vụ xã hội, và xã hội xét cho cùng cũng chỉ tồn tại để phục vụ cá nhân. Nói thế khác, Phật giáo không chấp nhận bất cứ một sự độc tài nào dù đó là vua, là nhà nước, là chính quyền. Phật giáo không nhắc đến nhiều quan niệm quyền lợi của dân, nhưng kinh Phật lại không hiếm phần nhắc đến nhiệm vụ của chính quyền, của nhà vua đối với dân, mà nhiệm vụ cao nhất là tạo điều kiện cho tu chứng giải thoát.

Tu là con đường giải thoát, chùa là nẻo đi vào giải thoát. Nhưng ngay cả Nam Tông cũng không hề chủ trương mỗi người phải vào chùa và ở lại đó trọn kiếp. Chùa chỉ như một trường huấn luyện. Mọi người đều được khuyến khích vào chùa một thời gian rồi trở lại đời sống bình thường; ai muốn ở lại thì phải có sự chấp nhận của vị trụ trì, và lý do ở lại thường là chưa đủ bản lãnh để tự tu, để thực hành giới định huệ. Chùa do đó, không phải là ngõ để cho người ta chạy trốn xã hội.

Kẻ xuất gia sống nhờ bố thí, quyết tâm tột cùng của chủ trương “vô sản” này là chùa không được “nấu nướng.” Ai cho thì ăn, ăn không hết thì cho lại kẻ khác không được để dành. Sống nhờ bố thí là sống nhờ dân. Nhưng dân không đủ ăn thì lấy gì mà cho chùa. Chùa do đó phải tiếp tay vào việc làm cho dân được no đủ.

Nam Tông thường hướng về đường tiệm ngộ nên đặt nặng điều kiện tu chứng hơn, chùa và hàng xuất gia được xem trọng hơn.

Bắc Tông và Thiền Tông thiên về đốn ngộ, đặt nhẹ điều kiện kỹ thuật tu chứng, đề cao tự giác tự lực cho nên “thứ nhứt là tu tại gia, thứ nhì tại chợ, thứ ba tại chùa.” Đây không phải là cách hạ giá Sơn Môn nhưng là cách đề cao tự lực giải thoát, thể hiện nếp tu “bình dân” của Lục Tổ theo đó đốn củi gánh nước cũng có thể thành Phật.

Cái truyền thống ở lại trong lòng xã hội đó đã tạo nên những nhân vật lẫy lừng trong lịch sử Việt Nam như Từ Đạo Hạnh, Khuông Việt, Vạn Hạnh và dòng Trúc Lâm Yên Tử, các nhà sư trong phong trào Cần Vương Văn Thân, các nhà sư thời kháng Nhật, kháng Pháp mà âm hưởng vẫn còn vang vọng đến hôm nay.

Ngày trước, người Pháp, người Anh vẫn cho rằng lối tu của Phật giáo là ích kỷ tiêu cực. Phê phán đó không chỉ bắt nguồn từ sự ngộ nhận hay kỳ thị tín ngưỡng mà còn phát xuất từ chủ trương kinh tế nữa vì lý tưởng sống của Phật giáo không hợp với chủ trương tự do cạnh tranh bóc lột và chính sách kỹ nghệ hóa mà căn bản là làm giàu bất chấp kẻ khác và trên sự đau khổ của kẻ khác. Cũng vì vậy mà ở Ấn người Anh chỉ dựa vào lớp quý tộc, địa chủ Bà La Môn, dùng người Ấn để bóc lột Tích Lan, Miến Điện, chẳng khác gì người Pháp và Hoa Kỳ để cho một số Hoa kiều Chợ Lớn bóc lột Việt Nam. Những người theo Mác-Lê thì cho rằng Phật giáo phản tiến bộ phi sản xuất ăn bám cũng vì lý do chính trị kinh tế tương tự đó là một khi đã không cần và không cầu thì chẳng có gì để mất, và chẳng còn gì để sợ mất thì cũng chẳng còn gì mà phải thỏa hiệp với những điều sai quấy áp bức độc tài.

Truyền thống tự lực tự chủ của Phật giáo, truyền thống đối kháng những tập đoàn dựa trên quyền lực kinh tế chính trị tín ngưỡng và giáo điều để áp bức bóc lột cá nhân không chỉ phát xuất từ Phật pháp, mà từ ngay chính đức Phật.

Đức Phật là người đầu tiên chống lại hệ thống thần quyền và thế quyền của Bà La Môn. Bà La Môn đã giới hạn từ bi vào nhân giới, và biến từ bi thành một trò kịch cỡm trong lối phân chia đẳng cấp xã hội. Phật giải tỏa biên cương của từ bi gom trọn mọi loài mọi vật. Phật cũng phủ nhận độc quyền tế tự, nghĩa là độc quyền trung gian giữa người và thần thánh của các thầy tế. Và từ đó mở đường cho con người tự giải thoát không cần qua một trung gian thần quyền nào cả. Con người có quyền và có bổn phận tự thắp đuốc lên mà đi, tự cởi bẻ những gông cùm nô lệ tôn giáo từng được xây dựng trên những huyền thoại về thần linh và linh hồn bất tử. Bình đẳng của Phật giáo là tuyệt đối : bình đẳng trong khổ đau và bình quyền giải thoát. Quan niệm này mở đường cho một trật tự mới trong đó con người không còn lý do để cam chịu những áp bức kềm kẹp khủng bố nhân danh tôn giáo chính trị hay xã hội. Phật là người đã phục hồi giá trị tự thân của con người, không phải bằng rửa tội bằng ân thiên bằng phép lạ cũng không phải bằng gươm dao thánh chiến nhưng là bằng cách kêu gọi con người hãy quay nhìn vào chính mình để ý thức được giá trị cao cả đó nơi chính mình và cố gắng tự triển khai giá trị đó vì hạnh phúc giải thoát của chính mình.

Phải nhập diệt, nhường nhiệm vụ cách mạng đó cho những kẻ kế tục hoàn thành. Những kẻ kế tục đó trước tiên là hàng xuất gia, là sơn môn. Sơn Môn không phải là “giáo hội” kế chấp quyền lực của Phật hay đại diện cho Phật để giữ chìa khóa Niết Bàn và công khai quy định những phương thức giải thoát.

Sơn Môn là khởi điểm, là cái nhân của một cộng hòa tín ngưỡng của những kẻ đã tự nguyện từ bỏ tài sản, sự nghiệp trần gian, danh lợi phù hoa để kế thế sự nghiệp của Phật, phát triển lý tưởng từ bi, bình đẳng, hòa lợi vào xóm làng, vào quận tỉnh, vào quốc gia, và rộng khắp nhân loại.

Con đường đó là con đường “xã hội chủ nghĩa”, theo lối nói thời thượng. Cộng sản là người tự nhận đi theo đường đó. Phải, cộng sản chỉ đi theo, bởi Phật giáo đã có từ hơn hai mươi lăm thế kỷ qua. Nhưng con đường của cộng sản lại đòi hỏi con người phải đi qua mấy tầng địa ngục của giáo điều đảng trị và sắt máu. Cách mạng cộng sản thế kỷ này cũng chẳng khác gì các cuộc thánh chiến Hồi giáo, Thiên Chúa giáo bao thế kỷ trước. Con người không thể chống lại nghèo đói, chống lại thống trị bóc lột áp bức bằng cách chấp nhận thân phận nô lệ. Nô lệ giáo hội, nô lệ đồng minh, nô lệ biện chứng. Người kế tục con đường Phật giáo không thể đi lui, và phải lựa chọn : Hoặc Phật giáo hoặc cộng sản dù cho sự lựa chọn này rốt ráo là không lựa chọn gì cả.

Con đường Phật giáo không phải là con đường dẫn đến Hư Vô. Con đường Phật giáo dẫn đến một lý tưởng xã hội vĩnh cửu. Lý tưởng của xã hội Trung Hoa ngày xưa là Nghiêu Thuấn, của Thiên Chúa giáo là ngày Chúa hiện xuống, của Do Thái giáo là ngày đấng Tiên Tri ra đời, của Hồi giáo là ngày Mahomet tái thế, của cộng sản là ngày mà thiên đàng hạ giới hình thành. Lý tưởng xã hội của Phật giáo là ngày Phật Di Lặc tái hiện, ngày mà Từ Bi sẽ trở thành một thực thể phổ biến.

Truyền thống cách mạng Tây phương – kể cả cộng sản, hàm ẩn niềm tin rằng cách mạng có thể thực hiện một lần cho mãi mãi, thời gian sẽ ngưng đọng, lịch sử sẽ kết thúc, lành dữ thiện ác sẽ phân minh, và lành thiện sẽ chiến thắng dữ ác. Ngày thành công, do đó cũng là ngày thế mạt hay tận thế. Cũng vì hâm nóng bởi lòng tin tuyệt đối miên viễn như vậy cho nên cách mạng Tây phương đều có khuynh hướng bạo động vì chắc rằng cứu cánh rồi sẽ biện minh cho phương tiện.

Thời gian của Phật giáo, trái lại, là thời gian chu kỳ. Thời mạt pháp chỉ là khởi điểm của thời hiển pháp, và thời hiển pháp chỉ là khởi điểm của thời mạt pháp. Phật giáo không tin vào tận thế mà cũng chẳng chấp nhận sáng thế. Do đó mà người Phật tử không nôn nóng, không cực đoan, không quá khích bạo động. A Dục Vương ngày xưa đã không khởi mộng xây dựng một xã hội chuyển luân bằng chiến tranh sắt máu, nhưng ông đã dốc tâm xây dựng xã hội đó từ sự sám hối về những bạo động sắt máu ông lỡ lầm gây ra. Ông là biểu tượng trung thực của một đồ tể buông dao – chứ không phải xông vào con đường đồ tể, để mong thành Phật. Và ông cũng là một trong những người đã thực chứng rằng, con người – với lòng tự giác, với ý chí từ bi, với quyết tâm kiềm chế tham sân hận, có thể thực hiện được lý tưởng cách mạng xã hội của Phật giáo tuỳ thời gian hoàn cảnh và phương tiện đặc thù.

Ngày ngày người Phật tử vẫn hằng niệm Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật. Mấy ai nghĩ rằng bằng lối niệm ấy, mình quả thực đã vô tình tuyên thệ chấp hành cương lĩnh cách mạng xã hội mà Phật đã vạch ra từ hơn hai ngàn năm trăm năm nay : cương lĩnh thực hiện Muà Xuân Di Lặc.

http://chuyenluan.net/index.php?option= ... u&Itemid=4


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Hình đại diện của người dùng
phuoctuong
Điều Hành Viên
Bài viết: 723
Ngày: 14/11/07 12:06

ĐỨC PHẬT CỦA MÙA XUÂN - TƯƠNG LAI - HỘI LONG HOA

Bài viết chưa xem gửi bởi phuoctuong »

DI LẶC ĐỨC PHẬT SẮP ĐẾN
(Một bài hát Tây Tạng)
Nguyên tác: Maitreya - The Coming Buddha
Tác giả: Songs and Meditations of the Tibetan Dhyani Buddhas
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển -/ 21-01-2012




Ta là Di Lặc, Đức Phật của mặt trời
Ta chiếu soi với lòng từ ái bình đẳng đến tất cả
Ta được gọi là Đức Phật kế tiếp
không phải bởi vì ta sẽ biểu hiện trong hình sắc thân thể
Nhưng bởi vì ta sẽ đến với những ai tiến bộ trên những giai tầng của con đường tâm linh
và nói: " Hãy là những người thân hữu hạnh phúc, và hãy ban bố phước lành."
Ta được gọi là Đức Phật của tình thân hữu
Vì ta xem tất cả chúng sinh là bình đẳng
Và không chấp nhận hệ thống thứ bậc của các tổ chức.

Lòng từ ái của ta chiếu soi một cách bình đẳng trên khắp mọi người, mọi nhóm, mọi nền văn hóa, và mọi thế giới.
Ta kêu tất cả họ sống trong lòng từ ái và bi mẫn bao quát.
Ta vàng kim và trắng bạch, hòa hiệp và tràn đầy thịnh vượng .
Như một sự hòa âm, ta hợp nhất tất cả những chủ đề cạnh tranh trong vũ trụ.

Ta được thấy trong sự lạc quan, trong hy vọng, và trong niềm tin
Và trong những ai tìm cầu cho một ngày mai tốt đẹp hơn
Ta gia hộ cho những ai nản lòng, cô độc
Sợ hãi và buồn thảm
Ta cho họ ra khỏi các ngục tù trong những trái tim của họ
Ta giải thoát chúng sinh khỏi sự giam hảm
và chỉ cho một tương lai rực sáng vô biên.

Có nhiều hình thức giải thoát trong vũ trụ
Trong thiên hà bao la của những hình thức đổi thay vô thường
Mỗi thời khắc của tuệ giác, mỗi thời khắc của trưởng thành
Mỗi lúc xa rời khỏi quá khứ
Là một loại giải thoát.
Xa rời khỏi tự ngã hoàn toàn là một phước báu hiếm hoi
Những ai làm điều này không nhìn đến ta.
Những ai tìm cầu ta cần mạnh mẽ và quyết tâm, trong đời sống và trong thiền quán
Họ cần hy vọng và can đảm, và điều này ta ban cho họ.

Biết rằng có một thế giới toàn hảo hơn
Cho phép họ cải thiện thế giới này
Biết rằng có những Đức Phật và Bồ tát
Cho phép họ cố gắng để tỉnh giác hoàn thiện hơn
Biết rằng có điều đấy đang mong đợi một cách hân hoan
Cho phép những xiềng xích của quá khứ đứt rả ra.

Ta là Đức Phật của hy vọng, và của sự cố gắng
Vì thế các chúng sinh tạm bợ trần gian có thể cải thiện thế giới cho những chúng sinh phù du khác
Mặc dù vũ trụ sinh thành và suy tàn và tái hiện trong rực rở huy hoàng
Ta sẽ ở lại và gia hộ cho vô số những ai cố gắng hướng đến sự thật (chân lý).

Ẩn Tâm Lộ ngày 21-01-2012
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-44 ... 0-11_12-1/


NHẤT CÚ NHIỄM THẦN HÀM TƯ BỈ NGẠN
TAM XA KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT THỪA
Trả lời

Đang trực tuyến

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào trực tuyến.23 khách