Phật Giáo Và Giao Điểm Văn Hóa Đông Tây

Sự phát triển của hai nền văn hóa Đông - Tây dần dần dẫn đến một sự cách biệt lớn lao: một bên tin tưởng hẳn vào vật chất, vào khoa học; một bên tin hẳn vào tinh thần, vào đạo học.

Chính vào thế kỷ 20, cả hai bên Đông và Tây mới nhìn rõ được những ưu, khuyết điểm của mình. Tây phương giỏi về khoa học, về lý luận hình thức, về phân tích, nhưng thiếu về tâm linh. Kết quả là có thể phần nào "cách vật", nhưng không thể "trí tri".

Còn Đông phương, đã sa sút về đạo học, yếu kém khế lý cho nên cũng không thể khế cơ, bỏ lỡ nhiều cơ hội. Đông phương đã yếu kém về "trí tri" nên cũng không thể "cách vật". Chỉ nói riêng ở Trung Hoa, nền đạo học đã yếu đi, dẫn đến những lý luận duy tâm thuần túy của đạo học đời Tống, dầu có lấy Phật giáo làm xương sống để vực dậy cũng không thể tạo ra cho thời đại một nhân cách phương Đông.

Đạo Phật, cái "bờ bên kia" dung hòa được tất cả những mâu thuẫn của bờ bên này đang là một sức sống của hàng triệu người Âu Mỹ. Đó là bước khởi đầu của sự giao hòa hai nền văn hóa Đông - Tây


Phật Giáo Và Giao Điểm Văn Hóa Đông Tây

Nguyễn Thế Đăng

Không phải chỉ ở thế kỷ 20, chúng ta mới thấy có sự tiếp xúc, giao hòa giữa Đông phương và Tây phương với sự lan tỏa của đạo Phật vào Âu Mỹ. Mối liên hệ giữa Phật giáo và thế giới Tây phương đã có từ thế kỷ thứ 4 trước Tây Lịch (TL), khi đại đế Alexander của xứ Macédonia xâm chiếm Ấn Độ, đó là lần đầu tiên một vị vua Tây phương được cảm hóa bởi Phật Giáo và để cho tư tưởng Phật Giáo đi vào Hy Lạp.

Sau đó, vào thế kỷ thứ 3, vua A Dục của Ấn Độ cũng gởi những phái đoàn mang thông điệp của đức Phật vào Hy Lạp. Sau đó, vào nửa sau thế kỷ thứ 2 trước TL, vua Milanda (Di Lan Đà) người gốc Hy Lạp tìm hiểu và có một cuộc đối thoại với ngài Nagasena (Na Tiên Tỳ kheo) tạo thành bộ kinh Na Tiên Tỳ Kheo nổi tiếng. Có thể nói kinh này là một cuộc đối thoại được chép lại thành sách đầu tiên giữa Đông và Tây, giữa một nhà vua hiền triết thông thái của Hy Lạp và một bậc đắc đạo của Phật giáo. Sau đó, vì hoàn cảnh lịch sử, vì chiến tranh, như con đường tơ lụa nối Trường An - Trung Quốc với La Mã của Châu Âu bị tàn phá do cuộc viễn chinh của Thành Cát Tư Hãn mà cuộc tiếp xúc về sau đó bị đứt đoạn.

Cho đến thế kỷ 18, 19 khi các cường quốc thực dân Tây phương xâm chiếm Đông phương, đạo Phật lại một lần nữa dội về các nước "mẫu quốc". Đến thế kỷ 20, sự giao lưu thật sự xảy ra, hiện giờ không có một nước Tây phương nào không có một ngôi chùa và các trí thức hàng đầu Tây phương, không nhiều thì ít đều có nhắc đến, nếu không nói là có những người chịu ảnh hưởng sâu đậm ngay trong lãnh vực chuyên môn của mình.

Nhìn một cách tổng quát, giữa tư tưởng Đông phương và Tây phương có sự khác biệt lớn vì khởi điểm khác biệt và mục đích khác biệt. Như nhà văn Rudyar Kipling đầu thế kỷ đã từng nói: "Đông là Đông và Tây là Tây, cả hai không bao giờ gặp gỡ.

Tây phương với truyền thống của nó là tư tưởng khoa học phát xuất từ Aristote, được cổ xúy bằng quan niệm của Sáng Thế: Thượng Đế đã tạo ra trái đất này với cỏ cây, muôn thú là để cho con người ngự trị và sử dụng, lấy làm thực phẩm. Bởi thế, đường đi của Tây phương là tư tưởng phân tách, nỗ lực thâm nhập, tìm hiểu thế giới, biến đổi và sử dụng thế giới. Khuynh hướng Đông phương lại khác, mục đích của Đông phương là hòa mình với thế giới, tìm ra được tính nhất thể của trời-đất-người, tìm kiếm mục tiêu tối hậu nơi chính mình là sự hòa bình nơi nội tâm, từ đó sống được mối thái hòa của vũ trụ. Không phải là Đông phương dở khoa học về thế giới, bằng cớ là Trung Hoa đầu tiên đã phát minh ra các phát minh cơ bản, như la bàn, thuốc súng... nhưng khuynh hướng Đông phương là tìm về chính mình, ổn định chính mình, lấy chính con người làm phương tiện và cứu cánh, đó là quan niệm hiểu được tiểu vũ trụ là con người mình thì sẽ hiểu được đại vũ trụ bên ngoài kia. Điều đó cũng giống như Socrates, một trong những người mở đầu cho triết học Tây phương, đã nói: "Hãy tự biết chính mình". Quan niệm Đông phương được Trang Tử bày tỏ trong câu chuyện: "Có người thấy một ông già đang tát nước, nói rằng: ở xứ kia, có người làm ra cái cơ khí để tát nước, sao ông không bắt chước mà làm theo cho nhanh và đỡ mệt. Ông lão trả lời: không phải ta không biết cách làm ra cái máy đó, nhưng vì ta không muốn biến tâm ta thành ra cơ khí. Một khi tâm đã thành ra cái cơ tâm thì cuộc đời ta cũng mất mối an hòa..."

Tư tưởng Tây phương thiên về phân biệt, phân tích, tính toán, lý luận hình thức, duy lý, hướng ra các sự vật cụ thể của thế giới bên ngoài. Tư tưởng Đông phương thiên về trực quan, vô phân biệt, vượt lên lý luận hình thức, hướng vào thế giới bên trong. Tây phương nghiêng về khoa học vật lý, hình nhi hạ học. Đông phương thiên về khoa học tâm lý, hình nhi thượng học. Chúng ta thấy trong lãnh vực hội họa, một họa sĩ Tây phương như Léonard de Vinci đồng thời là một nhà khoa học. Trong khi đó, hội họa Đông phương không chú trọng chi tiết, hình thể mà thiên về cái thần, cái khí, cái tâm của bức họa.

Sự phát triển của hai nền văn hóa Đông - Tây dần dần dẫn đến một sự cách biệt lớn lao: một bên tin tưởng hẳn vào vật chất, vào khoa học; một bên tin hẳn vào tinh thần, vào đạo học. Ví dụ ngày nay, người Tây phương bình thường tin vào các biện pháp khoa học, các dụng cụ khoa học hơn là tin vào chính con người. Khám nghiệm y học càng ngày càng được giao cho máy móc hơn là giao cho sự khám nghiệm trực tiếp của y sĩ. Họ tin rằng máy tính có thể khám phá vũ trụ, trong khi con người - một bộ máy tinh vi nhất vừa vật lý, vừa sinh học, vừa tâm lý học của thiên nhiên - nếu không có dụng cụ nào thì không thể khám phá vũ trụ. Chỉ lấy một ví dụ, khoa học Tây phương tin rằng bằng máy móc có thể khám phá vũ trụ, còn con người ngồi một mình thì không thể, như đức Thích Ca ngồi một mình dưới cây Bồ Đề làm sao có thể biết được vũ trụ. Chỉ nhìn theo khía cạnh khoa học, các nhà làm máy tính điện tử nói rằng đầu máy tính ở thế hệ thứ 5, trí óc nhân tạo, thì cũng chỉ tương đương với chưa đầy 10% tế bào óc của con người. Thế mà con người có vài tỷ tế bào óc, một bộ máy tính tương đương với óc não của con người cũng phải to hơn ngôi nhà chọc trời cao nhất hiện có. Vậy thì chỉ tính riêng bộ óc, đó đã là một bộ máy tính không thể làm ra nổi. Thế mà, y khoa đã xác nhận, ngay cả những nhà bác học làm việc bằng trí óc nhiều nhất, cũng chỉ sử dụng được có 10% bộ óc của mình. Chúng ta hãy tưởng tượng đây là chỉ tính riêng một dụng cụ con người là bộ óc thôi, thì khi thiền định, các mạch của các tế bào óc được điều hợp nối kết với nhau, cho toàn bộ 100% năng suất, đấy chẳng phải là một bộ máy tính siêu phàm không đâu có được hay sao? Các máy tính, dụng cụ khoa học hiện đại công dụng yếu kém như vậy mà còn có hy vọng có thể thấu hiểu vũ trụ, thì cái máy tính vừa vật chất, vừa sinh học, vừa tâm lý học với 100% công suất là một người khi thiền định chẳng lẽ không có khả năng hơn để thấy hiểu được vũ trụ hay sao?

Đứng về phương diện lịch sử, thế kỷ 18, 19, Đông phương đã bị Tây phương xâm chiếm làm thuộc địa. Phải tới giữa thế kỷ này, Đông phương mới có được độc lập. Trong những hoàn cảnh thua kém kéo dài trong hàng thế kỷ đó mà sinh ra những mặc cảm. Người Đông phương thì trước khi bị xâm chiếm, nền đạo học của họ đã suy kém, không còn là một sức mạnh văn hóa hiện thực của xã hội - có suy kém mới bị xâm chiếm, còn như ở đời Trần không suy kém thì đánh bại quân Mông Cổ mạnh nhất thế giới thời đó cả ba lần. Thoát khỏi nô lệ, có được độc lập, nhưng các nước Châu Á không phải đã hoàn toàn tự chủ trong đầu ốc để đứng ngay trong truyền thống của mình, mà vẫn tiếp tục có những mặc cảm thua kém, bắt chước các mô hình phát triển của Tây phương, cho đó là cách phát triển duy nhất. Kết quả là không ít nước đã chịu những hậu quả xã hội vì sự mất gốc này (nạn Aids, ly dị, sự bất hòa trong gia đình, sự hủy hoại các giá trị nhân cách...). Không phải là không có lý do khi gần đây nói về vấn đề nhân quyền, các nhà lãnh đạo Châu Á nói rằng Châu Á có cách nhìn của Châu Á, không phải tự do là ai cũng có thể mua súng để bảo vệ tự do của mình, không phải bình đẳng là cha mẹ có tát tai con một cái thì con cái gọi điện thoại kêu cảnh sát đến...

Trong khi đó thì Tây phương, nhờ vào sự xâm chiếm thuộc địa của mình mà khám phá ra Đông phương. Anh thì nhờ Trung Hoa, Ấn Độ và Tây Tạng, Pháp nhờ Việt Nam, Mỹ nhờ Nhật Bản và Việt Nam. Các nhà trí thức hàng đầu của Tây phương lại thấy ở đạo học Đông phương có tính giá trị phổ quát, tính vũ trụ. Như Einstein, người khai sinh ra vật lý học hiện đại nói rằng ông thấy đạo Phật là một tôn giáo vũ trụ, đáp ứng được không chỉ tâm linh con người mà còn khoa học, tổ chức xã hội. Điều kỳ lạ là các nhà khoa học càng tiến bộ thì càng khám phá ra những điểm tương đồng với đạo học Đông phương, các câu nói của nhà đạo học và nhà khoa học đôi khi không thể phân biệt được. Lawrence Le Shan trong cuốn "Các nhà vật lý học và đạo học: các tương đồng về cái nhìn thế giới" đã làm một cuộc thí nghiệm: để lẫn lộn các câu nói của các nhà đạo học Đông phương với các câu nói của các nhà khoa học Tây phương hiện đại, thì độc giả không thể nào chọn lựa phân biệt được ra đâu là câu nói của Vivekananda với Einstein, đâu là của các nhà đạo học Trung Hoa với Niels Bohr hay Max Plank. Vào khoảng giữa thập niên 70, nhà vậy lý lý thuyết Frijtof Capra trong cuốn The Tao of Physics đã chỉ ra n tương đồng không thể chối cãi giữa đạo học cổ thời Đông phương cách đây trên 2500 năm với vật lý học hiện đại, và ông còn đưa đến kết luận vật lý học hiện đại muốn khai phá lối ra trong mê hồn trận hiện nay của mình, phải tìm hướng thoát ở văn minh Đông phương.

Bằng những ưu thế của mình, bằng những tiến bộ nhanh chóng của khoa học, và cũng bằng những khủng hoảng, những khoảng trống không thể lấp đầy của khoa học trong tất cả các ngành mà Tây phương đã gặp gỡc và nhận ra giá trị của Đông phương. Bởi thế, hiện giờ Tây phương tìm đến Đông phương khá dễ dàng, trong khi với những mặc cảm còn sót lại của mình, Đông phương muốn tìm lại chính mình phải khó khăn gấp hai lần. Một ví dụ là hiện giờ các sách về văn hóa Đông phương được in nhiều nhất là ở Đông phương. Có thể thấy là sách về tam giáo đồng nguyên ở Trung Quốc, Đài Loan, Singapore in không nhiều bằng ở Mỹ, sách Phật giáo in ở Việt Nam không nhiều bằng ở Pháp, và ở Mỹ sách về văn hóa Ấn Độ in ở Ấn không nhiều bằng ở Bắc Mỹ. Có thể thấy rõ ràng điều trên như các sinh viên Á Châu khi muốn nghiên cứu lấy bằng tiến sĩ về văn hóa Đông phương, phải qua Âu Mỹ để học về chính truyền thống của mình. Có thể nào nói được chăng: Ôi, chính nhờ Tây phương mà Đông phương mới khám phá lại được chính mình.

Chính vào thế kỷ 20, cả hai bên Đông và Tây mới nhìn rõ được những ưu, khuyết điểm của mình. Tây phương giỏi về khoa học, về lý luận hình thức, về phân tích, nhưng thiếu về tâm linh. Kết quả là có thể phần nào "cách vật", nhưng không thể "trí tri". Từ đó, các ngành khoa học phát triển càng ngày càng tách lìa nhau, vật lý học chẳng ăn nhằm gì tâm lý học, kinh tế xã hội học chẳng dính dáng gì đến đạo đức học, lý hóa vô cơ chẳng ăn nhằm gì đến sinh học hữu cơ. Ngay trong một ngành vật lý, một ngành y khoa, hai người chuyên nghiên cứu hai nhánh khác nhau lại chẳng thể hiểu nhau. Sự phân tán của tâm thức đó phản ánh trong chính xã hội, một xã hội phân tán không có một đường hướng, một niềm tin thống nhất. Mạnh ai nấy sống, mạnh ai nấy phát triển, mà không biết phát triển đi đến đâu, về đến đâu.

Còn Đông phương, đã sa sút về đạo học, yếu kém khế lý cho nên cũng không thể khế cơ, bỏ lỡ nhiều cơ hội. Đông phương đã yếu kém về "trí tri" nên cũng không thể "cách vật". Chỉ nói riêng ở Trung Hoa, nền đạo học đã yếu đi, dẫn đến những lý luận duy tâm thuần túy của đạo học đời Tống, dầu có lấy Phật giáo làm xương sống để vực dậy cũng không thể tạo ra cho thời đại một nhân cách phương Đông.

Nhưng vào nửa thế kỷ này, Đông phương đã thấy rõ hơn những ưu thế của mình, mà một phần được các nhà lãnh đạo Châu Á gọi là những giá trị Châu Á. Đó là sự phát triển không gây ra khủng hoảng, ổn định những giá trị xã hội, không sa đà trong một xã hội tiêu thụ và chỉ biết tiêu thụ. Nói theo chữ dùng của văn minh Trung Hoa, đó là sự phát triển hài hòa của thiên-địa-nhân, không nghiêng nặng về vật chất (địa) cũng không chỉ chú trọng tới tinh thần (thiên). Trước những lý thuyết xã hội đã không thành công của Tây phương, Đông phương càng thấy rõ hơn giá trị truyền thống của mình. Đem lại cho máy móc kỹ thuật và những cơ cấu kinh tế xã hội một tâm hồn, và một lối sống hài hòa, một ý nghĩa nhân sinh an vui là điều mà nền văn minh Châu Á đang thực hiện. Cũng nhờ nền văn minh tinh thần đó, mà các khoa học không phân tán, thống nhất được mọi lãnh vực với nhau - như Khổng Tử đã từng nói: ngô đạo nhất dĩ quán chi - để phù trợ và hướng dẫn con người trong công cuộc phát triển hướng đến sự hoàn thiện của chính con người và thế giới. Con người sẽ tìm lại được mình như một toàn thể - không phải là con người một chiều, con người của từng lãnh vực phân biệt, sẽ tìm lại được mối hài hòa với chính mình, với người khác và với thế giới chung quanh. Đó là ý nghĩa chữ thái hòa được nhắc đến nhiều trong thơ văn Nguyễn Công Trứ, một trong những nhà "tam giáo đồng nguyên" cuối cùng của thế kỷ 19.

Sự tiến bộ vật chất của Tây phương đã bổ túc cho sự tiến bộ tinh thần đã gần ngưng trệ của Đông phương, thức tỉnh cái đạo học đang suy kém dần, đi đến chỗ u nhàn và mơ màng không thực dụng. Ngược lại, Tây phương cũng phải nhờ vào Đông phương cái tinh thần, cái tâm hồn trong vật chất, trong kỹ thuật, trong xã hội và đời sống con người.

Trong những năm thập kỷ 90, các nhà khoa học hy vọng vào một lý thuyết thống nhất vạn vật vũ trụ đang hình thành, thống nhất được 4 loại tương tác trong cơ cấu nguyên tử. Sự hào hứng của các nhà khoa học đến nỗi GS Jeff Harvey (ĐH Chicago) đã kết luận về lý thuyết rằng: "Dường như chúng ta vừa tìm ra được một công cụ đầy quyền năng do một nền văn minh trước đây đã để lại".

Đứng trong cái nhìn Đông phương, thì Tây phương đã đi đến những mức cuối cùng của vật chất trong các hạt "căn bản" và họ luôn luôn tìm ra tính nhị nguyên trong vật chất. Tính nhị nguyên này, nói theo người Đông Á là âm dương. Và cũng theo cái nhìn Đông phương, cái nhị nguyên âm dương đó chỉ thống nhất được là nhờ "đạo" (nhất âm nhất dương chi vị đạo). Tây phương đã đi đến cùng cực của lý trí là tính nhị nguyên âm dương trong tất cả mọi lãnh vực, từ tính nhị nguyên của khoa học cho đến tính thiện ác là những vấn đề xã hội. Nhưng nếu không có cái đạo của Đông phương, tính nhị nguyên đó chẳng bao giờ có thể hài hòa và thống nhất trong một cái vượt lên cả âm dương là đạo. Chúng ta hãy nhớ lại lời của Tổ thứ sáu Thiền tông Trung Hoa là ngài Huệ Năng: "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, đó là bổn lai diện mục của ông". Nêú không có cái bổn lại diện mục đó, vĩnh viễn con người chẳng bao giờ thoát khỏi thiện ác. Nếu không có cái tính bất nhị (không hai) như Lục Tổ nói dưới đây thì cũng chẳng bao giờ có lối thoát cho tính nhị nguyên cả: "Mình cùng với vô minh, phàm phu thấy hai, người trí rõ suốt tánh nó không hai, tánh không hai tức là thật tánh. Thật tánh ỏ phàm ngu chẳng giảm, ở hiền thánh chẳng tăng, trụ trong phiền não mà không loạn, ở trong thiền định mà chẳng lặng, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đến chẳng đi, chẳng ở giữa chẳng trong ngoài, không sanh, không diệt, tánh tướng như như, thường trụ chẳng đổi, gọi đó là đạo".

Chúng ta có thể trích thêm từ kinh điển Nam Tông để thấy rõ đạo, hay là Niết bàn chính là sự giải thoát duy nhất cho tất cả những gì đang vướng kẹt vào tính nhị nguyên thế gian: "Này các Tỳ kheo, có cái không sinh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Nếu không có cái không sinh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi ấy, thì không thể nào có sự giải thoát, sự xuất ly cho cái sinh, cái hiện hữu, cái bị làm, cái hữu vi. Vì rằng có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, cho nên có sự giải thoát, sự xuất ly cho cái sinh, cái hiện hữu, cái bị làm, cái hữu vi." (Tiểu Bộ kinh1)

Nếu không có cái đạo của Đông phương, cái nhị nguyên của Tây phương chẳng bao giờ có được một "trường thống nhất" nói theo Einstein, hay lý thuyết thống nhất, không những cho ngành vật lý, mà cho cả con người, xã hội và tâm linh. Nói theo ngôn ngữ triết học, nếu không có cái toàn thể tính của Đông phương, thì cái sai biệt tính, phần tử tính của Tây phương chẳng bao giờ có lối thoát.

Chúng ta có thể thấy thêm rằng đạo là đặc điểm, ưu điểm của Đông phương. Đạo là con đường, là sự tiến hóa phát triển đích thực, đồng thời là cứu cánh của con đường. Đạo là chủ đề chính của Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo, và chính vì có chung chủ đề chính như vậy, nên mặc dù có sự sâu cạn, rộng hẹp khác nhau, người xưa đã gộp chung thành tam giáo đồng nguyên, là cốt lõi của văn hóa Á Châu. Một ví dụ để chúng ta thấy cái "Đạo" đó nó chẳng mơ hồ, mông lung, viễn tưởng chút nào. Về quản lý, Nhật đã đi học các kỹ thuật quản lý kiểu Mỹ. Nhưng khi học được rồi, người Nhật lại đưa thêm tinh hoa phương Đông của mình vào, đó là đưa chữ Nhân (người) vào quản lý. Đưa vào cách "quản lý hòa khí" này, kết quả về phương diện quản lý con người, Nhật đã hơn Mỹ và người Mỹ phải học trở lại người Nhật về nghệ thuật quản lý (Xem bí mật của công nghiệp Nhật Bản và Nghệ thuật quản lý của Nhật Bản).

M. Heidegger, triết gia cuối cùng của Tây phương, người tổng kết toàn bộ 2500 năm lịch sử triết học Tây phương, triết học của nhị nguyên, đã nói rằng: "Muốn vượt qua tư tưởng tính toán (pensée calculante) để đến với tư tưởng thiền quán (pensée méditative), Tây phương phải làm một bước nhảy". Bước nhảy đó, các nhà hiền triết Đông phương cổ thời đã vượt qua, và để lại cho đời nền văn hóa Đông phương. Nghĩa là muốn vượt qua một tính nhị nguyên, tâm thức phân chia chủ thể - đối tượng, sự khốn khổ bế tắc của chính mình, Tây phương phải nhìn vào Đông phương, vào cái "bờ bên kia" của Đông phương mà Phật giáo là đại diện có đầy đủ thẩm quyền. Nó thế vì cái gì Khổng - Lão có thì đạo Phật cũng có, và đạo Phật còn có những cái không có trong Khổng - Lão.

Đạo Phật, cái "bờ bên kia" dung hòa được tất cả những mâu thuẫn của bờ bên này đang là một sức sống của hàng triệu người Âu Mỹ. Cuối năm 96, theo tổng kết của đài truyền hình Nhật Bản, thì một trong những dự đoán dành cho thế kỷ 21 là: trong thế kỷ 21, nền văn minh châu Á sẽ phát triển rực rỡ. Chúng ta chưa biết sự dự đoán ấy sẽ đúng tới đâu, nhưng ít ra, sự tự nhìn lại giá trị của mình của người châu Á cũng đã là bước khởi đầu cho một thời đại mới. Đó là bước khởi đầu của sự giao hòa hai nền văn hóa Đông - Tây

tkl