Con Đường Hạnh Phúc

Danh từ "Đạo Phật" bị khai thác và lạm dụng đến mức tối đa tại Việt Nam. Trong lịch sử truyền bá Đạo Phật ở Đông cũng như Tây chưa bao giờ Phật giáo bị phân hóa trầm trọng như trên giải đất vốn đã phân hóa này. Hàng trăm Giáo hội và đoàn thể bắt đầu bằng hai chữ Phật giáo mà lắm khi thực chất lại đi ngược lại với Giáo lý nguyên thủy của Đức Phật. Qua các nhãn hiệu đó, dĩ nhiên Đạo Phật bị hiểu lầm một cách đáng tiếc, thi sĩ Hồ Xuân Hương là nhân chứng của tệ trạng đó, và ngày nay phim ảnh cải lương, tiểu thuyết đã dùng thành ngữ "xuất gia đầu Phật" như một lối thoát cho những nhân vật bị thất tình, thất chí, bi ai, tuyệt vọng. Thảo nào mà người ta thường chụp cho Đạo Phật cái mũ bi quan yếm thế.

Một người Phật tử chân chánh như quí vị hẳn phải cảm thấy cô đơn giữa những người cùng mang tên là Phật tử. Nhưng thưa quí vị, Đạo Phật vẫn còn đó với Chân lý siêu thoát sáng ngời cho những ai có tai để nghe, có mắt để thấy, có Trí tuệ để lãnh hội và có ý chí để thực hành.

Con Đường Hạnh Phúc

Viên Minh và Trần Minh Tài soạn

Nhà Xuất Bản Tôn giáo Hà Nội 2005

Mục lục

Lời Mở Đầu

1/ Khía Cạnh Thực Tế Của Đạo Phật

2/ Ý Nghĩa Thực Chứng Của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni

3/ Con Đường Hạnh Phúc

4/ Vô Thường

5/ Đối Diện Với Đau Khổ

6/ Phật Giáo Và Sự Thờ Cúng

7/ Triết Lý Về Nghiệp

8/ Cúng Dường Cao Thượng

9/ Chuyển Hóa Tư Tưởng

10/ Thu Thúc Lục Căn

11/ Ba Nguyên Nhân Phát Sanh Trí Tuệ

12/ Con Đường Giải Thoát

13/ Chánh Ngữ

14/ Phật Giáo Có Phải Là Một Tôn Giáo Không?

15/ Tấm Gương Người Con Hiếu

16/ Chiến Thắng Ma Vương

17/ Tam Chướng Và Cách Đối Trị

28/ Nhận Định Về Cái Khổ Theo Quan Niệm Phật Giáo.

19/ Nhận Lãnh Trách Nhiệm

20/ Thoát Vòng Nô Lệ

21/ Vô Ngã

22/ Tiến Trình Giải Thoát

23/ Thất Giác Chi

Lời Mở Đầu

Danh từ "Đạo Phật" bị khai thác và lạm dụng đến mức tối đa tại Việt Nam. Trong lịch sử truyền bá Đạo Phật ở Đông cũng như Tây chưa bao giờ Phật giáo bị phân hóa trầm trọng như trên giải đất vốn đã phân hóa này. Hàng trăm Giáo hội và đoàn thể bắt đầu bằng hai chữ Phật giáo mà lắm khi thực chất lại đi ngược lại với Giáo lý nguyên thủy của Đức Phật. Qua các nhãn hiệu đó, dĩ nhiên Đạo Phật bị hiểu lầm một cách đáng tiếc, thi sĩ Hồ Xuân Hương là nhân chứng của tệ trạng đó, và ngày nay phim ảnh cải lương, tiểu thuyết đã dùng thành ngữ "xuất gia đầu Phật" như một lối thoát cho những nhân vật bị thất tình, thất chí, bi ai, tuyệt vọng. Thảo nào mà người ta thường chụp cho Đạo Phật cái mũ bi quan yếm thế.

Một người Phật tử chân chánh như quí vị hẳn phải cảm thấy cô đơn giữa những người cùng mang tên là Phật tử. Nhưng thưa quí vị, Đạo Phật vẫn còn đó với Chân lý siêu thoát sáng ngời cho những ai có tai để nghe, có mắt để thấy, có Trí tuệ để lãnh hội và có ý chí để thực hành.

Với niềm thao thức bảo tồn và phát huy Giáo lý nguyên thủy, chúng tôi mạo muội giới thiệu Đạo Phật như một Con Đường Hạnh Phúc, sống thực và dung dị cho tất cả mọi người, chứ không phải thứ Đạo Phật đã bị bóp méo, xuyên tạc qua các nhãn hiệu mà người ta đã gắn vào nó.

Tuy nhiên chúng tôi tự nhận là đã vấp phải nhiều khuyết điểm đáng trách trong việc trình bày Giáo lý thậm thâm vi diệu của Đức Phật. Nguyên những bài Giáo lý trong tập sách này là những bài viết để đọc hàng tuần trên đài phát thanh và đã được một số Phật tử theo dõi chương trình yêu cầu cho in thành sách. Chính vì thế mà chúng tôi đã gặp những khó khăn sau đây:

- Thì giờ dành cho bài Giáo lý chỉ có 15 phút nên phải cố gắng thu ngắn vấn đề trong một giới hạn nhất định, và tất nhiên là không thể diễn tả được đầy đủ ý nghĩa.

- Nhiều ý trong các bài Giáo lý có khi trùng nhau, vì mỗi tuần mục Giáo lý đến với thính giả chỉ có một lần, nên khi phát thanh chúng tôi đã cố ý lập đi lập lại những điểm then chốt cho thính giả dễ ghi nhận.

- Và cuối cùng, điều đáng trách nhất, là vì bận rộn nhiều công tác Phật sự khác, chúng tôi đã viết bài một cách quá vội vàng và trước khi cho in chúng tôi cũng không có đủ thì giờ để sửa lại nên không tránh nổi những lẩm cẩm cả ý lẫn văn.

Vì vậy chúng tôi kính cẩn xin các bậc Trưởng Thượng uyên thâm đạo lý chỉ điểm những chỗ sai lầm và rất hân hoan đón nhận những ý kiến xây dựng của các bạn Phật tử bốn phương để lần tái bản được hoàn hảo hơn.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Soạn giả: Viên Minh và Trần Minh Tài

1/ Khía Cạnh Thực Tế Của Đạo Phật

Nhiều người khi tìm hiểu Phật giáo đã đặt ra những câu hỏi xa vời như: Niết bàn là gì? Làm sao biết có kiếp sau? Vũ trụ do đâu mà hiện hữu? Con người từ đâu đến và sau khi chết họ sẽ đi về đâu? v.v... Nhưng ít khi họ nghĩ đến những vấn đề thiết thực như: Đạo Phật có đáp ứng được những nguyện vọng của chúng ta trong hiện tại không? Đối với Đạo Phật, làm thế nào để sống một đời sống hạnh phúc? Đạo Phật có chủ trương xây dựng một xã hội lành mạnh hay không?

Thực tế hơn nữa, câu hỏi mà chúng ta nên đặt ra nhất là: nhân loại đang đau khổ vì tranh dành lẫn nhau ảnh hưởng kinh tế, chính trị, quyền lợi, danh dự v.v... Vậy Đạo Phật có giải pháp nào giúp con người thoát khỏi những khổ đau ấy không?

Không phải vấn đề "Niết bàn hay kiếp sau" hoàn toàn không nên đặt ra để bàn cãi, suy luận, nhưng có những vấn đề thiết thực và cấp bách hơn cần được giải quyết ngay trong chính đời sống hằng ngày của chúng ta.

Trong một cuốn sách viết về Phật giáo, Đại đức Ananda nhấn mạnh: "Bí quyết của đời sống thành công và hạnh phúc là luôn luôn làm những việc cần phải làm trong hiện tại, không thắc mắc cho tương lai, không hối tiếc quá khứ."

Nguyện vọng của con người là làm sao để sống một đời sống hạnh phúc, mà bí quyết để tạo nên hạnh phúc phải được thực hiện ngay trong hiện tại.

Chính Đức Phật cũng chỉ muốn giải đáp những vấn đề thiết thực như hạnh phúc của con người chẳng hạn, khi Ngài dạy trong kinh Samyutta Nikàya (Tương Ưng) rằng: "Không nên phiền muộn, hối tiếc những gì đã qua, không nên tò mò tìm hiểu những gì chưa đến. Hãy sống trong hiện tại." (Atìtam nànusocanti nappajappanti nàgatam, paccuppannena yàpenti).

Nhiều lần Đức Phật từ chối trả lời những vấn đề nguồn gốc Vũ trụ và con người. Ngài dạy rằng, một người đi rừng bị trúng tên độc, nên để cho Thầy thuốc nhổ tên và băng bó, cứu chữa hơn là khư khư hỏi cho bằng được kẻ nào bắn tên, thân thế y ra sao, anh ta sinh trưởng ở đâu v.v... Vị Thầy thuốc cũng có thể trả lời cho nạn nhân thỏa mãn, nhưng ông ta nhận thấy rằng việc chữa trị vết thương cho nạn nhân mới thiết thực và cấp bách hơn.

Đó là chúng ta chưa nói, nếu Niết bàn là tuyệt đối, siêu việt thì chúng ta làm sao dùng những lời lẽ, những danh từ tương đối, chủ quan để bàn cãi được? Nhiều cuốn sách viết về Niết bàn, Phật tánh v.v... đã cho chúng ta thấy càng bàn luận, vấn đề càng bị hạn hẹp, khô cứng trong rừng ngôn từ ước định. Có khi còn làm vấn đề sai lạc khiến cho độc giả hiểu lầm nữa là khác.

Cũng có khi chúng ta không nên đặt những vấn đề quá cao siêu vượt khỏi trình độ hiểu biết của mình. Như một em bé học tiểu học hỏi toán giải tích hay những vấn đề siêu hình học thì thật là vô ích, vì nếu có giảng giải cho các em thì vấn đề càng rắc rối thêm, càng khó hiểu thêm. Do đó các em nên tập làm tính cộng, trừ, nhân, chia mới hữu ích hơn.

Mục đích của Đạo Phật không phải nhằm thỏa mãn tính tò mò của con người, mà làm thế nào để "chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc" cho nhân loại. Và người muốn được chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc không thể chỉ tìm hiểu hay bàn cãi suông mà phải hành theo lời giáo huấn của Chư Phật.

Đức Phật dạy nguyên nhân của mọi đau khổ là Vô minh và ái dục, hay nói một cách khác chính lòng tham lam, sân hận, si mê là nguồn gốc của mọi tranh chấp, oan trái để rồi đem lại những lo âu sầu muộn, bất mãn. Đó chính là những yếu tố làm cho đời sống thoái hóa và khổ đau.

Ngày nọ, có một vị Tỳ kheo đang thực hành đời sống xuất gia phạm hạnh trong rừng bỗng nhiên phát tâm hoan hỷ tự bảo mình rằng: "Hạnh phúc thay! Hạnh phúc thay!". Rủi vô ý nói lớn quá làm cho những người bạn của Ngài nghe được và đem thuật lại với Đức Phật. Đức Thế Tôn muốn nhân cơ hội này thuyết pháp cho các vị Tỳ kheo, nên cho gọi vị Đại đức ấy đến hỏi nguyên nhân. Vị Đại đức trả lời rằng: "Quả thật con có thốt ra những lời như thế, vì trước kia con là một vị vua có đủ ngọc ngà châu báu, cung phi mỹ nữ, quân binh tướng sĩ... nhưng không ngày nào con cảm thấy yên tâm, luôn luôn con lo sợ bị ngoại xâm, bị nổi loạn và bị cướp ngôi nên phải lo điều binh khiển tướng, trấn giữ biên thùy. Thế mà vẫn phải lo ngại, khổ tâm. Trái lại, từ khi xuất gia, tuy chỉ có Tam Y, Nhất Bát nhưng lại không có điều gì lo sợ, tâm con nhờ thế được an vui tự tại." Đức Phật bèn dạy các Thầy Tỳ kheo rằng nếu các Thầy sống đúng theo đời sống phạm hạnh, không bị dục lạc chi phối thì đời sống sẽ được an vui hạnh phúc.

Kinh Sàmannaphala (Quả Báo Sa Môn) trong Dìgha Nikàya (Trường Bộ) thuật rằng một hôm Đức Thế Tôn ngự tại Ràjàgha (Vương xá), vua Ajatasastu (A Xà Thế) đến hỏi Đức Phật về những lợi ích hiện tại của đời sống tu hành.

Ngài dẫn chứng những quả báo thiết thực và dậy rằng các vị Sa môn đã xuất gia chân chính, nếu biết giữ mình theo Giới, Định, Huệ, cố gắng diệt trừ tham, sân, si thì đời sống tự tại, Giải thoát sẽ đến với họ ngay trong kiếp hiện tại chứ không cần tìm đâu xa cả.

Mặc dù mục đích tối hậụ của Đạo Phật là chứng ngộ Niết bàn, nhưng như chúng ta đã thấy mục đích thực tế nhất vẫn là "đem vui, cứu khổ". Bởi vì nếu trong hiện tại ta được an vui tự tại thì kiếp sau dĩ nhiên cũng được an vui tự tại. Nếu hiện tại ta được thanh tịnh, không còn phiền não khổ đau thì chính là Niết bàn ở đó vậy.

Chúng ta đồng ý với một số người cho rằng điều kiện của một đời sống hạnh phúc là có sức khỏe, có tiền tài và có địa vị trong xã hội. Nhưng đời sống hạnh phúc thật ra chưa hẳn đã hoàn toàn tùy thuộc vào những điều kiện vật chất như thế... Vì nếu một người khỏe mạnh, đem sức khỏe của mình làm những điều tội lỗi thì chẳng được ích lợi gì. Người giàu sang sống bỏn sẻn, không tri túc, tham lam vô độ thì đã chẳng tìm được hạnh phúc cho chính mình mà lại còn làm hại đến kẻ khác. Người có địa vị nhưng lại lạm dụng quyền hành thì chỉ rước thêm oan trái oán thù.

Như thế, tiền tài danh vọng chưa phải là yếu tố tiên quyết cho một đời sống hạnh phúc. Trái lại điều kiện đem lại an vui là có tinh thần lành mạnh. Và một tinh thần chỉ có thể gọi là lành mạnh khi không bị dục lạc, oán thù hay mê loạn chi phối.

Trong kinh Dhammapada (Pháp Cú) Đức Phật dạy:

"Kàyena samvaro sàdhu,

Sàdhu vàcàya samvaro

Manasà samvaro sàdhu

Sàdhu sabbatthà samvaro".

Giữ thân trong sạch, hạnh phúc biết bao.

Giữ khẩu trong sạch, hạnh phúc biết bao.

Giữ tâm trong sạch, hạnh phúc biết bao.

Thật vậy, nếu tất cả đều trong sạch thì quả là hạnh phúc cao thượng.

Qua đoạn kinh trên, ta thấy Đạo Phật chủ trương bí quyết cho đời sống hạnh phúc là phải sống trong sạch, thanh khiết từ lời nói, việc làm, cho đến những ý nghĩ thầm kín. Đức Khổng Tử cũng đồng một quan điểm đó khi Ngài dạy trong Tứ Thư rằng mọi người phải biết: "Tu kỳ thân, chánh kỳ tâm, thành kỳ ý" thì thiên hạ mới thái bình.

Trong Pháp Cú kinh, Đức Phật dạy rằng muốn giữ cho hành động, lời nói, ý nghĩ được trong sạch, chân chính thì phải "tránh xa các điều ác, làm các điều lành và giữ tâm trong sạch" (chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo).

1. Tránh các điều ác:

Đức Phật dạy giới luật với mục đích giúp chúng ta tránh các điều ác; nghĩa là giữ thân, khẩu trong sạch. Đối với hàng cư sĩ Ngài dạy ngũ giới:

- Không sát sanh: là để rèn luyện đức tánh Từ bi. Người không giết hại sanh linh, dù là sinh mạng của người khác hay loài càm thú như thế họ sẽ không gây thêm oan trái, oán thù. Một trong những điều kiện tạo nên đời sống an lành là không có kẻ thù nghịch.

- Không trộm cắp: Người trộm cắp luôn luôn lo sợ bị truy tố trước pháp luật và chính lòng họ cũng thường bị ray rứt, ân hận. Trái lại, người biết tri túc, biết nuôi mạng chân chính không bao giờ phải lo sợ như thế. Không lo sợ thì đời sống sẽ được vui tươi.

- Không tà hạnh: Trong một gia đình nếu vợ chồng hòa thuận, tin yêu, vì chồng giữ đúng bổn phận làm chồng, vợ biết lo tròn phận sự làm vợ, không đứng núi này trông núi nọ và chung lo xây dựng gia đình thì đó chính là một gia đình đầm ấm.

Ba điều trên giúp cho thân trong sạch hay nói một cách khác là để kiểm soát hành động hằng ngày của mình. Và hai điều sau đây có mục đích giữ khẩu thanh tịnh:

- Không nói dối: là để rèn luyện đức thành tín chân thực. Người chân thực và thành tín được mọi người tín nhiệm, tin tưởng. Dĩ nhiên trong công việc giao tế hằng ngày ai cũng muốn được tín nhiệm vì đó là yếu tố thành công trên đường đời.

- Không uống rượu: Không phải chỉ Phật giáo mà nhiều Tôn giáo khác cũng dạy tín đồ không nên uống rượu. Vì người say sưa tự hạ phẩm cách của mình. Hơn nữa, theo y học, rượu làm cho mạch máu không co giản được, dễ bị chứng lưu huyết, thần kinh ở não cũng bị ảnh hưởng làm giảm trí nhớ.

Vậy người Phật tử giữ giới chính là để xây dựng một cuộc sống lành mạnh từ thể chất đến tinh thần, chứ không phải vì yếm thế, chán đời.

2. Làm các điều lành:

Để phát triển đức tính vị tha, nghĩa là sẵn sàng giúp đỡ kẻ khác, Đức Phật dạy phương pháp Bố thí. Bố thí cũng còn giúp cho chúng ta loại bỏ dần lòng tham lam keo kiệt và diệt vọng chấp ở ngã sở. Có ba cách Bố thí:

- Tài thí: là tùy phương tiện, tùy khả năng của mình để giúp đỡ kẻ khác trong lúc họ túng thiếu về vật chất.

- Pháp thí: là tùy cơ hội hướng dẫn kẻ khác sống đúng theo lẽ đạo.

- Vô úy thí: tức là giữ giới hạnh như chúng ta vừa nói ở phần trên. Vì khi giữ giới chúng ta không hại kẻ khác, không làm cho kẻ khác sợ hãi.

Một người sống không bỏn xẻn, tâm vị tha, quảng đại và bao dung thì chắc chắn được mọi người quí mến. Sống trong một cộng đồng được mọi người kính yêu và khi lâm nguy được mọi người giúp đỡ thì không còn gì hạnh phúc hơn.

Bí quyết cuối cùng giúp chúng ta sống an vui thư thái là:

3. Giữ tâm hồn trong sạch:

Đức Phật dạy: "Natthi santipanam sukham", không có gì hạnh phúc bằng tâm hồn yên tịnh. Và danh ngôn Pháp cũng nói rằng: "Sự yên lặng và bình an của tâm hồn ngọt ngào hơn các lạc thú". Thật vậy, khi tâm hồn không bị tham lam, sân hận, si mê, chi phối thì ta sẽ sống vô cùng bình tĩnh và sáng suốt. Đó cũng chính là hạnh phúc cao thượng nhất.

Phương pháp hoàn hảo nhất để giữ tâm hồn trong sạch là Tham thiền. Vì theo nguyên nghĩa của chữ Jhana (Thiền na) là đốt cháy phiền não. Chính những phiền não như tham, sân, si, phiền muộn, bức rức, luyến tiếc... làm cho đời sống chúng ta đau khổ. Khi những phiền não này đã bị đốt cháy thì hiển nhiên chúng ta được an vui tự tại.

Chúng ta hãy nghe Paul Adam, một học giả uyên thâm Giáo lý Đức Phật đã viết trong bài thơ sau đây:

"Bao kẻ đi tìm trong quá khứ,

Vạn pháp huyền vi của cuộc đời

Bao kẻ tìm trong ngày sẽ lại

Cành hoa chớm nở đượm màu tươi

Nhưng ngươi nên hãy hóa lòng ngươi

Thành đỉnh trầm trong cảnh lặng thôi".

Nói tóm lại, Đạo Phật tuy cao siêu nhưng không quá xa vời thực tế, đúng như một học giả Tây phương đã nói: "Đạo Phật là một phương pháp sống thực".

2/ Ý Nghĩa Thực Chứng Của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni (Gotama)

Sau khi Thái tử Sĩ Đạt Ta rời bỏ cung điện nguy nga giã từ vợ đẹp con thơ đi tìm Chân lý, Ngài đã trải qua không biết bao nhiêu thử thách nguy khó. Nhưng mục đích chuyến đi của Ngài là tìm cho bằng được một lối thoát để giải phóng cho mình và chúng sanh ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, nên Ngài không quản khó khăn hiểm trở. Không tìm được Chân Thiện Mỹ nơi các Thầy Bà la môn, Ngài cương quyết thực hành phương pháp khổ hạnh. Chưa một ai trong lịch sử nhân loại kiên trì khổ hạnh như Ngài. Ngay cả tuyệt thực, tiết chế hỏi thở cho đến khi thân thể hao mòn, thịt khô máu cạn, chỉ còn da bọc xương cũng không lay chuyển được ý chí sắt đá của Ngài.

Mặc dù ý chí kiên cường nhưng xác thân đã quá kiệt quệ. Một hôm Ngài ngã quị bên dòng sông Ni Liên Thiền (Neranjarà). Khi tỉnh dậy, Ngài mới nhận ra rằng con đường khổ hạnh đến tột cùng chỉ là hành hạ thân xác, mà Trí tuệ lại càng thêm thoái hóa. Mặc dù không lợi dưỡng, nhưng cần phải có một xác thân tráng kiện thì tâm hồn mới lành mạnh, Trí tuệ mới minh mẫn. Như một nhạc công sử dụng đàn, nếu dây lên đàn quá căng thì sẽ đứt, nhưng nếu quá chùng thì đàn sẽ không thành tiếng, chỉ có dây lên vừa phải thì tiếng đàn mới thanh tao. Cũng vậy, chỉ có con đường trung đạo, không lợi dưỡng, không khổ hạnh ép xác mới đưa đến cứu cánh Giải thoát.

Nghĩ như thế, Ngài liền xuống sông Ni Liên tắm rửa và bắt đầu trì trai khất thực. Sau khi thọ thực, sức khỏe được phục hồi; Ngài ngồi tĩnh tọa dưới cội cây Bồ đề trên một nắm cỏ khô và Tham thiền nhập định. Nhờ năng lực an trụ của chỉ thiền, như một bình nước đã được lắng trong không còn một chút bợn nhơ, Ngài cảm thấy tâm hồn khinh an thư thái và sáng suốt lạ thường. Với tâm trí minh mẫn đó, dần dần Ngài hồi tưởng đến những kiếp sống quá khứ của mình. Ngài nhớ rõ trong những kiếp xa xưa ấy Ngài đã sống ở đâu, thuộc giai cấp nào, vui khổ ra sao và sanh sanh tử tử trong những cảnh giới nào. Tất cả chi tiết trong các kiếp sống trầm luân của Ngài đã hiện lên trong ký ức rõ ràng như một cuốn phim chiếu trên màn ảnh. Vào canh một, khi đang chú tâm quan sát những hiện tượng sinh diệt của kiếp sống, bỗng nhiên Ngài chứng ngộ được Tuệ giác đầu tiên tức là Túc Mạng Minh (Pubbe nivàsànussàti Nàna).

Kế đến Ngài suy xét đến kiếp sống thăng trầm của chúng sanh trong vòng sanh tử luân hồi để tìm ra nguyên nhân nào khiến cho người thì sang giàu, kẻ khốn khổ, người thông minh, kẻ ngu dốt và vì sao chúng sanh vẫn mãi đắm chìm trong bể sanh tử không thể thoát ra khỏi định luật Vô thường, Khổ não. Nhờ Trí tuệ sáng suốt, trong canh hai Ngài đã tìm ra giải đáp và chứng ngộ Tuệ giác thứ nhì là Thiên Nhãn Minh (Cutùpapàta Nàna) tức là Trí tuệ thấu triệt nguyên nhân sanh tử luân hồi của tất cả chúng sanh. Ngài biết rằng do nơi nghiệp thiện và bất thiện phát xuất từ thân, khẩu, ý mà chúng sanh sinh trưởng trong những cảnh giới khác nhau, trình độ khác nhau.

Đến canh ba, Ngài lại dùng Trí tuệ soi xét và tìm kiếm phương pháp nào khả dĩ chấm dứt dòng trầm luân sinh tử. Ngài nhận thức rằng: "Đây là khổ, là phiền não và ô nhiễm. Đây là nguyên nhân đau khổ, phiền não và ô nhiễm. Đây là sự diệt tận mọi khổ đau, ô nhiễm. Và đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau." Nhận thức như thế, tâm Ngài đã được Giải thoát ra khỏi Dục lậu, Hữu lậu, kiến lậu và Vô minh lậu. Từ đó dòng sinh tử luân hồi đã hoàn toàn chấm dứt đối với Ngài. Đó chính là Tuệ giác thứ ba mà Ngài đã chứng ngộ tức là Lậu Tận Minh (Savakkhaya Nàna) vậy.

Khi cuộc chiến thắng vinh quang vừa viên mãn, cả tam thiên đại thiên đều rúng động, hào quang ngũ sắc từ thân Ngài chiếu khắp tam giới. Chư thiên trong mười muôn triệu thế giới ta bà đều đồng thanh tung hô Ngài là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật và Thế Tôn.

Quả thật cuộc chiến thắng vẻ vang của Thái tử Sĩ Đạt Ta có một ảnh hưởng sâu xa đối với nhân loại. Chúng ta không lấy làm lạ khi nhiều người tôn thờ Ngài là bậc vĩ nhân, hoặc xem Ngài như một nhà đại cách mạng, giải phóng con người ra khỏi hai thứ xiềng xích nô lệ: tinh thần nô lệ thần linh, thể chất nô lệ giai cấp xã hội.

Chúng ta thử đưa ra vài nhận xét về ý nghĩa bài học chiến thắng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

1. Bài học Hy Sinh và Kiên Trì:

Sức chịu đựng gian khổ, đức tính nhẫn nại bất thối chuyển và ý chí tinh tấn vô tiền khoáng hậu của Ngài quả là một bài học vô giá đối với những ai muốn noi gương Ngài đi tìm Chân lý. Mặt khác, đức tính hy sinh của Ngài quả thật vô bờ bến. Mấy ai dám từ bỏ tiền tài danh vọng để đổi lấy đời sống tu hành khắc khổ, thế mà Thái tử đã lìa bỏ cung điện nguy nga và khước từ quyền uy của một vị Chuyển Luân Thánh Vương để dấn thân vào con đường chông gai hiểm trở, miễn là thực hiện được lý tưởng tự giác giác tha.

2. Bài học Trung Đạo:

Thời bấy giờ ai cũng tin tưởng rằng thờ phụng thần linh hoặc khổ hạnh ép xác mới được cứu rỗi. Có người tương đối sáng suốt hơn cho rằng thân xác là nơi phát xuất những tội lỗi, những ham muốn nhục dục. Bao lâu không còn nô lệ ở thân xác thì tâm hồn mới được thanh thoát, do đó họ hành hạ xác thân cho đến khi sức cùng lực tận để mong thoát khỏi ái dục. Nhưng Đức Phật đã chứng nghiệm rằng khổ hạnh quá đáng là vô ích, vì tâm hồn chỉ minh mẫn trong thân thể lành mạnh. Như vậy chỉ có con đường Trung đạo, không thái quá, không buông lung, mới đưa ta đến cứu cánh Giải thoát. Con đường Trung đạo đó là phương pháp duy nhất để chế ngự thân, khẩu, ý hầu hướng dẫn hành động, lời nói và tư tưởng theo lẽ chánh.

3. Bài học Thực Chứng:

Hầu hết các Tôn giáo thời bấy giờ đều dạy phải thờ cúng thần linh và con người phải quy phục trước uy quyền thưởng phạt của Thượng đế. Sự thực chứng của Ngài chứng minh rằng tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Bất cứ ai kiên trì, nhẫn nại, tinh tấn bất thối chuyển như Ngài cũng có thể tự mình Giải thoát, Giác ngộ và trở thành bậc siêu phàm. Mỗi cá nhân có quyền tự do lựa chọn cho mình một hướng đi và chịu trách nhiệm về mọi hành động của mình. Trong sạch hay ô nhiễm, hạnh phúc hay khổ đau, trầm luân hay Giải thoát đều do mình tạo ra. Đây quả là một cuộc cách mạng giải phóng tư tưởng nô lệ mà trong đó con người phải phục tùng Thượng đế chứ không thể trở thành Thượng đế của chính mình. Có nô lệ chăng là con người nô lệ nơi chấp ngã vì đã tự tạo và tự trói buộc mình trong một thứ xiềng xích Vô minh, Ái Dục. Từ sự nô lệ đó con người trở thành phàm phu, thấp hèn. Chừng nào giải phóng ra khỏi những thằng thúc ấy con người mới được Giải thoát và trở thành Thánh nhân, chứ không cần đến một đấng quyền uy cứu rỗi.

Đức Phật cũng là một nhà đại cách mạng, chủ trương san bằng giai cấp khi Ngài dạy rằng: "Không có giai cấp trong nước mắt cùng mặn. Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ". Ngài chứng tỏ rằng một người trong giai cấp hạ liệt có thể tự giác và trở thành toàn thiện. Trái lại, một người trong giai cấp vua chúa hay Bà la môn nếu hành động đê tiện, không sáng suốt thì vẫn là kẻ hạ liệt.

Chúng ta còn học được ở sự thực chứng của Ngài bài học "Chiến thắng được mình là một chiến công oanh liệt". Bên trong mỗi người đều có một đạo quân rất hùng hậu đang ngự trị đời sống của họ. Muốn đánh đuổi thứ ngoại xâm đó không phải là dễ, vì giặc phiền não đã nằm ngay trong những phần sâu kín nhất của tâm hồn chúng ta và đã trở thành một thứ nội tuyến nguy hiểm mà Albert Camus gọi là "Kẻ lạ mặt". Hành động của chúng ta hằng ngày bị chúng chi phối mà không hề hay biết. Khi tỉnh tọa dưới cội cây Bồ đề, chính Thái tử Sĩ Đạt Ta đã đối diện với những đạo binh ma này và đã hàng phục chúng trước khi trở thành bậc Chánh đẳng Chánh giác. Bất cứ ai muốn hoàn thành sứ mạng tự giác giác tha phải rèn luyện ý chí quật cường và tinh thần dũng cảm để phấn đấu vì "Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình".

Cuối cùng, chúng tôi xin trích dẫn lời ca ngợi Đức Phật của học giả H. G Wells sau đây: "Nơi Đức Phật ta thấy rõ ràng là một con người giản dị, có lòng nhiệt thành; một mình tự lực phát huy ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống thực, một con người như mọi người, chứ không phải một nhân vật thần thoại ẩn hiện trong nhiều truyện hoang đường. Ngài cũng ban cho nhân loại lời khuyên bảo có tánh cách phổ thông. Nhiều quan niệm tân tiến và đạo đức của thế hệ tân thời đều tương hợp với Giáo lý ấy".

Và Sri Radhakrishman cũng nói rằng: "Nơi Đức Phật Cồ Đàm ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện của người Đông phương, ảnh hưởng Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hy hữu cho đến nay không thua kém ảnh hưởng của bất cứ một vị giáo chủ nào trong lịch sử. Mọi người đều sùng kính, tôn Ngài là người đã dựng nên một hệ thống Tôn giáo vô cùng thâm cao huyền diệu. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh của người thiện trí. Đứng về phương diện trí thức thuần túy, đạo đức trang nghiêm và tinh thần minh mẫn, chắc chắn Ngài là một trong những bậc vĩ nhân cao thượng nhất của lịch sử".

3/ Con Đường Hạnh Phúc

Hầu như mọi nỗ lực của con người đều nhắm vào mục đích tìm kiếm một đời sống hạnh phúc. Nhưng thử hỏi mấy ai đã thành công trong mưu cầu tạo dựng một nền hạnh phúc đích thực. Nhiều người càng cố gắng truy tầm hạnh phúc thì nó lại càng trở nên xa vời đối với họ, trong khi nhiều người khác đã nắm sẵn hạnh phúc trong tay nhưng lại thả mồi bắt bóng để rồi cuối cùng hạnh phúc cũng vuột khỏi tầm tay.

Sự thật, hạnh phúc không hoàn toàn tùy thuộc nơi tiền tài, danh vọng mà con người đã phí sức đạt cho bằng được. Thực tế chứng minh, lắm người đã lên đến tột đỉnh của danh vọng hay đã thành công trong việc tạo lập một gia sản to lớn, nhưng vẫn sống một đời sống bất an, vô vị. Hạnh phúc đâu phải xa vời với chúng ta đến thế, chỉ cần hướng tâm về với chủ thể để khai thác một nguồn hạnh phúc bất tận đang sẵn sàng chờ đợi ở nội giới mà chúng ta lãng quên để chạy theo ngoại cảnh.

Muốn khai thác nguồn hạnh phúc nội tại đó chúng ta phải biết một số nguyên tắc căn bản khả dĩ tạo điều kiện tất yếu cho một đời sống an lành. Những yếu tố tiên quyết đó là gì?

1. Kiểm soát nội tâm: (Trầm tĩnh)

Tâm hồn của con người có khả năng chi phối thể xác. Vì thế, tâm chấp chứa những niệm bất thiện thì thật là một điều đại họa, lắm khi có thể giết chết cả một đời người. Ngược lại, nếu an trụ trong Chánh niệm, Chánh tinh tấn, Chánh Tư duy thì tâm có khả năng đem lại cho chúng ta một đời sống hạnh phúc, lành mạnh.

Không nên để cho trí phán đoán của chúng ta mang nhiều thành kiến, cố chấp. Hầu hết những phán đoán hay quyết định trong lúc bực tức hay khi hứng khởi bồng bột sẽ làm cho chúng ta ân hận về sau. Phải giữ tâm bình tĩnh và suy xét kỹ càng thì phán đoán mới không thiên lệch.

Đức Phật dạy: "Không một kẻ thù nào nguy hiểm cho con bằng tâm dục vọng, lòng oán thù và tính ganh tị của con". Thật vậy, chỉ khi nào tâm được rèn luyện và phát triển theo đúng Chánh đạo thì mới đem lại lợi ích cho mình và tha nhân.

Tâm trầm lặng không có nghĩa là yếu mềm, tiêu cực. Thái độ trầm tĩnh của một người chứng tỏ họ là tri thức. Vì khi gặp một hoàn cảnh cam go, nan giải mà vẫn không lo âu bối rối thì thật không phải dễ. Sự trầm lặng đó hẳn có một sức mạnh vô song mà bất kỳ trong mọi hoàn cảnh cũng không thể lay chuyển được. Đó là điều kiện tiên quyết cho một đời sống hạnh phúc, đúng như một danh ngôn Pháp đã nói: "Sự yên lặng và bình an của tâm hồn ngọt ngào hơn các lạc thú".

2. Hành động sáng suốt:

Điều quan trọng không phải là tiền tài, sức lực, học vấn, tài năng mà chính là biết cách sử dụng, và sử dụng đúng lúc, đúng chỗ những khả năng đó để đem lại hạnh phúc cho mình và đồng loại. Vì nếu dùng sai những khả năng sẵn có của mình thì chỉ làm cho mình thêm sa đọa.

Chúng ta phải dũng cảm để biết cái nhu nhược của mình, phải can đảm để biết chỗ hèn nhát của mình, phải bất khuất khi thất bại và khiêm nhường khi chiến thắng. Phải luôn luôn giác tỉnh, sáng suốt để không có những hành động ngông cuồng, mù quáng.

Nhiều người bỗng nhiên phát tài, hoặc thừa hưởng một gia sản to lớn của cha mẹ để lại nhưng họ không biết gìn giữ, phát triển hoặc xử dụng thế nào cho hợp lý, và vì thế chẳng bao lâu gia tài bị tiêu pha hoang phí cho đến khi kiệt tận. Thường thường những của cải không do mồ hôi nước mắt của mình tạo ra thì không có giá trị đích thực. Phải biết sử dụng tài sản đúng mức cho mình và đôi khi vì lợi ích của kẻ khác.

Cũng như tài sản, sức mạnh, học lực, tài năng phải được xử dụng đúng chỗ, đúng lúc thế nào để được lợi ích cho mình và tha nhân.

3. Cải tiến chính mình cho thích ứng với hoàn cảnh:

Chúng ta đang sống trong một thế giới luôn luôn bị biến đổi, nhưng ít ai nhận chân ra được thực trạng đó. Chúng ta không nên cố chấp vào truyền thống, tập tục hay tín ngưỡng được truyền lại từ các bậc tiền nhân chỉ vì nghĩ rằng: "Xưa bày nay làm". Nếu mọi người đều có óc thiển cận như thế thì làm thế nào xã hội có thể tiến hóa được. Có nhiều truyền thống từ ngàn xưa để lại mà không lỗi thời vì luôn luôn thích ứng với xã hội mới. Nhưng không phải vì thế mà các bậc phụ huynh câu nệ và bắt con mình giữ đúng mọi tập tục cổ truyền. Hãy để cho thế hệ hậu lai theo kịp đà tiến hóa của xã hội miễn là không quá lố đến vượt qua khỏi giới hạn luân lý căn bản. Như thế chúng ta nên tránh một cuộc xung đột giữa hai cực đoan của nhóm người bảo thủ và duy tân. Vì cả hai đều là chướng ngại vật cho một sự tiến hóa trung dung tất yếu của xã hội con người.

Tiến bộ trung dung tức là phải chấp nhận một số truyền thống chân chính làm nền tảng hay làm yếu tố hướng dẫn cho mọi trào lưu tiến hóa của xã hội. Có như thế thì xã hội của chúng ta mới không bị cứng đọng mà cũng không tiến quá nhanh đến độ sa chân vào hố thẳm.

Mỗi người là một phần tử tạo thành xã hội, nên phải chịu một phần trách nhiệm về những thăng trầm, tấn thối của xã hội trong đó mình đang sống. Chúng ta phải tự hỏi là đã làm được gì để đóng góp vào trật tự tiến hóa của nhân loại. Đó chính là yếu tố nung đúc tinh thần sáng tạo thay vì tự mãn với những gì đã có.

Mặt khác, ai cũng hiểu rằng "bá nhân bá tánh" nên chúng ta không thể sửa đổi mọi người cho hợp với ý mình, lại càng không thể san bằng mọi chông gai hiểm trở để bước những bước thật êm ái trên đường đời. Ai ra khỏi mà không mong trời yên biển lặng, nhưng tốt hơn hết là họ nên luyện tập mọi khả năng thích ứng hầu đối phó với phong ba bão táp xảy đến bất cứ khi nào. Người muốn bước những bước êm đềm trên đường đầy chông gai phải mang vào chân một đôi giày an toàn; cũng thế muốn có được một đời sống an vui tự tại phải biết cách chế ngự Lục căn để sẳn sàng đối phó và thích ứng với mọi hoàn cảnh mà không bị lôi cuốn hay vướng mắc.

4. Khiêm nhường:

Người trí thức lấy khiêm tốn để đo cái sở tri và cái sở bất tri của mình, nhờ thế họ biết được chỗ khiếm khuyết để bổ túc và kiến thức của họ luôn luôn được mở rộng. Tự mãn là một trở ngại lớn lao trong việc tự rèn luyện bản thân.

Chính Đức Phật đã làm cho mọi người ngạc nhiên và kính phục khi Ngài từ bỏ vương quyền của mình để sống một nếp sống từ tốn; và khi Ngài trở thành bậc Thánh nhân Ngài vẫn không bao giờ tự xưng là giáo chủ. Giáo huấn của Ngài không bao giờ có vẻ tự đắc, tự phụ.

Nhờ khiêm nhường ta không những học được những điều hay lẽ đẹp ở người mà còn không bị người ganh tị, tật đố. Một người tài cao như Hàn Tín thật hiếm có, nhưng vì tính tự cao tự đại nên phải hứng chịu một hậu quả thảm khốc về sau. Trái lại, Trương Lương tuy tài cao mà khiêm tốn nên luôn luôn được quí trọng và nhờ thế ông đã sống một đời sống thật thanh nhàn an lạc.

5. Tiết kiệm thì giờ:

Thì giờ quả là quí báu hơn cả vàng ngọc, vì một ngày ta chỉ có 24 tiếng đồng hồ chứ không thể mua thêm được một giây một phút dù với bất cứ giá nào. Một đời người thật quá ngắn ngủi để cho ta có thể hoàn thành được lý tưởng của mình. Các nhà học giả khi đến tuổi về chiều vẫn còn cảm thấy chưa học hỏi được bao nhiêu. Nên họ ước sao cho ngày tháng dài ra để cho thêm thì giờ học hỏi nghiên cứu. Nhưng trái lại, nhiều người đã không sống trọn vẹn 24 tiếng đồng hồ một ngày để làm những việc đáng làm. Họ tiêu pha thì giờ trong những câu chuyện ngồi lê đôi mách hoặc lo âu cho tương lai, hối tiếc quá khứ mà không biết rằng mình đã đánh mất giây phút quí báu nhất là hiện tại giây phút ngắn ngủi mà ta thực sự hiện hữu trong cuộc đời cho đến khi giây phút quí báu đó vượt khỏi tầm tay rồi mới than van hối tiếc. Nếu bất cứ một giây phút hiện tại nào cũng được xử dụng hợp lý thì quá khứ có gì đáng nuối tiếc và tương lai chắc chắn phải tươi đẹp huy hoàng. Tiêu phí thì giờ không những làm hại chính mình mà đôi khi còn làm mất thì giờ của kẻ khác.

A. De Gasparin nói rằng: "Giữa cái dĩ vãng đã thoát khỏi tay chúng ta và cái tương lai mà ta không thể biết rõ, còn lại cái hiện tại nói rõ bổn phận của ta." Chúng ta phải thực hiện những gì có thể thực hiện được ngày hôm nay, chứ không nên để đến ngày mai. Đừng để cho giây phút hiện tại quí báu này trôi qua một cách vô vị, trong khi những bổn phận đáng làm lại bị lãng quên hoặc hẹn lại một ngày ở tương lai chưa chắc sẽ đến với ta. Boileau cũng bảo rằng: "Hãy giục giã lên, thời gian trôi và lôi cuốn chúng ta theo, chính cái lúc mà tôi nói đây chưa chi đã đi vào quá khứ." Vì quá khứ chỉ là giấc mộng và tương lai nào ai biết chắc sẽ ra sao nên ta phải sống và phải tiết kiệm từng giây, từng phút trong hiện tại này.

6. Kiên nhẫn và chịu đựng:

Hãy kiên nhẫn đối với tất cả mọi người. Sân hận chỉ đưa đến một ngõ cụt không lối thoát. Tâm sân hận không những chỉ làm tổn thương người khác mà còn làm hại chính mình, vì nó gây xáo trộn cho đời sống tâm vật lý của ta. Một lời nói bất nhã không dằn được trong khi tức giận cũng như một mũi tên đã lìa khỏi cung, khi đã gây thương tích cho người khác, thì khó có thể tha thứ được dù có ngàn lần ăn năn hối lỗi cũng đã muộn rồi.

Tục ngữ có câu "No mất ngon, giận mất khôn". Thật vậy khi nóng giận ta dễ trở thành mù quáng. Vì thế kẻ thù ta chiến đấu không phải ai khác mà là lòng sân hận của mình. Tâm ta vừa là bạn đồng minh, cũng vừa là kẻ thù nguy hiểm nhất. Chúng ta phải chiến đấu để tận diệt kẻ thù nội tuyến Tham, Sân, Si này bằng Giới, Định và Huệ.

Hãy nhớ rằng "Một sự nhịn, chín sự lành" đúng như người xưa đã từng kinh nghiệm và dạy lại cho chúng ta.

7. Dĩ ân báo oán:

Muốn thắng địch thủ trước hết ta phải tiêu diệt kẻ thù nội tuyến nguy hiểm hơn, là tâm sân hận của chính mình. Mặt khác, nếu chúng ta bối rối, và hành động mất bình tĩnh trước kẻ thù tức là ta vô tình mắc bẫy của họ.

Nếu ta học được điều hay lẽ đẹp ở bạn bè thì sao chúng ta lại không học được một vài bài học quí giá nơi kẻ thù nghịch? Đâu phải bất cứ ai thù nghịch với ta đều là xấu cả, họ chắc phải có vài đức tính khả kính mà đôi khi ta lại không có. Một người có điểm khả kính như thế đáng lẽ ta phải kết bạn cầu thân hơn là chỉ vì một lầm lỗi của họ mà xem họ như kẻ thù.

Phương pháp tốt đẹp hơn cả là lấy lòng từ ái để đáp lại kẻ đối nghịch. Mới nhìn, xem ra dĩ ân báo oán có vẻ nghịch lý nhưng đó là phương pháp mà các bậc Hiền nhân đã từng áp dụng và thành công. Khi có một người bất bình với ta, trước tiên ta phải xem nguyên nhân nào khiến cho người ấy bất bình. Nếu quả thật vì lầm lỗi của ta, thì ta nên nhìn nhận và chịu lỗi. Nếu chỉ vì đôi bên có chỗ hiểu lầm thì sao ta không tìm lời lẽ hòa hoãn để bắt nhịp cầu thông cảm. Còn nếu đối phương vì có tính ganh tỵ, háo thắng thì chỉ có cách ổn thỏa nhất là rải Tâm từ ái đến cho họ; và chính nhờ Tâm từ ái, một ngày kia có thể biến kẻ thù thành người bạn tốt.

Chúng ta hãy ghi nhớ lời khuyên của La Cordaire: "Nếu anh muốn vui sướng trong chốc lát, cứ trả thù; nhưng nếu anh muốn an vui mãi mãi thì hãy tha thứ". Đó là dĩ ân báo oán vậy.

8. Hòa điệu sống:

Lịch sử nhân loại chứng minh rằng những kỳ thị màu da chủng tộc, sự cuồng tín và lòng tham vọng đã đem lại nhiều bất hạnh cho con người. Những kẻ khát khao quyền uy, tiền tài, danh vọng, nếu được cộng thêm vào tính ganh tỵ thì chẳng khác nào là đổ thêm dầu, họ đã không đóng góp được gì cho hòa bình an lạc của đồng loại mà luôn luôn gieo rắc nhiễu hại cho kẻ khác. Họ không biết hòa điệu sống, vì quên rằng nếu ta muốn sống một cách thái hòa, hạnh phúc thì phải để cho kẻ khác được sống thanh bình, an lạc. Và họ lầm tưởng rằng họ có thể sống thanh bình trên sự đau khổ của kẻ khác, nhưng thật ra họ là những kẻ đau khổ nhất trên đời.

Chúng ta có thể biến thế giới này thành một thiên đàng hay Địa ngục trần gian căn cứ trên khả năng biết hòa điệu sống hay không. Phải biết sống phù hợp với những định luật tự nhiên, như định luật Nhân quả, Nghiệp báo, Vô thường, duyên khởi để chúng ta không còn bối rối hay khó chịu mỗi khi gặp những khó khăn trên đường đời.

Đừng tưởng rằng sống phù hợp với những định luật tự nhiên đó tức là chúng ta không tiến hóa. Chính con người tiến hóa hay không là do mức độ thích ứng với những định luật này nhiều hay ít. Bằng chứng là khoa học đã ứng dụng những định luật tự nhiên hay những nguyên lý căn bản để phát minh và chế tạo.

Tất cả những môn Xã hội học, Tâm lý học, Đạo đức học, Kinh tế học... đều có những định luật riêng của nó. Nếu những định luật này được áp dụng đúng mức thì chắc chắn nhân loại sẽ sống trong hòa bình, an lạc.

Đáng tiếc là một số người sau khi đã có thế lực, tiền tài lại muốn vượt ra khỏi nhịp sống tự nhiên, hy vọng tìm được một chân trời mới lạ. Và quả thật họ đã đạt được một chân trời mới, nhưng đó không phải là chân trời hạnh phúc mà là một Địa ngục trần gian với đầy đủ cực hình thảm khốc: tranh chấp, giết chóc, thù hận.

9. Chấp nhận phê bình:

Tục ngữ ta có câu: "Mật ngọt chết ruồi" và "Thuốc đắng đả tật". Lời khen trông có vẻ ngọt ngào nhưng chỉ làm cho ta thêm cao ngạo tự đắc. Trái lại, lời phê bình chỉ trích xem ra thật là cay đắng nhưng có thể giúp ta sửa chữa được nết hư tật xấu. Vì thế mà người ta có lý khi nói rằng: "khen là thù, chê là bạn".

Chúng ta phải can đảm đón nhận những lời chỉ trích, vì trong số những lời chỉ trích đó hẳn phải có điều đúng với sự thật, khi đó ta phải cố gắng sửa sai và thành thật cám ơn người đã chỉ trích mình hơn là oán giận, tự ái. Đành rằng lòng tự ái được đặt đúng chỗ là một đức tính giúp cho ta tiến bộ. Nhưng tự ái quá đáng, nhất là trong trường hợp bị người phê bình thì chẳng những không có lợi gì cho ta mà còn gây thêm oán thù.

Mặt khác, khi thấy người lầm lỗi ta cũng nên tìm cách phê bình khéo léo để sửa sai cho họ, bằng không thì im lặng còn hơn làm cho họ mất thể diện. Chúng ta phải nhớ rằng: "Lầm lỗi mà ta thấy nơi tha nhân là phản ảnh những lầm lỗi của chính mình". Vì đã làm người thì ai cũng có cái xấu cái tốt như nhau. Câu tục ngữ: "Suy bụng ta ra bụng người" không phải là không có lý. Họ chỉ hơn kém ở chỗ có biết lánh xa những cái xấu và làm những điều tốt hay không mà thôi. Vả lại, ngoại giới phản ảnh tâm trạng của mỗi cá nhân. Lúc ta buồn, vui, hờn, giận thì ngoại cảnh cũng bàng bạc những tâm trạng đó. Một người bất chánh thấy hành động của người khác tương tự như mình đều cho là bất chánh, nhưng sự thật vị tất đã là thế.

Như vậy ta nên hoan hỷ chấp nhận lời chỉ trích đúng dù với thiện tâm hay ác ý. Nhưng khi phải phê bình kẻ khác thì ta chỉ nên phê bình với lòng từ ái.

10. Hãy tự thanh lọc trước (tự giác rồi mới giác tha)

Trong kinh Dhammapada (Pháp Cú), Đức Phật dạy:

Attànam ce tathà kayirà

Yathãnnã manusàsati

Sudanto vata dammetha

Attà hi kira duddamo (Dhammapada 159)

(Dạy người như thế nào, tự mình hành động như thế ấy.

Chính mình hãy tự kiểm soát đầy đủ rồi mới dạy kẻ khác.

Vì kiểm soát được mình mới thật là khó).

Thật là hữu lý khi chúng ta lo tròn bổn phận của mình chứ không xen vào công việc của người khác. Nếu chính mình chưa rành công việc thì dù có xen vào để tiếp tay cho kẻ khác thì cũng chỉ làm cho người vướng bận thêm, lắm khi còn bị người khác oán trách, và vô tình ta làm ơn lại mắc oán. Như vậy ta nên áp dụng câu "Các nhân tự tảo môn tiền tuyết, mạc vấn tha nhân ốc thượng sương" (Mỗi người hãy tự quét tuyết trước sân mình. Đừng thắc mắc tại sao sương rơi trên mái nhà người khác) để tự cải thiện mình. Khi mình đã được cải thiện thì tự nhiên đã nêu một gương lành cho kẻ khác.

Đức Khổng Tử cũng dạy lấy tu thân làm căn bản trước khi muốn tề gia trị quốc hay bình thiên hạ. Nhiều người khi nghe nói Bồ tát vị tha thì nghĩ rằng cứ đi lo việc cho thiên hạ tức là trở thành Bồ tát. Nhưng càng lo việc thiên hạ, thiên hạ càng xua đuổi, mạt sát vì thật ra họ chưa đủ tư cách, đức độ và Trí tuệ của một vị Bồ tát thật sự. Thì ra, muốn trở thành Bồ tát phải tự rèn luyện đầy đủ Bi – Trí - Dũng trước đã.

11. Không lo âu phiền muộn:

Một sự lầm lẫn đáng trách của con người là quá lo âu cho tương lai và nuối tiếc quá khứ. Đại đức Dhammananda dạy rằng: "Bí quyết của một đời sống hạnh phúc và thành công là cố gắng làm những điều đáng làm trong hiện tại, không lo âu tương lai, không nuối tiếc quá khứ". Chúng ta không thể trở về quá khứ để làm những việc đã rồi, cũng không thể đến trước trong tương lai để thực hiện những chương trình chưa được thực hiện trong hiện tại, hay để xem những gì xảy ra ở đó. Người Anh có hai câu tục ngữ rất phù hợp với bí quyết sống không lo âu phiền muộn này. Họ nói rằng "Let bygones be bygones" nghĩa là hãy để cho cái gì đã qua trở về với quá khứ. Và "Never trouble trouble till trouble troubles you". Đừng bao giờ lo âu về những phiền phức chưa đến.

Trong Truyền Đăng Lục có ghi:

Dục tri tiền thế nhân

Kim thân thọ giả thị

Dục tri lai thế quả

Kim thân tác giả thị.

(Muốn biết cái nhân trong đời sống quá khứ hãy nhìn cái kết quả ta thu gặt trong hiện tại và muốn biết đời sống tương lai như thế nào thì hãy xem hành động của mình trong hiện tại.)

Nếu thấy ta có sai lầm trong quá khứ thì hãy ráng cải thiện lấy mình trong hiện tại. Và muốn cho tương lai huy hoàng thì cũng hãy tạo điều kiện lành trong chính hiện tại này.

Vậy không cần lo âu tương lai, nuối tiếc quá khứ, hãy sống trong hiện tại; hãy tạo cho hiện tại một đời sống an lành, vì giây phút hôm nay là hiện thân của cả tương lai lẫn quá khứ.

Tóm lại, kiểm soát nội tâm, hành động sáng suốt, thích ứng hoàn cảnh, khiêm nhường, tiết kiệm thì giờ, kiên nhẫn, dĩ ân báo oán, hòa điệu sống, chấp nhận phê bình, tự giác, không lo âu phiền muộn là những bí quyết của một đời sống hạnh phúc. Thật ra, chúng ta có rất nhiều phương pháp để tạo cho mình một đời sống an lành, nhưng chung qui cũng gói ghém trong lời dạy sau đây của Đức Phật:

Kàyena samvara sàdhu

Sàdhu vàcàya samvaro

Manasa samvaro sàdhu

Sàdhu sabbatthà samvaro

(Giữ thân trong sạch hạnh phúc biết bao.

Giữ khẩu trong sạch hạnh phúc biết bao.

Giữ ý trong sạch hạnh phúc biết bao.

Tất cả đều trong sạch quả thật là hạnh phúc cao quí.)


4/ Vô thường

Tam tướng (Tilakkahana), Vô thường (Aniccà), Khổ não (Dukkha) và Vô ngã (Anattà) là ba yếu tố căn bản của toàn bộ Giáo lý Đức Phật. Thêm vào ba yếu tố này, một mệnh đề thường được Giáo lý Đại thừa đề cập đến là "Vạn Pháp Như Thị". Thực ra mệnh đề này không phải là yếu tố mới mà chỉ là một hệ luận của ba định lý trên. Cũng vậy khi nói "Tất cả Hữu vi Pháp đều Khổ não" (Sabbe sankhàrà dukkhà) chúng ta phải hiểu rằng mệnh đề này chỉ để nhấn mạnh nguyên lý thứ nhất "Tất cả Hữu vi Pháp đều Vô thường" (Sabbe Sankhàrà Aniccà).

Lý Vô thường không phải là Giáo lý duy nhất của Đạo Phật. Vào thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch, một triết gia Hy Lạp Herakleitos đã nói "Tất cả đều ở trong trạng thái biến đổi" (All is in a state of flux) hay "Mọi vật đều trôi chảy" nghĩa là vạn hữu đều bị chi phối bởi luật Vô thường, biến đổi. Về phương diện hiện tượng giới, chân tính của lý Vô thường đã được chứng thực một cách hùng hồn qua kinh nghiệm giác quan của chúng ta.

"Không có thực tại. Chỉ có biến đổi. Tình trạng của mọi cá thể đều bất định, tạm thời và chắc hẳn phải hủy diệt. Trong mỗi sinh cơ bao gồm những yếu tố vật chất và một chuỗi yếu tố tâm linh liên tục. Chính sự phối hợp giữa những yếu tố này đã tạo ra cá nhân. Mọi người, mọi vật và cả Chư Thiên vì thế cũng là tập thành, duyên hợp. Và trong mỗi cá nhân, sự liên hệ giữa những phần tử tập thành luôn luôn thay đổi, không bao giờ tồn tại trong hai sát na liên tiếp. Khi một cá thể vừa mới tập thành thì sự phân tán cũng đã bắt đầu. Không có một cá thể nào không tập thành, không một tập thành nào không thay đổi, không một thay đổi nào không dị biến, và không một dị biến nào lại không phân tán, hủy diệt, chu trình đó không sớm thì muộn cũng phải hoàn tất" (Rhys Davids).

Nhưng chúng ta có thể hỏi tại sao vạn hữu đều Vô thường, biến đổi?

Nên biết rằng luật Vô thường phổ quát liên hệ mật thiết với định lý Nhân quả, trong đó sự hình thành phỏng định hủy diệt và sự hủy diệt phỏng định một sự hình thành khác.

Như kinh Màhàparinibbàna (Đại Niết bàn, Trường Bộ Kinh) dạy: "Cái gì hiện hữu cũng phải có nguyên nhân, điều kiện và hủy diệt".

Luật Vô thường được biểu thị qua ba phương diện:

- Vô thường của kiếp sống

- Vô thường qua sát na

- Vô thường trong Pháp Hữu vi

1. Vô thường trong kiếp sống:

Ngày nay không ai phủ nhận tính cách bất khả hủy diệt của vật chất. Phật giáo nhìn nhận vạn pháp tồn tại qua ba thời điểm: quá khứ, hiện tại và vị lai. Chính kinh Pháp Hoa (Saddharma Pundarìka) dạy rằng: "Vạn pháp như thị". Về phương diện Vũ trụ, thì không có bắt đầu, không có chấm dứt (vô thủy, vô chung). Thật vậy, khó mà chấp nhận được rằng "Có" sinh từ "Không", hay "Không" sinh ra từ "Có". Làm gì có một vật tự sinh mà không do những điều kiện đã có sẵn, và cũng không thể có một vật đi đến hủy diệt hoàn toàn?

Tuy vậy, về phương diện cá thể, không một ai thoát khỏi định luật Vô thường. Trong kinh Pháp Cú (Dhammapada) Đức Phật dạy rằng:

Na antalikkhe na samuddamajjhe

Na pabbatànam vivaram pavissa

Navijjàtì so jagatippadeso

Yatthatthitam nappasaheyya maccu

"Dù trên không trung, giữa đại dương hay trong hang sâu núi thẳm, không đâu trên thế gian này có thể tránh khỏi tử vong".

Sinh, Lão và Tử là những bất hạnh lớn lao của kiếp người. Một đời sống được kể là bắt đầu từ khi mới sinh và trải qua các giai đoạn trưởng thành, dị biến (bởi bịnh, lão) và cuối cùng chấm dứt bằng cái chết.

Vào thế kỷ thứ 4, Ngài Asanga (Vô Trước), một vị Luận sư Đại thừa sáng lập phái Yogàcàra (Du Già) đã viết trong Trung Quán Luận (Madhyànugama):

"Vạn pháp đều tạo thành bởi sự kết hợp giữa nhân và duyên, nên không có tự tánh, khi sự kết hợp đã bị phân hóa thì chắc chắn phải có sự hủy diệt. Thân của chúng sanh gồm Tứ đại (đất, nước, gió, lửa), và khi Tứ đại dung giải thành nguyên tố thì sự chết sẽ tiếp theo".

2. Vô thường qua sát na:

Danh từ sát na (Khana) được dùng để chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Theo Abhidhamma Mahàvibhàsa (Đại Trí Luận) những sự biến đổi của hiện tượng giới được giải thích một cách rõ ràng như sau: "Vạn pháp luôn luôn biến đổi, không một vật gì có thể tồn tại trong hai sát na liên tiếp". Một ngày 24 giờ được tính bằng sáu ngàn bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na.

Vào thế kỷ thứ 5, Ngài Phật Âm (Buddhaghosa) đã viết trong Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) như sau:

"Theo nghĩa rốt ráo, mỗi sát na của sự sinh tồn rất ngắn ngủi, chớp nhoáng như một ý niệm phát khởi. Giống như một bánh xe, khi lăn chỉ tiếp xúc với mặt phẳng tại một điểm, khi dừng cũng chỉ tựa trên một điểm, cũng vậy mỗi sát na sinh tồn của chúng sanh chỉ tồn tại trong một tâm niệm, khi tâm niệm chấm dứt, thì đời sống chúng sanh ấy cũng chấm dứt. Ở quá khứ, chúng sanh ấy chỉ sống trong một tâm niệm quá khứ, chứ không sống trong một tâm niệm hiện tại và vị lai; trong hiện tại chúng sanh ấy chỉ sống trong một tâm niệm hiện tại, không sống trong một tâm niệm quá khứ, vị lai; trong vị lai chúng sanh ấy chỉ sống trong một tâm niệm vị lai, chứ không sống trong tâm niệm quá khứ và hiện tại."

Như vậy, có một nguyên động lực nào nhờ đó mọi vật biến đổi hay không? Tất cả xe cộ chạy được là nhờ dùng một động cơ, máy xay chạy bằng gió, quả đất quay quanh trục và quĩ đạo vì ảnh hưởng của nó đối với mặt trời. Ngay cả một ngón tay của ta cũng không tự nó cử động được. Vì thế động lực của sự biến đổi, thể hiện theo một công thức gọi là Tứ Hữu vi Tướng: "Sanh, Trụ, Dị, Diệt", hay "Thành, Trụ, Hoại, Không", gọi là Tứ tướng.

Theo Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivàda), bốn tính chất của Pháp Hữu vi được diễn tả như sau:

- Trong giai đoạn hình thành, mọi vật được đưa từ tình trạng quá khứ đến tình trạng hiện hữu.

- Trong giai đoạn duy trì, mọi vật được giữ nguyên tình trạng hiện hữu trước khi đi vào tình trạng vị lai.

- Trong giai đoạn dị biến, mọi vật trưởng thành và suy vi.

- Trong giai đoạn hủy diệt, mọi vật bị đưa trở về quá khứ.

Tất cả mọi vật thay đổi đều qua bốn tác động trên. Tuy nhiên có một vấn đề đã được bàn luận sôi nổi trong những thế kỷ sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn là bốn tính chất sinh, trụ, hoại, diệt xảy ra đồng thời hay kế tiếp nhau. Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivàda) và Thượng Tọa Bộ (Theravada) chủ trương đồng thời, trong khi Sautrantika cho là kế tiếp.

3. Vô thường trong pháp Hữu vi:

Pháp Hữu vi là tất cả những gì hiện hữu do nhiều nhân và duyên tạo thành. Trong sự biến đổi của pháp Hữu vi, chúng ta có thể chấp nhận ngay rằng mọi vật đều có sự sinh diệt, nhưng khó mà thấy được sự sinh diệt đó trong từng giờ, từng phút. Mặc dù mệnh đề "Vạn Pháp Giai Không" có thể được xem như là kết luận cuối cùng của định luật Vô thường, nhưng đó cũng chính là một cái bẫy nguy hiểm cho các học giả nghiên cứu Đạo Phật. Các học giả Tây phương dịch chữ "Không" (Sunyatà) là "Hư Vô" (Nothingness) hay tệ hơn nữa là "Hủy Diệt" (Annihilation), và vì thế Mahàsunàtavàda bị gán là "Hư Vô Luận" (Nihilism). Người Phật tử phải hiểu "Vạn Pháp Giai Không" là tất cả các pháp Hữu vi trong hiện tượng giới đều biến đổi không ngừng. Ngài Nàgàrjuna (Long Thọ), một Luận sư Đại thừa, đã viết trong cuốn Madhyamika: "Chính vì 'Không' mà mọi vật trở thành khả hữu, thiếu nó thì không một vật gì trên thế gian này có thể có được".

Nếu vạn hữu không thường biến chuyển thì làm thế nào có sự tiến hóa và phát triển? Và nếu cuộc sống cứ tiếp tục giữ nguyên như lúc bắt đầu không có hoại, diệt thì kết quả và ý nghĩa của nó sẽ ra sao?

Trong cuốn Phật giáo Đại Thừa Cương Yếu, Thiền sư Suzuki viết:

"Sunyatà (Không) không có nghĩa là hư vô, như các nhà luận giải đôi khi đã phiên dịch, mà chỉ có nghĩa là điều kiện tính hay tính cách tạm bợ của mọi hiện hữu trong thế giới hiện tượng, nó đồng nghĩa với Aniyata (bất định) hay Pratiyà (duyên). Vì thế 'Không' trong Phật giáo theo nghĩa tiêu cực là vắng bóng của tính cách đặc thù, là phi hữu tính của mọi cá thể, và theo nghĩa tích cực là tình trạng dị biến của hiện tượng giới, là dòng chuyển hóa liên tục, một chuỗi quả nhân bất tận. Không nên hiểu theo nghĩa 'hủy diệt' hay 'hư vô' vì đối với Phật giáo, Hư Vô Luận chỉ là một thực tại luận ngây thơ."

Nhưng một vấn đề được nêu lên là: Đức Phật có chủ trương Không Luận như một vài đệ tử sau này của Ngài hay không? Câu trả lời là Đức Phật không hề lập một môn phái hay một triết luận riêng rẽ nào cả. Ngài cũng không khuyến khích môn đệ của Ngài chủ trương học thuyết này hay môn phái nọ, Ngài chỉ dạy con đường tự giác cho những ai tín nhiệm Ngài. Lời dạy của Ngài không phải để người sau rút tỉa thành những triết phái riêng của mình rồi cố chấp và bảo thủ, mà chỉ để cho những ai ứng dụng lời dạy đó như một phương tiện cho cứu cánh Giải thoát ra khỏi thế giới Vô thường giả tạm này.

5/ Đối Diện Với Đau Khổ

Lo âu và sầu muộn là hai thứ phiền não đồng sinh. Ở đâu có lo âu, ở đó có phiền muộn. Chúng đồng hiện hữu và liên kết chặt chẽ trong việc chi phối đời sống con người. Chúng ta phải luôn luôn đối diện với thực tế nghĩa là không trốn chạy trước thế lực của giặc phiền não. Mặt khác ta phải tìm cách khắc phục chúng bằng chính sức cố gắng của mình, với sự hỗ trợ của ý chí sắt đá và nhẫn nại kiên trì.

Đau khổ của chúng ta do chính chúng ta tạo nên và tích lũy trong tâm hồn bởi bất lực hay không thấu hiểu được những tình cảm sâu kín nội tại trong chúng ta, và đánh giá sai lầm đối tượng ngoại giới. Nếu chúng ta có một kiến thức chân chính và Trí tuệ thích ứng để nhận thức thực tướng của vạn hữu nghĩa là thấy hiện tượng ngoại giới đều là Vô thường và bản ngã chỉ là vọng tưởng của một tâm hồn chưa được rèn luyện, thì chúng ta đã tiến xa trong việc tìm kiếm một phương thuốc trị liệu căn bệnh phiền não.

Phải huấn luyện khối óc và con tim thế nào để chúng ta có thể hy sinh tự ngã cho mục đích cao cả hơn là phụng sự nhân loại, chúng sinh. đó cũng chính là một trong những điều kiện giúp chúng ta tìm thấy chân hạnh phúc và thái bình.

Nhiều người có những ham muốn, khát vọng, những sợ hãi, lo âu mà không biết làm thế nào để thanh lọc, hay tệ hơn nữa có khi họ không dám nhìn nhận thực trạng đó ngay với chính lương tâm mình. Nhưng dẫu họ có lẩn tránh thì cũng vô phương vì thực trạng ấy vẫn hiện hữu và bành trướng ảnh hưởng. Cũng có khi vì không biết nguyên nhân tâm bịnh của mình, họ đã dùng những phương pháp trị liệu sai lầm để đè nén những cơn khủng hoảng tinh thần, nhưng càng đè nén, những tình cảm này lại tìm lối thoát bằng cách làm xáo trộn sinh hoạt cơ thể để trở thành tâm bịnh. đó là trường hợp một người tìm quên sầu muộn của mình trong rượu chè, cờ bạc hay dùng những thứ dược phẩm có khả năng làm lắng dịu phiền não trong chốc lát như các chất ma túy, cần sa... Phương pháp trị liệu này không những không có hiệu quả lâu bền cho tâm bịnh mà còn làm cho cơ thể suy nhược thêm.

Tất cả bịnh trạng tâm vật lý ấy đều có thể chữa trị bằng phương pháp rèn luyện tinh thần, tức là Thiền định, vì một tâm hồn chưa được rèn luyện kỹ càng là nguyên nhân của mọi phiền não.

Trước hết chúng ta cần phải can đảm chịu đựng mọi khổ đau, không nên tỏ ra cho người khác biết những lo âu, sầu muộn của mình, vì làm như thế đã không lợi ích gì cho mình mà còn gây thêm phiền lụy cho kẻ khác. Trừ khi người mà ta tiết lộ tâm trạng riêng tư là người khách quan sáng suốt có thể giúp chúng ta phấn khởi tinh thần để chiến đấu tích cực hơn.

Nhưng sự thật đã chứng minh rằng nhiều người đánh mất tình bằng hữu chỉ vì thổ lộ quá nhiều lo âu, phiền muộn của mình cho bạn biết. Thật là cao đẹp, nếu chúng ta biết giữ sắc diện trầm tĩnh và tưỏi cười dù đã gặp nhiều khó khăn trở ngại. điều này không phải không thể thực hiện được nếu chúng ta thực sự cố gắng.

Bất hạnh của chúng ta phát xuất từ nhận thức sai lầm về bản chất và mục tiêu tối hậu của cuộc sống. Chính Vô minh chi phối nhận thức sai lầm này để đưa đến kết quả là tà kiến và Tà Tư duy. Quan niệm và tư tưởng sai lầm thì lời nói và hành động cũng sai lầm tức là tà ngữ và tà nghiệp. Cũng chính quan niệm và tư tưởng sai lầm đưa đến cố gắng sai lầm (tà tinh tấn), nuôi mạng sai lầm (tà mạng).

Vì nhận thức đóng một vai trí quan trọng trong việc định đoạt một đời sống hạnh phúc hay khổ đau như thế nên Đức Phật đã dạy rằng: nơi đâu có phiền muộn lo âu khởi sinh, chúng chỉ khởi sinh nơi kẻ thiểu trí chứ không khởi sinh nơi người Trí tuệ.

Nếu tư tưởng tiêu cực sinh ra lo âu, sầu muộn và tư tưởng tích cực đưa đến hy vọng, lý tưởng, thì sự lựa chọn một trong hai mẫu tư tưởng này hoàn toàn tùy thuộc nơi ta. Và như thế, nếu cố gắng, mọi người có khả năng kiểm soát được những sinh hoạt nội tâm của mình.

Những định luật thiên nhiên từ ngoại giới có thể chi phối chúng ta mọi phương diện nhưng không thể chi phối được tư tưởng của chúng ta. Sự thật ngay cả đời sống vật chất ngày nay cũng không còn lệ thuộc ở thiên nhiên vì khoa học đã một phần nào chế ngự được ảnh hưởng của tạo hóa. Những bệnh tật nguy hiểm, những thiên tai khủng khiếp mà ngày xưa được xem là hình phạt của trời đất hay là cơn thịnh nộ của quỉ thàn đã bị nhân loại làm chủ. Nếu đời sống tinh thần đã do ta hoàn toàn chủ động và ngay cả vạn pháp cũng do tâm tạo thì tất cả những bệnh trạng của tâm hồn đều có thể chữa trị được dễ dàng như y học chữa thân bịnh.

Người ta có lý khi nói rằng lo âu làm cho con người chóng già hơn năm tháng. Băn khoăn sợ hãi ở mức độ bình thường là bản năng tự vệ nhưng nếu để chúng trở thành những nguồn động lực thường trực chi phối chúng ta mà chúng ta không có thể kiểm soát được thì thật là nguy hiểm, vì chúng có thể làm đảo lộn mức sinh hoạt bình thường của guồng máy tâm vật lý và có khi làm cho nhiều người quẩn trí điên loạn. Các nhà y học cho biết phần đông bệnh thần kinh gây ra do bị lo sợ chi phối thường xuyên. Thậm chí có người không đủ nghị lực để phấn đấu với giặc phiền não, họ đã tìm lấy cái chết như một lối thoát cuối cùng.

Nhưng Đạo Phật dạy rằng lẩn trốn thực tế như vậy là vô ích, vì thực ra khi chết họ vẫn chất chứa mầm mống phiền não như một tên tội phạm vượt ngục, anh ta khó có thể sống an lành khi án trạng vẫn còn. Chỉ khi nào được phóng thích anh mới thoát được cảnh tù đày; cũng vậy, chỉ khi nào phiền não chấm dứt chúng ta mới được an vui tự tại.

Khổ đau và sầu muộn chỉ là những kết quả của nhân bất thiện ta đã tạo ra từ trước. Đức Phật dạy rằng: Người trí thức chỉ sợ nhân chứ không sợ quả. Nghĩa là điều mà chúng ta cố gắng không phải để trốn tránh trách nhiệm về hành động sai lầm của ta đã làm, nhưng để tránh gieo thêm những nhân bất thiện mới. Như một người vay một số tiền phải vui vẻ tìm cách trả món nợ ấy, vì đó là bổn phận tất nhiên, không phải lo âu, sợ sệt hay miễn cưỡng trốn tránh và hay hơn hết là không nên vay thêm nợ mới.

Đức Phật không còn bị chi phối bởi những phiền não nội tâm, tuy vậy đôi khi Ngài vẫn còn gặp phải những trở ngại từ bên ngoài đưa đến. Nhưng Ngài luôn luôn bình tĩnh đối diện với mọi trở lực bất cứ từ đâu tới.

Một hôm Ngài cùng Đại đức Ananda vào khất thực trong thành Kosambi, bị Hoàng hậu Magandhà xúi giục dân chúng trong thành hễ gặp Đức Thế Tôn và đệ tử Ngài ở đâu thì phải tìm cách hạ nhục và phỉ báng. Nghe như vậy Đại đức Ananda bạch với Đức Phật rằng:

"Bạch Đức Thế Tôn, người trong xứ này phỉ báng chúng ta, vậy chúng ta nên đi xứ khác."

"Này Ananda, nếu người ở xứ ấy cũng phỉ báng chúng ta, bấy giờ chúng ta phải làm sao?"

"Bạch Đức Thế Tôn, chúng ta lại đi đến xứ khác nữa".

"Này Ananda, nếu nơi ấy người ta cũng phỉ báng thì sao?"

"Bạch Đức Thế Tôn, chúng ta lại đi xứ khác nữa vậy."

Đức Thế Tôn liền ôn tồn bảo Đại đức Ananda rằng:

"Này Ananda, làm như vậy không phải đâu. Việc gì sanh ở nơi nào thì diệt ở chỗ đó. Chúng ta phải ở đây nhẫn nhịn cho đến bao giờ họ hết phỉ báng rồi hãy đi. Như vị võ tướng dũng cảm xông pha nơi trận mạc, không sợ gươm đao, không khiếp tên đạn, chúng ta hãy thản nhiên, bình tĩnh trước những lời phỉ báng của kẻ khác."

Như vậy thái độ của bậc trí thức là không sợ khổ đau. Chúng ta phải sáng suốt tìm ra nguyên nhân nào làm cho chúng ta lo âu, sầu muộn để dùng một biện pháp thích nghi khả dĩ diệt tận gốc rễ của chúng, chứ không cần lẩn tránh hay tự phàn nàn phiền trách.

Một nhà phân tâm học nổi tiếng người Anh, khi trả lời một sinh viên câu hỏi phương pháp nào hoàn hảo nhất để khắc phục lo sợ, ông ta nói: "Hãy cố gắng làm lợi ích cho tha nhân." Cậu sinh viên rất đỗi ngạc nhiên trước câu trả lời đó. Nhưng nếu anh ta xét kỹ và áp dụng định luật bất khả đồng hiện hữu trong tâm lý học, nghĩa là hai tư tưởng đối nghịch không bao giờ khởi sinh đồng một lúc, chúng chỉ có thể thay thế hay kế tiếp nhau, như khi có tư tưởng này thì không thể có tư tưởng kia. Như thế khi tâm hồn ta mang tư tưởng vị tha thì không có sự hiện hữu của tư tưởng ích kỷ, và như chúng ta đã đề cập ở trên, tư tưởng tiêu cực vị kỷ là nguyên nhân của mọi lo âu sợ sệt. Thật vậy, đúng như lời nhà phân tâm học, phương pháp hoàn hảo nhất để giải trừ lo sợ là cố gắng làm lợi ích cho tha nhân.

Đức Phật là bằng chứng cụ thể nhất chứng tỏ rằng Ngài đã thoát ly được phiền não nhờ hy sinh đời sống vị kỷ để thực hiện lý tưởng vị tha.

Nếu chúng ta biết cách xoa dịu đau khổ của kẻ khác, thì chúng ta đã xoa dịu đau khổ của chính mình. Một người thật sự muốn được hạnh phúc, không nên phá hoại hạnh phúc của kẻ khác. Tìm hạnh phúc bằng cách lừa đảo, hãm hại kẻ khác là phương pháp sai lầm, vì như Abraham Lincoln đã nói: "Ta có thể lừa dối vài người bất cứ khi nào, và tất cả mọi người trong một thời gian nào đó. Nhưng ta không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi."

Tất cả những ham muốn, khát vọng, những cố gắng, nỗ lực của con người hầu như đều nhắm vào việc tìm kiếm một đời sống hạnh phúc. Nhưng nếu quá vị kỷ, tư lợi người ta có thể dẫm đạp lên hạnh phúc của tha nhân. Và khi bị kẻ khác phản ứng không thuận lợi cho mình, người ta dễ sinh ra bất mãn, nóng nảy hay hung dữ. Như thế hóa ra khi đi tìm hạnh phúc vô tình họ đã rước lấy thêm phiền lụy. Vì một người không thể có hạnh phúc khi nội tâm chứa đầy bất mãn, sân hận và sợ hãi.

Phương pháp duy nhất để diệt trừ những tệ trạng này là phá "ngã chấp" và tạo cho mình cuộc sống đầy bác ái vị tha.

6/ Phật Giáo Và Sự Thờ Cúng

Khi thấy Phật tử đến chùa lễ bái, hay những nhà sư đang kính cẩn nghiêng mình trước đài sen trong khung cảnh trang nghiêm, tịch mịch đầy trầm hương nghi ngút, chắc hẳn có người hỏi rằng: Phật tử có cầu nguyện hay không? Họ làm gì khi đến chùa? Và thái độ của người Phật tử ra sao đối với sự nguyện cầu?

Trước hết chúng ta phải biết cầu nguyện là gì? Đó là một danh từ có nhiều nghĩa. Trong các Tôn giáo tin tưởng và thờ phụng Thượng đế (Một Đấng Tối Cao, Toàn Năng, Toàn Thiện, Toàn Trí đã dựng thế gian và được coi là thủy tổ muôn loài), cầu nguyện có nghĩa là thỉnh cầu ở nơi Ngài một sự chỉ đạo, hộ trì hoặc cầu xin Ngài ban cho sức khỏe, hạnh phúc, thịnh vượng, bính an và đôi khi xin Ngài tha thứ những tội lỗi đã vi phạm.

Chúng ta có thể nói ngay rằng, vì người Phật tử không tin tưởng nơi thần linh hay bất cứ một đấng quyền uy ban ơn giáng phước nào, nên cầu nguyện cũng không có một ý nghĩa như trên. Mặt khác, Phật tử tin tưởng ở nghiệp lực theo đó hạnh phúc hay đau khổ đều là kết quả của hành động, lời nói, ý nghĩ mà mỗi cá nhân tạo ra có ý thức. Đó là một luật tự động vận hành chứ không do một ai hướng dẫn, sắp đặt hay an bài. Vì tự động vận chuyển theo một luật tắc nhất định nên nó không thể thiên vị, thương tình hay tội nghiệp mà tha thứ cho những ai đã vi phạm. Cũng theo luật này (luật Nghiệp quả) tội lỗi không thể được tha thứ bởi một động lực bên ngoài, mà chỉ được sửa sai bằng một pháp đối trị là phước thiện. Bởi vì tội lỗi theo Phật giáo không phải gây ra bởi vi phạm hay bất tuân những luật định do một đấng tối cao nào đó bày ra cho loài người, mà chính vì tự mình hành động sai lầm qua thân, khẩu và ý để đưa đến ô nhiễm và phiền não.

Như vậy không có vấn đề cầu nguyện trong Phật giáo theo nghĩa thông thường tức là cầu xin Thượng đế ban ơn, tha tội, vì mỗi người phải chịu trách nhiệm với chính mình chứ không ai khác về những hành động tội phước, lành, dữ do mình tạo ra.

Thế thì người Phật tử làm gì khi đến chùa? Nếu là Phật tử chân chính chắc chắn họ không đến chùa để cầu nguyện.

Chúng ta hãy theo dõi những người Phật tử đến viếng chùa để xem họ hành động như thế nào và ý nghĩa những hành động ấy ra sao. Trong Phật giáo không ai buộc Phật tử phải đến chùa vào một ngày nhất định, họ có thể đến lúc nào họ muốn, nhưng phần đông Phật tử đi chùa vào những ngày lễ sám hối, rằm và ba mươi, vì họ thích tập thể hơn là đơn độc. Họ thường mặc áo trắng, lam, hay nâu thì đó là những màu sắc tượng trưng cho thanh tịnh, giản dị và khiêm nhượng. Họ đem cả hương, đèn, trầm và hoa, quả, kính cẩn đi vào chánh điện, nơi đó một tượng Phật uy nghi được trang trí ở chỗ cao trọng nhất, và thành kính dâng những lễ vật lên Đức Phật. Hình tượng tự nó không phải là vật thờ cúng mà chỉ là hình ảnh tượng trưng cho họ tưởng niệm đến Đức Phật. Thực ra dù có hình tượng hay không họ cũng tôn thờ Đức Phật, hình tượng chỉ có tác dụng giúp họ dễ chú ý và định tâm hơn. Vì thế, tuy dùng hình tượng để thờ cúng nhưng người Phật tử không cò thái độ như tín đồ của Vật Tổ Giáo, thờ cúng những vật như cây, núi, đá, sông... Những ai xem đạo Phật là Tôn giáo thờ cúng hình tượng là vô căn cứ và thiếu sáng suốt.

Một điểm đáng chú ý nữa là người Phật tử lễ bái tượng Phật không có nghĩa là họ tin rằng Đức Phật sau khi nhập diệt vẫn còn hiện diện trên thế gian, đã thị hiện trong các pho tượng khiến cho các pho tượng này trở nên linh ứng có thể hộ trì cho những người lễ bái hay quở phạt những người bất tôn kính đối với Ngài. Hình tượng chỉ để nhắc nhở lại những hình ảnh sống động lúc Đức Phật còn tại thế, như lúc Tham thiền nhập định, lúc chuyển pháp luân, lúc trì bình khất thực, lúc nhập diệt v.v... khiến cho người Phật tử có cảm tưởng được đối diện với chính Đức Thế Tôn. Cũng vì thế mà việc đắp tượng phải làm thế nào để diễn tả được những vẻ từ, bi, hỷ, xả của Đức Phật, nếu không hình tượng có thể làm sai lạc trí tưởng tượng của người sơ cơ.

Mặc dầu Đức Phật đã nhập diệt nhưng đời sống và Giáo pháp của Ngài vẫn còn có một ảnh hưởng lớn lao đối với nhân loại ngày nay, ảnh hưởng đó sống động và thực tế đến nỗi người Phật tử có cảm tưởng như Đức Phật còn tại thế, có người muốn biến cảm tưởng đó thành sự thật bằng cách cúng cả vật thực đến Đức Phật mặc dù họ thừa biết rằng Ngài không thể thọ dụng.

Linh động hóa như vậy rất hữu ích vì người Phật tử càng vững tin và tinh tấn trên đường đạo, đồng thời sự thờ cúng càng tăng thêm phần ấm cúng và trang nghiêm. Đó là một cách để chứng tỏ rằng ảnh hưởng của Đức Phật đối với con người mọi thời vẫn mạnh mẽ không kém lúc nguyên thủy.

Theo công lệ, cúng dường đèn, hương, hoa quả là một hành động tỏ dấu kính trọng tôn thờ hay tri ân chứ thực ra những vật cúng dường ấy tự nó không có một giá trị đặc biệt.

Đi xa hơn những thông lệ ấy, người Phật tử có một thái độ sáng suốt hơn là chỉ thuần một hành động thờ cúng; như khi dâng hoa trước đài sen người Phật tử suy nghĩ đến chân tướng Vô thường của vạn hữu qua bài kệ mà họ thường đọc:

“Dâng hoa cúng đến Phật Đà

Nguyện mau Giải thoát sinh, già, khổ đau.

Hoa tươi nhưng sẽ úa sầu

Tấm thân Tứ đại tránh sao điêu tàn.”

Bài kệ trên chứng tỏ người Phật tử khi dâng cúng hay tụng niệm không cầu xin được hộ trì hay ban phước, nhưng đến với Đức Phật như người học trò kính mến Thầy chỉ đạo và nguyện theo gương Ngài sớm thoát khỏi khổ hải trầm luân.

Chúng ta nên lưu ý đến sự khác biệt giữa thái độ của một tín đồ thờ thần linh và một người Phật tử khi họ cùng kính cẩn nghiêng mình trước giáo chủ của họ. Trong khi tín đồ thờ thần linh cầu xin được ban phước hay cứu rổi, nghĩa là đời đời họ muốn làm nô lệ cho vị thần linh hay Thượng đế của họ. Người Phật tử trái lại, kính cẩn tôn thờ Đức Phật chỉ vì Ngài là người đã đi trước, là người hướng đạo, chứ họ không muốn làm nô lệ Ngài. Vì vậy tuy tôn kính Đức Phật nhưng người Phật tử vẫn được quyền bình đẳng với Ngài.

Chúng ta hãy tạm lấy so sánh giữa chế độ dân chủ ngày nay và chế độ quân chủ xưa kia để làm thí dụ. Một đàng, trong chế độ quân chủ mọi người dân là con cái hoặc nô lệ của vị Đế Vương. Họ phải tuân phục mọi phán xét, thưởng phạt của vua, vì thế "Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung". Nhưng trong chế độ dân chủ thật sự, mọi người dân đều có quyền bình đẳng, dù là Tổng Thống hay Thủ Tướng cũng là một công dân như bao người khác. Người dân kính trọng vị nguyên thủ quốc gia vì vị này thay thế họ để lãnh đạo, để lo việc chung. Và tất cả mọi người dân đều có thể trở thành nhà lãnh đạo nếu họ có đủ tài, đủ đức và những điều kiện cần thiết, để trở thành vị nguyên thủ.

Bình đẳng và dân chủ hơn, Đức Phật dạy rằng: Không nên tôn kính Ngài bằng cách cúng dường lễ bái. Dù cúng dường bằng những trân châu quý báu cũng không phải là cách tôn kính cao thượng. Phải thực hành theo phương pháp mà Ngài đã kinh nghiệm và chỉ dạy lại để sớm được Giải thoát và đắc quả vị như Ngài.

Thật hiếm có một vị Thầy nào lại không muốn được tôn trọng và chỉ muốn cho học trò sớm ngang hàng bằng mình. Người Phật tử chân chính hẳn phải biết như vậy để không phụ lòng từ ái của Ngài, không cố chấp vào những hình thức lễ bái mà phải tự tu sửa hầu một ngày kia được Giải thoát như Ngài.

Tóm lại, tất cả mọi hình thức thờ cúng tụng niệm của người Phật tử không phải để cầu xin Đức Phật cứu vớt mà chỉ có mục đích tôn kính Đức Phật và tự nguyện noi gương Ngài để hoàn thành sứ mạng tự giác, giác tha.

7/ Triết lý Về Nghiệp

Trong bài này chúng tôi chỉ trình bày một cách vắn tắt về triết lý Nghiệp báo đã được dạy trong kinh điển, chứ không có cao vọng phân tách hay chứng minh cho triết lý cao siêu đó.

Chúng tôi đặc biệt đề cập đến nghiệp lý trong nhà Phật với mục đích phân biệt với những quan niệm khác về "Nghiệp" của các nhà tư tưởng phi Phật giáo ngay trong thời Đức Phật hay mãi về sau. Thật vậy, càng ghi nhận một sự khác biệt lớn lao về Nghiệp Lý giữa Phật giáo, Ấn độ giáo, Bà la môn giáo, Kỳ na giáo (Jainism) và Ajivakism.

Người ta có khuynh hướng đề cập đến chữ nghiệp như là một triết lý chung cho hầu hết các Tôn giáo Đông phương mặc dù trên thực tế các Tôn giáo đều chủ trương dị biệt, hoặc toàn diện hoặc một khía cạnh nào đó.

Một ngộ nhận khác, do một số học giả Tây phương cho rằng Nghiệp đồng nghĩa với thuyết Định Mệnh, trong khi một số người khác chủ trương Nghiệp mang sắc thái xã hội học và sinh vật học. Sở dĩ có những ngộ nhận như thế vì người ta chỉ đọc qua một số sách báo nói về nghiệp lý mà không nghiên cứu Giáo lý chính thống được truyền bá qua kinh điển nguyên thủy.

Trước hết ta phải định nghĩa thế nào là Nghiệp, vì đó là mấu chốt giúp chúng ta phân biệt nghiệp lý dùng trong nhà Phật và trong các Giáo lý khác.

Theo định nghĩa được tìm thấy trong văn học tiền Phật giáo thì chữ Nghiệp được dùng để chỉ các nghi lễ Tôn giáo, hay bổn phận của mỗi cá nhân trong xã hội.

Chúng ta đọc thấy câu sau đây trong Isàupanisad: "Kurvanne veha karmàni jijìvisecchatam samah" (Hãy để cho con người ước vọng sống lâu trăm tuổi và thi hành bổn phận trong xã hội). Điều này chứng tỏ rằng chữ Karma/Kamma Nghiệp dùng với nghĩa bổn phận hay nghiệp vụ.

Trong kinh điển Phật giáo, chữ Karma (Nghiệp) cũng được dùng với nghĩa nghiệp vụ hay nghề nghiệp khác nhau của mỗi người. Từ ngữ Anavajjàni kammàni được Đức Phật dùng để nhắc nhở tín đồ nên làm những nghề nghiệp hợp với đạo đức tức là ám chỉ Chánh mạng chứ không phải Chánh nghiệp. Như thế chứng tỏ rằng trong một vài khía cạnh chữ Nghiệp trong Phật giáo và trong văn học tiền Phật giáo đồng nghĩa.

Tuy nhiên đó chỉ là nghĩa phụ thuộc. Về phương diện triết học, chữ nghiệp có một nghĩa chuyên môn đặc biệt chỉ được đề cập trong văn học Phật giáo mà thôi. Đức Phật dạy rằng: Cetanàham bhikkhave kammam vadàmi (Này các vị Tỳ kheo, Như Lai chủ trương rằng "cố ý" tức là Nghiệp). Định nghĩa này rất phổ thông mà bất cứ ai nghiên cứu kinh điển Pàli đều biết đến. Như vậy, chữ Nghiệp ở đây được dùng để chỉ những hành động cố ý. Những hành động này có thể là Thiện hay Thiện nghiệp, có thể là Bất Thiện hay Bất Thiện nghiệp, có thể được biểu hiệu qua thân gọi là Thân nghiệp, qua khẩu gọi là Khẩu nghiệp hay qua ý thức thuần túy gọi là Ý nghiệp.

Mỗi người đều phải chịu trách nhiệm về kết quả của những hành động thiện hay ác này, dù kết quả đó tốt hay xấu, vui hay khổ. Nghiệp quả này có thể thể hiện trong kiếp sống hiện tại, kiếp kế cận hay bất cứ kiếp sống nào trong tương lai tùy theo tiềm lực của chúng. Cũng có khi nghiệp quả không hiệu nghiệm, vì chúng quá yếu ớt, không có đủ điều kiện, hay nói theo danh từ chuyên môn là không đủ nhân duyên, để hiện khởi.

Thật ra, nếu chúng ta nghiên cứu sâu xa hơn, thì sẽ thấy rằng Cố ý (cetanà) chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để tạo nghiệp trừ phi đó là Ý nghiệp thuần túy. Vì có rất nhiều nghiệp cần đến sự hổ trợ của thân và khẩu.

Thí dụ như một người chưa thể bị ghép tội sát nhân khi anh ta mới có ý định đó. Vì vậy trong kinh Atthasàlini phân định rất rõ ràng 5 điều kiện hội đủ để kết tội sát sanh:

1. Người hay vật có sự sống

2. Biết rằng người hay vật còn sống

3. Có ý muốn giết

4. Cố gắng giết

5. Người hay vật ấy chết bởi hành động cố sát của mình.

Như vậy chỉ đơn thuần một điều kiện thứ 3, tức là mới có ý định, chưa đủ để buộc tội sát sanh. Tuy nhiên điều kiện thứ 3 là điều kiện tất yếu, không có nó không thể gọi là nghiệp. Ví dụ một hành động vô ý của ta gây nên một án mạng, thì đó không phải là tội cố sát, mà chỉ có tội ngộ sát thôi. Những nghiệp biểu hiện qua khẩu cũng vậy, phải đòi hỏi những điều kiện tương tự mới thành tựu được.

Nói một cách vắn tắt, chữ nghiệp được dùng trong Phật giáo để chỉ những hành động cố ý, qua thân, khẩu hay ý và được phẩm định giá trị thiện ác tùy theo kết quả của chúng.

Nhiều người khi nghiên cứu Phật học thường cho rằng Nghiệp lý xuất từ bài kinh Cùlakammavibhanga (Tiểu nghiệp phân biệt), Majjhima Nikàya (Trung Bộ Kinh). Trong bài kinh này Đức Phật có đề cập đến Nghiệp lý để làm tăng trưởng đức tin của hàng tứ chúng, nhưng thật ra đó chưa phải là bài kinh chính đề cập đến triết lý này.

Trong kinh Cùlakammavibhanga, một thanh niên Bà la môn đến yết kiến Đức Phật và yêu cầu Ngài giải thích tại sao trong nhân loại có người yểu tử, người lại sống lâu, có người bịnh hoạn, người lại mạnh khỏe, có người xấu xa, kẻ xinh đẹp, người nghèo hèn, kẻ sang giàu, có người địa vị cao trọng, kẻ lại khốn khổ bần cùng... nguyên nhân nào khiến cho có sự bất bình đẳng như thế giữa con người với con người trong xã hội. Đức Phật nhân đó trả lời rằng: Chúng sanh thọ lãnh báo ứng của Nghiệp mà họ đã tạo tác và chính vì Nghiệp báo này mà có sự bất bình đẳng giữa tất cả chúng sanh.

Maurice Maeterlinek, một văn sĩ nói: "Chúng ta hãy trở lại với thuyết Nghiệp báo Tái sanh vì không thể có cái gì cao đẹp hơn, công bình hơn và đạo đức hơn. Cũng không có một thuyết lý nào khả tín hơn. Tự nó cũng đủ chứng minh về tất cả những bất đồng về thể xác, tri thức và cả những bất công xã hội, những sự thiên lệch ghê gớm của số phận." Giáo sư Allan G. Widgery Standon, giảng sư triết học, thần học, tại đại học đường Cambridge và sau này là giảng sư triết học đại học Duke ở Mỹ cũng đã nói: "Chắc hẳn là con người sinh ra trong những điều kiện bất đồng. Sự bất đồng đó tùy thuộc tư cách hành động của mỗi người trong kiếp quá khứ qua định luật Nghiệp báo."

Nhiều người dùng những phương pháp luận lý như qui nạp, diễn dịch tam đoạn luận, song quan luận... để hiểu triết lý Nghiệp báo thậm thâm vi diệu của Đức Phật. Nhưng vấn đề Nghiệp báo không phải hoàn toàn thuận lý.

Mặc dù Đại đức Ananda khuyên chúng ta chỉ nên tin những gì đạt được bằng lý trí, nhưng triết lý Nghiệp báo không thể chỉ dùng lý mà hiểu được. Do đó Đức Phật dạy rằng: "Kammavipàko acinteyyo" (không nên suy nghĩ về hiệu năng của nghiệp lực). Thật vậy chúng ta chỉ có thể thông suốt được sự vận chuyển của nghiệp qua lý trí, kinh nghiệm và nhất là trực giác.

Dẫu sao chúng ta cũng có thể chứng kiến được sự thật hiển nhiên là có sự thiên lệch rõ rệt trong xã hội loài người nói riêng và chúng sanh nói chung. Và khi Đạo Phật đã chứng tỏ được nguyên nhân của sự bất đồng đó thì dĩ nhiên Đạo Phật cũng chủ trương san bằng những bất công trong xã hội.

Thật vậy, những bất công trong xã hội có thể san bằng, hay giảm thiểu. Về phương diện kinh tế, nếu được cải tạo khéo léo thì trật tự xã hội sẽ ổn định, con người có thể sống lâu hơn, mạnh khỏe hơn, những sự chênh lệch về vật chất được giảm thiểu để đưa xã hội đến chỗ tương đối bình đẳng hơn.

Về phương diện tinh thần, sự bất đồng gây nên do mức độ tham lam, sân hận và si mê nhiều hay ít. Vì vậy muốn san bằng những bất đồng về tinh thần thì phải tiêu diệt tham, sân, si bằng những đức tính Bố thí, Từ bi và Trí tuệ. Thông suốt được tác động vận chuyển của nghiệp tức là đã đắc Đệ Nhị Minh (dutiyà vijjà) trong Tam Minh (tisso vijjà): Túc Mạng Minh, Sinh Tử Minh hay Thiên Nhãn Minh, và Lậu Tận Minh mà Đức Phật đã chứng ngộ trong đêm thành đạo. Khi ấy tâm của Ngài nghiêm tịnh, thanh khiết, vô nhiễm, thoát ly khỏi các lậu hoặc, nhu nhuyến, thích ứng, chánh trực và tự tại. Ngài chuyên chú vào hiện tượng sinh tử của chúng sinh và với Thiên Nhãn, Ngài thấy chúng sanh có kẻ cao thượng, người thấp hèn, kẻ xinh đẹp người xấu xa, kẻ hạnh phúc người khốn khổ; sinh sinh, tử tử tùy theo nghiệp của họ.

Trong kinh Mahàsìhanàda, Majjhima Nikàya (Trung Bộ Kinh), Đức Phật nói đến sự chứng nghiệm của Ngài như là một cuộc thực nghiệm khoa học. Ngài thuyết:

"Có 5 con đường gọi là ngũ đạo. Này Sarìputta, Ngũ đạo đó là gì? Địa ngục, Súc sanh, Ngạ quỷ, người và trời. Như Lai biết rõ những cõi Địa ngục, con đường dẫn tới Địa ngục hay những loại nghiệp nào đưa vào cảnh giới khổ đau này sau khi chết. Này Sàrìputta, Như Lai biết rõ tâm của mỗi chúng sanh trong đó, chúng sanh nào vì hành động như thế nào, tạo những nghiệp nhân như thế nào, rồi phải bị sanh vào Địa ngục như thế nào sau khi thân hoại mạng chung. Rồi với tâm thanh tịnh, sáng suốt và siêu việt. Như Lai thấy chúng sanh ấy đọa vào Địa ngục chịu nhiều đau khổ. Giống như có một người mệt lã, kiệt lực đang khấp khểnh tiến đến một hầm lá cháy ngùn ngụt. Một người khác chứng kiến tận mắt cảnh đó tự nhủ rằng: chắc chắn người này sẽ sa chân vào hầm lá. Rồi quả nhiên sau đó thấy người kia rơi vào hầm lá và chịu nhiều đau khổ. Chúng sanh sinh vào cảnh giới Súc sanh, Ngạ quỷ cũng chịu nhiều bất hạnh tương tự. Chỉ có chúng sanh sinh vào cõi người tương đối sống hạnh phúc hơn, và chúng sanh sinh vào cõi trời được hưởng nhiều an lạc."

Trong kinh Màhàkammavibhanga (Đại nghiệp phân biệt), Majjhima Nikàya (Trung Bộ Kinh), Đức Phật dạy rằng, có một vài vị Đạo sĩ nhờ tinh tấn, chánh niệm đã đắc được định lực. Với nhãn quan siêu phàm, sáng suốt vị ấy thấy một người bất thiện sau khi thân hoại mạng chung vẫn tái sinh vào cảnh giới an lạc hơn. Đạo sĩ ấy nghĩ rằng: Không có nghiệp bất thiện cũng không có quả của nghiệp bất thiện, mọi người dù họ hành động bất thiện hay không khi mạng chung vẫn được Tái sanh vào nhàn cảnh. Đức Phật không đồng ý với quan niệm đó. Đành rằng có thể có chúng sanh mặc dù hành động bất thiện, sau khi thân hoại mạng chung vẫn được sinh vào cảnh giới an lạc. Nhưng sở dĩ như vậy là vì trong những kiếp xa xưa họ đã tạo nhiều thiện nghiệp. Thêm vào đó trong giờ lâm chung người ấy giữ được tâm niệm chân chính.

Sự sai lầm của các Đạo sĩ là do họ chỉ thấy được một vài kiếp sống của một chúng sanh nào đó chứ không thông suốt được toàn diện hiện tượng phức tạp của dòng Nghiệp báo.

Sự vận chuyển của dòng Nghiệp báo chỉ là một trường hợp đặc biệt của nguyên lý Nhân quả trong đó gồm những định luật sinh lý, vật lý, tâm lý và nghiệp lý.

Định luật Nghiệp báo còn được gọi là luật Nhân quả của hành động thiện hay bất thiện. Theo Phật giáo, Nghiệp báo không có nghĩa là định mạng, vì vậy định luật Nghiệp báo không cố định mà thường được xem như là những khuynh hướng. Theo kinh Cùlakammavibhanga thì thường một nghiệp nhân thiện có khuynh hướng đem lại một nghiệp quả lành, một nghiệp nhân bất thiện có khuynh hướng đưa đến một nghiệp quả dữ.

Nếu phân tích chi tiết hơn chúng ta thấy nghiệp được phân loại theo 4 cách:

1. Về phương diện công tác, có 4 loại:

- Sanh nghiệp: là nghiệp lực chi phối Tái sanh. Thức Tái sanh và sắc uẩn đầu tiên tùy thuộc vào sanh nghiệp này.

- Trì nghiệp: là nghiệp lực duy trì sự sinh tồn của một chúng sanh từ khi mới sanh cho đến khi lâm chung. Con người được hưởng hạnh phúc trong kiếp sống của họ hay không tùy thuộc ở trì nghiệp này.

- Chướng nghiệp: là nghiệp lực làm trở ngại sanh nghiệp khiến cho đời sống đang bình thường bỗng gặp khó khăn.

- Đoạn nghiệp: là nghiệp lực cắt đứt sanh nghiệp. Như một người bị chết bất đắc kỳ tử.

Bất đắc kỳ tử không phải do định mệnh hay số phận, cũng không phải oan uổng mà chính vì đoạn nghiệp của một người quá mạnh khiến cho kiếp sống bị đứt đoạn nửa chừng.

2. Về phương diện năng lực của quả báo, nghiệp có 4 loại:

- Cực trọng nghiệp: là nghiệp lực rất mạnh, nếu là nghiệp ác có thể sa đọa vào Địa ngục vô gián nên còn gọi là vô gián nghiệp. Những nghiệp cực trọng đó là giết cha, giết mẹ, giết A la hán, chia rẽ Tăng chúng và gây thương tích cho Đức Phật.

- Cận tử nghiệp: là nghiệp tạo lúc lâm chung. Nghiệp này có thể do hành động, lời nói hay chỉ nhớ lại những nghiệp đã làm lúc sanh tiền. Một người có thể từng làm nhiều việc thiện nhưng khi chết nhớ lại một điều ác nào đó rồi sanh vào cảnh khổ. Trái lại một người suốt đời hầu như làm ác nhưng lúc lâm chung giữ được tâm niệm lành thì vẫn được sanh vào nhàn cảnh. Tuy nhiên những hành động thiện hay ác kia vẫn còn tích trữ cho đến khi hội đủ nhân duyên sẽ phát khởi.

- Tập quán nghiệp: là nghiệp thường được tạo tác trong suốt kiếp sống của ta và nó đã trở thành tập quán. Như một người đồ tể đã biến hành động giết chóc thành thói quen không bỏ được. Do đó, nếu là tập quán bất thiện thì rất nguy hiểm cho sự tu tập. Trái lại nếu đó là tập quán thiện thì đem lại nhiều kết quả khả quan.

- Tích lũy nghiệp: là những nghiệp lực còn duy trì chưa phát hiện vì chưa đủ nhân duyên hay điều kiện thuận tiện. Thường nghiệp này không mạnh lắm, nên làm xong có thể quên ngay.

3. Về phương diện thời gian, phản ứng, nghiệp được chia làm bốn loại:

- Hiện báo nghiệp: là những nghiệp gây hậu quả ngay trong kiếp hiện tại. Như một người ăn trộm bị bắt cầm tù, hay những tội nhân bị bắt quả tang và bị tử hình...

- Sanh báo nghiệp: là những nghiệp đem lại hậu quả trong kiếp kế tiếp. Như một người Bố thí, Trì giới và tâm hồn thanh tịnh khi lâm chung được Tái sanh nơi nhàn cảnh. Trái lại những người sát sanh, trộm cướp... sau khi lâm chung bị sa đọa vào 4 ác đạo.

- Hậu báo nghiệp: Nếu nghiệp chưa được trả quả trong kiếp hiện tại hay trong kiếp kế cận, thì sẽ phát khởi trong bất cứ một kiếp nào về sau khi hội đủ điều kiện. Thường nghiệp lực này không mạnh lắm. Đây chỉ là trường hợp một người làm lành khi lâm chung có tâm niệm bất thiện, phải Tái sanh trong khổ cảnh và sau kiếp sống đó mới nhận được quả lành đã làm trong quá khứ. Trái lại một người làm ác, với tâm niệm lành lúc lâm chung có thể Tái sanh trong nhàn cảnh và sau kiếp sống đó mới chịu đau khổ do kết quả của hành động bất thiện trước kia. Đó là lý do tại sao một vài Đạo sĩ khi thấy một chúng sanh làm ác sau khi thân hoại mạng chung vẫn được sanh vào nhàn cảnh và kết luận rằng không có kết quả của hành động thiện ác. Thật ra, vì họ chỉ thấy được một vài kiếp sống chứ chưa chứng kiến được toàn diện hiện tượng Nghiệp báo.

- Vô hiệu nghiệp: là những nghiệp đáng lý có kết quả trong hiện kiếp hay kiếp sau, nhưng không đủ yếu tố để phát khởi nên trở thành vô hiệu quả. Nhất là trường hợp Đức Phật và các vị A la hán, những nghiệp lực yếu ớt còn sót lại không chi phối được các Ngài.

4. Về phương diện cảnh giới, nghiệp cũng được chia làm 4 loại:

- Bất thiện nghiệp: là những nghiệp trả quả trong bốn đường ác đạo hay làm người trong tình trạng bất hạnh. Đó là những nghiệp: sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối, nói hai lưỡi, ác ngữ, nói lời vô ích, tham, sân và tà kiến.

- Dục giới thiện nghiệp: là những nghiệp trả quả ở 6 cõi trời dục giới, ở đó chúng sanh được hưởng đời sống hạnh phúc, hoặc trả quả làm người được sống an lạc. Những nghiệp này là phóng sanh, bố thí, phạm hạnh, chân thật, nói lời hòa hợp, ái ngữ, nói lời hữu ích, không tham, không sân và Chánh kiến.

- Sắc giới thiện nghiệp: là kết quả của Thiền định hữu sắc, những người đắc được bốn bực thiền hữu sắc sẽ tái sinh trong 16 cõi sắc giới thiên. Ở đó chúng sanh sống rất an tịnh không tham sân và si.

- Vô sắc giới thiện nghiệp: là những kết quả của các bậc thiền vô sắc. Có 4 cõi vô sắc giới thiên, trong đó đời sống rất vi tế, thanh tịnh và tự tại, các chúng sanh ở đó sống rất lâu nhưng đến khi quả báo không còn hiệu lực, họ cũng phải trở lại dục giới chịu những quả vui khổ họ đã tạo trước kia.

Như vậy Nghiệp là một định luật Nhân quả công bằng trong đó có tự do và trách nhiệm, khác hẳn với định mệnh thuyết cho rằng con người phải chịu số phận mà trời đã định sẵn, họ không có quyền tự do quyết định tạo lấy cho mình một đời sống tùy theo ý muốn của mình. Và dĩ nhiên như thế con người không chịu trách nhiệm về mọi hành động của mình, vì trách nhiệm đó đã có trời gánh vác.

Nếu nói rằng Đạo Phật không nêu cao nhân vị thì quả thật quá sai lầm vì trong nghiệp lý con người được hoàn toàn tự do và nhận lãnh trách nhiệm về sự tự do của mình. Trái lại, chính thuyết thiên mệnh mới chà đạp nhân vị của con người, vì theo đó con người luôn luôn bị trời thưởng phạt, chứ không có quyền tự quyết; và nếu có tự quyết thì cũng tự quyết chiều theo ý trời, và con người không bao giờ có ý định được bình đẳng với trời. Đạo Phật không những tôn trọng nhân vị mà còn cố gắng nâng nhân vị đó lên Phật vị một cách hoàn toàn bình đẳng.

Chúng ta đã định nghĩa, phân loại và nói đến tính cách khả chứng bằng lý trí, quan sát, kinh nghiệm trực giác của Nghiệp theo quan niệm nhà Phật. Nay chúng ta hãy so sánh chữ Nghiệp được dùng trong Phật giáo và trong các Tôn giáo khác.

Trước hết, chúng ta hãy so sánh với chủ trương của đạo Jainism, theo đó con người không thể phát triển đức dục và trí dục nếu chưa trả hết tất cả những hậu quả của bất thiện tiền nghiệp. Vì vậy Tôn giáo này dạy tín đồ phải thực hành khổ hạnh để sớm được thoát khỏi ảnh hưởng của tội lỗi mà họ đã làm trong những kiếp quá khứ. Mặt khác, đạo Jainism chủ trương khác hẳn với Phật giáo, rằng giá trị của hành động đạo đức tùy thuộc ở thân hơn là ở ý chí.

Trong kinh Upali, Majjhima Nikàya (Trung Bộ Kinh), có ghi lại trường hợp một vị Đạo sĩ, thuộc Jainism mà thời đó gọi là Nigantha, đến yết kiến Đức Phật. Sau đây là một mẫu đối thoại trong Trường Bộ Kinh:

Khi Đạo sĩ Nigantha chào hỏi Đức Thế Tôn và an tọa, Đức Phật hỏi Đạo sĩ rằng: "Này Đạo sĩ, trong đạo Nigantha vị giáo chủ Nàtaputta dạy có bao nhiêu loại nghiệp?"

"Bạch Đức Gotama, trong đạo của chúng tôi, vị giáo chủ Nàtaputta không hề nói đến cái nghiệp nhưng chỉ dạy về cái tội mà thôi."

"Vậy có bao nhiêu thứ tội?"

"Bạch Ngài, tội có 3 loại: tội do thân, do khẩu và do ý."

"Trong ba tội ấy tội nào nặng hơn hết?"

"Bạch Ngài, chính tội của thân nặng hơn cả."

Sau khi xác nhận ba lần như thế, Đạo sĩ Nigantha lại hỏi Đức Phật:

"Bạch Đức Gotama, còn theo Giáo pháp của Ngài có mấy thứ tội?"

"Này Đạo sĩ, trong Giáo pháp của Như Lai không hề nói đến cái tội, nhưng chỉ dạy về cái nghiệp mà thôi."

"Bạch Ngài, vậy có bao nhiêu thứ nghiệp?"

"Nghiệp cũng có 3 loại là: Thân nghiệp, Khẩu nghiệp và Ý nghiệp."

"Bạch Ngài, trong ba loại nghiệp ấy loại nào quan trọng nhất?"

"Này Đạo sĩ, chính Ý nghiệp là quan trọng nhất."

Qua đoạn kinh trên, chúng ta thấy chủ trương về nghiệp giữa Phật giáo và Jainism không hoàn toàn giống nhau. Một đằng xem hành động cố ý mới tạo nghiệp lực một đằng cho rằng dù vô tình hay cố ý vẫn có giá trị thiện ác như nhau. Hai quan niệm như thế không thể bị đồng nhất hóa được.

Một chủ trương khác của giáo phái khổ hạnh Ajivika cho rằng tất cả những hành động cũng như những kinh nghiệm hiện tại hoàn toàn bị chi phối bởi tiền nghiệp. Trong khi đó Đạo Phật không chấp nhận thuyết tiền định và xem nghiệp quá khứ chỉ là một trong những yếu tố chi phối đời sống hay kinh nghiệm vui khổ của con người mà thôi. Theo Đạo Phật con người không phải sống tùy thuộc hoàn toàn vào nghiệp quá khứ mà chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau:

- Yếu tố ngoại giới: như điều kiện thời tiết, ảnh hưởng của vị trí, phương hướng, cũng như những tình trạng xã hội...

- Yếu tố vật lý: tức là những điều kiện vật chất, những ảnh hưởng của hiện tượng vật lý.

- Yếu tố sinh lý: tức là điều kiện cấu tạo, vận chuyển và tiến hóa của cơ thể, kể cả luật di truyền.

- Yếu tố tâm lý: tức là những định luật về hiện tượng nội giới. Điều này được Đức Phật phân tích rõ ràng trong Abhidhamma (Thắng Pháp).

- Yếu tố nghiệp lý: tức là nguyên lý Nhân quả của hành động cố ý như chúng ta đã định nghĩa và phân loại ở trên.

Như vậy đời sống của con người phối hợp bởi nhiều yếu tố và ảnh hưởng bởi nhiều môi trường chứ không hoàn toàn do nghiệp quá khứ của mình (sayam katam), không do quyết định độc đoán của một ngoại nhân nào (param katam), cũng không ngẫu nhiên mà có (adhicca sammuppanna). Con người cũng như vạn hữu được hình thành bởi nhiều nhân duyên (paticca samupana). Nếu có người hiểu rõ tất cả những điều kiện đó họ có thể chế ngự thiên nhiên và chính mình để đạt đến chỗ tự tại vô ngại.

Đạo Phật nhằm mục đích tiêu diệt mọi điều kiện ràng buộc con người để đưa đến vô điều kiện (unconditioned, Vô vi) tức là Niết bàn, là Giải thoát.

Cuối cùng chúng ta so sánh lý thuyết nghiệp báo với thuyết định mệnh (fatalism) và thuyết di truyền (heredity).

Như chúng ta đã đề cập trước đây, sự liên quan của Nghiệp báo khác hẳn với thuyết định mệnh vì nghiệp không phải là yếu tố duy nhất, độc đoán chi phối đời sống con người và chúng ta có thể tiêu diệt hay biến đổi nghiệp cùng với những điều kiện khác để vươn lên.

Theo kinh điển Bà la môn, mọi hành động của con người đều bị chi phối bởi thiên nhiên (prakiti) và thiên nhiên lại được vị trời Phạm thiên (Thượng đế) an bài định đoạt. Bởi thế con người đành phải bó tay trước số phận mà tạo hóa đã định sẵn, hoặc phải cúng tế để cầu xin được ban ân, ban phúc.

Chắc hẳn là có người không chịu nổi số phận quá đen tối của mình mà tự hỏi không biết ai đã trao cho tạo hóa cái thứ quyền năng độc đoán, bất công như thế. Vì sao tạo hóa lại định số phận mỗi người một khác. Nếu đấng tạo hóa toàn năng thì không toàn thiện, vì Ngài đã tạo một sự chênh lệch lớn lao giữa con người với con người. Nhưng nếu Ngài toàn thiện thì không toàn năng vì Ngài không đủ sức san bằng sự chênh lệch đó để đưa con người đến chỗ tương đối hạnh phúc hơn.

Dĩ nhiên con người có quyền đưa ra những vấn nạn hữu lý đó. Vì không lý do gì, trong cái thời mà con người đã ý thức được chủ quyền và nhân bản lại bị cưỡng bách phải chịu qui phục trước một tha lực chuyên chế hoàn toàn không do họ ủy quyền.

Theo Đạo Phật, thì con người là Thượng đế của chính mình chứ không ai khác (attàhi attanonàtho, ko hi nàtho parosiyà). Vì tất cả các điều kiện, kể cả nghiệp đều có thể tự mình sửa đổi được. Bởi thế, hạnh phúc hay đau khổ đều do mỗi cá nhân tạo lấy cho mình. Được tự do hay nô lệ tùy thuộc ở chỗ con người làm chủ các điều kiện hay bị các điều kiện làm chủ.

- Về phương diện thuyết di truyền, mặc dù Đạo Phật nhìn nhận rằng luật di truyền có ảnh hưởng đến đời sống con người, nhưng di truyền không phải là một yếu tố quyết định duy nhất như một vài nhà tư tưởng hay khoa học gia chủ trương. Di truyền và nghiệp là hai yếu tố khác nhau trong những điều kiện tạo thành đời sống con người: Di truyền thuộc về điều kiện sinh lý (bìyaniyàma) trong khi nghiệp đặt căn bản trên ý chí (Cetanà). Một người có thể có một đặc tính thể chất nào đó từ cha mẹ di truyền lại nhưng chính nghiệp lực do anh ta tạo ra có ái lực đối với đặc tính đó, sự tương ứng này gọi là nhân duyên tương khởi.

Trong trường hợp tính tình thì nguồn gốc dường như không phải là di truyền mà là nghiệp lực hay những điều kiện xã hội. Hai đứa con song sinh ít khi có tính tình giống nhau, và nếu chúng được đặt trong những điều kiện xã hội khác nhau thì tính tình lại càng biến đổi. Xem thế yếu tố di truyền không phải là yếu tố quyết định.

Khi phân tích các tác phẩm Mac Taggart, Giáo sư Triết học đại học đường Cambridge, người đã nhiệt liệt bênh vực thuyết Nghiệp báo trong cuốn "Vài Giáo Điều Tôn giáo" (Some Dogmas of Religion), và cuốn "Bản Chất Của Hiện Hữu", Giáo sư C. D Broad đã viết: "Mac Taggart đã chỉ cho chúng ta thấy rằng giả thuyết về ái lực tương tuyển giữa những loại tâm hồn này và thể xác kia có thể giải thích được sự tương đồng về đặc tính tinh thần, giữa cha mẹ và con cái mà người ta thường cho là trực tiếp ảnh hưởng của sự di truyền. Vì di truyền nên con cái giống với cha mẹ hơn là người khác. Thêm vào đó, những cơ thể giống nhau sẽ tương ứng với những tâm lý giống nhau, và vì thế những tiếp hợp tử phát triển thành những cơ thể tương tự có khuynh hướng hấp dẫn những tâm lý tương tự để tạo thành thai bào. Tôi nghĩ phải nhìn nhận rằng lý thuyết này rất thích đáng và tinh tế" (Examination of Mac Taggart's Phylosophy, Vol. 2, Part 2, Page 614 615).

Tóm lại, Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong Giáo lý nhà Phật. Tuy nhiên chúng ta nên nhớ rằng Đức Phật thuyết minh nghiệp lý không phải với mục đích khuyến khích làm điều kiện để hưởng thụ hạnh phúc trong cõi Cực lạc, Thiên đường, nhưng để giúp con người thoát ra khỏi dòng Nghiệp báo triền miên (Kammakkhayya). Do đó ngay từ những điều kiện đầu tiên để đạt được quả vị thứ nhất quả (Dự Lưu) trong hàng Thánh nhân là phải:

- Diệt Thân kiến (sakyà ditthi), tức là không chấp ngã.

- Diệt Hoài nghi (vicikiccà), tức là nắm được Chân lý, không còn tin phù phiếm ở định mệnh.

- Diệt Giới cấm thủ (sìlabbataparàmàsa), tức là không còn chấp vào các nghi lễ, định lệ nữa.

Một người như thế sẽ không còn thối hóa (avinipàta) và chắc chắn sẽ đạt được cứu cánh Giác ngộ (Niyatosambo dhiparàyàno). Đó là con đường dẫn tới sự đoạn diệt ảnh hưởng của nghiệp lực và phát triển tinh thần Vô ngã, Từ bi và Trí tuệ.

8/ Cúng Dường Cao Thượng

Một điểm đặc biệt đáng để ý là trong tám muôn bốn ngàn Giáo pháp của Đức Phật gồm trong Tam tạng Kinh, Luật, Luận không thấy đề cập đến những hình thức lễ bái, thờ phượng cúng dường (hiểu theo nghĩa thông thường). Do đó mỗi quốc độ có một lối lễ bái cúng dường riêng. Các hình thức lễ bái này phản ảnh phong tục tập quán của từng địa phương. Cách thiết trí bàn thờ Phật, cách hành lễ, cách tụng kinh, những lễ cụ để điều hòa tiếng kinh câu kệ mỗi nơi một khác. Âm nhạc của quốc gia cũng ảnh hưởng đến lễ nghi thờ lạy ở chùa chiền. Bởi lẽ kinh điển không ấn định một hình thức lễ bái nào nên nhiều nơi, vì ảnh hưởng của các Tôn giáo khác, của tục lệ cổ truyền, những nghi thức mang đày tính cách dị đoan mê tín được du nhập khiến kẻ bàng quan dễ có một nhận định sai lầm về Đạo Phật.

Hiện nay vẫn còn những lối lễ bái, tế lễ mà hàng ngoại đạo ngày xưa hay dùng đến, lối lễ bái mà Đức Phật và hàng Thánh nhân thường chê trách. Ở Việt Nam ta trước kia và mãi đến ngày nay, một vài địa phương vẫn còn giữ tục đốt vàng mã ở chùa, làm bùa yểm đạo, làm chay đàn phá ngục... Nhiều người đến chùa lễ bái để cầu Phật ban phúc, cầu được buôn bán phát tài, cầu sinh con trai, cầu được đầy đủ sức khỏe... Nhưng dầu sao những lối lễ bái mang nặng tính chất mê tín dị đoan ấy, những hình thức cúng dường bị ảnh hưởng nặng nề bởi phong tục tập quán lỗi thời, không thể một sớm một chiều sửa đổi được. Chỉ mong sao những lễ nghi tôn cách ấy không quá ra ngoài Giáo lý của Đức Phật, khiến cho những kẻ si mê chỉ bám víu vào đó, chỉ nô lệ vào những hình thức đó mà sinh ra cố chấp, xao lãng hay làm lệch hướng đi đạo thuần khiết của đấng Từ Phụ.

Đức Phật chê trách những lối cúng dường bằng hình thức ấy. Kinh Kim Cang có ghi:

“Nhược dĩ sắc kiến ngã,

Dĩ âm thanh cầu ngã.

Thị nhân hành tà đạo.

Bất năng kiến Như Lai.”

(Nếu dùng sắc để thấy Như Lai, dùng âm thanh để cầu Như Lai đó là kẻ làm tà đạo, không thể thấy Như Lai).

Vậy chúng ta phải cúng dường Đức Phật bằng cách nào mới gọi là cúng dường cao thượng?

Trong tập Digha Nikàya (Trường Bộ Kinh), kinh Đại Niết bàn, nói đến những ngày cuối cùng của Đức Phật, có chép (đoạn này xảy ra vào ngày Đức Phật đã 80 tuổi, sau hơn 45 năm chu du dựng đạo, giáo hóa chúng sanh):

Một bữa nọ đến gần thành Kusinàrà, sau khi dùng cơm trưa của Cunda dâng cúng, Đức Thế Tôn thọ bịnh kiết lỵ. Bệnh trầm trọng nhưng Ngài vẫn gắng gượng để đến Kusinàrà, vào ngụ trong rừng Sàlà của Đức vua Mala. Khi đến nơi Ngài nói với Đại đức Ananda:

- Này Ananda, Như Lai mệt mỏi muốn nằm nghỉ, hãy trải chỗ nằm cho Như Lai, đầu xây về hướng Bắc, giữa hai cây Song Thọ (Sàlà).

- Xin vâng, Bạch Đức Thế Tôn!

Đại đức Ananda nghe theo lời Phật dạy, trải chỗ nằm đầu hướng về phía Bắc, giữa hai cây Song Thọ. Rồi Đức Thế Tôn nằm xuống, nghiêng mình về bên phải, dáng nằm như con sư tử, chân trái gác trên chân mặt, giữ tâm niệm và hoàn toàn giác tỉnh.

Lúc bấy giờ, mặc dầu trái mùa, hai cây Sàlà vẫn trổ hoa, hoa nở tràn đầy cành lá. Hoa rơi vãi trên thân Đức Thế Tôn để cúng dường Ngài. Hoa Mạn thù (Mandarava) từ trên không trung nhẹ nhàng rơi xuống, rồi tung lên gieo vãi trên thân Đức Phật. Nhạc trời tấu vang lừng, những bản thiên ca trổi dậy để cúng dường Ngài.

Đức Phật gọi Ananda đến dạy:

- "Này Ananda, các cây Sàlà trổ hoa trái mùa và hoa nở tràn đầy cành lá. Những đóa hoa này tung khắp và rơi vãi trên thân thể Như Lai để cúng dường. Hoa Mạn thù từ trên không trung rơi xuống và tung vãi khắp mình Như Lai để cúng dường. Bột Chiên đàn từ trên không rơi xuống, rồi tung lên gieo vãi trên thân Như Lai, nhạc trời vang lừng, những bản thiên ca từ hư không trổi lên để cúng dường Như Lai.

Thế nhưng, này Ananda không phải như vậy là tôn kính, sùng bái cúng dường làm vẻ vang Như Lai đâu. Này Ananda, bất luận Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thiện nam hay tín nữ nào thực hành đúng Chánh pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháp, giữ gìn phẩm hạnh thanh cao, ấy là người tôn kính sùng bái, cúng dường và làm vẻ vang Như Lai bằng cách cao thượng. Thế nên, này Ananda, phải gắng công tu tập, thực hành theo Chánh pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháp, giữ gìn phẩm hạnh thanh cao."

Cao quí thay! Tốt đẹp thay lời nói vàng ngọc cuối cùng của Đức Phật. Cho đến giờ phút chót, Ngài vẫn còn tìm dịp nhắc nhở chúng Tăng:

"Sau khi Như Lai tịch diệt, các con hãy lấy giới luật làm Thầy. Thực hiện đứng đắn những lời Giáo huấn của Như Lai. Đó là cách cúng dường Như Lai cao thượng nhất."

Thắp nén hương cúng dường Tam bảo, không phải chúng ta dâng cúng đến chư Phật bằng mùi thơm của hương trầm, của bông hoa, mà bằng hương thơm của Giới, của Định, của Huệ và của Tri kiến (giới hương, định hương, dữ huệ hương, Giải thoát, Giải thoát trí kiến hương, quang minh vân đài biến pháp giới, cúng dường thập phương chư Phật...).

Không có hương nào thơm bằng hương của Giới.

Không có hương nào thơm bằng hương của Định.

Không có hương nào thơm bằng hương của Huệ.

Không có hương nào thơm bằng hương Tri Kiến.

Chúng ta hãy dùng mùi thơm của Giới, của Định, của Huệ để kết thành một đài hương toả rộng khắp ta bà thế giới cúng dường đến chư Phật.

Nhưng làm thế nào để có được ba thứ hương thơm cao quí ấy? Muốn có được cái hương thơm tinh khiết ấy để cúng dường Chư Phật, muốn có mùi thơm cao quí ấy để làm phương tiện Giải thoát hãy thực hành những điều Phật dạy.

Giáo pháp của Đức Phật rất nhiều nhưng tựu trung không ngoài công việc tu Trì giới, Định, Huệ để tận diệt Tham Sân Si. Đức Phật đã tóm tắt Giáo pháp của Ngài bằng 4 câu kệ sau đây:

Sabbapàpassa Akaranam

Kusalassa Upasampadà

Sacitta Pariyodapanam

Etam Buddhàna Sàsanam

“Chư ác mạc tác

Chúng thiện phụng hành

Tự tịnh kỳ ý

Thị chư Phật giáo.”

(Đừng làm điều ác

Làm những việc lành

Giữ tâm trong sạch

Lời chư Phật dạy.) (Dhammapadà Kinh Pháp Cú, 183)

Chỉ chừng đó thôi sao? Vâng, chỉ chừng đó. Rõ ràng, giản dị, dễ thực hành, dễ nương theo. Nếu làm được, sẽ trở nên cao thượng.

Tùy theo căn cỏ, tùy hạng người, Đức Phật dạy một lối thực hành khác nhau nhưng vẫn đi đến một mục tiêu là Giải thoát.

Hàng tại gia cư sĩ, Ngài dạy thọTam Qui, trì Ngũ giới, hành Thập thiện và Bố thí, Tham thiền đó là phương thức thoát khổ, là con đường dẫn đến nơi an vui.

- Thân: không trộm cắp, không tà dâm, không sát sanh.

- Khẩu: không nói dối, không nói lời đâm thọc, không nói lời vô ích, mắng nhiếc, chửi rủa.

- Ý: không tham lam, không sân hận, không si mê.

Thực hiện những điều đó là cúng dường Đức Phật bằng cách cao thượng.

Giới là bước đầu của Phật tử. Giới năng sinh Định, Định năng sinh Huệ. Giới có trong sạch mới mong có Định và Huệ. Có giữ được ngũ giới mới mong Tái sanh làm Trời, làm người, nếu không trì ngũ giới bốn ác đạo sẽ không xa mấy: "Ngũ giới bất trì nhơn thiên lộ triệt." Nên không có giới thì Tái sanh làm trời, làm người còn khó huống chi là Giác ngộ Giải thoát.

Giới là nền tảng căn bản. Giới nhằm cải thiện lời nói và hành động, mở đường cho sự chuyển hóa tinh thần. Nhưng muốn thanh lọc nội tâm phải có định và tuệ. Nghĩa là phải hành thiền. Vì chỉ có thiền mới có khả năng chấm dứt phiền não, khổ đau. Có hai loại thiền:

Thiền chỉ hay thiền vắng lặng, phát triển định tâm, giúp tâm an trú vắng lặng khắc chế được năm chướng ngại tinh thần: tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên (dã dượi, buồn ngủ), trạo hối (dao động, hối tiếc) và hoài nghi. Thiền quán hay thiền minh sát, phát huy trí tuệ, bứng tận gốc rễ năm chướng ngại, trực giác chân tướng Vô thường, Khổ não, Vô ngã của vạn hữu, đạt cứu cánh Giải thoát.

Thực hành giới, định, tuệ để giải thoát là làm đúng theo lời Phật dạy, là cúng dường chư Phật một cách cao thượng.

Tóm lại, phương pháp cúng dường cao thượng nhất, quí báu hơn mọi cách cúng dường là thực hiện Giáo pháp của Đức Phật. Tuy thế những hình thức lễ bái không phải là không cần thiết, nó là cơ hội để dấy lòng từ thiện từ trong tiềm thức của con người, là thói quen để con người làm việc thiện, là những giây phút hạnh phúc, là cơ hội để thân, khẩu, ý xa dàn với ngũ dục, là dịp để cõi lòng mở rộng đón nhận ánh đạo vàng. Bởi vậy trong những khi Phật tử đến chùa lễ bái, các vị có trách nhiệm hướng dẫn tinh thần cho Phật tử cần nhân dịp này nhắc nhở thiện tín làm lành, lánh dữ, Bố thí, Trì giới, Tham thiền. Có như thế việc đến chùa lễ bái của thiện tín mới đem lại nhiều lợi ích cho kiếp hiện tại lẫn vị lai. Những hình thức lễ bái cúng dường thông thường nếu được hỗ trợ bằng sự cúng dường cao thượng tức là hỗ trợ bằng cách thực hành Giáo pháp của Đức Phật, thì con đường đến nơi an vui không xa mấy:

"Thực hành Giáo pháp của Như Lai là cúng dường Như Lai cao thượng nhất."

9/ Chuyển Hóa Tư Tưởng

Nói theo Pascal: "Con người là một cây sậy biết tư tưởng", nhưng nếu tư tưởng giúp con người vượt xa loài vật thì cũng chính Tư duy giam hãm con người trong vòng lẩn quẩn của vọng tưởng và đưa đến kiến chấp. Cuộc chiến tranh ý thức hệ ngày nay cũng đủ chứng minh rằng nhân loại đang tự tiêu diệt trong chính tư tưởng của mình. Vì vậy Đạo Phật chủ trương giải phóng được tư tưởng tức là Giải thoát.

Con đường đưa đến cuộc giải phóng tư tưởng là suy nghĩ chơn chánh: Chánh Tư duy.

Chánh Tư duy là một chi pháp trong Bát Chánh đạo. Danh từ Phạn ngữ gọi là Sammà sankappa. Sammà là chân chánh, Sankappa do động từ Sankappeti là suy tư hay nghĩ tưởng. Những danh từ phạn ngữ Sannà (tưởng), Vipassanà (Quán), Cintà (tư), Anupassanà (trầm tư mặc tưởng) tuy có nghĩa riêng của nó nhưng ở đây được xem như đồng nghĩa với Sankappa (Tư duy).

Trong Tam Huệ, Tư duy là một pháp rèn luyện trí huệ, nhưng Tư duy đó phải là một thứ suy nghĩ chơn chánh. Có suy nghĩ chân chánh thì tri kiến mới chơn chánh, hành động và lời nói mới chân chánh, như thế chúng ta thấy rằng Chánh Tư duy đóng một vai trí quan trọng trong việc tu tập để chóng đạt tới đích Giải thoát Giác ngộ.

Vậy thế nào gọi là Chánh Tư duy?

Tư tưởng chân chánh là pháp đối trị ba thứ vọng tưởng hay Tà Tư duy:

1. Dục tưởng: Suy nghĩ đến dục lạc (kàmasukha), nói một cách khác là tư tưởng bám víu trong tài, sắc, lợi, danh hay trong ngũ trần: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc.

2. Sân tưởng: Là nuôi tâm niệm bất bình giận hờn ganh ghét về những đối tượng không vừa lòng hợp ý.

3. Hại tưởng: Suy nghĩ những phương kế hãm hại kẻ thù nghịch với mình, nhất là tiêu diệt đối thủ.

Trái với ba vọng tưởng đó là Chánh Tư duy:

1. Ly dục tưởng: Hằng suy nghĩ đến tính cách Vô thường, tạm bợ của pháp trần. Đức Phật ví sự tan hợp của ngũ trần hay nói chung là pháp Hữu vi như giấc mộng, như trí huyễn hóa, như bọt nước, như ảo ảnh, như sương mai, như ánh chớp trên không trung (Nhất thiết Hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ diệc như điện ưng tác như thị quán). Suy nghĩ như thế là để thoát dần ra khỏi trói buộc của dục lạc ngũ trần. Đời sống của chúng ta hẳn sẽ tự tại, hạnh phúc hơn khi không còn bị dục lạc chi phối. Đúng như một nhà tư tưởng Tây phương đã nói: "Muốn có được những hạnh phúc cao thượng thì hãy lánh xa những lạc thú đê hèn".

2. Ly sân tưởng: Không nuôi trong lòng những tư tưởng sân hận. Trong Pháp Cú kinh Đức Phật có dạy:

"Nó nhục mạ ta, đánh đập ta, chiến thắng ta và cướp đoạt của ta. Người nào hằng ôm ấp những tâm niệm như thế thì oán hận không bao giờ nguôi... nhưng kẻ nào xả ly được những tâm niệm ấy thì oán hận ắt phải tiêu tan." (Akkochimam avadhimam, ajinimam ahàsime. Ye tam upa nayhanti, veram tesam nasammati... ye tam nu panayhanti veram tesùpasammati).

Một đoạn kinh khác dạy: "Phải dứt bỏ sân hận, phải tránh xa ngã mạn và đoạn lìa mọi ràng buộc thì phiền não không thể chi phối được". Thật vậy người ôm ấp tư tưởng sân hận tự đốt cháy lấy mình bằng chính tư tưởng sân hận đó trước khi gia hại được kẻ khác.

Muốn giải phóng tư tưởng ra khỏi sân hận phải diệt trừ tâm niệm đó bằng cách rèn luyện đức tính Từ, Bi, Hỷ, Xả. Vì chỉ có lòng Từ bi mới diệt được hận thù (Averana veràni sammanti). Trái lại hận thù chỉ làm cho hận thù thêm chồng chất.

Trong 40 đề mục Thiền định, đề mục đối trị tâm niệm sân hận là Từ bi Quán (Mettà Bhavana). Từ bi Quán là rải từ tâm đến tất cả chúng sanh không phân biệt thân hay thù, người hay vật. Như vậy người hành Từ bi Quán phải luôn luôn giữ tâm cởi mở, trong lành và mát dịu như nước cam lồ, phải hằng niệm tưởng như vầy:

"Nguyện cho tất cả chúng sanh đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự an vui." (Sabbe sattà averàhontu, sukhità hontu).

Chúng ta có thể niệm tưởng như thế bất cứ lúc nào chứ không cần phải ngồi kiết già hàng giờ như khi thực hành các đề mục Thiền định khác.

Hồi hướng công đức sau mỗi lúc ta làm được một điều phước thiện, cũng là một hình thức khác của Từ bi Quán. Nhờ niệm Tâm từ mà dần dần hành giả dẹp bỏ được lòng oán hận, ganh tị, bỏn sẻn, vị kỷ và phát huy tâm bác ái, hoan hỷ, quảng đại, vị tha.

Một bậc chỉ có thể gọi là Bồ tát khi đã phát tâm cứu độ chúng sanh, nghĩa là phải có Tâm từ bi xuất chúng, chứ không thể tự xem mình là Bồ tát khi tâm còn ôm ấp hận thù, oan trái.

3. Ly hại tưởng: Là dẹp bỏ những ý nghĩ hãm hại kẻ khác. Con người vì quá chấp ngã và ngã sở nên sẵn sàng hãm hại, tiêu diệt kẻ nào đụng đến quyền lợi, danh dự của mình. Nhưng nếu mình biết tự ái, biết tự bảo vệ hạnh phúc và sự sống còn của mình thì tại sao không tôn trọng hạnh phúc và sự an nguy của kẻ khác? Đức Khổng Tử dạy: "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân." (cái gì ta không muốn thì đừng làm cho người). Vậy ta không muốn đau khổ thì tại sao tìm hạnh phúc trên sự đau khổ của kẻ khác. Và sao ta không tìm hạnh phúc bằng cách đem an vui đến tha nhân, như câu châm ngôn Tây phương nói rằng: "Bàn tay tặng hoa hồng tự nó thơm trước."

Người Phật tử nên ghi nhớ lời dạy sau đây của Đức Từ phụ:

"Ai ai cũng sợ gươm đao, ai ai cũng đều sợ chết. Lấy bụng ta suy bụng người, không nên giết hại, cũng không nên bảo ai giết hại mà phải thực hành tâm hỷ xả, bao dung để diệt trừ tâm niệm hãm hại kẻ khác".

Trên đây là chúng ta vừa nói đến ba Pháp Chánh Tư duy để đối trị với ba ác tưởng. Trong kinh khác Đức Phật lại dạy thêm 10 Pháp Tư duy gọi là Thập tưởng.

1. Vô thường tưởng (Aniccà Sannà): Suy tưởng đến nguyên lý thứ nhất của vạn hữu là Vô thường. Nhìn sự sinh diệt của hiện tượng ngoại giới cũng như chính nội tâm, ta biết rằng: "Các Pháp do nhân duyên hợp khởi đều phải bị định luật biến đổi chi phối." (Sabbe Sankhàrà aniccà). Suy nghĩ như thế là để giải phóng tư tưởng ra khỏi các vọng chấp tướng.

2. Khổ tưởng (Dukkha Sannà): Suy nghĩ đến tính cách Khổ não của đời sống trong hiện tượng giới. Chữ khổ ở đây không hoàn toàn ám chỉ thân khổ hay tâm khổ, như sinh, già, đau, chết, phiền muộn, uất ức... mà còn bao hàm tính cách bất lợi, phiền toái của pháp Hữu vi (sabbe sankhàrà dukkhà). Đức Lão Tử than rằng: "Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vị ngô hữu thân, cập ngô vô thân ngô hữu hà hoạn." Cái thân Đức Lão Tử nói đây thuộc về pháp Hữu vi nghĩa là do nhân duyên sinh khởi và cái đại hoạn đó chính là chữ Khổ trong Đạo Phật. Pháp Hữu vi khiến ta vướng mắc không được tự do, tự tại nên là đại hoạn, là khổ vậy.

3. Vô ngã tưởng (Anatta SaƯnƯnà): Suy nghĩ đến bản chất rỗng không của các pháp. Hiện tượng luôn luôn biến đổi nên không có thực thể, con người được xem như là một hiện tượng tâm vật lý, gồm danh (nàma) hay tâm giới và sắc (rùpa) hay vật thể giới. Vậy toàn bộ cái gọi là Ta cũng không có thực thể nghĩa là Vô ngã. Không phải riêng hiện tượng tâm vật lý mới là Vô ngã, mà tất cả các pháp đều không có thực thể (Sabbe dhammà anattà), nhờ suy tưởng như thế mà dần dần ta thoát ra khỏi chấp ngã và ngã sở để đi đến chỗ tự tại vô ngại.

4. Yếm ly thực tưởng (Ahàre patikkulasannà): Tư tưởng không vướng bận trong việc mưu sinh. Tục ngữ Pháp nói rằng: “ăn để sống chứ không phải sống để ăn.” Vì vậy Đức Phật dạy các vị Tỳ kheo phải tiết độ trong việc ẩm thực (Bhojanamhi mattannum) và quán tưởng vật thực chỉ là Tứ đại, ta phải dùng để duy trì sức khỏe hầu tu hành theo đạo cao thượng. Quán tưởng như vậy là để chúng ta không còn nô lệ vào vật chất một cách quá đáng. Mới xem ra yếm ly thực tưởng có vẻ tầm thường nhưng lịch sử đã chứng minh rằng nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu từ cổ chí kim gây ra bởi tranh giành ảnh hưởng kinh tế, nói một cách nôm na là vì miếng cơm manh áo.

Như thế chúng ta phải xem ăn uống chỉ là phương tiện, chứ đừng đặt nó làm mục đích của cuộc sống, vì cứu cánh của đời sống phải là cái gì cao thượng hơn.

5. Nhất thiết thế gian bất khả lạc tưởng (Sabbaloke anabhitasannà): Tư tưởng tự tại đối với tất cả thế gian pháp. Chữ Thế gian (loka) theo đệ nhất nghĩa đế (paramattha sacca) là những gì phát xuất từ căn Tham, Sân và Si, nói một cách khác là kết quả của Vô minh và ái dục. Đức Phật dạy rằng, chúng sanh bị chi phối bởi Tám Pháp Thế Gian là: được lợi, mất lợi, được danh, mất danh, được khen, bị chê, được vui, bị khổ. Người nào tự giải phóng tư tưởng ra khỏi ba căn bất thiện, không vướng mắc trong Tám Pháp Thăng Trầm của thế gian thì chắc chắn được tự do, Giải thoát.

6. Tử tưởng (Marana sannà): Suy nghĩ đến cái chết tất hữu của mình. Có người mới nghe đến hai chữ “Tử tưởng” đã vội cho rằng đạo Phật bi quan đến nỗi đang sống mà đã nghĩ đến cái chết, nhưng thật ra đó là một thái độ rất tích cực và can đảm. Can đảm vì dám đối diện với một sự thật phũ phàng, và tích cực vì không bó tay chịu chết mà đứng lên tranh đấu và sẵn sàng đối phó với tử thần. Như một nhà tư tưởng nói rằng: "Nghệ thuật sống giống như đánh vợt phải luôn luôn sẵn sàng để đối phó với những cú bất ngờ."

Hơn nữa Đức Phật dạy suy nghĩ đến cái chết là gián tiếp bảo chúng ta phải:

- Chiến đấu từng giây từng phút, không để mất một giờ khắc nào trong sứ mạng tự giác, giác tha.

- Chấp nhận cái chết như một sự kiện hiển nhiên, trong khi nỗ lực tu niệm như một chiến sĩ cảm tử ra mặt trận đã chấp nhận trước cái chết của mình nên mới dám xông pha trong gươm đạn.

- Thấy sống chết là sự thường để không còn bị chi phối bởi những thăng trầm của cuộc đời.

Thiền sư Vạn Hạnh đã dạy chúng ta:

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.”

(Thân như bóng chớp chiều tà

Cỏ xuân tưỏi tốt, thu qua rụng rời

Sá chi suy thạnh việc đời

Thạnh suy như hạt sương rỏi đầu cành.) (Thích Mật Thể dịch)

7. Đa quá tội tưởng (Asabhà sannà): Asabhà là bất tịnh, ám chỉ 32 thể trược trong thân ta. Vì sao Đức Phật dạy ta phải quán tưởng thân bất tịnh? Như chúng ta từng thấy, nhiều người vì quá trọng thân xác và bảo vệ nó với bất cứ giá nào. Đạo Phật gọi đó là Thân kiến, Thân kiến là một trong mười kết sử mà một người muốn Giải thoát phải cắt đứt. Nhưng đừng hiểu lầm rằng diệt Thân kiến là tự hủy bỏ xác thân mình. Chính đức Phật dạy phải giữ gìn cho thân thể tráng kiện để dễ dàng tu niệm. Và chúng ta phải biết rằng giữ gìn thân thể khỏe mạnh là khác còn quá quí trọng thân xác là chuyện khác. Một người khỏe mạnh có thể hy sinh thân mình cho nghĩa cử vị tha cao đẹp, còn người quá quí trọng xác thân thì trái lại có thể hãm hại kẻ khác để mình được vinh thân phì gia.

8. Ly tưởng (Pahàna sannà): Tư tưởng xuất ly tam giới. Một trong bốn điều làm cho chúng sanh chìm đắm trong vòng luân hồi là Dục lậu, có nghĩa là mê chấp vào sự hiện hữu trong tam giới. Ngay cả bậc thiền cao nhất là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ cũng còn gọi là Hữu lậu. Bao lâu chưa diệt tận Hữu lậu thì chưa thể Giải thoát được. Lúc Bồ tát Sĩ Đạt Ta vào rừng tầm đạo, Ngài được nhiều vị Thiền sư Bà la môn chỉ giáo và chẳng bao lâu Ngài đắc được các bậc thiền. Đối với những vị Bà la môn như thế Ngài đã Giải thoát, nhưng Bồ tát tự thấy tư tưởng của mình vẫn còn lệ thuộc trong vòng tam giới rồi Ngài quyết thoát ra khỏi những Hữu lậu vi tế nhất còn tiềm tàng ngay trong các thiền tâm. Cuối cùng dưới cội cây Bồ đề tại Bodhgàya Ngài đã toàn tất cuộc giải phóng tối hậu và đã được siêu xuất tam giới.

9. Diệt tưởng (Nirodha sannà): Là hằng hoài bão tâm niệm diệt tận phiền não. Phiền não có nhiều thứ như 10 kiết sử, 14 tâm sở bất thiện, 11 thứ là phiền não, bốn Hoặc lậu... nhưng nói chung là tham, sân, si hay Vô minh và ái dục. Chính phiền não là một cái lưới phong tỏa, hay lò lửa (hỏa trạch) thiêu đốt chúng sanh. Tư tưởng chỉ được giải phóng khi đã dẹp tan được những kềm chế của những phiền não.

10. Vô ái tưởng (Viràga sannà): Cuối cùng là giải phóng tư tưởng ra khỏi ái dục. Kinh Dhammapàda (Pháp Cú), phẩm Piya vagga, dạy rằng: "Ái dục sinh ra sầu muộn, ái dục sinh ra lo sợ. Người đã hoàn toàn dập tắt ái dục không còn sầu muộn, lo sợ nữa." Thật vậy, tư tưởng của chúng ta còn bị ảnh hưởng ái dục thì chưa thể tự tại vô ngại được.

Nói tóm lại, một cuộc cách mạng khó khăn nhất là cuộc cách mạng giải phóng tư tưởng ra khỏi ràng buộc ngoại giới cũng như những ô nhiễm nội tâm, vì tư tưởng đòi hỏi nhiều thử thách cam go qua các giai đoạn huấn luyện và phấn đấu để tìm tự do. Cho đến khi tư tưởng được hoàn toàn tự chủ không lệ thuộc vào một sở tri chướng, một phiền não chướng nào, đó chính là Chánh Tư duy vậy.

10/ Thu Thúc Lục Căn

Khi mắt ta nhìn một vật ta sẽ nhận biết vật đó to hay nhỏ, màu xanh hay vàng, đỏ, tím v.v... Mắt nhìn thấy vật thì tâm xao động và trí tư tưởng về vật đó ngay. Khi nhìn một vật ta nhận biết được màu sắc, độ lớn và tính chất của nó. Như khi nhìn là ta biết là nóng, là màu đỏ, là để nấu ăn... nhìn dòng nước chảy, nhìn ly nước, ta biết được tính chất uyển chuyển của nước.

Xa hơn nữa, lắm khi mắt ta không nhìn thấy vật, nhưng tâm ta nghĩ đến. Tâm ta nhìn thấy, thì trí ta cũng liên tưởng đến tính chất, độ lớn, màu sắc của vật, của sự kiện mà ta đang nghĩ. Không nhìn thấy vật, óc ta có thể tưởng tượng được hay hình dung được vật ấy nhờ hoài niệm.

Khi giác quan bị kích thích bởi một đối tượng ngoại giới, một vật hay một hiện tượng, mỗi người có một nhận xét, phán đoán hay liên tưởng khác nhau. Như khi tai nghe một âm thanh, dù có thấy vật hay không, ta vẫn đoán được một cách tương đối vật phát ra âm thanh đó. Chẳng hạn khi nghe tiếng chuông, ta liên tưởng đến một cái chuông, một cái dùi chuông đang đưa lên đánh, một cánh tay cầm dùi chuông, một người đang đánh chuông, rồi cái chuông được treo lên một giá gỗ, bên góc chùa hay tại gác chuông. Nhưng tùy theo mỗi người, khi tâm tiếp nhận đối tượng, phản ứng tâm lý không hoàn toàn giống nhau.

Nhìn một người đang ngồi yên lặng, mắt đăm đăm hướng về một phía, ta không đoán được người ấy đang nghĩ gì, họ đang mơ mộng hay đang tư tưởng. Có thể đầu óc họ đang chứa chất những hình ảnh, vụt biến, vụt hiện, xếp đặt phức tạp, nhiều lúc chỉ là ảo tưởng, như nhìn thấy người chết trở về, thấy mình có cánh bay bổng lên trên không.

Trên thực tế, những hình ảnh hiện lên trên "màn bạc tâm giới" được xếp đặt theo thứ tự trước sau, hình ảnh sau kế tiếp hình ảnh trước và thường sự kiện trước tạo điều kiện cho những sự kiện kế tiếp để diễn biến, tiếp nối liên tục tạo thành dòng hiện tượng tâm giới. Như lúc ta đang nghĩ đến một công việc sắp làm, ta sẽ hoạch định những gì ta sẽ làm trước, những gì ta sẽ làm sau, những trở ngại, những khó khăn khi gặp phải, biện pháp giải quyết để đi đến thành công...

Chỉ trong một phút, một giây, một điểm nhỏ của thời gian, tư tưởng đã tạo nên, đã hủy diệt được biết bao hình ảnh. Theo Abhidhamma (Vi Diệu Pháp) thì tốc độ của tư tưởng 16 lần nhanh hơn tốc độ biến đổi của vật chất. Khi mắt thấy một vật thể, tai nghe một tiếng động, mũi ngửi một mùi hương, lưỡi nếm một vị... thân tiếp nhận một vật, thì biết bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu cảm xúc sẽ xảy đến, sẽ hiện ra. Nhiều khi cả một chuỗi dài thời gian hiện ra trong nháy mắt. Một loạt sự kiện liên tục và phức tạp đầy màu sắc linh động chỉ thu gọn trong một tích tắc, trong một cái nhìn, một sự tiếp xúc nhẹ nhàng mau chóng.

Khi Lục căn tiếp xúc với Lục trần, tức là khi: Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân đụng chạm và ý suy nghĩ; thì tâm ta đã phản ứng với những cảm xúc, thường gọi là phản ứng tâm lý như: giận hờn, thương mến, ghét bỏ. Tất cả những cảm xúc đó sẽ dẫn chúng sanh đến cảnh giới thích ứng. Bởi vậy, Thu Thúc Lục căn là một trong "Tứ Thanh Tịnh Giới" mà vị Tỳ kheo phải vâng giữ. Thu Thúc ở đây không có nghĩa là nhắm mắt, bịt tai, ngồi một chỗ không tiếp xúc với ai, nhưng đừng để ngoại cảnh chi phối mình, đừng quá quyến luyến và say mê Lục trần.

Pháp thu thúc bao gồm cả hai cái nhìn, cái nhìn phân tích và cái nhìn không phân tích. Lúc nào ta nên nhìn với cặp mắt phân tích và khi nào nên nhìn bằng cặp mắt dửng dưng?

Đức Phật chú trọng nhất cái tâm chúng sanh. Địa ngục hay Thiên đàng, trầm luân hay Giải thoát đều do ở tâm. Nhưng cái gì khiến cho tâm xao động? Chính Lục căn tiếp xúc với Lục trần, khiến cho Ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành,Thức có cơ phát hiện. Khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân tiếp xúc, tâm nghĩ đến điều gì thì liền lúc ấy Ngũ uẩn cũng chấm dứt ngay. Tâm tựa vào Lục căn để nhận biết Lục trần và phát hiện qua Ngũ uẩn, mà Ngũ uẩn vừa hiện lên lại vừa biến mất ngay, do đó tâm không lúc nào đứng yên. Tâm con người chẳng khác nào giống khỉ, giống vượn, ý con người như con ngựa không cương, lúc nào cũng máy động, không lúc nào đứng yên (tâm viên ý mã) mặc dầu chỉ đứng yên trong chốc lát. Cứ mỗi phút giây biết bao nhiêu tư tưởng hiện lên và biết bao nhiêu tư tưởng bị hủy diệt.

Tham, Sân, Si tiêu biểu cho ba cảm xúc bất thiện của con người cũng phát sanh từ sáu căn, chẳng hạn khi mắt nhìn thấy một hình sắc nếu có sự ưa thích sẽ phát sinh tâm tham, nếu không vừa lòng sẽ phát sanh tâm sân, và khi không biết được bản chất hay thực tướng của hình sắc ta sẽ phát sanh tâm si. Bởi vậy, khi nhìn một vật, nghe một âm thanh ta nên thu nhận bằng một cái nhìn bình thản, khách quan và sáng suốt giống như tấm gương trong sáng phản ảnh một cách trung thực mà không bị đối tượng lôi cuốn. Sở dĩ Đức Phật dạy chư vị Tỳ kheo không nên tiếp nhận đối tượng với một phán đoán chủ quan tùy tình cảm là để cho tâm các vị ấy không khởi theo các vọng niệm Tham, Sân, Si, Mạn v.v...

Nhưng bên cạnh cái nhìn tổng quát ta hãy nhìn bằng một tia nhìn sâu xa hơn, tia nhìn phân tích với tâm không xao động. Về phương diện đối tượng, phải biết rằng mọi vật thể sinh ra đều chất chứa một mầm hủy diệt. Về phương diện chủ thể, khi Lục căn tiếp xúc với Lục trần, hãy phân tích các phản ứng tâm lý của mình để tìm hiểu đâu là tội đâu là phước. Hãy luôn luôn quán tưởng và nhận thức rằng tội phước phát sanh do sự tiếp xúc giữa Lục căn và Lục trần để thu thúc Lục căn cho thanh tịnh. Nhưng làm thế nào để ngăn ngừa Lục căn say đắm, quyến luyến với Lục trần?

1. Phải tinh tấn thực hành những pháp lành, lánh xa ác pháp bằng cách tinh tấn:

- Ác vị sanh, sử bất sanh (Samvara padhàna): tinh tấn ngăn ngừa những tội lỗi chưa có đừng cho phát sanh.

- Ác dĩ sanh, sử Trừ đoạn (Pahàna padhàna): tinh tấn dứt bỏ những tội lỗi đã có.

- Thiện vị sanh, sử phát sanh (Bhàvanà padhàna): cố gắng thực hiện những việc thiện chưa có.

- Thiện dĩ sanh, sử tăng trưởng (Anurakkhana padhàna ): cố gắng làm những việc thiện đã có.

2. Không tham ăn, không mê ngủ, không nói nhiều. Đức Phật thường dạy các hàng Tỳ kheo nên tiết độ trong việc ẩm thực, phi thời bất thực (không dùng vật thực quá ngọ). Để cho tâm thanh tịnh, bớt tham ái, mỗi ngày chỉ nên ngủ bốn tiếng, thay thế vào những giờ bỏ ngủ bằng những giờ tọa thiền. Không nói nhiều, lời nói cần có đủ các yếu tố: lời nói phải thành thật, lời nói phải êm dịu, lời nói phải có ích, lời nói hợp thời, lời nói phải Từ bi.

3. Thu thúc mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm.

4. Trong mọi cử động đi, đứng, nằm, ngồi đều phải chậm chạp khoan thai.

5. Mọi cử động đều phải tinh tấn, tâm niệm và giác tỉnh, tức là phải có trí nhớ trong mọi cử động. Cảm xúc, tri giác, ý thức v.v... phát sanh từ trong tâm của mỗi người, nhiều khi sự suy nghĩ, sự nhận biết phát xuất từ năm căn đầu tiên tức là mắt, tai, mũi, lưỡi và thân thể nhưng lắm lúc nó phát khởi trong tâm như khi hồi tưởng, khi mơ mộng, khi tư tưởng, khi liên tưởng... Lúc ta suy nghĩ một điều gì thì nhiều khi khởi điểm của sự suy nghĩ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nhưng thời gian sau, nó thuộc về ý thức... Mọi hành động tội lỗi phần nhiều phát sanh sau những thời gian suy tính; bởi vậy Đức Phật dạy chúng ta, khi có một tư tưởng bất thiện phát khởi trong tâm phải tìm cách đánh đuổi nó đi.

Tâm thường hay rung động, khó giữ cho được yên tịnh, nó có tính chất hay suy tưởng mông lung, thâu nhận đối tượng ưa thích hay trái ý nghịch lòng... Bởi vậy tâm hay chìu theo cảnh trần, khó mà giữ cho nó được vắng lặng, tâm không chịu dưới quyền sở hữu của người thiếu trí nhớ. Đức Phật dạy rằng: "Này các Thầy Tỳ kheo, tâm mà người chưa được huấn luyện, chưa được chế ngự hằng đi đến nơi tai hại, và tâm của người hằng được dạy dỗ, cai trị, gìn giữ rồi sẽ hằng đi đến nơi lợi ích cao cả." Bởi vậy thu thúc Lục căn không điểm nào quan trọng bằng thu thúc ý. Tức là làm thế nào điều ngự cái tâm đừng cho phiền não phát sanh. Đức Phật dạy: "Người tri thức nên giữ tâm", có nghĩa là phải ngăn đón tâm, không cho nó nghĩ đến đều ác, đó là các tùy phiền não gồm 16 điều:

1) Tham lam, lobhà

2) Sân hận, dosa

3) Giận, Kodha

4) Oan trái, Upanàha

5) Quên ơn, Makkha

6) Đem sánh mình với bậc cao, Palàsa

7) Ganh tị, Issà

8) Bỏn xẻn, Maccharya

9) Giấu lỗi, Màyà

10) Khoe mình, Sàtheyya

11) Cứng đầu, Thambha

12) Ương ngạnh, Sàrambha

13) Ngã mạn, Màna

14) Khinh người hơn mình, Timàna

15) Trụy lạc (ý nói say mê ngũ trần), Masa

16) Dể duôi, Pamàda

Khi chúng ta ngăn chặn được các tùy phiền não đó phát sanh bằng cách thu thúc Lục căn là chúng ta đạt được phần lớn pháp thu thúc.

Tóm lại, phải ngăn ngừa tâm xao động khi Lục căn tiếp xúc với Lục trần, tức là phải dùng tia nhìn phân tích để thấy rõ đâu là tội, đâu là phước, đồng thời phải dùng tia nhìn phi phân tích để khỏi quyến luyến, say mê Lục trần, nói một cách khác để khỏi đắm chìm trong vòng tài, tình, danh, lợi.


11/ Ba Nguyên Nhân Phát Sanh Trí Tuệ

Trí tuệ là điều kiện tối hậu để thấu triệt Chân lý. Trong tam học (Giới, Định, Huệ), Giới và Định chỉ có mục đích mở đường cho sự rèn luyện trí huệ. Nếu Giới (Sìla) làm thanh tịnh thân và khẩu, Định (Sàmàdhi) khả dĩ giúp tâm an trụ, thanh tịnh và chân chính thì Huệ (Pannà) phát huy phần tâm linh quan trọng nhất của con người là trí năng, để đạt đến cứu cánh Giải thoát.

Hành giả dù có hạnh nguyện Bồ tát, Thanh văn hay Độc giác đều cần phải luôn luôn tinh tấn dùi mài gươm Trí Huệ để cắt đứt tận gốc rễ những vọng thấp, phiền não hay những ô nhiễm nội tại dưới mọi hình thức, ngấm ngầm hay bộc phát mãnh liệt, đang chi phối đời sống của họ. Trí huệ còn là một trong 10 pháp Ba la mật (Paramì) tức là Thập độ mà một vị Bồ tát muốn trở thành bậc Chánh đẳng Chánh giác phải chuyên trì bất thối chuyển. Chính Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni, lúc còn là một vị Bồ tát, đã lấy trí huệ làm chính hạnh khi thực hành Pháp Thập độ.

Trước khi nói đến ba nguyên nhân phát sanh trí huệ, chúng ta thử bàn qua nghĩa của danh từ trí huệ là gì. Trong Phạn ngữ có rất nhiều danh từ được dịch là trí huệ, nhưng nghĩa của chúng có ít nhiều sai khác như Pannà, Nàna, Patisambhidà, Bodhi...

Pannà là biện tướng trí: trí huệ phân biệt được chân tướng Vô thường, Khổ não, Vô ngã của hiện tượng giới.

Patisambhidà là minh giải trí: trí huệ phân tích và biện giải các pháp một cách minh bạch.

Nàna là phá tướng trí: trí huệ trực nhận Chân lý, phá chấp tướng của vạn hữu. Phá tướng trí chính là trí huệ của Chư Phật và chư Bồ tát bất thối.

Bodhi người ta thường quen gọi là Bồ đề tức trí Giác ngộ, trí của bậc huyền thông đạo lý, dứt trừ phiền não, vọng chấp.

Tuy được dịch từ nhiều danh từ Phạn ngữ có nghĩa sai khác nhưng tựu trung trí huệ có nhiệm vụ tối hậu và tất yếu là diệt tận Vô minh để nhận chân được lý Nhân quả, luật thành trụ dị diệt và nhất là thấy rõ được ba chân tướng của vạn hữu là Vô thường, Khổ não và Vô ngã.

Vì trí huệ đã đóng vai trí quan trọng như thế trong lý tưởng giải phóng con người ra khỏi vọng chấp, nên chắc hẳn Đức Phật phải chỉ dạy cho chúng sanh phương pháp rèn luyện trí huệ. Thật vậy, chính Ngài đã chỉ cho chúng ta ba nguyên nhân phát sanh trí huệ:

1. Nghe nhiều học rộng:

Một trong mười điều đem lại lợi ích cho sự Giải thoát mà Đức Phật đã dạy là Bahussutà tức đa văn. Đa văn ở đây ám chỉ nghe nhiều Chánh pháp.

Theo kinh điển để lại, trong suốt 45 năm hoằng dương Giáo pháp của Đức Phật, có rất nhiều người đắc quả Thánh hay ngộ được Chân lý khi nghe Ngài thuyết Pháp. Không những thế, ngay cả hàng Thanh văn, đệ tử Phật trong khi thuyết Pháp cũng đã độ được rất nhiều người nhập vào dòng Thánh. Như Đạo sĩ Sàriputta chỉ nghe một câu kệ ngôn do Đại đức Assaji thuyết đã trực nhận được lý Nhân quả và chứng ngộ đạo quả Tu đà hoàn. Và chính sau khi Ngài Sàriputta được Đức Phật cho xuất gia vào hàng Tăng Lữ, một hôm Ngài lãnh sứ mạng đi giáo huấn nhóm Tỳ kheo chia rẽ Tăng theo Đề Bà Đạt Đa. Khi Ngài giảng đạo lý xong tất cả các vị Tỳ kheo ấy đều đắc quả A la hán.

Tuy Sutà nguyên nghĩa là nghe và được đặc biệt dùng trong nghĩa nghe Chánh pháp nhưng ta có thể suy ra rằng tất cả những kinh nghiệm học hỏi được bằng cách biết sử dụng giác quan nghĩa là biết nhận xét tinh tế khi mắt ta nhìn thấy sắc, tai ta nghe âm thanh, lưỡi ta nếm vị; nói một cách khác khi căn tiếp xúc với trần đều có thể giúp ta nhận thức được thực tướng của hiện tượng giới.

Ngày nọ, có một vị Tỳ kheo ni tên là Pàtàcàrà đến rửa chân nơi một dòng sông. Đang khi bước lên bờ, thấy những giọt nước từ bàn chân mình nhỏ xuống theo dòng nước trôi đi và tan biến mất, cứ như thế vị ấy chú ghi nhận sự biến đổi không ngừng của hiện tượng và bỗng trực nhận được lý Vô thường.

Trong kinh điển cũng có ghi chép nhiều trường hợp khác tương tự. Một hành giả có thể nghe một tiếng chim hót, thấy một chiếc lá rơi, một ngọn đèn phựt tắt, hay nhìn những bong bóng nước vỡ tan trên mặt hồ mà liễu ngộ được Chân lý.

Tất cả những hiện tượng nội tâm hay ngoại giới, như dòng nước trôi chảy, một trạng thái tâm linh sinh lên rồi hủy diệt đều là những bài học quí giá cho những ai biết chăm chú nhìn, biết lắng tai nghe.

Trí huệ phát sinh do nghe, thấy, học hỏi, nhận xét như thế gọi là Sutà mayà pannà tức Văn huệ.

Có người cho rằng nếu chỉ nghe nhiều mà không suy luận để phân biệt chân giả và không thực hành theo Chân lý thì cũng bằng không. Tỷ như Đại đức Ananda, thị giả của Đức Phật, là người nghe nhiều học rộng mà không đắc đạo quả gì. Vấn nạn đó rất đúng, tuy nhiên chúng ta phải nhìn nhận rằng có đa văn quảng kiến mới có thể mở rộng tầm hiểu biết của mình. Sở dĩ Đại đức Ananda không đắc đạo quả khi Phật còn tại thế, là vì chưa hành đúng theo những gì Ngài đã học hỏi được. Nhưng chính nhờ kiến thức uyên bác đó về sau Ngài đã chứng ngộ con đường Giải thoát và hầu hết các kinh tạng để lại ngày nay do chính Đại đức Ananda tụng thuật. Như thế Ngài đã đem đa văn của mình đóng góp không ít vào việc duy trì và phát huy nền văn học Phật giáo cho những thế hệ hậu lai của chúng ta.

2. Suy tư:

Vì văn huệ chưa được hoàn hảo, nên Đức Phật dạy phương pháp rèn luyện trí huệ thứ hai sắc bén hơn, hiệu quả hơn là Tư duy hay là Quán xét. Quán xét Tư duy về những điều mình đã thâu thập được bằng văn huệ.

Những gì ta nghe, thấy, học hỏi được chỉ là kiến thức vay mượn. Muốn tiêu hóa chúng để trở thành kiến thức của chính mình thì phải tinh luyện qua nhiều giai đoạn suy tư và phán đoán, nghĩa là phải phân tích, tổng hợp, loại suy hay tỷ giảo để tìm ra chân giả.

Trong bộ kinh Anguttara Nìkàya (Tăng Chi) Đức Phật có dạy:

"Không nên mặc nhiên chấp nhận một điều nào chỉ vì tập tục cổ truyền trao đến tay ta, hay chỉ vì điều ấy đã được ghi chép trong kinh điển nào, cũng không chấp nhận chỉ vì người thốt ra câu ấy trông có vẽ Hiền nhân khả kính, khả ái. Này người xứ Kalama, khi nào các người tự mình suy xét đắn đo để biết rằng những điều này hợp với đạo đức... những điều này đem lại an vui hạnh phúc; chừng ấy các người hãy chấp nhận và hành đúng theo như vậy".

Nhưng có phải mọi Tư duy đều đem lại trí huệ hay không? Đức Phật dạy: có hai loại Tư duy, Chánh Tư duy (Sammàsankappa) giúp tâm thanh tịnh, sáng suốt thì trái lại Tà Tư duy (Micchàsankappa) làm cho tâm ô nhiễm, lu mờ.

Vậy muốn phát triển trí huệ trước hết ta phải tránh những Tà Tư duy như suy nghĩ về dục lạc, suy nghĩ về thù oán, suy nghĩ về những phương kế ám hại người khác và thường xuyên chiêm nghiệm ba chân tướng Vô thường, Khổ não, Vô ngã của Hữu vi pháp.

Đại đức Cùlapanthaka là một người ít học, Ngài cố gắng học một câu kệ ngôn chỉ có bốn hàng trong bốn tháng vẫn chưa thuộc. Vị sư huynh của Ngài thấy vậy khuyên Ngài nên hoàn tục nhưng Ngài quá quyến luyến đời sống đạo hạnh không nỡ từ bỏ. Đức Phật thấy đạo tâm của Ngài quá dõng mãnh nên đến đưa cho Ngài một chiếc khăn tay màu trắng, dạy mỗi buổi sáng cầm khăn đưa ra trước mặt trời. Ngài làm y như lời dạy của Đức Phật, chẳng bao lâu chiếc khăn bị bụi và mồ hôi bám vào trở nên dơ bẩn và ố màu. Thấy sự kiện đó, Ngài suy gẫm về tánh cách Vô thường của đời sống, trực nhận được Chân lý và đắc quả A la hán.

Trí huệ phát sanh do suy xét chân tướng của vạn hữu gọi là Tư Huệ (Cintà mayà pannà).

3. Tham thiền:

Cuối cùng, một phương pháp rèn luyện trí huệ được Đức Phật khen ngợi và khích lệ hàng đệ tử ứng dụng triệt để là Tu huệ (Bhàvanà mayà pannà).

Phạn ngữ Bhàvanà có nghĩa là dập tắt Vô minh và ái dục bằng phương pháp tu Thiền định. Ta có thể dịch từ ngữ Bhàvanà mayà pannà một cách chính xác là: Định năng sinh Huệ.

Giống như một ly nước đục được giữ yên, khi bao nhiêu cặn bã đã lắng đọng thì nước sẽ trở nên trong suốt. Cũng vậy nếu được giữ an trú trong Thiền định thì tâm sẽ trở nên trong sạch, sáng suốt và nhờ đó trí huệ phát sinh. Tu huệ vì thế được xem là phương tiện vững chắc nhất giúp hành giả đạt đến cứu cánh Giải thoát.

Một người thường được nghe tiếng một thứ trà ngon và đã từng học lý thuyết về cách pha trà ấy như thế nào, nhưng nếu tự mình chưa pha lấy và uống qua một làn thì cũng không thưởng thức được hương vị của món trà quí này.

Trong kinh Dhammapada (Pháp Cú) Đức Phật dạy:

"Dầu thông suốt kinh luật mà không hành trì, cũng chỉ như kẻ mục đồng đếm bò cho kẻ khác. Người ấy không hưởng được hương vị Giải thoát. Trái lại dù thuộc ít kinh luật nhưng cố gắng hành trì, từ bỏ Tham, Sân, Si hiểu biết chân chính, tâm tự tại, không vọng chấp. Người ấy ắt hưởng được hương vị Giải thoát...". (Dhammapda 19, 20)

Thuở nọ có hai vị Tỳ kheo cùng xuất gia trong Giáo pháp của Đức Phật. Một vị học nhiều hiểu rộng, thông suốt Giáo pháp nhưng chưa đắc đạo. Còn vị kia tuy học ít nhưng chuyên cần tu niệm, không bao lâu đắc quả A la hán. Một hôm trong buổi thảo luận đạo trước mặt Đức Phật, vị phàm Tăng nêu lên nhiều vấn nạn khúc mắc để khoe khoang tài bác học của mình. Đức Phật thấy vậy liền đặt ra nhiều câu hỏi khác về sự thực chứng đạo Giải thoát. Hỏi đến đâu vị A la hán trả lời đến đó do kinh nghiệm bản thân của mình; trái lại vị phàm Tăng không thể trả lời được, vì tự mình chưa Giác ngộ. Câu chuyện trên chứng tỏ rằng Tu huệ quan trọng và siêu việt hơn Tư huệ và Văn huệ.

Nói tóm lại, vì tầm quan trọng của trí huệ trong vai trí đưa ta Giải thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi và thể nhập Chân lý; nên người Phật tử phải luôn luôn cố gắng rèn luyện trí huệ của mình bằng cả ba phương pháp Văn, Tư, và Tu.

12/ Con Đường Giải Thoát

So với vô số chúng sanh sống trên thế gian thì nhân loại chỉ là một phần rất nhỏ, cho nên được sanh làm người hẳn không phải dễ. Nhưng duy trì được kiếp người một cách toàn vẹn lại còn khó hơn vì phải chịu bịnh, lão, tử, lo âu, phiền muộn, khổ đau, thất vọng... Nhiều người mới sinh ra đã chết, bất hạnh hơn, lắm kẻ phải chịu kéo lê một cuộc sống bi thảm vì tật nguyền hay nghèo đói. Tuy thế trong những người còn lại không phải ai cũng xứng đáng làm một con người thật sự. Họ sống dã man, độc ác, trụy lạc, ích kỷ và si mê không khác gì cầm thú. Chính Đức Khổng Tử phải than rằng: "Vi nhân nan".

Vì thế đã được sinh ra làm người, đã duy trì được kiếp người một cách toàn vẹn, cần phải sống một đời sống thế nào cho có ý nghĩa, hợp đạo đức và tiến hóa, cải thiện cho thành người Hiền nhân quân tử. Song trên thế gian có cả hàng trăm hàng ngàn triết lý, Tôn giáo nói là để cải thiện con người mà kỳ thật chỉ được một vài Giáo lý khả dĩ đáng gọi là Chánh đạo; còn đa số là mê tín dị đoan hoặc dẫn dắt con người đi sâu vào dục vọng đen tối. Một chứng minh cụ thể là ngày nay một vài thứ triết lý đang đưa thanh niên vào con đường trụy lạc, sa đọa, trong khi đó, nhiều Tôn giáo đã làm cho một số khá đông trong thế hệ cũ nô lệ cúng tế, khiếp sợ quỷ thần và không phát huy được sức mạnh của một con người đích thực.

Cái khó cuối cùng là được gặp Đức Phật hay các bậc hiền triết ra đời, vì Đức Phật là một vị Thầy vĩ đại, một nhà đại cách mạng phá tan gông cùm nô lệ của thần linh bên ngoài và của chính lòng tham lam sân hận si mê nội tại để nâng cao con người lên hàng Thánh thiện. Giáo lý của Ngài có một mục đích rõ rệt là "chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc". Tất cả những cố gắng phi thường của Ngài từ khi khước bỏ đời sống đế vương trở thành một Đạo sĩ khổ hạnh cho đến lúc chiến thắng Ma vương và thành bậc Toàn Giác chỉ nhằm một mục đích duy nhất, tức là khai thị cho chúng sanh con đường Giải thoát ra khỏi Vô minh và đem lại cho họ một đời sống hạnh phúc an lạc.

Con người đang sống trong một thế giới đầy bất công và đau khổ, giống như ở trong một khu rừng đang bốc cháy, lại còn bị các tà giáo, các ngụy thuyết thừa cơ lừa đảo để thủ lợi. Dĩ nhiên trong cảnh hỗn loạn đó ai gặp được một bậc hiền triết, một vị cứu tinh giàu lòng từ ái vị tha sẵn sàng chỉ đường dẫn lối ra khỏi khu rừng là ấy là một điều hy hữu. Đức Phật quả đúng là một vị cứu tinh toàn thiện của nhân loại vì Giáo lý của Ngài là con đường thoát khổ.

Vậy chúng ta thử tìm hiểu nội dung Giáo lý Giải thoát của Đức Phật, để xác nhận đâu là con đường đích thực dẫn chúng sanh ra khỏi sông mê bể khổ.

Khi được hỏi "Con đường nào dẫn đến Niết bàn?", Đức Phật trả lời "Đó là Giới, Định, Huệ".

Giới không phải là những điều răn mà một vị giáo chủ đặt ra để buộc tín đồ tuân phục mình. Trong Phật giáo, giới theo nghĩa tiêu cực là để dẹp bỏ những thói quen bất thiện đã tập nhiễm từ trước và ngăn ngừa các điều ác có thể gây nên về sau; theo nghĩa tích cực là để phát triển những điều lành đã sẵn có và tạo thêm các điều lành chưa từng làm. Giới ví như sợi dây cương nhờ đó người huấn luyện ngưạ dạy một con ngưạ hoang trở thành thuần thục. Cũng vậy Giới là điều kiện tiên quyết để giữ tâm không vọng động, cho nên trong kinh nói: "Giới năng sinh Định".

Khi Giới đã được hành trì đứng đắn thì tâm tương đối bớt xao động và nếu được giữ trên một đối tượng Thiền định thì tâm sẽ được an tịnh, thoát khỏi dục vọng trở nên trong sáng. An trú trong Thiền định tâm sẽ được nhu thuần, minh mẫn, kiên cố và dõng mãnh. Đó là những điều kiện tất yếu để phát triển Trí tuệ đúng như trong kinh đã dạy "Định năng sinh Huệ". Khi tâm đã được an tịnh, sáng suốt và giác tỉnh nhờ Thiền định, Minh Sát tuệ (Vipassanà) sẽ phát huy và nhờ đó chúng ta có thể trực giác được chân tướng của vạn hữu: Vô thường, Khổ não, Vô ngã. Đây là tri kiến cuối cùng đưa đến Giải thoát tri kiến.

Con người là một hợp thể gồm Ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Cả năm yếu tố ấy đều đặt trong tình trạng biến đổi, bất an và không có thực thể. Nhưng vì bị Vô minh che lấp, chúng ta không nhìn thấy hiện tượng giới đúng với thực tướng của nó.

Đức Phật dạy: "Dù có chư Phật xuất hiện trên thế gian hay không, Chân lý hiển nhiên này (Vô thường, Khổ não, Vô ngã) vẫn chi phối vạn hữu. Đó là Chân lý mà Như Lai đã thực chứng, Giác ngộ và công bố, giảng dạy, tuyên thuyết, minh chứng, khai thị và phân tích khiến cho người khác lãnh hội được" (Anguttara Nìkàya, Tăng Chi).

Đức Phật xuất hiện trên thế gian để khai thị cho chúng sanh con đường Giải thoát ra khỏi vòng luân hồi (Samsàra) Ngài chỉ dạy một Giáo lý duy nhất là Khổ và Thoát Khổ.

Trong cuốn The Word of the Buddha, Đại đức Nyanatiloka giải thích chữ Khổ như sau: "Danh từ 'khổ' không phải chỉ để mô tả một sự đau đớn thân xác hay cảm giác khó chịu của tinh thần mà còn bao gồm tất cả những gì có thể tạo ra đau khổ hay gánh chịu khổ đau. Chân lý về khổ dạy rằng: vì nguyên lý Vô thường mà tất cả mọi hình thức khoái lạc dù là thiên đàng Cực lạc cũng đều bị biến đổi và hủy diệt, và tất cả mọi hình thức hiện hữu vì vậy chắc hẳn phải mang mầm mống bất mãn, khổ đau".

Chính vì đau khổ nên con người nỗ lực tìm kiếm khoái lạc mà không biết rằng mình sẽ bị khoái lạc lừa đảo phản bội để rồi càng tìm kiếm khoái lạc con người càng thất vọng và cứ thế họ chìm đắm trong bể trầm luân. Cho nên theo Đức Phật ước muốn khoái lạc (ái dục) là nguyên nhân của mọi khổ đau.

Trong kinh Samyutta (Tương Ưng) dạy rằng: "Không thể lường được đâu là khởi thủy của vòng luân hồi, và từ đâu chúng sanh bắt đầu kiếp sống. Có điều chắc chắn là họ đã bị trầm luân sinh tử vì Vô minh và ái dục".

Một hôm tại xứ Kitogama, Đức Phật đã dạy Đại đức Ananda và Tăng chúng rằng: "Vì không nhận thức được bốn Chân lý mà các người và Như Lai đã phiêu dạt trong vòng luân hồi từ vô lượng kiếp đến nay. Này chư Tỳ kheo, bốn Chân lý ấy là gì? Đó chính là Khổ, Nguyên Nhân của sự khổ, Chấm Dứt sự khổ và Con Đường đưa đến chấm dứt sự khổ. Nhưng nay, các người và Như Lai đã thực chứng, Giác ngộ được những Chân lý ấy, và vì thế chúng ta đã chấm dứt vòng luân hồi" (Maha Parinibbàna, Đại Niết bàn, Trường Bộ).

Cũng trong kinh trên, Đức Phật cả quyết rằng bất cứ ai hành trì theo Chân lý mà Ngài đã hành trì và chứng ngộ thì chắc chắn sẽ thoát khỏi vòng sinh tử khổ đau.

"Như Lai đã tự lấy mình làm một nơi nương tựa cho chính mình. Này chư Tỳ kheo, hãy tinh tấn, chánh niệm và trong sạch. Hãy ngự trị tâm các người bằng Thiền định. Kẻ nào sống tinh tấn trong Giáo lý này sẽ thoát khỏi vòng sinh tử và chấm dứt khổ đau". Đó là những lời dạy cuối cùng trước khi Đức Từ phụ nhập diệt, đã nhắc lại cho chúng ta cứu cánh tối hậu của Đạo Phật là Giải thoát.

Đức Phật đã nêu gương sáng của một vị Thầy kiên trì nhẫn nại và tinh tấn. Những lời dạy của Ngài giống như ngọn hải đăng hướng dẫn chúng ta, những người đang bị bão tố cuốn trôi giữa bể luân hồi, vào bờ Giải thoát một cách an toàn.

Chúng sinh hiện hữu trên thế gian với một căn bịnh nan y là Khổ. Nhưng Đức Phật, một vị lương y, sau khi chẩn mạch, tìm ra bệnh trạng và nguyên nhân căn bịnh Ngài quả quyết rằng bệnh ấy có thể điều trị được, rồi Ngài chỉ bày cặn kẽ những phương thuốc thần diệu mà Ngài đã dầy công tìm kiếm trong 20 A tăng kỳ, một trăm ngàn kiếp và đã chữa trị cho chính mình một cách linh nghiệm. Chỉ còn có một điều kiện là bệnh nhân phải cố gắng theo đúng phương pháp trị liệu đó để sớm thoát khỏi căn bịnh ngặt nghèo. Ngài ân cần dặn dò trước khi từ giã cõi đời: "Handa dàni Bhikkhave ànantayàmi vo vaya Dhammo sankhàrà, appamàdena sampàdetha" (Quả thật vậy, này Chư Tỳ kheo, Như Lai nhắc lại là tất cả các Pháp Hữu vi đều không bền vững, hãy cố gắng chuyên cần).

Con đường Giải thoát mà Đức Phật đã thực chứng và chỉ dạy bao gồm trong Tứ Diệu Đế:

- Chúng sanh trong tam giới sống trong đau khổ.

- Đau khổ ấy gây nên bởi ái dục.

- Ái dục có thể tận diệt bằng con đường Trung đạo.

- Con đường ấy gồm: Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thần Túc, Ngũ căn, Ngũ lực,Thất Giác chi và Bát Chánh đạo.

Tứ Chánh Cần là bốn điều Tinh Tấn nhờ đó hành giả có thể diệt trừ được ác pháp và phát triển thiện pháp. Tứ Niệm Xứ giúp cho hành giả phát triển chánh niệm và giác tỉnh, hai yếu tố cần thiết để thấy rõ chân tướng Vô thường, Khổ não, Vô ngã của vạn hữu. Tứ Thần Túc là bốn yếu tố phát huy năng lực tinh thần, nhất là thần thông biến hóa, giúp hành giả tiến bước mau chóng hơn trên đường tự Giác ngộ và cứu độ chúng sanh. Ngũ căn là năm điều kiện cơ bản để đạt đến toàn tri diệu giác, thấu rõ Chân lý. Nhờ phát triển Ngũ căn mà hành giả có được Ngũ lực tức là sức mạnh của đức tin, tinh tấn, chánh niệm, chánh định và Trí tuệ. Thất Giác chi là bảy điều giúp hành giả Giác ngộ Bồ đề Thượng trí.

Tất cả các Pháp trên đều được đúc kết một lần nữa trong Bát Chánh đạo, con đường Giải thoát duy nhất ra khỏi vòng sanh tử. Kinh Dhammapada dạy: "Con đường cao thượng nhất là Bát Chánh đạo. Chân lý cao thượng nhất là Tứ Diệu Đế... Đó là con đường duy nhất, không còn con đường nào khác dẫn đến kiến tịnh. Hãy đi theo con đường ấy, để sớm thoát khỏi mọi điên đảo của Ma vương". Điên đảo của Ma vương ở đây là vòng trầm luân khổ hải hay phiền não ái dục mà chỉ có Bát Chánh đạo mới trừ diệt được. Chúng ta không tìm thấy con đường trung đạo này trong bất cứ Giáo lý của một Tôn giáo nào, ngoại trừ Đạo Phật. Đức Phật dạy Đại đức Subhadda rằng:

"Không thể có được bậc Thánh Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm và A la hán trong bất cứ một Tôn giáo nào không có Bát Chánh đạo. Này Subhadda, trong Giáo lý nào có Bát Chánh đạo thì tất cũng có hàng Thánh nhân. Đây trong Giáo lý của Như Lai lại có con đường Bát Chánh, tất nhiên phải có các bậc Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, và A la hán mà trong Giáo lý khác không thể có được. Này Subhadda, nếu chư đệ tử sống chân chánh thì thế gian không thiếu Thánh nhân" (Maha parinìbbàna sutta, kinh Đại Niết bàn, Trường Bộ).

Đến đây chúng ta thử đặt vấn đề quan niệm Giải thoát theo Phật giáo như thế nào? Giải thoát theo quan niệm của Đạo Phật không phải là được cứu rỗi bởi một đấng toàn năng mà là đoạn lìa các trói buộc của phiền não (Tham, Sân, Si) hay của Ngũ uẩn. Về phương diện Tánh thường được gọi là thanh tịnh Giải thoát tức là tính chất an tịnh tự tại của chư Phật và hàng Thánh nhân. Pháp thân của chư Phật và hàng Thánh nhân gồm năm phần là Giới, Định, Huệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến. Một trong những ân đức vô lượng của Đấng Toàn Giác là Tịnh Đức tức là Đức tính thanh tịnh tuyệt đối, không dao động trước bất cứ một hoàn cảnh nào. Tịnh Đức ấy thường được mô tả dưới bảy hình thức:

1. Giới tịnh (Sìla visuddhi)

2. Tâm tịnh (Cittavisuddhi)

3. Kiến tịnh (Ditthivisuddhi)

4. Đoạn Nghi Tịnh (Kankà visuddhi)

5. Đạo phi đạo tri kiến tịnh (MaggàmaggaƯnãna dassana visuddhi)

6. Đạo Tri kiến tịnh (Patipadà nàna dassana visuddi)

7. Tri kiến tịnh (Nàna dassa visuddhi)

Về phương diện Tướng, thường được gọi là chướng tận Giải thoát tức là diệt tận các phiền não chướng, nhất là Vô minh và ái dục. Có mười sợi dây phiền não (thập sử) trói buộc chúng sanh là:

1. Tham (Lobha)

2. Sân (Dosa)

3. Si (Moha)

4. Mạn (Màna)

5. Tà kiến (Ditthi)

6. Nghi (Vicikicchà)

7. Thụy miên (Thìna)

8. Trạo cử (Uddhacca)

9. Vô tàm (Arhirika)

10. Vô quý (Anottappa)

Hoặc mười pháp thằng thúc (kiết sử):

1. Thân kiến,

2. Hoài nghi,

3. Giới cấm thủ,

4. Luyến ái trong dục giới,

5. Thù oán,

6. Luyến ái trong sắc giới,

7. Luyến ái trong vô sắc giới,

8. Mạn,

9. Trạo cử,

10. Vô minh.

Bao lâu những phiền não chướng trên còn chi phối đời sống con người thì bấy lâu họ chưa thể Giải thoát được vòng trầm luân sinh tử. Đứng về phương diện tâm và trí Giải thoát gồm có tâm thiện Giải thoát tức là tâm Giải thoát ra khỏi các bất thiện tâm sở, và huệ thiện Giải thoát tức là trí huệ suốt thông Chân lý không bị chướng ngại bất cứ một thành kiến nào.

Đối với chúng ta con đường dẫn đến Giải thoát quá khó khăn và đòi hỏi nhiều cố gắng. Nhưng nếu chúng ta kiên trì, tinh tấn và cương quyết thì nhất định một ngày kia sẽ đến đích và rất có thể chúng ta sẽ được Giải thoát trong chính kiếp sống hiện tại này.

13/ Chánh Ngữ

Một trong năm giới mà một người Phật tử chân chánh phải hảnh trì là tránh xa Vọng Ngữ. Tích cực hơn, người Phật tử phải có lời nói chân thật (saccavàdà), ý nghĩ chân thành, và thủ tín.

Lời nói chơn thật là một trong Thập Thiện Nghiệp mà người hành trì không những đem lại lợi ích cho mình mà còn góp phần xây dựng một xã hội đạo đức. Vì muốn được trật tự, xã hội cần đòi hỏi một số điều kiện mà trong đó có sự tín nhiệm lẫn nhau nhờ ở mọi người đều chân thật.

Đoạn kinh sau đây mô tả một người chân thật:

"Ở đây, một người thiện nam từ bỏ sự giả dối, xa lánh vọng ngữ, nói lời chân thật dù ở nơi hội họp đứng đắn, giữa đám đông, trong tư gia với bà con thân thuộc, trong nhiệm sở hay khi làm nhân chứng tại pháp đình... Như vậy, người ấy sẽ không vì cá nhân mình, không vì ai khác cũng không vì một vài lợi lạc vật chất mà cố ý nói sai sự thật." (Sàleyyake Sutta, M.I. 228)

Thật ra Chánh Ngữ không phải chỉ giới hạn trong lời nói chân thật mà còn cần phải:

1. Tránh dùng lời phao vu để chia rẽ, hay gây bất hòa giữa người này với người khác, trái lại phải tìm cách đem lại hòa hợp và thông cảm giữa mọi người.

2. Tránh dùng lời thô lỗ để hạ nhục kẻ khác, trái lại phải nói lời thanh bai, lễ độ để an ủi, khuyến khích hay thuyết phục kẻ khác.

3. Tránh những câu chuyện phiếm vô bổ, phải nói đúng lúc, hợp lý và hữu ích.

Cũng có trường hợp, khi ta nói chân thật và lễ độ mà vẫn chạm đến tự ái của kẻ khác, khiến họ Phật lòng. Tuy thế đôi khi cần phải nói sự thật dù có mất lòng nhưng hữu ích. Như vị Bác sĩ muốn chữa một vết thương của bệnh nhân đôi khi không thể không gây cho bệnh nhân một chút đau đớn, nhưng nếu không đụng đến vết thương thì làm sao điều trị được.

Vì vậy trong kinh Abhayaràjàkumàra có phân loại lời nói theo chân, thiện và mỹ như sau:

1. Lời nói chân, thiện và mỹ: Tức là lời chân thật có lợi cho người nghe. Chữ Mỹ ở đây dùng với nghĩa đẹp lòng người, làm cho người hoan hỷ khi nghe. Như trường hợp Đức Phật thuyết pháp. Ngài trình bày Chân lý (chân) để chuyển mê khai ngộ cho chúng sanh (thiện) và khi Ngài thuyết xong thính giả đều hoan hỉ (mỹ).

2. Lời nói chân, thiện nhưng không mỹ: Tức là lời nói chân thật, có lợi cho người nghe nhưng không làm vừa ý họ. Đó là trường hợp "Trung ngôn nghịch nhĩ lợi ư hạnh" hay nói một cách nôm na là "Sự thật mất lòng". Không mỹ dùng ở đây với hai nghĩa: thô lỗ và không thô lỗ nhưng làm Phật ý. Có khi vì lời nói cộc cằn làm cho người nghe nổi giận, nhưng có khi lời nói lễ độ mà vẫn chạm tự ái của kẻ khác.

3. Lời nói chân, mỹ nhưng không thiện: Tức là lời nói chân thật, đẹp lòng người nhưng vô ích. Như kể một chuyện thật làm cho người nghe vui tai nhưng không đem lại lợi ích gì cả, có khi chỉ làm mất thì giờ hoặc có hại.

4. Lời nói chân, nhưng không thiện và không mỹ: Tức là lời nói thật nhưng vô ích làm người nghe bực mình. Nhiều người bất cứ nghe thấy chuyện thị phi ở đâu cũng đem về kể lại cho bạn bè, thân thuộc nghe. Hoặc có người lại thường đem những chuyện đời tư nói với người khác để khoe khoang thành công hay phân bua thất bại của mình. Những chuyện đó tuy là sự thật, nhưng không ích cho người nghe, và chỉ làm phiền lòng họ.

5. Lời nói không chân, nhưng thiện và mỹ: Tức là lời giả dối nhưng có ích lợi và làm đẹp lòng người. Như trường hợp vì cứu người nào đó (thiện) mà ta phải nói dối (giả) và nhờ nói khéo nên người nghe bằng lòng (mỹ).

6. Lời nói không chân, không thiện nhưng mỹ:: tức là lời nói giả dối, vô ích nhưng người nghe lại thích. Nhiều người nói ba hoa, khoác lác vô tích sự, thế mà vì có tài ăn nói uyển chuyển, thông suốt nên ai cũng thích nghe.

7. Lời nói không chân, không mỹ nhưng thiện: tức là lời nói giả dối, làm người nghe bực mình nhưng có lợi. Cũng như trường hợp 5, nhưng vì nói không khéo léo nên làm mất lòng người.

1 Lời nói không chân, không thiện, và không mỹ: là lời nói giả dối vô ích và làm người nghe bực tức. Như trường hợp nói vu khống, nói thêu dệt để nhục mạ người khác.

Trong tám cách trên, cách thứ nhất và thứ hai được Đức Phật cũng như các bậc Hiền nhân khuyến khích.

Kinh Abhayaràjàkumàra dạy tiếp rằng: "người nên nói lời hợp thời mà người biết là đúng với sự thật, xác đáng, hữu ích, có thể chấp nhận được và làm cho kẻ khác hoan hỷ (loại thứ nhất); người nên nói lời hợp thời mà người biết là đúng với sự thật xác đáng, hữu ích, có thể chấp nhận được nhưng không làm cho kẻ khác hoan hỷ (loại thứ 2); người không nên nói lời giả dối, và cần phải tìm sự thật, nói sự thật vì hành động đó nâng cao hạnh phúc cá nhân của người cũng như sự điều hòa và tiến bộ của xã hội ".

Trong một đoạn kinh khác Đức Phật mô tả lời nói của bậc thiện trí với năm điều kiện:

1. Phát biểu đúng lúc (Kàlavàdì): như chúng ta đã thấy ở trên, có khi một lời chân thật nhưng không được phát biểu đúng lúc thì thành ra vô ích hoặc làm cho người khác bực mình. Người thiện trí phải tế nhị để áp dụng lời nói của mình đúng chỗ, đúng lúc.

2. Hợp với sự thật (Bhùtavàdì): bậc thiện tri thức nói một lời phải dựa trên sự thật, không ngụy biện, không lừa dối. Tuy vậy nói sự thật chưa đủ, cần phải có điều kiện sau đây bổ túc:

3. Đem lại lợi ích (Atthavàdĩì): lời nói phải có mục đích và ý nghĩa của nó, dù là lời chân thật nhưng không có mục đích đem lại lợi ích cho ai, thì đó cũng chỉ là lời nói nhảm, vô dụng.

4. Thích ứng với lý trí (Dhammavàdì): chữ Dhamma, Pháp ở đây có nghĩa là đạo lý. Lời nói hợp đạo lý tất nhiên phải thích hợp với lý trí.

5. Hợp với đạo đức (Vinayavàdì): giá trị của lời nói còn phụ thuộc tính cách luân lý của nó. Nếu một lời nói có đủ bốn yếu tố trên nhưng không hợp với luật pháp hay luân lý, đạo đức thì vẫn nguy hiểm.

Trong phần phân tích tám lời nói, chúng ta dùng chữ "thiện" với nghĩa là "lợi ích". Nhưng trong thực tế, có lợi ích chưa hẳn là thiện. Khi nói trục lợi, vụ lợi, người ta thường dùng với nghĩa bất thiện. Vì vậy lời nói của bậc thiện trí phải có ích và hợp với đạo đức nữa.

Theo kinh điển, có mười điều lợi ích và hợp với đạo đức nên bàn luận là:

1. Nên nói về đức Từ bi bác ái, vì lòng từ ái giúp ta có tâm hồn vị tha, không tham lam, không ích kỷ, không bỏn xẻn.

2. Nên nói về đức tính tri túc, để giúp chúng ta bỏ những ước vọng thái quá, và sống an vui trong bất cứ hoàn cảnh nào.

3. Nên nói về đức thanh tịnh, để giúp cho tâm hồn trầm tĩnh, trong sạch và tự tại.

4. Nên nói về đức tính độc lập, để giúp chúng ta không xu hướng bè đảng, không ỷ lại và phát triển đức tự tin.

5. Nên nói về đức tinh tấn, để giúp chúng ta từ bỏ tính biếng nhác, do dự và bất nhất.

6. Nên nói về giới hạnh, vì giới hạnh có khả năng loại bỏ những nết hư tật xấu mà ta đã tập nhiễm từ vô lượng kiếp đến nay.

7. Nên nói về Thiền định, vì Thiền định có khả năng tiêu trừ dục vọng, oán thù và phát triển sức mạnh tinh thần.

8. Nên nói về Trí tuệ, để giúp ta rèn luyện đức sáng suốt, phát triển trí năng hầu thấu triệt Chân lý.

9. Nên nói về sự Giải thoát, vì đó là mục đích cuối cùng của người Phật tử trên đường diệt tận Vô minh phiền não.

10. Nên nói về Giải thoát tri kiến, tức là nói đến sự thực chứng Giải thoát của chư Thánh nhân hay Đức Phật. Sự thực chứng đó giúp chúng ta trên đường tu tập vì biết chắc rằng nếu cố gắng, một ngày kia ta cũng được Giải thoát tri kiến.

Tóm lại lời nói có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng không những đối với đời sống hạnh phúc của mỗi cá nhân mà còn có thể định đoạt được cả sự an nguy của xã hội. Lời nói của một nhân vật có uy tín bao nhiêu lại càng phải thận trọng bấy nhiêu. Chính vì thế mà Đức Phật đã đưa Chánh Ngữ vào Bát Chánh đạo, con đường Tám Chánh dẫn đến Giải thoát Giác ngộ.

14/ Phật Giáo Có Phải Là Một Tôn Giáo Không?

Tôn giáo là gì? Khi nghiên cứu lịch sử Tôn giáo, chúng ta tìm thấy nhiều giải đáp cho vấn đề này. Vậy đâu là giải đáp thỏa đáng nhất? Những giải đáp ấy có thích ứng với Đạo Phật không? Chúng ta hãy tìm hiểu một vài định nghĩa thông dụng nhất.

Một định nghĩa nói rằng Tôn giáo là hệ thống các tín điều. Định nghĩa này rất đúng đối với nhiều Tôn giáo trên thế giới, nhưng không phù hợp với Đạo Phật vì những lý do sau đây:

1. Tín điều chỉ là một mớ ngôn từ không tuyệt đối. Danh từ tự nó mang đặc tính hữu hạn, làm giới hạn Chân lý. Chân lý không bao giờ được chứa đựng một cách toàn vẹn trong ngôn từ. Danh từ có thể là phương tiện để truyền đạt Chân lý, nhưng chúng ta phải hiểu rằng đó không phải là phương tiện hoàn hảo.

2. Tín điều chỉ đưa Tôn giáo đến chỗ cứng đọng, giảm hiệu lực và làm mất tính cách sống động, uyển chuyển của nó.

3. Khi đã tin vào một số Tín điều nhất định nào đó, người ta dễ sinh ra cố chấp, bảo thủ những tín điều ấy, và xem thường hay gạt bỏ những tín điều của những Tôn giáo khác. Đây là lý do đưa đến tham vọng bắt mọi người chấp nhận tín điều của mình, và cũng từ đó xảy ra chiến tranh Tôn giáo mà chúng ta thường thấy trong lịch sử.

4. Tín điều là kết quả của những nỗ lực đưa Chân lý vào hình thức của các mệnh đề phạm trù thuần lý. Trái lại Phật giáo không bao gồm một hệ thống mệnh đề thuần lý mà là một phương pháp thực nghiệm của cuộc sống., Chúng ta tìm thấy lời dạy sau đây của Đức Phật trong Pháp Cú Kinh:

"Người nói nhiều Giáo pháp nhưng không tự mình thực hành thì chẳng khác nào đếm bò cho kẻ khác. Người ấy không thể hưởng được quả vị Thánh nhân. Người không nói được nhiều Giáo pháp, nhưng tự mình sống theo Pháp, từ bỏ tham lam, sân hận, si mê, có Chánh kiến và trầm tĩnh không cố chấp vào thế giới này hay thế giới khác, người ấy mới là đệ tử Như Lai".

Một định nghĩa khác xem Tôn giáo như là sự mặc khải của Thượng đế. Hầu hết các Tôn giáo Tây phương đều được thiết lập trên nền tảng Thiên khải. Theo các Tôn giáo ấy thì Thiên khải tức là phương tiện giao cảm giữa Thượng đế với con người, nhờ đó con người biết được Ngài và vạn vật do Ngài sáng tạo.

Phật giáo không tán thành Thiên khải vì những lý do sau đây:

1. Thiên khải có tính cách đặc thù vì chỉ được thực hiện đối với từng cá nhân. Và một khải thị có thể được xem là giá trị đối với người này chưa hẳn đã đúng với người khác. Vậy mặc khải mang sắc thái chủ quan, không thể phổ quát hóa.

Điều này đưa đến một sự chia rẽ trầm trọng giữa các Tôn giáo Tây phương. Mặc dù các Tôn giáo ấy đều dựa trên căn bản mặc khải, nhưng xem ra những khải thị của họ lắm lúc mâu thuẫn lẫn nhau. Tệ hại hơn nữa, có khi trong cùng một Tôn giáo mà nhóm tông đồ kích bác mãnh liệt đến độ chiến tranh bùng nổ vì thiên khải bất đồng.

2. Thiên khải đi ngược lại các nguyên lý căn bản như nguyên lý túc lý, nguyên lý Nhân quả... Ông Christmas Humphreys, Hội Phật giáo Anh Quốc, nói: "Trong Phật giáo, không những chúng ta không tìm thấy Thiên khải, mà quan niệm này còn bị bác bỏ nữa là khác". Vì người Phật tử phải thấu hiểu Vũ trụ, Nhân sinh qua kinh nghiệm, lý trí và trực giác, như thái độ của nhà khoa học, mà không cần ai khải thị. Họ nhận định rằng tri thức do khải thị chỉ là một mớ trí thức vay mượn, tạm bợ và ảo tưởng.

Thái độ của người Phật tử giống như thái độ của Tất Đạt trong "Câu chuyện dòng sông" của văn hào Hermann Hesse. Tất Đạt nhìn nhận Đức Phật là bậc Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ; lời dạy của Ngài rất hoàn hảo, nhưng chàng phải thực hiện con đường riêng của mình, con đường mà chàng biết cuối cùng cũng chỉ như lời Phật dạy và cứu cánh tối hậu của nó cũng chỉ là để thành bậc Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ như Đức Phật; vì không thể có cái gì cao hơn được nữa. Cũng thế người Phật tử không chấp nhận lời dạy của Đức Phật như tín điều hay mặc khải mà họ phải chấp nhận một cách tuyệt đối, họ xem Giáo lý của Ngài như những kinh nghiệm của người đi trước và muốn đạt đến cứu cánh họ phải đi hết quãng đường bằng chính kinh nghiệm, lý trí và trực giác của mình.

Một định nghĩa nữa coi Tôn giáo như những lệ cúng tế, cầu đảo. Sở dĩ có định nghĩa như vậy vì một vài Tôn giáo Đông phương cũng như Âu Mỹ tỏ ra rất chú trọng đến lễ nghi cúng tế. Những Tôn giáo này tin rằng thần Thánh có một quyền uy ban ơn giáng họa tuyệt đối. Họ phải tỏ lòng cung kính và phục tùng để được ban ân huệ. Mặt khác, họ tin rằng tội lỗi có thể được ân xá hay tẩy trừ nhờ cúng tế.

Đạo Phật không chú trọng đến lễ nghi cúng tế vì:

1. Những nghi lễ cúng tế phiền phức làm mất tính cách giản dị của một Tôn giáo. Mặc dù có những lễ nghi cần thiết phải được tôn trọng để làm tăng lòng thành kính của tín đồ, nhưng những hình thức cúng tế quá rườm rà đều bị Đạo Phật loại bỏ.

2. Nghi lễ cúng tế có thể gây nên một sự hiểu lầm nguy hại. Nhiều tín đồ đã nhầm lẫn sự thờ cúng với việc tu niệm vì họ tin rằng tội lỗi sẽ được ân xá nhờ cúng tế. Nhưng thật ra tội lỗi chỉ có thể tẩy trừ bằng ý chí cải thiện của mỗi cá nhân, trong khi thờ cúng lại chỉ để tỏ lòng thành kính của môn đệ đối với đấng Giáo Chủ.

3. Một khi đã chú trọng đến nghi lễ người ta có thể vấp phải một khó khăn là những nghi lễ dễ bị lạc hậu. Nghi lễ mỗi thời một khác, địa phương này cũng bất đồng với địa phương kia, điều này đưa đến tranh chấp nghi lễ này đúng, nghi lễ kia sai. Đó là một trở ngại lớn lao cho việc tu niệm và truyền bá.

4. Một Tôn giáo chứa đựng quá nhiều hình thức thì nội dung dễ bị lãng quên. Chúng ta nhìn nhận hình thức và nội dung phản ảnh lẫn nhau, một khi nội dung tốt thì hình thức cũng tốt và ngược lại. Như một bậc Thánh nhân thì hẳn phải có dáng điệu phi phàm. Nhưng đó phải là phản ảnh trung thực chứ không phải vẽ vời hình thức để che giấu một nội dung trống rỗng. Thật vậy:

"Cúng tế không đem đến một hiệu dụng nào, kinh cầu là những lời lặp đi lặp lại vô bổ và bùa chú không đủ sức mạnh cứu vớt được con người. Chỉ có chế ngự tham dục, trừ bỏ sân niệm và tiêu trừ si mê mới thật là thể cúng chân thật, sự tế lễ đúng đắn.

Đọc nhiều kinh điển, cúng dường các bậc tu hành, thờ lạy thần linh, tự đày đọa thân thể hay bất cứ một hình thức khổ hạnh nào cũng không thể làm cho người trở nên thanh tịnh, sáng suốt.

Tụng hồng danh Phật cũng chỉ hữu ích khi nào chuyên tâm nhất niệm để giữ ý trong sạch và cải thiện hành động cho phù hợp với lời Phật dạy".

Chúng ta đã thấy ba định nghĩa trên về Tôn giáo không thể áp dụng được với Phật giáo. Vậy Đức Phật định nghĩa Tôn giáo như thế nào?

Câu trả lời rất giản dị và rõ ràng: Tôn giáo là thái độ chân chính, chứ không phải là bao gồm những tín điều, nghi lễ, cũng không phải được khải thị bởi Trời.

Một người tu hành phải xây dựng nhân cách của mình bằng những thái độ thế nào để có thể bộc lộ ra ngoài bằng những hành động đạo đức. Thái độ ấy là thái độ tri thức chân chính, một tiêu chuẩn chính xác để hành động. Đức Phật nhận thấy hành động bắt nguồn từ thái độ tri thức. Vì vậy một thái độ chân chính sẽ đưa đến một hành động đạo đức và ngược lại. Đó là lý do tại sao Ngài dạy chúng ta muốn trở nên đạo đức phải phát triển một số thái độ chân chính và phải loại bỏ những thái độ đối nghịch. Đôi khi chúng ta căn cứ vào những qui luật đạo đức bên ngoài để đánh giá trị thiện ác của một hành động, nhưng giá trị hành động tự nó mang sẵn tính chất đạo đức của thái độ bên trong. Một khi thái độ tri thức chân chính gắn liền với nhân cách con người thì điều thiện có thể thực hiện được một cách tự nhiên không phải cố gắng nữa. Đó là đạt đến chỗ chí nhân, chí thiện.

Vậy một Tôn giáo có mục đích đưa con người đến chỗ toàn chân, toàn thiện phải đặt trọng tâm trong việc cải thiện thái độ tri thức.

Phật Ngôn đầu tiên trong kinh Dhammapada (Pháp Cú) đã chứng tỏ cho chúng ta tầm quan trọng của thái độ tâm lý đối với đời sống của mỗi cá nhân:

"Sự hiện hữu của chúng ta là kết quả của những gì ta tư tưởng. Nó được xây dựng trên tư tưởng và kết tinh bằng tư tưởng. Nếu một người nói hay hành động với tư tưởng sai lầm thì khổ đau sẽ theo người ấy như bánh xe lăn theo chân con bò kéo xe. Nhưng nếu nói hay hành động với tư tưởng chân chính thì hạnh phúc sẽ theo người ấy như bóng theo hình".

Tư tưởng sai lầm và tư tưởng chân chính là hai thái độ tâm lý mâu thuẫn nhau, mỗi thái độ đem lại một kết quả khác biệt. Một thái độ tâm lý gọi là sai lầm hay bất thiện khi nó mang bản chất Tham Sân Si. Trái lại thái độ chân chính hay thiện khi nó không bị ba trạng thái tâm lý (mental states) ấy chi phối.

Vậy muốn chuyển hóa thái độ sai lầm sang chân chính phải diệt trừ ba nhân bất thiện: tham, sân, si, và những yếu tố liên hệ với chúng.

Sau đây là một vài thái độ tâm lý căn bản được Đức Phật khuyến khích chúng ta nên phát triển.

1. Tín (Saddha): Đức tin có hai khía cạnh là tin tưởng nơi Tam bảo và tự tin ở khả năng cải thiện của mình. Như có người muốn đi đến một nơi nào đó phải tìm một người hướng đạo kinh nghiệm, sáng suốt và từng hiểu rõ đâu là nơi ta muốn đến, phải tin tưởng nơi con đường mà người ấy chỉ dẫn cặn kẽ và hơp lý, phải noi gương người đi trước và tự tin là mình có đủ sức đi hết đoạn đường. Cũng vậy, muốn đạt đến chỗ toàn thiện chúng ta phải tin tưởng nơi Đức Phật là bậc Thầy hướng đạo giàu kinh nghiệm đầy sáng suốt và đã trở thành bậc toàn thiện; phải tin ở Chánh đạo mà Ngài chỉ dạy vì đó là con đường hơp lý, thực nghiệm; và phải noi gương chư Tăng, những người đi trước. Mặt khác chúng ta phải tự tin có thể đạt đến chỗ toàn thiện, toàn chân, toàn mỹ.

Vậy Đức Tin là thái độ tâm lý đầu tiên hướng ta về điều thiện.

2. Tàm và Quý (Hiri Ottappa): Tàm là thái độ tâm lý của một người biết hổ thẹn trước điều ác. Quý là thái độ tâm lý biết sợ hãi trước tội lỗi. Hai thái độ này liên kết với nhau thành một bức thành trì vững chắc ngăn chúng ta với điều ác. Một mặt nhờ có Tàm ta biết hổ thẹn với lương tâm khi sắp làm một điều ác, lương tâm cảnh cáo ta không cho nhúng tay vào tội lỗi. Mặt khác nhờ có Quý ta biết sợ hãi khi phác họa ra trước mắt những hậu quả tai hại do việc ác gây ra cho mình và cho kẻ khác. Ví dụ một người sắp sát nhân, nhưng lương tâm anh ta không cho phép anh làm việc đó (Tàm), đồng thời cảnh tượng nạn nhân đau đớn quằn quại trên vũng máu, cảnh nheo nhóc, bi thảm của vợ con nạn nhân v.v... và cảnh tù tội của chính anh hiện ra trước mắt khiến anh dừng tay không làm tội ác sát nhân nữa (Quý).

Như vậy Tàm (hổ thẹn) và Quý (ghê sợ) là hai thái độ tâm lý cần thiết giúp ta không tái phạm điều ác.

3. Giác tỉnh (Sampajanna): Muốn biết rõ giá trị thiện ác của mỗi hành động ta phải có một thái độ sáng suốt. Giác tỉnh tức là biết rõ nhất cử nhất động của mình, vì vậy một khi đã giác tỉnh thì ta không hành động hồ đồ, vô ý thức.

Một người quá sân hận có thể sát hại đối thủ một cách hoàn toàn mù quáng. Đến khi nguôi giận anh ta mới biết mình hành động điên rồ. Sở dĩ như vậy vì hành vi của anh ta bị thúc giục bởi một xung đột tình cảm là sân hận chứ không được nhận thức rõ ràng bằng giác tỉnh, nghĩa là anh ta không kịp thời kiểm soát hành động của mình bằng một thái độ tri thức sáng suốt.

Giác tỉnh thương đi đôi với Niệm (Sati), tạo thành một thế liên hoàn để ngăn chặn điều ác và giữ cho điều thiện luôn luôn hiện hữu. Giống như một người lính canh gác, phải tỉnh táo thường xuyên (giác tỉnh) để nhận biết hành tung của kẻ địch bất cứ lúc nào (niệm).

Albert Camus tán đồng quan điểm này của Đạo Phật khi ông nhìn nhận tỉnh thức là thái độ tâm lý cần thiết để đối kháng với kẻ thù tham, sân, si.

4. Vô lượng tâm (Appamanna): Con người sở dĩ gây nên tội ác là do tính hẹp hòi, vị kỷ, chấp ngã, khinh mạn... Vì vậy muốn hướng thiện, đừng để lòng mình bị giới hạn trong lớp vỏ bản ngã, phải để cho tâm hồn phóng đạt, rộng rãi, bao trùm cả vạn vật chúng sinh.

Thái độ xả kỷ vị tha đó thường xuất hiện dưới bốn hình thức: Từ, Bi, Hỷ và Xả.

- Từ (Metta): Là lòng mong mỏi cho tất cả chúng sanh, không phân biệt chủng loại, được an vui hạnh phúc.

- Bi (Karuna) là lòng sẵn sàng hy sinh để xoa dịu đau khổ của tất cả chúng sanh.

- Hỷ (Mudita): là lòng vui mừng trước sự thành công hay hạnh phúc của bất cứ chúng sanh nào.

- Xả (Upekkha): là lòng bình đẳng, vô tư, không bị chi phối bởi những tình cảm yêu ghét, thích thú hay bất mãn.

Chúng ta không thể làm việc thiện nếu không có những thái độ tâm lý Từ, Bi, Hỷ, Xả. Vì bao lâu Tâm Vô Lượng chưa có thì ta còn bị những tình cảm sân, hận, đố kỵ tham dục chi phối; mà những tình cảm này là mầm mống của tội lỗi.

5. Chánh kiến (Sammaditthi): Nhận thức đúng đắn về bản chất của kiếp sống là thái độ cần thiết để hướng dẫn hành động.

Đức Phật dạy rằng có hai nhận thức sai lầm về Vũ trụ và Nhân sinh có thể dẫn con người đi sâu vào tội lỗi đó là Thường kiến và Đoạn kiến.

Nếu tin rằng bản ngã và thế giới là thường tồn bất biến (Thường kiến) thì con người không cần phải cải thiện, vì nói đến cải thiện tức là nói đến đổi thay mà bản ngã và thế giới đã bất biến thì làm thế nào cải thiện được. Đó là thái độ nhận thức làm cản trở bước tiến hóa đến chỗ chí thiện.

Trái lại nếu cho rằng bản ngã và thế giới hoàn toàn hủy diệt sau khi chết (Đoạn kiến) thì người ta sẽ bất chấp Nhân quả, tội phước. Và vì thế trật tự xã hội sẽ rối loạn, con người sẽ rơi vào vực thẳm tội lỗi.

Để có thái độ nhận thức đúng đắn, ta phải biết nhận xét và phán đoán về thực chất của bản ngã và thế giới. Chánh kiến bao gồm tri kiến về Tứ Diệu Đế, trong đó có sự biện biệt Nhân quả, thiện ác và yếu tính Vô thường của giới Hữu vi là Bản Ngã và Thế Giới.

Hành động của mỗi người đúng hay sai tùy thuộc kiến thức bên trong của người ấy chính xác hay không. Một vị Bác sĩ hiểu biết thâm sâu về y dược, cách khám bệnh, đoán bệnh và giàu kinh nghiệm trong phương pháp trị liệu tất nhiên chữa bệnh có kết quả hơn ông lang băm không rành y học. Một cậu sinh viên không biết các định lý toán học, không biết chứng minh, không thuộc công thức thì làm sao tìm đáp số đúng cho một bài toán. Cũng vậy, muốn trở thành toàn chân, toàn thiện trước hết phải có Chánh kiến tức là một thái độ tri thức nhờ đó ta hiểu được đâu là chân, đâu là giả.

Qua Tam tạng Kinh điển chúng ta tìm thấy rất nhiều thái độ tri thức được Đức Phật giới thiệu và khuyến khích bằng chính thái độ gương mẫu của Ngài. Trên đây chúng ta chỉ muốn đề cập đến một vài thái độ tri thức căn bản mà từ đó ta có thể phát triển những thái độ tâm lý chân chính khác hầu tự giải cứu mình ta khỏi thế giới giả vọng đến chỗ toàn chân.

15/ Tấm Gương Người Con Hiếu

Nhân mùa báo hiếu chúng tôi xin cống hiến quý vị một gương hiếu thảo sống thực, đúng theo tinh thần Phật giáo, đầy ý vị không kém gì Nhị Thập Tứ Hiếu ngày xưa. Đó là chuyện một nhà chính khách lỗi lạc, một nhà lãnh đạo thế giới có uy tín: Ông cựu Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, Thant, người Miến Điện.

Nếu chúng ta viện lẽ vì chiến tranh, vì ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị mà lắm lúc phải lãng quên bổn phận làm con đối với cha mẹ, thì trái lại ông Thant trong khi phải dàn xếp vô số công việc chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã hội, văn hóa... vẫn không hề xao lãng bổn phận của mình đối với mẹ già.

Chúng tôi rất cảm động khi thấy bức hình ông cựu Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc đang quỳ lạy và dâng cơm nước cho bà mẹ, đăng trong một tờ báo tại Kuala Lumpur, Mã Lai. Quý vị có thể bảo rằng cử chỉ đó quá giản dị, ai mà chẳng làm được. Vâng, giản dị thật, nhưng không phải ai cũng thực hiện đựơc, vì nó phản ảnh một tấm lòng hiếu thảo được các bậc Thánh hiền ca ngợi trong nền văn hóa truyền thống Á Châu.

Bưng cơm cho cha mẹ thì dễ, nhưng hầu hạ với lòng cung kính thành thực và biết ơn thì thật là hiếm có. Nhiều thanh niên thời đại đã xem cử chỉ khiêm cung đối với cha mẹ như là một cổ lệ, lạc hậu, không phù hợp với cao trào tiến bộ của văn minh cơ giới. Họ sợ bạn bè cười chê khi phải quỳ lạy, chắp tay hay cúi đầu trước song thân. Thậm chí chúng ta còn nghe họ gọi cha mẹ là "ông già khó tính" hay "bà già trầu"! Một người con không hiếu kính, không biết ơn, không yêu thương cha mẹ, thì tất nhiên đối với xã hội có thể anh ta là một người vô ân bạc nghĩa, vô lễ, ngang ngạnh và ích kỷ, nói chung là một người hư hỏng.

Cũng lắm người khi được nuôi nấng nên danh phận, họ không dám nhìn cha mẹ của mình chỉ vì cha mẹ của mình xuất thân từ giai cấp nghèo hèn, thợ thuyền, quê mùa hay là người tàn tật. Trong một xã hội như thế, cử chỉ hiếu kính của ông Thant dĩ nhiên phải nổi bật như một gương sáng cho mọi người.

Ông Thant sinh ra tại Miến Điện, một nước lấy Phật giáo làm Quốc Giáo, và được thấm nhuần Giáo lý Phật Đà nên ông đã tỏ ra là một Phật tử thuần thành gương mẫu. Mặc dầu nắm giữ vai trò quan trọng nhất trên chính trương quốc tế và được nhân loại tôn trọng, kính nhường như một nhà lãnh đạo thế giới, nhưng về nhà ông vẫn là một người con hiếu thảo, vẫn lo săn sóc, hầu hạ cha mẹ đúng theo lời Phật dạy. Hẳn ông đã không quên sở dĩ ông có được địa vị cao trọng ngày nay là nhờ công lao sinh thành dưỡng dục, nhờ tình thương vô bờ bến và tấm lòng hy sinh cao cả của người mẹ, vì thế ông sẵn sàng gác qua một bên những công tác lớn lao và nặng nhọc của một nhà chính khách vĩ đại trên thế giới để có thì giờ làm tròn bổn phận của một người Phật tử ngoan đạo, một người con hiếu thảo trong gia đình. Mẹ của ông hẳn phải hãnh diện và sung sướng không phải vì thấy con mình là một nhà lãnh đạo thế giới hay một chính khách lỗi lạc mà chính vì bà có một người con ngoan đạo và hiếu thảo.

Đây là một bài học cụ thể cho tất cả Phật tử chúng ta. Một gương hiếu thảo không siêu quần bạt chúng nhưng đủ để làm mẫu mực cho mọi người noi theo, để luôn ghi nhớ rằng: Trong bất cứ trường hơp nào, dù danh vọng cao sang, địa vị quý trọng hay có uy tín lớn lao đến đâu cũng phải khiêm cung, hiếu kính đối với bậc sinh thành.

Trong Mangala Sutta (Kinh Hạnh Phúc), Đức Phật dạy: Phụng sự cha mẹ là một điều hạnh phúc cao thượng.

Chính Đức Phật cũng đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ bằng một hành động siêu phàm. Ngài đã độ cho vua cha trở thành một bậc Thánh nhân trước khi lìa đời, và kinh điển có chép rằng suốt mùa an cư kiết hạ thứ bảy, Ngài đã dùng hầu hết thì giờ để thuyết pháp cho Hoàng hậu Ma Gia ở trên cung trời Đao Lợi.

Theo đạo Phật hướng dẫn cha mẹ sống đúng theo Chánh đạo là một thái độ hiếu thuận có ý nghĩa nhất trong những bổn phận của con đối với cha mẹ.

Những bổn phận này được Đức Phật đề cập đến trong Kinh Sigala (Lễ Sáu Phương) như sau:

1. Phụng dưỡng cha mẹ bằng phương tiện vật chất và hướng dẫn người trên bước đường tinh thần.

2. Làm những công việc nặng nhọc thay cha mẹ.

3. Gìn giữ gia phong.

4. Chi dụng gia sản của cha mẹ một cách hơp lý.

5. Hồi hướng công đức cho cha mẹ khi người đã lìa đời.

Một người con có thể xem là bất hiếu nếu đi ngược lại năm bổn phận chính yếu kể trên nghĩa là:

1. Không nuôi dưỡng cha mẹ và không hướng dẫn cha mẹ theo Chánh đạo khi cha mẹ là người tà kiến.

2. Không đỡ đần những công việc nặng nhọc cho cha mẹ.

3. Làm ô uế gia phong.

4. Làm tán gia bại sản của cha mẹ.

5. Không màng tới thâm ân của cha mẹ khi các người đã quá vãng.

Chúng ta có thể so sánh điều này với năm tội bất hiếu mà Mạnh Tử đã dạy:

1. Lười biếng không làm việc để nuôi cha mẹ.

2. Say mê cờ bạc, rượu trà, không nghĩ đến cha mẹ.

3. Ham tiền của, lo vợ con, chẳng đoái hoài đến cha mẹ.

4. Ham vui chơi để cho cha mẹ mang nhục.

5. Ham sức mạnh thích đánh nhau làm phiền đến cha mẹ.

Người con nào không phạm đến năm tội bất hiếu trên được xem là hiếu tử.

So sánh hai lời dạy trên của Đức Phật và của Đức Mạnh Tử, chúng ta thấy hai Ngài đều lưu tâm đến cách phụng dưỡng cha mẹ bằng vật chất. Nhưng điểm nổi bật là Đức Phật có đề cập đến phương diện tế nhị hơn: hướng dẫn cha mẹ theo Chánh đạo. Như trường hợp cha mẹ không rành đạo lý, ham thích cờ bạc, rượu chè, tham lam, trộm cắp hay độc ác hại nhân... nhưng người con may mắn có dịp đến chùa nghe kinh thính pháp nên biết sống theo đạo đức, hiểu biết đạo lý, trong trường hợp này người con phải tìm cách khôn khéo hướng dẫn cha mẹ trở lại đường ngay nẻo chánh.

Nhiều Phật tử đã hướng dẫn cha mẹ bằng cách xây chùa, cất tịnh thất cho cha mẹ tu niệm. Họ còn thỉnh chư Tăng đến giảng đạo, thuyết pháp cho cha mẹ nghe. Hoặc chính họ thực hành lời Phật dạy như Bố thí, Trì giới, Tham thiền cho cha mẹ hành theo. Tất cả những cử chỉ đó đều được ca ngợi trong Phật giáo.

Tóm lại, làm con phải nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ và phải báo đền ân thâm ấy bằng bất cứ giá nào, vì đó là nghĩa vụ trước tiên trong tất cả nghĩa vụ làm người; đúng như đức Khổng Tử đã dạy: "Hiếu giả bách hạnh chi tiên".

16/ Chiến Thắng Ma vương

Nhân ngày Thành đạo, chúng ta thử đưa ra một vài nhận định về cuộc đại thắng ma quân của Bồ tát Tất Đạt Đa để hiểu thêm phần nào ý nghĩa ngày lễ trọng đại này.

Khi nói đến Phật cảm thắng Ma vương, hầu như mọi người đều tưởng tượng hình ảnh quỷ sứ sừng nhọn, răng nanh, đầu trâu, mặt ngựa, vô cùng khủng khiếp kéo đến bao vây Ngài và Ngài cũng dùng phép thần thông để chống cự; sau một hồi chiến đấu cam go bằng quyền phép nhiệm mầu, Ngài đã hàng phục Ma quân một cách vẻ vang oanh liệt.

Chữ Ma vương theo nghĩa Phật giáo, không phải chỉ có nghĩa giản dị như thế. Ma vương có năm loại:

1. Phiền não ma

2. Ngũ uẩn ma

3. Pháp hành ma

4. Tử diệt ma

5. Chư thiên ma

Cả năm thứ ma trên đều làm trở ngại cho tiến trình Giác ngộ. Vì vậy, hễ chiến thắng được ngũ ma, nhất là ma phiền não là đã thành công trong cứu cánh Giải thoát. Chúng ta sẽ tìm hiểu ngũ ma là gì, và Đức Phật đã chiến thắng ma quân ấy như thế nào.

1. Phiền não ma

Chúng ta hãy lưu ý đoạn kinh sau đây:

"Này Ma vương, dục lạc là ma quân thứ nhất của ngươi, hai là bất mãn, ba là đói khát, bốn là ái dục, năm là hôn trầm thụy miên (uể oải, buồn ngủ), sáu là sợ hãi, bảy là Hoài nghi, tám là phỉ báng và cố chấp, chín là danh lợi và mười là quá mạn (tự cao, tự đại, kênh kiệu...). Này Ma vương, hùng binh của ngươi là thế. Chúng luôn luôn thường trú trong con người xấu xa đê tiện; kẻ hèn yếu thì thất bại, nhưng người nào hàng phục được chúng sẽ đạt được chân hạnh phúc... Ta thà chết trên chiến trường còn hơn sống mà thất bại..."

Đọc đoạn kinh trên, nếu để ý một chút chúng ta sẽ thấy Đức Phật dùng chữ "Ma vương" với ý nghĩa là phiền não vì chúng nội tại trong những con người xấu xa đê tiện và xuất hiện dưới hình thức các tâm và tâm sở bất thiện như tham, sân, lười biếng, nghi ngờ, sợ hãi... hay dưới những nhu cầu thể xác như đói khát, ngủ nghỉ... Chúng sanh yếu hèn nên luôn luôn bị chi phối bởi những chướng ngại tâm sinh lý này. Nhưng Bồ tát với ý chí kiên trì, Ngài đã chiến thắng tất cả ma chướng ấy.

Phải chăng Đức Phật đã dùng thần thông biến hóa, quyền phép nhiệm mầu hay nhờ một trợ lực nào từ bên ngoài để chiến thắng ma quân? Phải chăng Ngài chỉ chiến đấu có một lần dười cội Bồ đề ở Bodhgaya (Bồ đề đạo tràng) mà có thể hàng phục được binh tướng ma quân hàng hàng lớp lớp?

Đời sống của Đức Phật chứng minh rằng trừ những truờng hợp tối cần, Ngài ít khi dùng đến phép thần thông, vì Ngài không muốn môn đệ hay kẻ ngoại đạo quy y Ngài vì quyền phép nhiệm mầu, mà họ phải đến với Ngài vì lý tưởng Giải thoát mà thôi.

Vả lại chủ trương của Đức Phật là chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ bằng chính những đức độ cao dày mà Ngài tu tập trong vô lương kiếp, chứ Ngài không bao giờ dùng quyền uy của kẻ mạnh để chiến thắng quân thù. Như thế Đức Phật không hàng phục Ma vương bằng thần thông quảng đại mà bằng Ba la mật lực của Ngài. Sức mạnh Ba la mật chính là những đặc tính: Bố thí, Trì giới, xuất gia (ly dục), tinh tấn, Trí tuệ, nhẫn nại, cương quyết, chân thật, Tâm từ và tâm xả (mười Ba la mật). Bồ tát đã tu hạnh Ba la mật, những đức tính cao quý vượt hẳn thế tục này, trong vô lượng kiếp, nghĩa là trong vô lượng cuộc chiến đấu Ma vương đã diễn ra liên tục và Ngài đã trải qua không biết bao nhiêu là thắng bại, cho đến lần cuối cùng, khi công hạnh đầy đủ, Trí tuệ cụ túc, Ngài đã toàn thắng Ma vương, không bao giờ thất bại nữa.

Vậy chiến thắng phiền não là chiến thắng nội tâm mình, chiến thắng chính mình và chỉ có sự thắng trận này mới đáng kể hơn cả: "Tự thắng mình quả thật thập phần vẻ vang hơn chiến thắng kẻ khác. Dầu Trời, Càn Thát Bà, Ma vương hay Phạm thiên, không ai có thể đánh bại con người đã tự khắc phục và sống tự chế" (Kinh Pháp Cú, 104 105).

2. Ngũ uẩn ma

Một khi phiền não ma đã bị đánh bại hoàn toàn thì những Ma vương khác cũng đều chịu hàng Phục. Ngũ uẩn ma chính là vọng tưởng về bản ngã, nói một cách khác đó là ngã chấp. Bản ngã theo Phật giáo chỉ là vọng huyễn, vô tưởng hay ảo giác. Không có một cái Ta trường tồn vĩnh cửu, mà chỉ có một sự kết hợp của nhiều yếu tố chi phối bởi định luật Vô thường.

Cái mà phàm nhân gọi là Ta, theo ý nghĩa thực của nó (chân đế) là Ngũ uẩn, một hữu thể gồm năm yếu tố: sắc, thọ, tưởng, hành, và thức (vật chất, cảm giác, tri giác, những tạo tác của tâm ý và thức). Năm yếu tố ấy duyên nhau mà sanh, duyên nhau mà diệt, rồi lại duyên cảnh trần mà biến đổi để tạo thành một dòng tiến trình liên tục trong bể khổ trầm luân. Vì sự sinh diệt quá phức tạp của kiếp sống nên con người cứ mãi nuôi vọng chấp Hữu ngã, hữu nhân để làm nô lệ cho những ma chướng sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

Với Trí tuệ siêu phàm, Đức Phật đã thấy rõ cái Ta chỉ là Ngũ uẩn, có hợp, có tan, Vô thường biến đổi nên Ngài đã phá ma chướng chấp ngã. Đó chính là chiến thắng Ngũ uẩn ma vậy.

3. Pháp hành ma

Pháp hành có nhiều ý nghĩa khác nhau, nhưng ở đây ám chỉ những hành động tạo nghiệp của thân, khẩu, ý. Có ba loại hành là:

- Phước hành: Những nghiệp thiện, như Bố thí, Trì giới, Tham thiền, Từ bi, hỉ xả v.v...

- Phi phước hành: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, ganh tị, bủn xỉn, cố oán, v.v...

- Bất động hành: Hành vi không thiện, không ác.

Những nghiệp thiện ác này phát xuất từ phiền não và lại đóng một vai trò quan trong trong việc huân tập phiền não, bởi thế khổ đau càng ngày càng tích lũy, kiếp luân hồi mỗi lúc một gia tăng. Vậy chiến thắng pháp hành ma tức là tiêu diệt sự hình thành của nghiệp, Giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thiện ác như Phật đã dạy trong Samyutta Nikàya (Tương Ưng): "Vì bị chi phối bởi tham lam, sân hận, si mê mà nghiệp hình thành, đó là căn nguyên của mọi đau khổ. Đoạn diệt được tham, sân, si tức là hủy diệt động lực hình thành của nghiệp và mọi đau khổ phải chấm dứt." Đức Phật và các vị A la hán là những bậc đã đoạn trừ được sự chi phối của nghiệp, tức là đã hàng phục được pháp hành Ma vương vậy.

4. Tử diệt ma

Đã là chúng sanh, còn thân Ngũ uẩn tức là phải có sinh, có tử. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy: "Chẳng phải bay lên trời, chẳng phải lặn xuống đáy biển, chẳng phải trốn vào hang sâu núi thẳm, không bất cứ nơi nào trên thế giới có thể thoát khỏi tử vong".

Dù Đông phương hay Tây phương, ai ai cũng phải nhìn nhận Chân lý hiển nhiên đó. Nhân loại dù có văn minh đến đâu, y học có tiến bộ đến đâu cũng không thể nào tìm ra được một phương thức nào, một linh dược nào giúp cho con người thoát khỏi tử vong: "không ai tránh khỏi sự chết".

Thật ra, mỗi một chúng ta đang chết dần, tùng giây, từng phút; chứ không phải chỉ lúc nhắm mắt xuôi tay mới gọi là chết. Mỗi một điểm nhỏ thời gian trôi qua, chúng ta đã già đi một ít, các tế bào đã hoại đi một ít. Nhưng sự biến đổi quá nhanh chóng nên ta không nhận chân được.

Bao lâu chúng sanh còn Vô minh, ái dục, phiền não, ô nhiễm thì vẫn còn bị chi phối bởi định luật tử sinh. Trái lại Đức Phật đã diệt tận Vô minh nên không còn hành, tức không còn tạo nghiệp. Không có hành nên thức không sanh. Thức không sanh nên danh sắc, tức thân tâm không sanh. Thân tâm không sanh thì làm gì có lục nhập: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm. Không có lục nhập thì không có sự xúc chạm. Không có xúc chạm thì không sinh ra thọ vui, thọ khổ. Không có cảm giác vui, khổ thì không có ái, tức không sinh ra yêu ghét. Không yêu ghét thì không có thủ chấp, muốn có, bám víu, giữ chặt... Không có thủ thì không có hữu, không có sinh, không già, chết. Đức Phật không còn Vô minh, ái dục... nên đã thoát ra khỏi tử sinh tức Ngài đã chiến thắng được tử thần ma.

5. Chư thiên ma

Trong năm loại Ma vương, chỉ có chư thiên ma là ma quân từ bên ngoài, còn bốn loại kể trên đều là nội ma cả. Nhưng thứ ngoại ma này không quan trọng bằng các nội ma, do đó Đức Phật dạy: "Dù thắng vạn quân ở chiến trường không bằng chiến thắng chính mình, vì đó là chiến thắng cao thượng nhất." Chư thiên ma là những vị trời, những vị quỉ thần, tà kiến hay chúng sinh trong cảnh giới A tu la, Dạ xoa... Những hạng phi nhơn này có khi ủng hộ, có lúc phá phách những bậc tu hành ở nơi thanh vắng.

Những người kém đức sẽ khiếp sợ và thối chuyển, nhưng những bực đức độ cao dầy, ý chí sắt đá không những không khiếp nhược trước ma quân mà còn đem lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả của mình để hóa độ chúng trở về Chánh đạo. Trong Kinh có ghi lại nhiều trường hợp Đức Phật cảm hóa loài Ma vương này, như trường hợp Alàvaka hay Long Vương Nandopananda... sau khi thi triển thần lực đều phải qui phục trước đức Bi, Trí, Tịnh vô song của Thế Tôn. Chính vì thế mà Ngài được tôn xưng là bậc Thầy và Người. Chư Thiên Ma cũng còn có nghĩa là ước vọng của người muốn trở thành chư thiên hay muốn lên cõi Trời để hưởng lạc. Ứơc vọng đó cũng là ma chướng nội tại cản trở bước tiến của chúng ta đến bờ Giác ngộ.

Tóm lại, trên hành trình Giải thoát, chúng ta sẽ phải noi gương Đức Phật để phấn đấu với Ngũ Ma từng giờ, từng phút cho đến lúc nào toàn thắng được tất cả ma quân mới có thể trở thành bậc Giác ngộ.


17/ Tam chướng và cách đối trị

Chúng ta thường nghe người Phật tử phát nguyện rằng: "Nguyện tiêu Tam chướng trừ phiền não, nguyện đắc Trí tuệ chơn minh liễu... " Như vậy Tam chướng là gì? Phiền não là gì? Và Trí tuệ có tác dụng thế nào?

Tam chướng được dịch từ chữ Pali: Tayo kincana. Ba điều ấy là Tham, Sân, và Si. Tam chướng đôi khi còn được gọi là ba bất thiện căn. Chính ba điều chướng ngại này là nguyên nhân của tất cả mọi khổ đau và khiến cho chúng sanh chìm đắm trong vòng luân hồi sanh tử. Kết quả gây ra bởi Tam chướng gọi là Phiền não. Chỉ có Trí tuệ thấu triệt được chân tướng của vạn hữu mới có thể tiêu diệt được Tam chướng và khử trừ được phiền não.

Tham Sân Si hiện hành trong mỗi chúng sanh dưới hai hình thức: Thô tướng và Vi tế. Vậy chúng ta hãy lần lượt phân tích từng hình thức của mỗi bất thiện căn và cách diệt trừ.

1. Trước hết là Tham chướng.

Dưới hình thức thô tướng, tham biểu lộ ra ngoài bằng nhiều cử chỉ hay thái độ khác nhau, khiến cho người khác có thể thấy được, như hành động trộm cắp, rượu chè, tà hạnh. Dưới hình thức vi tế, tham trở thành một tiềm thức ngủ ngầm trong tâm khảm của mọi chúng sinh, thường được gọi là thùy miên. Chúng ta khó có thể nhận biết được tiềm năng vi tế của tham tâm. Nhưng chính vì thế mà nó đã tạo ra những ảnh hưởng cho tiến trình Giải thoát.

Muốn diệt trừ thô tướng của tham tâm, người Phật tử phải Trì giới và Bố thí. Khi giữ giới không trộm cắp, không tà hạnh... chúng ta đã ngăn ngừa không để cho tham tâm bộc khởi ra ngoài bằng cử chỉ hay thái độ thô thiển. Tích cực hơn, chúng ta tập Bố thí để phát triển tâm quảng đại hy sinh. Nhờ đó mà thay vì tham lam vơ vét của cải kẻ khác, chúng ta lại giúp đỡ, ban bố cho mọi người.

Chúng ta có thể trộm cắp để Bố thí được không? Điều đó quả thật không đáng khuyến khích; vì lòng vị tha quảng đại không thể phát triển đến chỗ toàn thiện bằng chính tâm tham lam, ích kỷ. Vì vậy trong khi Bố thí và Trì giới, chúng ta phải có một ý tưởng rõ rệt là mong sao cho tham ái sớm được diệt trừ.

Đối với Tham vi tế, chúng ta phải dùng Thiền định để chế phục và Trí tuệ để đoạn diệt.

2. Thứ hai là Sân chướng.

Dưới hình thức thô tướng, sân bộc lộ ra ngoài bằng những hành động, lời nói hay sắc diện của mỗi người khiến cho kẻ khác có thể thấy được, như nét mặt xám lại, tim đập mạnh gấp, bắp thịt co lại và hiếu động; vì thế mà lúc nóng giận thường hay cãi vã, đánh đập, phá phách...

Sân vi tế phát hiện dưới hình thức tiềm năng, khó nhận biết được. Đôi lúc vì không biết nguyên cớ gì chúng ta cảm thấy chán nản buồn bực mà không hiểu tại sao. Những tình cảm này xuất hiện yếu ớt đến nỗi chúng ta chỉ có thể cảm nhận được một cách mơ hồ hay có khi không thể nhận biết được. Tuy nhiên, đó là hình thức vi tế của sân tâm mà ít nhất chúng ta phải đắc quả A la hán mới có thể diệt trừ được.

Muốn đối trị thô tướng của sân tâm, ta phải giữ giới, nhất là giới không sát sanh và không ác ngữ, tập tính Nhẫn nhục và Từ bi. Nhẫn nhục không phải là sự nhịn nhục vì một áp lực từ bên ngoài, mà là một thái độ tri thức phát xuất từ nơi tâm để cố gắng giữ bình tĩnh, thản nhiên trước những lời thách đố, chỉ trích mắng nhiếc, hay đánh đập của kẻ khác.

Mặt khác, ta phải phát triển lòng Từ bi. Đức Phật đã dạy cho chúng ta một Chân lý không thể chối cãi được là: "Sân hận không bao giờ dập tắt được sân hận, chỉ có lòng Từ bi mới chiến thắng được hận thù".

Đối với Sân vi tế, chúng ta phải dùng đến phương pháp Thiền định với đề mục Tâm từ, tức là ban rải tâm trong lành, hiền hòa, đến kẻ khác, nguyện cho kẻ khác được an vui, ngay những kẻ thù nghịch với chúng ta cũng được hạnh phúc. Rốt ráo hơn, ta phải dùng đến pháp quán tâm, phương pháp nội quán của Phật giáo để phân tích những hoạt động sâu kín nhất của tâm giới, vạch trần những sân niệm vi tế nhất để loại trừ.

3. Cuối cùng là Si chướng.

Dưới hình thức thô tướng, si hiển hiện qua hành động và lời nói của những kẻ ngu ngốc. Những người này thường bảo thủ ý kiến của mình, bướng bỉnh, thành kiến, cố chấp, lãnh hội chậm, và có vẻ mặt đần độn, si mê. Ý kiến của họ thường là tà kiến, nghĩa là phản lại với Chân lý.

Dưới hình thức vi tế, si mê là chưa thực sự nhận chân được thực tướng của vạn hữu. Si mê thường hiện hữu dưới hình thức vi tế có gốc rễ sâu thẳm trong kiếp trầm luân. Nó vừa là động lực vừa là hậu thuẫn cho tham và sân. Lòng tham ái bám víu trong dục lạc, lòng tham ái muốn được hiện hữu và lòng tham ái cho rằng "chết là hết" đều là hiện thân của Vô minh trong cõi luân hồi sinh tử.

Phương pháp đối trị thô tướng của si tâm là cải thiện kiến thức bằng cách học hỏi, rèn luyện tri thức bằng cách suy tư. Một người nhờ biết học hỏi, biết lắng nghe, biết suy tư về đạo lý có thể cải thiện tri kiến của mình để loại dần những thô tướng của si tâm.

Đối với Si vi tế, chúng ta phải dùng đến phương pháp phát triển Trí tuệ bằng cách hành trì. Hành trì ở đây ám chỉ hai phương diện của Thiền định là "Chỉ" và "Quán". "Chỉ" giúp cho tâm thanh tịnh mở đường cho "Quán", phát huy Trí tuệ tối thắng trực nhận Chân lý.

Tham, Sân, Si đúng như tên gọi của nó: Tam chướng, đã ngăn trở chúng sanh trên tiến trình Giải thoát. Muốn diệt tận ba bất thiện căn này, người Phật tử phải luôn luôn cố gắng kiên trì không bao giờ lùi bước.

Một phi thuyền không gian muốn lên đến mặt trăng phải trải qua một hành trình xa xăm và hiểm trở, nếu các phi hành gia không khéo léo điều khiển, các nhà bác học tính sai một ly một khắc thì không những phi thuyền không đi tới đích, các nhà khoa học không đạt tới mục tiêu mà các phi hành gia còn bị nguy hiểm tới tính mạng. Tuy thế cũng chưa nguy hiểm và khó khăn bằng những người đi từ bờ mê đến bến giác. Họ phải vượt qua một hành trình lâu dài không tính được bằng năm, bằng tháng, và phải đối diện với một thứ sóng gió bão bùng, luôn luôn nội tại trong chính bản thân họ. Vì vậy, nếu họ không bền chí, tinh cần, nếu thuyền Giới Định Huệ của họ không bền vững, kiên cố, thì làm thế nào vượt qua được bể khổ trầm luân?

Chông gai thường làm chùn bước những người thiếu quyết tâm nhưng nó là chất liệu nung đúc tinh thần những kẻ kiên trì, ví như bùn nhơ làm cho hương sen thêm tinh khiết, sỏi đá làm cho vị nho thêm ngọt ngào. Đừng than rằng: "Bông hồng kia sao quá nhiều gai, chỉ sợ trên những gai kia không có được đóa hồng. Nếu biết chắc rằng cuối nẻo đường tu đang có một đóa hoa Vô ưu thắm tươi Trí tuệ, tỏa ngát hương Từ, sẵn sàng chờ đón; thì ngại ngùng chi, chúng ta không vội vã rút ngắn quãng đừơng để sớm đượ c đón nhận đóa Ưu đàm tuyệt thế? ".

Tóm lại, muốn tiêu trừ nghiệp chướng và phiền não, muốn có được Trí tuệ chơn minh liễu, chúng ta phải tinh tấn, kiên trì hành theo Giới Định Huệ, con đường duy nhất đưa chúng sanh từ bờ mê đến bến giác.

18/ Nhận định về cái Khổ theo quan niệm Phật giáo.

Nhiều người khi đề cập đến Phật giáo thường gán cho hai chữ bi quan, yếm thế. Theo quan niệm của họ, Đạo Phật chỉ để dành riêng cho những người già cả, không thích hợp với tuổi trẻ còn hăng say hoạt động; Đạo Phật chỉ là một triết thuyết bi quan; những người theo đạo Phật là những kẻ chán đời, chỉ biết than van, tìm lãng quên sự thế qua câu kinh tiếng kệ; qua nhãn quan Phật giáo đâu đâu cũng thấy toàn cảnh khổ: Sanh khổ, già khổ, đau khổ, chết khổ, mong muốn không được khổ, trái ý nghịch lòng khổ. Họ lý luận rằng nếu đầu óc luôn luôn chứa đựng sự khổ, thì con người sinh ra chán nản, tiêu cực và lười biếng...

Trước khi đưa ra những luận cứ phá nghi cho những nhận định hẹp hòi và có tính cách phiếm diện trên, chúng ta thử tìm hiểu xem:

Thế nào là Bi quan? Thế nào là Lạc quan?

Chúng ta đưa ra một thí dụ cụ thể để hiểu rõ các danh từ có tính cách trừu tượng ấy.

Một bệnh nhân đang quằn quại, đau đớn trên giường bệnh. Thân nhân mời các vị Thầy thuốc đến điều trị.

Vị Thầy thuốc thứ nhất nhìn con bệnh rồi lắc đầu: "Bệnh quá hiểm nghèo chắc không qua khỏi, chữa chạy cũng vô ích."

Vị Thầy thuốc thứ hai nhìn con bệnh, kết luận: "Ồ, không can gì, bệnh quá nhẹ, không cần thuốc vẫn khỏi".

Vị Thầy thuốc thứ ba cầm lấy tay bệnh nhân thăm (chẩn) mạch, tìm hiểu bệnh nhân đã lâm bệnh trong trường hợp nào, bệnh tình ra sao, nguyên nhân của căn bệnh và diễn tiến của bệnh trạng, rồi kê đơn cho thuốc.

Như thế, vị Thầy thuốc thứ nhất: quá bi quan. Vị Thầy thuốc thứ hai: quá lạc quan. Vị Thầy thuốc thứ ba là vị Thầy thuốc thực tế tượng trưng cho Đạo Phật.

Đạo Phật là đạo thực tế, Giáo pháp của Đức Phật là môn thuốc trị bệnh phiền não của tất cả chúng sanh.

Thật ra, chữ Khổ không chỉ có nghĩa là khổ đau. Khổ được dịch từ danh từ Phạn ngữ Dukkha, Chân lý đầu tiên trong Tứ Diệu Đế. Nhiều người dịch Dukkha là Khổ và cho rằng đời sống theo Phật giáo chỉ là đau khổ. Lối phiên dịch và giải thích này rất sai lạc, đã gây ra ngộ nhận khiến nhiều người cho rằng Phật giáo là bi quan yếm thế. Khổ chỉ là một trong nhiều nghĩa của Dukkha. Dukkha còn có nghĩa là bất toàn, biến đổi, giả tạo, trống rỗng, vô nghĩa lý và Ngũ uẩn... Rất khó tìm ra một chữ thích hợp để dịch trọn nghĩa danh từ Dukkha. Khi nói đến sự khổ không phải Đức Phật đã phủ nhận có hạnh phúc trong cuộc sống này. Ngài công nhận có nhiều loại hạnh phúc: Tinh thần và Vật chất; hạnh phúc của đời sống xuất gia và hạnh phúc của cuộc sống gia đình; hạnh phúc của khoái lạc giác quan và hạnh phúc của sự từ bỏ thế tục; hạnh phúc của sự ràng buộc và hạnh phúc của Giải thoát v.v... Nhưng tất cả những hạnh phúc đó đều nằm trong Dukkha. Ngay đến sự an vui hạnh phúc ở cõi Trời, những cảnh thiền với tâm an lạc, thuần khiết cũng là Dukkha. Bởi vì chúng đều là đối tượng của sự đổi thay. Do đó, những gì không vững bền, còn đổi thay đều là Khổ (Dukkha).

Đứng trước sự đau khổ của nhân loại, của chúng sinh, Ngài phân tích tìm hiểu cái khổ, không phải phân tích cái khổ để chán nản, tiêu cực trái lại tìm nguyên nhân của sự khổ để tìm cách thoát khỏi cái khổ, cái khổ đeo đẳng chúng sanh từ vô lượng kiếp. Phân tích cái khổ, tìm nguyên nhân sự khổ và đề ra một phương thức thoát khổ là Chân lý của Tứ Diệu Đế.

Nhiều người chỉ mới nghe nói đến khổ và nguyên nhân của sự khổ, đã vội cho đó là bi quan. Họ không biết, sau khi đề cập đến hai phần này, Đức Phật đã nói đến hạnh phúc của sự Giải thoát và con đường thoát ly. Chẳng khác nào vị Thầy thuốc trước khi chữa bệnh phải biết rõ căn bệnh.

Sau khi đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức là thấu hiểu chân tướng của vạn vật, Ngài đem ra giáo hóa cho chúng sanh. Ngài cùng với hàng đệ tử của Ngài đã hoạt động một cách tích cực để đem lại sự an vui cho mọi loài. Tùy từng hạng người, tùy căn cơ, trình độ của mỗi chúng sanh, Ngài chỉ dạy một cách hành đạo riêng, nhưng chung quy vẫn đưa đến một mục tiêu là Giải thoát. Ngài luôn luôn chỉ cho thấy rằng: Đây là khổ, đây là nhân sanh khổ; đây là sự diệt khổ và đây là con đường đi đến nơi diệt khổ.

Ta có thể nói trong tám muôn bốn ngàn pháp môn của Đức Phật chỉ nhằm mục tiêu "chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc". Cái khổ của chúng sanh kể sao cho xiết, nhưng cái khổ nào trọng đại nhất? Khi giảng đạo cho một vị Bà la môn, Ngài dạy rằng: Cái khổ vĩ đại nhất của chúng sanh là còn luân hồi trong vòng sanh tử.

Có thân tất phải có khổ như trong Đạo Đức Kinh. Lão tử nói: "Ngô sở dĩ, hữu đại hoạn giả, vị ngô hữu thân, cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn" (Ta vì có thân này mới khổ, nếu không có thân lấy đâu có khổ).

Nhưng thật ra cái khổ của thân không đáng kể, chính vì sự chấp rằng thân này là của ta, hay nói một cách khác là ngã chấp mới đem lại khổ đau. Nói đến ngã chấp, chúng ta phải nói đến nguyên nhân sâu xa của nó tức là Vô minh. Khi tâm không sáng suốt, tâm còn tối mê, thì còn tạo nghiệp dữ, vì thế mà phải Tái sanh để chịu quả. Bậc Thánh nhơn không sợ quả mà chỉ sợ nhân, diệt được gốc rễ của phiền não, thì diệt được khổ. Diệt khổ là diệt ngay cái nhân, khiến cho những ác pháp dấy động lên. Khi các ác pháp không còn đủ sức vươn lên, khi đã trừ diệt được nguồn gốc của cái khổ, lúc ấy sẽ được thoát khổ chắc chắn.

Phương pháp diệt khổ của Đạo Phật có rất nhiều nhưng tựu trung có thể tóm tắt vào ba điểm chính yếu sau đây:

- Giữ không cho những bất thiện pháp phát sanh.

- Diệt trừ phiền não ngủ ngầm trong tâm.

- Diệt Vô minh, vì Vô minh là đầu mối mọi khổ đau của chúng sanh.

Muốn giữ không cho ác pháp phát sanh phải Trì giới.

Muốn diệt trừ phiền não ngủ ngầm trong tâm phải dùng Định.

Muốn tận diệt Vô minh phải dùng Minh Sát Tuệ.

Tóm lại Khổ Đế nghĩa là: sự khổ là điều có thật, một sự thể đương nhiên. Khổ phát sinh do phiền não, do lòng ái dục. Muốn hết khổ phải diệt trừ ái dục. Phương pháp có hiệu quả nhất để diệt trừ ái dục là thực hành Bát Chánh đạo.

Nếu chỉ quan niệm, chỉ xét về phần Khổ và Tập, có thể hiểu lầm Phật giáo là bi quan. Nhưng tìm hiểu thêm hai phần Diệt và Đạo, chúng ta mới thấy rõ Đạo Phật là một lối sống thực tế. Đạo đế là lối thoát duy nhất của chúng sanh, là con đường dẫn chúng sanh thoát khỏi những nỗi thống khổ đến nơi an vui tuyệt đối. Đạo đế bao gồm Bát Chánh đạo, là chiếc bè rắn chắc vững vàng đưa con người thoát qua bờ khổ sông mê. Thực hành Bát Chánh đạo là tích cực đạt đến Chơn Như, bẻ gẫy bánh xe sanh tử luân hồi. Phật giáo là một kho tàng linh dược trị tất cả tâm phiền não trầm kha của chúng sanh vậy.

19/ Nhận Lãnh Trách Nhiệm

Khổ đau hay phiền muộn của chúng ta do chính chúng ta tạo nên, chứ không phải là một tai ách gia truyền hay tội tổ tông từ thế giới bên kia trở về ám ảnh chúng ta, như một vài người quan niệm. Cũng không có thưởng phạt từ một đấng quyền uy tối thượng phán xử công và tội của ta. Chúng ta phải là quan tòa của chính mình.

Phải biết gánh chịu trách nhiệm của đời sống chúng ta và nhìn nhận những khuyết điểm của chính mình mà không qui trách hay nguyền rủa bất cứ kẻ nào khác. Đổ tội cho kẻ khác khi gặp phải những nghịch cảnh thì dễ nhưng chúng ta nào biết rằng chính khi hành động như thế chúng ta vô tình rước thêm phiền lụy và tạo cho mình nhiều thù nghịch hơn.

Như tiền nhân đã nói: Người tiểu nhân luôn luôn tìm cách chỉ trích kẻ khác, người trung nhân thì tự khiển trách mình và người đại nhân quân tử không tự trách mình cũng chẳng phiền trách tha nhân. Vì thế, muốn làm người quân tử chúng ta phải tự giải quyết những vấn đề riêng tư của mình mà không nên phiền trách kẻ khác. Hơn thế nữa, chúng ta phải sáng suốt, khi một người nào đó đã làm phiền lụy đến ta; hãy bắt chước thái độ của người Hiền nhân quân tử, nghĩa là không oán trách, không nguyền rủa kẻ tạo ra lầm lỗi, mà phải nhận thức rằng kẻ đó đã bị mê hoặc bởi tham lam, sân hận, si mê, nên mới hành động điên rồ, và tìm cách khuyên răn, cải thiện họ bằng lòng từ ái khoan dung. Được như vậy, một ngày kia kẻ lầm lỗi sẽ ăn năn hối cải.

Phương pháp này đã được các bậc Thánh nhân từ cổ chí kim áp dụng và chứng tỏ rằng đó là phương pháp hữu hiệu nhất để thắng lướt mọi trở lực trên đường đời. Một điều đáng ghi nhớ là chính lòng khoan dung, đức kiên nhẫn và sự sáng suốt của ta có một từ lực khả dĩ quy hồi kẻ thù nghịch và làm cho họ nhận thức được lầm lỗi của họ.

Trong kinh Pháp Cú Đức Phật dạy rằng:

"Chớ nên dòm ngó người, chớ nên coi họ đã làm gì hay không làm gì. Chỉ nên nhìn lại mình thử đã làm được gì và chưa làm được gì."

Vì ít có ai toàn chân toàn thiện trên thế giới này, bất cứ người nào cũng có thể phạm một lỗi lầm dù vô tình hay cố ý. Nếu quả thật nhân vô thập toàn thì liệu chúng ta đã là người hoàn toàn không có lầm lỗi chưa. Và như thế tại sao chúng ta không cố gắng sửa đổi lầm lỗi của mình mà lại chỉ trích lỗi lầm của kẻ khác?

Nếu mọi người đều biết tự tu, tự xả, tự nhận lãnh trách nhiệm về mọi hành động của mình chứ không quy trách kẻ khác thì thế giới sẽ trở nên bình an, thái hòa; không còn loạn ly, tranh chấp, không còn đố kỵ, oán thù.

Nhưng, như Đức Phật đã dạy: "Nhìn lỗi người thì dễ, song quả thật là khó mà thấy được lỗi lầm của chính mình". Thế nên người ta thường phiền trách, phê phán kẻ khác hơn là tự phản tỉnh để kiểm soát chính mình, hành động như thế là trốn trách nhiệm. Tại sao chúng ta không can đảm nhìn nhận lỗi lầm và chịu trách nhiệm về những kết quả của lỗi lầm đó.

Lắm khi chúng ta gặp phải một số người tìm cách lợi dụng lòng khoan dung và đức kiên nhẫn của ta và cũng lắm khi thái độ nhường nhịn của ta có thể bị xem là hèn nhát. Chúng ta không nên vì thế mà lấy làm khó chịu; vì nếu lương tâm chúng ta minh trực, thái độ chúng ta cũng chính đáng thì tất phải được các bậc thiện trí thức ca ngợi. Vả lại Đức Phật dạy rằng: "Không bao giờ có một kẻ hoàn toàn được khen hay hoàn toàn bị chê, dù trong quá khứ, hiện tại hay mãi mãi sau này." Ngài lại dạy rằng: "Như một ngọn thanh sơn kiên cố không bị gió lay, những lời tán dương hay phỉ báng không lay động được bậc Đại trí."

Ngay trong đời sống của Đức Phật, lắm khi Ngài cũng bị chỉ trích, vu khống, phỉ báng. Phương pháp của Ngài là kiên nhẫn và trầm tĩnh. Ngài không cần đính chính, nhưng sự thật tự nhiên sáng tỏ nhờ đức độ siêu việt của Ngài.

Chúng ta chưa thể so sánh với bậc Thánh nhân tuyệt thế như Ngài, nhưng nếu chúng ta sáng suốt, cũng có thể thắng lướt được hiểm nguy. Nếu có một kẻ nào đó vì si mê, tà kiến mà gây rối cho chúng ta, thì đó là cơ hội để chúng ta trắc nghiện hay thể hiện lý trí sáng suốt, căn bản giáo dục, nền tảng đạo đức và tinh thần từ, bi, hỷ, xả của chúng ta. Trái lại, nếu ta cũng cư xử như kẻ điên rồ bằng cách tích lũy lòng oán hận, cố báo thù trả oán, thì hóa ra chúng ta tự hạ phẩm giá của mình xuống ngang hàng hay thấp kém hơn kẻ điên rồ ấy. Căn bản giáo dục và kiến thức đạo đức có ích gì khi ta không biết tùy cơ ứng dụng giống như người quân tử. Chính vì nhận thấy kẻ khác điên rồ, hung ác và tội lỗi mà ta không nên dẫm lên vết chân lầm lạc của họ.

Giữa chúng ta nhiều người có thiện tâm, không bao giờ làm hại kẻ khác, nhưng có khi họ vẫn bị chỉ trích và vẫn gặp ít nhiều khó khăn trên đường đời mặc dù họ luôn luôn giúp đỡ kẻ khác. Vì thế họ nghĩ rằng: Nếu ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ, thì tại sao ta làm lành mà lại gặp khó khăn và hành động từ thiện của ta vẫn bị người khác chỉ trích?

Đức Phật dạy rằng: "Khi thi ân ta không nên cầu được báo đáp". Hơn nữa, không phải kẻ thọ ơn nào cũng là hạng người biết ơn ân nhân của mình. Không gì cao đẹp bằng một người thi ân không mong được đền ân, đáp nghĩa. Nếu làm được như vậy chúng ta trở thành bậc Hiền nhân quân tử và chắc chắn chúng ta không bao giờ cảm thấy thất vọng khi bị vong ân bội nghĩa. Tuy vậy, trong một ngày nào đó, dù muốn dù không, chắc chắn chúng ta sẽ gặt hái được kết quả cao quí do hành động phước thiện mà ta đã làm, đúng như lời cổ nhân đã nói: "thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo; nhược hoàn bất đáo thời thần vị đáo", nghĩa là nhân lành thì quả lành, nhân ác thì quả dữ, sở dĩ chưa trổ quả là chưa đúng lúc đó thôi.

Mặt khác chúng ta phải suy nghĩ rằng, sở dĩ ngày nay ta làm lành mà bị chỉ trích hoặc gặp phải những điều bất hạnh là vì một vài nhân bất thiện nào đó mà ta đã tạo tác trước đây trong kiếp sống hiện tại hay quá khứ. Nhưng sau khi đã can đảm, bình tĩnh nhận lãnh trách nhiệm những hành động bất thiện quá khứ của mình, chúng ta đương nhiên không còn bị chi phối bởi phiền não chướng ấy nữa, nếu từ bây giờ ta không tạo thêm nhân bất thiện nào khác.

Nhờ suy nghĩ như thế chúng ta có thể dễ dàng vượt qua mọi trở ngại để tiếp tục con đường phước thiện.

Đức Phật đã nêu một gương sáng cho thế nhân khi Ngài lấy ân báo oán. Ngài dạy: "Càng nhiều oan trái đến với ta, ta càng có nhiều cơ hội thực hiện từ tâm". Hơn nữa người hành động bất thiện chưa hẳn là người luôn luôn có bản tính độc ác, mà chỉ vì Vô minh và vì họ tưởng lầm rằng phải hành động như thế để khỏi bị kẻ khác chê bai, hoặc để ngăn chận không cho kẻ khác phá rối họ đến cùng. Thay vì trả thù họ, ta nên tìm cách cải thiện và giải thích cho họ biết rằng làm như thế là không hợp lý.

Chúng ta phải thương yêu họ như chính mình, vì một ngày kia họ sẽ nhận thức được hành động điên rồ của mình và bỏ dần những tập quán sai lầm. Như thế chúng ta cần phải để cho họ có cơ hội ly ác, hoàn thiện.

Mọi người lầm lỗi chỉ vì Vô minh hay nhu nhược, nhưng chúng ta không nên có thành kiến là họ sẽ nhu nhược mãi mãi. Họ cần phải được các bậc đạo đức bao dung che chở. Chúng ta cần tìm mọi cách để cải thiện họ hơn là cô lập hay bỏ mặc họ. Có thể họ tái phạm lầm lỗi cũ nhiều lần, nhưng chúng ta cần phải kiên nhẫn sửa đổi họ như một vị Bác sĩ chữa trị bệnh nhân mang một căn bệnh dễ tái phát.

Nếu chúng ta có ý chí, biết kiểm soát tâm minh và tri túc, kẻ khác không thể quấy rầy hay đánh cắp hạnh phúc của ta được. Lòng bao dung và trí sáng suốt giúp chúng ta rất nhiều trong việc thoát ly ra khỏi những ràng buộc, những gánh nặng do phiền não gây nên, để sống một cuộc đời thanh tịnh tự tại.

Đức Phật dạy: "Hạnh phúc thay chúng ta sống không thù hận giữa những người thù hận, giữa những người thù hận chúng ta sống không thù hận. Hạnh phúc thay ta sống kiên cường giữa những người nhu nhược, giữa những người nhu nhược ta sống kiên cường". Trong thực tế của cuộc đời, không ai hoàn toàn thoát khỏi những lo âu phiền muộn, trừ khi chúng ta trở thành bậc toàn thiện. Tuy nhiên, nếu ta hiểu rõ được bản chất của cuộc sống, không phàn nàn, bất mãn mà can đảm nhận lãnh những kết quả của hành động mình thì đau khổ không những không còn làm cho chúng ta sa đọa, mà còn giúp chúng ta vượt lên đến Chân, Thiện, Mỹ.

Phiền não và khổ đau là phí tổn tất nhiên mà ta phải trả vì chúng đã chiếm hữu cái thân Ngũ uẩn này. Chừng nào chúng ta không còn lệ thuộc vào khối danh sắc ấy nữa, chúng ta mới hoàn toàn thoát ly mọi phiền muộn khổ đau.

Khi gặp nguy khó mà ta vẫn giữ được nụ cười trên gương mặt trầm tĩnh và sáng suốt, giải quyết vấn đề mà không tỏ ra một chút bối rối lo âu thì chính ta là Hiền nhân quân tử.

Tóm lại, chúng ta phải nhận lãnh trách nhiệm cải thiện chính mình, phải can đảm nhìn nhận khổ đau của ta do chính ta tạo nên, chứ không qui trách cho kẻ khác. Không những thế, chúng ta còn tìm cách lấy đức độ của mình để qui phục kẻ khác trở về con đường chân chính, đó là sứ mạng tự giác giác tha vậy. bak

20/ Thoát Vòng Nô Lệ

Như những tên tội nhân bị trói tay, bịt mắt để cho người dẫn đi hành hình hay đưa đến bất cứ một lao xá nào mà mình không biết. Họ phải chịu khổ đau bởi tội lỗi của mình. Cũng vậy chúng ta hiện hữu trên cõi đời bị tham dục, hữu ái, kiến chấp, Vô minh che lấp và dẫn dắt chúng ta trôi dạt, đắm chìm trong vòng sinh tử luân hồi. Hãy cố tìm cách cắt đứt mọi dây ràng buộc mà mình đã tự trói lấy mình. Hãy thắp sáng ngọn đèn Trí tuệ để thấy đâu là Chánh đạo, đâu là mê đồ hầu sớm chọn đường Giải thoát.

Buồn thay, không mấy ai trong chúng ta nhận chân được thân phận đọa đày của mình trong kiếp sống trầm luân, không mấy ai dám nhìn thẳng vào thực trạng nô lệ của mình trong gông cùm bản ngã. Chúng ta cứ mãi chìm sâu trong bể khổ vì tưởng bã mồi danh lợi là chân hạnh phúc, và không biết rồi đây sẽ ngã gục ở một phương trời nào mà cứ tưởng mình đang hướng về một tiền đồ sáng lạn. Vì thế Đức Phật phải ân cần nhắc nhở:

"Cười sao được, vui sao được khi thế gian đang bị thiêu đốt và màn đen bao phủ, sao không tìm ánh sáng thoát ly?".

Thật vậy, con người bị dục vọng thiêu đốt, và màn đen Vô minh che lấp, chỉ có ánh sáng Trí tuệ mới có thể dập tắt ngọn lửa ái dục, xé toang màn Vô minh ấy để đưa ta đến nơi Giải thoát.

Đức Phật không những đã đánh thức chúng ta, mà còn chỉ cho chúng ta thấy rõ đâu là ách nô lệ, đâu là phương cách thoát ly nô lệ.

Trong kinh Sabbàsava, Majjhima nikàya (Trung Bộ), Đức Phật đề cập đến các Hoặc lậu (àsava) như những gánh nặng (yoga) nhận chìm chúng sanh trong trầm luân khổ hải và Ngài đưa ra bảy phương pháp thoát ly những cùm xích nô lệ này. Trước khi nói đến các phương pháp đối trị Hoặc lậu, ta phải tìm hiểu Hoặc lậu là gì?

I/ Hoặc lậu là gì?

Theo Phạn Ngữ danh từ àsava có cùng ngữ căn với động từ àsavati hay assavati nghĩa là chảy rỉ ra. Một con thuyền bị rạn nứt, nước thấm vào càng lâu càng đầy thì sẽ có lúc chìm đắm. Cũng vậy, những phiền não nội tại rỉ ra làm ô nhiễm thân tâm, khiến cho Lục căn bất tịnh và từ đó Lục căn trở thành những cám dỗ vô cùng nguy hiểm.

Tùy theo tác dụng của những phiền não này mà đôi lúc Hoặc lậu được gọi dưới những tên khác như ách nô lệ (Yoga), trầm luân (Osidàpana), trầm mịch, hay dòng nước lũ (Ogha). Bởi vì chúng trói buộc, nhận chìm và lôi cuốn chúng sanh trôi nổi trong sông mê bể khổ.

Theo kinh Sabbàsava có ba thứ Hoặc lậu: Dục lậu, Hữu lậu và Vô minh lậu. Tuy nhiên để tiện việc giải thích, trong bộ Chú giải (Atthakathà), Kiến Lậu được tách rời khỏi Hữu lậu. Như vậy có tất cả bốn thứ Hoặc lậu.

1. Dục lậu (Kàmàsava): Danh từ Phạn ngữ Kàma thường được dịch là Lạc Dục. Xét cho kỹ, lạc dục có hai khía cạnh, đứng về phương diện chủ thể lạc dục là ưa thích thụ hưởng những khoái cảm của giác quan, về phương diện khách thể là buôn trôi theo sức lôi cuớn đối tượng ngoại giới (trần cảnh). Ngọn lửa tham dục này có khả năng làm nhiễu loạn thân tâm, vì vậy được gọi là Dục lậu.

Dục lậu thường biểu lộ dưới nhiều hình thức như Hỷ Ái, Tham Ái, Tham Dục, Ái Dục... Nhưng dù ở trạng thái nào, về phương diện bất thiện, Dục lậu vẫn là một ách nô lệ cần phải tháo gỡ mới được tự do.

Đức Phật dạy rằng chính Hỷ Ái, Tham Ái, Tham Dục, Ái Dục sinh ra phiền muộn và lo âu, chừng nào không còn những tâm niệm sai lầm ấy con người mới thoát khỏi ách nô lệ (Yopakkema).

Nguyên nhân khiến chúng ta tự trói mình trong ách nô lệ của Dục lậu là vì phán đoán sai lầm về bản chất của thọ cảm và nhận định quá chủ quan về giá trị của đối tượng ngoại giới.

2. Hữu lậu (Bhavàsava): Hầu như tất cả mọi người, ai ai cũng muốn được tồn tại mãi mãi. Dù sống trong đau khổ họ vẫn ước ao được sinh tồn với hy vọng một ngày nào đó hạnh phúc sẽ đến. Khát vọng được tồn tại vĩnh viễn, đặc biệt là tồn tại trong Sắc và Vô sắc giới gọi là Hữu lậu. Nhiều Tôn giáo hay Triết phái đã cố gắng đưa ra những hình ảnh trường cửu như Thượng đế, Đại ngã, Phạm thiên cùng với những tín điều khác hấp dẫn nhằm thỏa mãn những thị hiếu này của con người.

Có thật con người sẽ được đời đời sống an lành dưới sự che chở của đấng Toàn Năng hay Đức Phạm thiên nào đó như những lời hứa hẹn của các Tôn giáo ấy không?

Đức Phật khẳng định: Không! Ngài nói những hứa hẹn trên chỉ làm cho con người đắm chìm sâu hơn trong bể trầm luân và đó chính là Hữu lậu.

Nếu hành Thiền định, người Phật tử cũng có thể đến được những cõi trời hữu hay vô sắc và sẽ hưởng hạnh phúc ở đó một thời gian khá lâu. Nhưng theo Đức Phật, dù là cõi trời cao nhất như Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ thiên vẫn còn nằm trong vòng Tam Giới, nghĩa là vẫn bị các Hoặc lậu chi phối. Và bao lâu còn Hoặc lậu thì chưa thể Giải thoát. Vì thế Thiền định đối với Đạo Phật chỉ là phương tiện để làm cho tâm thanh tịnh chứ chưa phải là cứu cánh Giải thoát. Muốn Giải thoát Giác ngộ phải hành Minh Sát Tuệ.

3. Kiến Lậu (Ditthisava): Quan niệm của mỗi người về Vũ trụ và Nhân sinh có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống của họ. Hễ quan niệm còn sai lầm (tà kiến) thì con người còn phải nô lệ phiền não vì thế tà kiến được xem là một trong những ách nô lệ hay Hoặc lậu cần phải tiêu trừ.

Vào thời Đức Phật, nước Ấn Độ có rất nhiều Tôn giáo, mỗi Tôn giáo có những quan niệm sai khác về Vũ trụ và Nhân sinh. Tuy nhiên không phải tất cả các quan niệm ấy đều hợp với Chân lý. Sáu mươi hai trong số các quan niệm ấy bị Đức Phật chứng minh là tà thuyết gồm có Thường Trú Luận, Vô thường Trú Luận, Phi Phi Tưởng Luận, Đoạn Diệt Luận, Hiện tại Niết bàn Luận và các luận thuyết chắp nối các quan niệm trên.

Chúng ta có thể phân loại các tà kiến trên thành hai nhóm:

a) Thường kiến (Sàssata ditthi): là quan niệm cho rằng bản ngã và thế giới trường tồn vĩnh cửu.

b) Đoạn kiến (Uccheda ditthi): là quan niệm chủ trương bản ngã hoàn toàn hủy diệt sau khi thân hoại mạng chung. Đoạn kiến đưa con người đến chỗ bất chấp thiện ác và Nhân quả.

Cả hai kiến chấp trên đều là những trở ngại lớn lao trong việc giải phóng con người ra khỏi thành trì bản ngã.

4. Vô minh lậu (Avijjàsava): Thế gian là cõi u tối vì Vô minh chi phối tất cả chúng sanh sống ở trong đó. Vì bản tính của Vô minh là không sáng suốt, không thấy được đâu là chân, đâu là giả hay nói một cách khác là không thấy được thực tướng của bản ngã và thế giới.

Qua lớp màn đen u minh ấy, chúng sanh thấy Vô thường là thường còn, Khổ não là hạnh phúc và Vô ngã là Hữu ngã.

Đứng về một phương diện khác, Vô minh ám chỉ những chúng sanh chưa thực chứng được lý Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên. Mãi đến lúc Đức Phật thành đạo dưới cội cây Bồ đề Ngài mới thật sự thấy rõ đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của sự khổ, đâu là nơi diệt khổ và đâu là con đường đưa đến nơi diệt khổ. Và Ngài nắm được giềng mối hình thành của vòng luân hồi qua Thập Nhị Duyên Khởi. Nhờ đó Ngài mới hoàn toàn trút bỏ được ách nô lệ của phiền não và thật sự sống một cuộc sống tự tại Giải thoát.

II/ Con Đường Thoát Ly:

Chúng ta đã nói đến các Hoặc lậu như những ách nô lệ ràng buộc chúng sanh trong vòng sanh tử luân hồi, nguyên nhân và sức tàn phá của chúng, bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu bảy phương pháp thoát ly ra khỏi các ách nô lệ mà Đức Phật đã giới thiệu trong Kinh Sabbàsava, Majjima Nikàya (Trung Bộ).

Bảy phương pháp sau đây không những có tính cách đạo đức mà còn phù hợp với khoa Tâm Lý Liệu Pháp (Psychotherapy) ngày nay, đó là: Kiến pháp (Dassanà), Nhiếp phục (Samvara), Tỉnh dụng (Patisevanà), Nhẫn thống (Adhivàsanà), Viễn ly (Parivagganà), Trừ đoạn (Vinodanà) và Luyện tâm (Bhàvanà).

Chúng tôi xin lần lượt trình bày lời chỉ dẫn của Đức Phật trong nửa đoạn sau của Kinh Sabbàsava; tức là phần nói về phương pháp diệt trừ Hoặc lậu.

1. Kiến pháp (Dassanà): nghĩa là chú tâm quan sát bằng Trí tuệ để thắng các nội pháp (chủ thể) và ngoại pháp (đối tượng ngoại giới, khách thể) đúng với chân tướng của chúng.

Đức Phật dạy: về phương diện chủ thể, có hai cách chú tâm là chú tâm hợp lý (Yoniso manasikàra) và chú tâm phi lý (Ayoniso manasikàra); về phương diện đối tượng, có hai pháp là pháp đáng chú tâm (manasikàraniyà dhammà) và pháp không đáng chú tâm (Amana sikàraniyà dhammà).

Như vậy, nếu chú tâm vào các pháp không đáng chú tâm thì các Hoặc lậu chưa có sẽ phát sanh và các Hoặc lậu đã có sẽ tăng trưởng. Trái lại nếu chú tâm hợp lý vào các pháp đáng chú tâm thì các Hoặc lậu chưa có sẽ không phát sinh và các Hoặc lậu đã có sẽ hủy diệt.

Như vậy có người chú tâm hợp lý vào các pháp đáng chú tâm, suy nghĩ rằng: "Đây là khổ, đây là nguyên nhân của sự khổ, đây là nơi diệt khổ và đây là con đường đưa đến nơi diệt khổ". Nhờ chú tâm chân chính như thế mà ba thứ thằng thúc Thân kiến, Hoài nghi và Giới cấm thủ bị tiêu diệt.

Đó là con đường hủy diệt các Hoặc lậu bằng Kiến pháp.

2. Nhiếp phục (Samavara): tức là chế ngự hay thu hút Lục căn cho thanh tịnh. Như chúng ta đã đề cập trong phần trên, sự tiếp xúc giữa Lục căn và Lục trần gây nên những kết quả nguy hiểm không lường được nếu Lục căn không được Nhiếp phục đứng đắn.

Với tâm niệm sai lầm, Lục căn bị lôi cuốn và đắm chìm trong sức hấp dẫn của Lục trần, nghĩa là khi mắt thấy sắc, tai nghe thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân tiếp xúc... các tình cảm chủ quan như yêu, ghét sẽ phát sinh. Vậy muốn Lục căn tiếp nhận Lục trần mà không bị tình cảm chi phối, một mặt ta phải dùng đến Kiến pháp để thấy rõ chân tướng của hiện tượng nội giới và ngoại giới như đã đề cập ở trên. Mặt khác, ta phải Nhiếp phục Lục căn, tức là tập cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý tiếp nhận sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp với một tâm bình thản không thiên chấp.

Đức Phật dạy: "Nếu sống không Nhiếp phục Lục căn, các Hoặc lậu có tính cách tàn phá và hủy hoại rất có thể sinh khởi. Nhưng nếu sống chế ngự Lục căn thì những Hoặc lậu mang tính cách tàn phá và hủy hoại ấy không thể phát sanh được. Đó là con đường diệt trừ Hoặc lậu bằng Nhiếp phục".

3. Tỉnh dụng (Patisevanà): bậc tu hành khi dùng một nhu cầu cần yếu nào phải sáng suốt nhận định những lợi ích thiết thực của nó, đừng để tâm ưa thích vật dụng này, chê bai vật dụng kia, và nhất là tri túc không tham đắm trong các xa xỉ phẩm.

Các nhu cầu cần thiết cho đời sống tu hành gọi là Tứ Y Pháp: áo mặc, cơm ăn, chỗ ở và thuốc uống. Những vật dụng tối thiết yếu này càng giản dị thanh bần chừng nào tốt chừng đó.

Hơn thế nữa, khi dùng y phục vị ấy phải niệm tưởng rằng: "Ta mặc đây chỉ tránh sự nóng lạnh, muỗi mòng, gió nắng, rắn rết, và che thân thể vậy thôi".

- Khi dùng vật thực, vị ấy quán tưởng rằng: "Ta dùng của cúng dường không phải để vui chơi, không phải vì dục lạc, không phải để bồi dưỡng xác thân cho duyên dáng, cũng không phải để điểm tô nhan sắc cho xinh đẹp, mà chỉ để giữ gìn và duy trì thân thể được quân bình hầu dũng tiến trong đời sống phạm hạnh".

- Khi cư ngụ trong tịnh thất phải biết rằng đó chỉ là phương tiện để tránh nguy hiểm về thời tiết, thú dữ, nhất là để có nơi thanh vắng phù hợp với việc hành đạo như Tham thiền, suy tư, quán tưởng...

- Và khi uống thuốc ngừa bệnh hay trị bệnh phải biết rằng chỉ dùng để làm dịu những cơn đau, trừ khử hoặc ngăn ngừa những bịnh hoạn nguy hiểm có thể gây trở ngại cho việc tu hành. Nhờ Tỉnh dụng như thế mà các Hoặc lậu không thể phát sanh được.

4. Nhẫn thống (Adhivàsanà): bậc tu hành không nên than van, phàn nàn, dù gặp bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào; phải kiên nhẫn chịu đựng mọi gian khổ, thiếu thốn hay nghịch cảnh xảy đến với mình, có như thế mới phá bỏ được sự ràng buộc của ái dục.

Đức Phật dạy rằng: "Này các hiền giả, thế nào là diệt trừ Hoặc lậu bằng Nhẫn thống? Trong Giáo pháp của Như Lai, này các hiền giả, một vị Tỳ kheo suy nghĩ đúng đắn là người biết chịu đựng lạnh nóng, đói khát, muỗi mòng, gió sương, rắn rết, chịu đựng những lời nói bực mình, không niềm nở; là người can đảm đương đầu với những cảm giác đau đớn mãnh liệt, nhức nhối, khó chịu khốn khổ và nguy kịch. Vì thiếu Nhẫn thống các Hoặc lậu có tính cách tàn phá, hủy hoại sẽ phát sanh, nhưng nhờ Kham nhẫn mà những Hoặc lậu mang tính cách tàn phá, hủy hoại không thể phát sinh được. Này các hiền giả, như thế gọi là diệt trừ các Hoặc lậu bằng Nhẫn thống vậy".

5. Viễn ly (Parivagganà): Khi gặp những hoàn cảnh khó khăn không thể tránh được thì ta sẵn sàng đương đầu như trường hợp vừa nói ở trên. Nhưng tốt hơn ta nên tránh xa những nơi nguy hiểm xấu xa để khỏi bị quấy rầy khi đang hành đạo; không nên vào cư ngụ những nơi có nhiều thú dữ hoặc cây cối gẫy đổ, rừng bụi chông gai, vực thẳm, dốc núi và nhất là tránh xa tà hữu, ác đảng. Bởi vì không tránh xa những nơi nguy hiểm và những kẻ xấu xa ấy sự sợ hãi, kinh hoàng, tính hung dữ, lười biếng... sẽ phát sanh và do đó các Hoặc lậu không thể trừ được. Đó là phương pháp trừ diệt Hoặc lậu bằng Viễn ly.

6. Trừ đoạn (Vinodana): tức là dứt bỏ những vọng niệm. Có ba thứ vọng niệm hay Tà Tư duy là: suy nghĩ về dục lạc, suy nghĩ về ác tâm và suy nghĩ phương kế hãm hại kẻ khác. Nói chung là tất cả các bất thiện tâm sở.

Tư tưởng của chúng ta thường hướng đến các bất thiện pháp tức là chú tâm đến các pháp không đáng chú tâm, vì thế mà các Hoặc lậu chưa có phát sinh lên và các Hoặc lậu đã có càng tăng trưởng.

Vậy muốn thoát khỏi những ràng buộc của Hoặc lậu ta phải chấm dứt, trừ đoạn, hủy diệt các tư tưởng bất thiện nói trên.

7. Luyện tâm (Bhàvanà): tức là phát huy năng lực tinh thần. Ở đây Kinh Sabbàsava đặc biệt nhấn mạnh đến Thất Giác chi.

a) Niệm Giác chi: giúp ta luôn luôn giác tỉnh để ghi nhận và biết rõ tất cả những hành động, lời nói, ý nghĩ của mình một cách chân thực.

b) Trạch pháp Giác chi: để thấy đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của sự khổ, đâu là nơi diệt khổ và đâu là con đường dẫn đến nơi diệt khổ.

c) Tinh tấn Giác chi: để dõng mãnh tiến lên trên đường đạo.

d) Hỷ Giác chi: giúp ta phấn khởi dễ dàng vượt qua mọi trở ngại.

e) Thư thái Giác chi: giúp cho thân tâm lắng dịu, không bị lửa ái dục thiêu đốt.

g) Định Giác chi: có mục đích giữ tâm thanh tịnh, khi tâm được an trú thì các ác pháp sẽ bị tiêu diệt; nhờ đó tâm trở nên sáng suốt, Trí tuệ phát sanh.

h) Xả Giác chi: là tâm quân bình không bị ảnh hưởng của ngoại vật; đó là tâm không thiên vị, không bị tình cảm chi phối.

Khi tâm được rèn luyện, các Giác chi được phát huy thì những Hoặc lậu sẽ bị hủy diệt, vì vậy Luyện tâm là một trong những phương pháp hữu hiệu để diệt trừ phiền não.

Bảy phương pháp diệt trừ Hoặc lậu vừa nêu trên đã được nhiều nhà phân tâm học hoan nghinh như những tâm lý liệu pháp thực dụng.

Một vị Giáo sư Đại Học đường Cambridge, Tiến sĩ Robert Thouless nói: "Trong kinh Sabbàvana Đức Phật giảng thuyết y như một vị Bác sĩ ngành tâm lý liệu pháp tân thời... (những phương pháp của Ngài) là một hệ thống tâm lý liệu pháp vượt bực nhờ nguyên tắc Nhân quả". Giáo sư nói tiếp: "Khoa học tâm lý liệu pháp tân thời chỉ nhằm đem lại cho bệnh nhân trong đời sống hiện tại. Đức Phật cũng xem đó là một khía cạnh của vấn đề, nhưng vì đời sống hiện tại chỉ là một trong chuỗi sanh tử luân hồi... nên Ngài không những đã tìm cách giúp cho môn đệ thoát khỏi các tâm bệnh trong đời sống này mà còn trong cả kiếp sống vị lai".

Thật vậy, Đạo Phật không phải chỉ nhằm mục đích giải quyết những phiền não và khổ đau của con người bằng những phương pháp tạm bợ có hiệu năng trong một thời gian nào đó; mà mục đích của Đạo Phật là giúp con người Giải thoát hoàn toàn ra khỏi mọi nô lệ của phiền não và khổ đau.

21/ Vô Ngã

Đáng lẽ chúng tôi không dám bàn đến lý Vô ngã trong một bài tiểu luận ngắn ngủi này. Vì đó là một vấn đề thậm thâm vi diệu cần phải thực chứng hơn là bàn luận suông, vả lại nếu có đem ra nghị luận thì cũng không thể phân tích mọi khía cạnh của vấn đề một cách chu tất được. Chúng tôi chỉ mong nêu vấn đề với những ý kiến thô thiển để quý vị cùng chúng tôi suy nghiệm sâu xa hơn.

Vô ngã là một điều mà các nhà học giả từ Âu sang Á, từ cổ chí kim khi nghiên cứu Giáo lý Đức Phật đều phải nhìn nhận là nổi bật nhất trong tư tưởng nhân loại. Trong khi hầu hết các Tôn giáo, các nhà tư tưởng cũng như các triết gia đều chủ trương thuyết Hữu ngã, dưới hình thức này hay hình thức khác, thì Đức Phật đã phát động một cuộc cách mạng tư tưởng, bẻ gẫy tất cả những lý cứ mập mờ của bản thể luận. Ngài đã ngang nhiên phủ nhận cái gọi là Atman của các tư tưởng hệ Ấn Độ, nhất là của Bà la môn giáo. Ngài thẳng thắn gọi bản ngã là Vọng ngã, không có thực thể tuyệt đối hay bất biến.

Đoạn kinh sau đây trong Samyutta Nikaya (Tương Ưng Bộ) đã làm đảo lộn thuyết thường tại, thuyết đoạn diệt và vô nhân thuyết:

"Một ngày nọ Đại đức Kassapa đến hỏi Đức Phật:

- Bạch Đức Thế Tôn phải chăng đau khổ do ta tạo nên?

Đức Phật trả lời:

- Không phải vậy, Kassapa.

- Bạch Đức Thế Tôn, thế thì đau khổ do kẻ khác tạo ra?

- Không phải vậy, Kassapa.

- Bạch Đức Thế Tôn, hay là đau khổ vừa do ta vừa do kẻ khác tạo ra?

- Này Kassapa, cũng không phải vậy.

Đại đức Kassapa lại hỏi:

- Bạch Đức Thế Tôn, có lẽ đau khổ ngẫu nhiên phát khởi?

- Này Kassapa, Như Lai không hề chủ trương như thế.

- Bạch Đức Thế Tôn, có lẽ nào Ngài dạy không có đau khổ hay sao?

- Không, Kassapa, Như Lai xác nhận có đau khổ.

Bạch Đức Thế Tôn, phải chăng Ngài không thấy và không biết đau khổ?

- Này Kassapa, quả thật Như Lai đã từng thấy và biết đau khổ.

Lúc bấy giờ, Đại đức Kassapa vô cùng ngạc nhiên, vì từ xưa, ai ai cũng nghĩ rằng Đức Phật dạy: kẻ nào tạo nghiệp ác thì kẻ ấy phải gánh chịu quả khổ đau. Hôm nay chính Đức Phật đã phủ nhận tất cả những điều chúng ta hằng tin tưởng.

Vì chưa hiểu rõ lời giáo huấn thậm thâm vi diệu của Đức Phật, nên Đại đức Kassapa kính cẩn hỏi tiếp:

- Bạch Đức Thế Tôn, một đằng Ngài dạy đau khổ không do ta tạo nên, không do kẻ khác tạo nên, cũng không ngẫu nhiên phát khởi, một đằng Ngài xác nhận có đau khổ và Ngài đã từng kinh nghiệm đau khổ. Thật là bất khả tư nghị, kính xin Đức Thế Tôn mở lòng Từ bi khai thị cho đệ tử.

Đức Thế Tôn ôn tồn đáp:

- Này Kassapa, ai bảo rằng người hành động là kẻ nhận lấy kết quả tức là nói rằng đau khổ của một chúng sanh do chính chúng sanh ấy tạo ra. Đó chỉ là Thường kiến. Ai bảo rằng một người hành động, một người gặt quả tức là bảo rằng đau khổ của một chúng sanh do chúng sanh khác tạo ra. Đó cũng chỉ là Đoạn kiến.

Này Kassapa, không theo hai biên kiến đó, Như Lai chủ trương rằng: "Vì bị chi phối bởi tham lam, sân hận, si mê mà nghiệp hình thành, đó là căn nguyên của mọi đau khổ. Đoạn diệt được tham, sân, si tức là hủy diệt động lực hình thành của nghiệp và mọi đau khổ phải chấm dứt".

Chúng tôi xin mạn phép giải thích đoạn kinh trên để quí vị dễ lãnh hội lời giáo huấn cao siêu của Đức Phật. Trước hết chúng tôi xin nhắc lại, Đạo Phật bác bỏ thuyết thường tại hay Thường kiến. Thuyết này chủ trương con người hay bên trong con người là một bản ngã trường cửu bất biến, sau khi chết còn tồn tại mãi mãi. Mặt khác, Đạo Phật cũng phủ nhận cả thuyết đoạn diệt hay Đoạn kiến, chủ trương sau khi chết là hết và như thế người tạo nhân không thể nào gặt quả được.

Như thế nếu bảo rằng người tạo nghiệp chính là người gặt quả, có nghĩa là lúc tạo nghiệp và lúc gặt quả người ấy vẫn là một, không có gì thay đổi; đã không thay đổi tức là thường tại, bất biến, điều này đạo Phật gọi là Thường kiến.

Chúng tôi xin lấy một ví dụ, như một người tên A tạo một nhân bất thiện, sau khi chết người ấy bị đọa vào cảnh khổ, dưới hình thức một Súc sanh B chẳng hạn. Nếu bảo chính người tạo nghiệp sẽ gặt quả khổ, thì ở đây điều đó đã bị chứng minh sai, vì rõ ràng là người tên A tạo nghiệp mà chúng sanh B gặt quả.

Nhưng nếu bảo rằng người tạo nghiệp không phải là người gặt quả tức là chủ trương Đoạn kiến, vì cho rằng người hành động không còn tồn tại nữa, và kẻ gặt quả là một chúng sanh hoàn toàn khác biệt. Điều này cũng bị chứng minh là sai lầm.

Ví dụ như một người bị kết án 10 năm khổ sai vì phạm pháp, nhưng anh ta trốn biệt tích trước khi thi hành án quyết. Mãi đến 10 năm sau nhân viên công lực mới bắt được anh ta. Lúc bấy giờ anh đã già đi và hoàn toàn đổi khác nên khó nhận ra chính anh là người đã phạm pháp trước đây. Tuy nhiên khi điều tra kỹ lưỡng, anh vẫn bị tống giam như bản án đã phán xử. Vì anh không thể viện lẽ rằng lúc anh phạm pháp là một người khác và lúc này là một người khác được.

Cả hai luận cứ về bản ngã nêu trên đều bị Đức Phật cho là biên kiến, nghĩa là những phán đoán theo cái nhìn phiến diện: khi ở một trắc diện này thì thấy bản ngã trường tồn, ở một bình diện khác lại thấy là đoạn diệt.

Như vậy thuyết Vô ngã của Đức Phật là gì?

Đạo Phật chủ trương Vô ngã không có nghĩa là không có cái Ta nhưng là một cái Ta không có thực thể, vì biến đổi không ngừng và luôn luôn "trở thành cái gì không phải là chính nó". Không có thực thể nghĩa là không có một bản ngã hay cái Ta trường tồn, bất biến. Nhiều học giả nghiên cứu Giáo lý Đức Phật, sau khi nhìn nhận không có cái "giả ngã" lại đi chấp vào một cái gọi là "chân ngã" vì hiểu lầm rằng: "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh" mà Phật tánh là cái chân ngã trường tồn bất biến. Hiểu như thế hóa ra đi từ bác bỏ Đoạn kiến đến chỗ chấp vào Thường kiến mà không hay! Nếu bảo có chân ngã tức Phật tánh là trường tồn, bất biến thì vì sao kinh Bát Nhã lại dạy Phật tánh là: "Bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm..." Đã bất sanh, bất diệt thì còn cái gì để trường tồn, bất biến? Và giả sử có cái trường tồn, bất biến thì tự nó đã nằm trong vòng tương đối với hủy diệt, biến dịch. Vậy chúng ta không nên gán cho Phật tánh cái tên chân ngã đối với giả ngã.

Cũng xin quý vị đừng hiểu lầm "Cái ta luôn luôn trở thành cái gì khác không phải là chính nó" mà chúng tôi vừa nói trên đồng nghĩa với thuyết đoạn diệt.

Đạo Phật nhìn nhận rằng khi A trở thành B, B trở thành C, thì A, B và C không thực hữu. Nhưng không bảo rằng A hoàn toàn khác B, khác C vì đó là Đoạn kiến, cũng không bảo rằng A giống B, giống C hay nói cách khác A, B, C chỉ là một, không biến đổi, vì đó là Thường kiến.

Cái "Ta" theo Đạo Phật chỉ là một sự kết hợp của Ngũ uẩn tức là năm yếu tố: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Trong Ngũ uẩn dụ, Đức Phật ví năm yếu tố cấu thành bản ngã như sau:

1) Sắc như phù mạt (Phenupindupamamrupam): về phương diện vật chất, xác thân của con người tan hợp, hợp tan như bọt nước trôi giạt đó đây không định hướng.

2) Thọ như thủy bào (Vedana bubbulupama): những cảm giác vui khổ của thân và tâm đều sinh diệt bất thường giống như những bong bóng trên mặt nước.

3) Tưởng như ảo ảnh (Maricukapamasanna): Tri giác ví như những giả cảnh mà người lữ hành trong sa mạc thường thấy, chỉ là những ảo ảnh của thị giác.

4) Hành như hương giá (Sankharakadapama): Những tác động thiện ác hay duy tác đều không vững chắc giống như loại cây mềm yếu, dễ uống theo chiều gió.

5) Thức như ảo thuật (Mayupamavinnanam): tâm thức của con người biến ảo như trò quỉ thuật. Theo Phật giáo sự biến đổi của tâm 16 lần nhanh hơn sự biến đổi vật chất.

Ngũ uẩn hay bản ngã được tạo thành bởi những yếu tố bất định, nên chính nó cũng bất định và không thực hữu vì luôn luôn dị biến. Nhưng dị biến không có nghĩa là hoàn toàn đổi khác một cách ngẫu nhiên, mà biến đổi theo định luật Nhân quả: B là quả của A và là nhân của C, do đó chúng không giống nhau cũng không khác nhau mà liên hệ với nhau mật thiết. Vì có A mà B sinh, vì có B mà C sinh. Nếu không có A thì B và C cũng không có (Imasmim sati, idam hoti, imasmim asati, idam na hoti). Như vậy bản ngã chỉ là một tiến trình biến đổi của danh và sắc theo mối dây liên hệ Nhân quả mà chúng ta có thể hiểu theo Đại đức Buddhaghosa (tác giả Thanh Tịnh Đạo) rằng: "Không có cái tôi tạo nghiệp cũng không có cái tôi gặt quả, chỉ có dòng Nghiệp báo triền miên".

Và động lực vận chuyển dòng Nghiệp báo triền miên ấy là Tham, Sân, Si như Đức Phật đã dạy trong đoạn kinh trên: "Vì bị chi phối bởi tham lam, sân hận, si mê mà nghiệp hình thành, đó là nguyên nhân của mọi đau khổ. Đoạn diệt được ba nhân ấy là phá hủy động lực hình thành của nghiệp và mọi đau khổ chấm dứt ".

Tóm lại, cái Ta chỉ là một hiện tượng tâm vật lý chứ không phải là một bản ngã trường tồn, vĩnh cửu, cũng không phải là một chân ngã thường tại dù dưới hình thức "Phật tánh hữu thể hóa" như nhiều người đã lầm tưởng.

22/ Tiến Trình Giải thoát

Nói tới tiến bộ chúng ta thường liên tưởng đến sự lớn mạnh của khoa học trong mấy thế kỷ gần đây. Quả thật nhân loại đã tiến xa trong lãnh vực văn minh vật chất và đã thành công phần nào trong nỗ lực chinh phục tạo hóa. Nhưng còn tiến bộ tinh thần nhất là về phương diện đạo đức thì sao? Con người đã thực sự độc lập đối với những điều kiện ngoại giới chưa? Và một điều quan trọng hơn hết đã được Đức Phật Thích Ca cũng như những nhà hiền triết Đông Tây ca ngợi là cuộc chinh phục tự ngã, thì con người đã tiến bộ đến mức nào?

Một nhà tư tưởng nói: "Tỏ ra mình hơn người khác chưa phải là hay, hay hơn hết là có thể tỏ ra rằng: Hôm nay mình đã hơn chính mình ngày hôm qua". Sự tiến bộ mà nhà tư tưởng trên vừa nói là một sự tiến bộ thật sự, khó khăn nhất mà cũng đáng khuyến khích nhất.

Một hôm Đức Phật dạy Đại đức Ananda: "Như Lai không khen ngợi sự chùn bước và ngừng nghỉ, mà chỉ khen ngợi sự tiến bộ". Chữ tiến bộ trong lời dạy này là nghĩa chính của danh từ Dhamma (Pháp) vì Dhamma là tiến bộ từ thấp kém đến cao thượng, đặc biệt nhấn mạnh đến tiến bộ tinh thần của mỗi cá nhân trong cuộc chinh phục tự ngã.

Đề cập tới tiến bộ ta phải nói tới giai đoạn. Vậy một người Phật tử tiến bộ trong Đạo Pháp phải trải qua những giai đoạn nào?

Bất cứ ai nghiên cứu Đạo Phật cũng đều biết rằng ba giai đoạn của Dhamma là: Sila (Giới), Samadhi (Định) và Panna (Huệ). Và đó chính là 3 giai đoạn trong tiến trình từ Mê đến Giác, từ Phàm tới Thánh.

Tuy vậy trước khi bước vào ngưỡng cửa của tiến trình này, người Phật tử phải trải qua một thời gian dự bị để un đúc đức tin (saddha) vì đó là một sức mạnh tất yếu khả dĩ thúc đẩy họ đặt bước chân đầu tiên vào cuộc hành trình một cách tự tín và cương quyết.

Đức tin không có nghĩa là một sự tin tưởng mù quáng, mà phải là kết quả của óc nhận xét và phán đoán, để có thể tiên định đâu là đích cuối cùng của con đường mà ta sắp theo đuổi. Tiến trình đi đến Giải thoát của người Phật tử được ví như sự phát triển của một hạt giống. Trước hết phải có sức mạnh cần thiết để mầm có thể phá vỡ lớp vỏ dày bao phủ bên ngoài và bắt đầu tiến trình phát triển. Sức mạnh tất yếu đó là đức tin. Kế đến, khi đã thoát ra khỏi vỏ, mầm cây bắt đầu nẩy rễ để giúp thân con đâm cành trổ lá, rễ càng dài càng vững chắc thì thân cây càng mau lơn. Rễ ví như Giới, thân cây ví như Định, và cuối cùng khi đã lớn mạnh, cây mới có thể đơm hoa kết trái. Hoa ví như Tuệ giác và trái là quả vị Niết bàn.

Chúng ta đã đề cập đến đức tin như một điều kiện tiên quyết và tất yếu để bước vào tiến trình Giải thoát tự ngã. Bay giờ chúng ta hãy tìm hiểu ba giai đoạn chính của tiến trình này.

1. Giới (Sila): Giới là nền tảng của tiến bộ tinh thần. Giống như trong một lớp mẫu giáo, người ta dạy trẻ con bằng cử chỉ, bằng những hình ảnh cụ thể chứ chưa dùng đến những danh từ trừu tượng phải vận dụng cả tâm trí mới hiểu được. Tuy nhiên từ những cử chỉ vòng tay, cúi đầu, từ những lời nói thưa, dạ, vâng... dần dần các em hiểu biết được thế nào là lễ độ. Hình ảnh một bà mẹ đang ru con ngủ, người cha lo làm lụng nuôi gia đình... giúp các em có thể biết thế nào là tình thương. Cũng vậy, Giới nhằm cải thiện hành động và lời nói cho chân chính để đưa đến một tâm hồn trong sạch và sáng suốt. Đối với hàng Thanh văn hay Bồ tát, cư sĩ tại gia hay xuất gia đều xem giới là trọng. Kinh Bồ tát Giới viết:

“Giới như đại minh đăng

Năng tiêu trương dạ ám

Giới như chơn bảo kính

Chiếu Pháp tận vô di

Giới như ma ni châu

Vũ vật tế bần cùng

Ly thế tốc thành Phật

Duy thử Pháp vi tối.”

(Giới như ngọn đèn lớn, có khả năng tiêu trừ đem dài tăm tối. Giới như tấm gương quý báu, soi hết thảy các Pháp. Giới như viên ngọc Như Ý, hóa vật để giúp kẻ nghèo. Muốn được mau Giải thoát thành Phật, chỉ có giới là hơn hết).

Và một lần nữa chúng ta thấy trong Kinh Phạm Võng, Giới được ca tụng như sau:

“Giới như minh nhật nguyệt

Diệc như anh lạc châu

Vi trần Bồ tát chúng

Do thử thành Chánh giác.”

(Giới như mặt trăng, mặt trời chiếu sáng hoặc như ngọc Anh Lạc, vô số Bồ tát nhờ đó mà thành Chánh giác).

Như vậy Giới là những bước đầu tiên trong việc cải thiện Thân, Khẩu, và Ý cho đến toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ.

2. Định (Samadhi): Khi giới được hoàn hảo thì hành động và lời nói được chân chính. Theo nguyên lý "tướng năng chuyển tánh", hình thức bên ngoài chân chính đưa đến một nội tâm thanh tịnh và nhờ đó ta mới có thể định tâm được.

Chế ngự tâm là một việc làm khó khăn, vì tâm con người luôn luôn biến đổi, chỉ trong một giây lát đôi khi có cả hàng trăm hàng ngàn ý nghĩ khác nhau; tệ hại nhất là những niệm bất thiện, như tham lam, dục vọng, sân hận, tật đố, nham hiểm... có thể làm cho tâm điên loạn, mù quáng.

Đời sống của chúng ta, không phải chỉ bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng trong ý thức giới, mà lắm khi còn bị chi phối bởi những sinh hoạt của cõi vô thức, điển hình nhất là lúc ngủ, nhiều giấc chiêm bao đã làm cho ta hãi hùng kinh sợ.

Bởi thế trong kinh Dhammapada (Kinh Pháp cú), Phật dạy:

"Chế ngự được tâm là quý, vì cái tâm thật khó kiểm soát, nó không ngừng chạy theo tham dục. Tâm đã chế phục sẽ đem đến hạnh phúc".

Thiền định là một phương pháp phát huy sức mạnh tinh thần hiệu nghiệm nhất, theo đó hành giả chú tâm vào một đối tượng cho đến khi tâm an trú, không vọng động.

Trong khi chuyên niệm, nhiều thiền giả phát huy được một số tịnh quang tâm sở (Sobhana cetasika) gọi là thiền chi.

Những thiền chi như Tầm (Vitakka), loại trừ được trạng thái hôn trầm (Thìna middha); Tứ (Vicara) hủy diệt nghi hoặc (vicikiccha); Hỷ (Piti) đối trị sân hận (Vyapada); Lạc (Sukha) thay thế trạo cử và hối (Uddhacca Kukkucca); Nhất Tâm (Ekaggata) chế phục lòng tham dục (Kamachanda).

Khi các Triền Cái (Nivarana) đã được loại trừ ra khỏi tâm, thì tinh thần trở nên một nguồn năng lực vô song, khiến cho thiền giả có thể đạt đến mức thần thông biến hóa dễ dàng. Thực vậy, sức mạnh của tâm còn vĩ đại hơn cả nguyên tử lực vì nguyên tử chỉ biến đổi được hình thức của vật chất, trong khi định lực có thể hủy diệt một "hợp chất" phức tạp nhất là phiền não và chấm dứt luôn cả vòng sinh tử luân hồi.

3. Huệ (Panna): Mặc dầu định lực có một sức mạnh vô song, nhưng Phật giáo dùng nó không ngoài mục đích phát triển Trí tuệ. Định có hai loại: Chỉ (Samatha) và Quán (Vipassana). Chỉ mà chúng ta đề cập ở trên dùng để định tâm. Giống như nước được để yên hay lọc kỹ trở nên trong suốt, tâm an trụ sẽ phát sinh Trí tuệ. Tuy nhiên, ở đây chúng ta lưu ý đến loại thiền thứ hai là Quán, một phương pháp phân tích đặc biệt của Phật giáo theo đó hành giả phải luôn luôn chuyên niệm (Sati) và giác tỉnh (Sampajanna) để ghi nhận một cách trung thực (yoniso manasikara) các diễn biến của hiện tượng giới như hiện tượng sinh vật lý, hiện tượng thọ cảm, hiện tượng tâm giới và hiện tượng pháp giới (thân, thọ, tâm, pháp). Khi chúng ta ghi nhận một cách giác tỉnh như thế các hiện tượng sẽ tự phân tích thành một chuỗi động tác nối liền bằng một mối dây liên hệ Nhân quả, y như lúc chúng ta nhìn kỹ một khúc phim chiếu bóng.

Như vậy tuệ tổng hợp phát sinh nhờ Chỉ, tuệ phân tích phát sinh do Quán. Và cuối cùng cả hai biến thành trực giác để trực nhận Chân lý, Giác ngộ và Giải thoát. Đạo Phật đặc biệt chú trọng đến Trí tuệ và xem đó như bước tiến cuối cùng trên đường giải phóng tự ngã.

Tiến trình Giới Định Huệ được thực hành nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào ý chí của mỗi người, ý chí đó phát khởi dưới hai hình thức là tinh tấn (viriya) và nhẫn nại (khanti).

Thật vậy nếu thiếu cố gắng và kiên trì thì tiến trình sẽ bị ngưng trệ và gãy đổ hoàn toàn.

Trong kinh điển Pali, tiến trình Giải thoát được khai triển theo thứ tự luận lý như sau:

- Giới (Sila)

- Bất hối (Avippatisara)

- Hoan (Pamojja)

- Hỷ (Piti)

- Thư thái (Passaddhi)

- Lạc (Sukkha)

- Định (Samadhi)

- Như tướng tri kiến (Yatha bhuta nana dassana)

- Ly dục (Viraga)

- Giải thoát (Vimutti).

Giới trong sạch thì tâm không có điều hối tiếc (Bất hối), tâm không ân hận tất được vui vẻ và dần dần bước qua các giai đoạn vi tế hơn là Hỷ, Thư thái, và Lạc. Lạc kiến cho tâm không Trạo Cử và đưa đến an tịnh, sáng suốt, nhờ đó có thể thấy được tướng của vạn hữu. Khi chân tướng đã phô bày thì không còn tham ái tức là Giải thoát.

Tóm lại tiến trình của Pháp qua Giới Định Huệ được chuẩn bị bằng đức tin, và thực hiện bằng ý chí tinh tấn, nhẫn nại liên tục cho đến bao giờ được hoàn toàn Giải thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.

23/ Thất Giác chi

Thất Giác chi (Satta Sambojjhanga) hay Thất Bồ đề Phần là một trong những thắng pháp (Paramattha Dhamma) của Đức Phật, đã được đề cập đến nhiều lần trong Tam tạng. Có người tin rằng khi nghe bài kinh này bệnh nhân có thể chóng khỏi những cơn đau đớn và sớm bình phục, vì thế họ thường trì tụng như một phương pháp ngừa bịnh hay trị bịnh.

Chúng ta có thể đọc được đoạn kinh sau đây trong kinh nguyên thủy:

"Ta nghe như vầy, một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự trong vườn sóc, tại Trúc Lâm, Vương Xá. Lúc bấy giờ Đại đức Ma Ha Ca Diếp, ở tại động Pipphali đang lâm trọng bịnh.

Vì thế, vào một buổi chiều, Đức Thế Tôn đi đến chỗ Đại đức Ma Ha Ca Diếp đang tĩnh dưỡng. Sau khi an tọa, Ngài dạy Đại đức Ma Ha Ca Diếp như vầy:

- Này Ca Diếp, sức khỏe ông như thế nào? Cơn đau có trầm trọng lắm không? Bịnh tình của ông đang phát tác hay đã thuyên giảm? Biến chứng thuận lợi hay bất lợi?

- Bạch Đức Thế Tôn, cơn đau rất trầm trọng, biến chứng càng ngày càng nguy hiểm, không thuận lợi.

- Này Ca Diếp, điều mà Như Lai đã Giác ngộ, đã tu chứng và đã phát triển tròn đủ là Thất Giác chi, con đường dẫn đến Thượng trí, Viên minh và Niết bàn.

Bảy Giác chi ấy là gì?

Niệm Giác chi (Sati sambojjhanga), điều mà Như Lai Giác ngộ, tu chứng và phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến Thượng trí, Viên minh và Niết bàn.

Trạch Pháp Giác chi (Dhammavicaya Sambojjahanga), điều mà Như Lai đã Giác ngộ, tu chứng và phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến Thượng trí, Viên minh và Niết bàn.

Tinh Tấn Giác chi (Viriya Sambojjahanga), điều mà Như Lai đã Giác ngộ, tu chứng và phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến Thượng trí, Viên minh và Niết bàn.

Hỷ Giác chi (Piti Sambojjahanga), điều mà Như Lai đã Giác ngộ, tu chứng và phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến Thượng trí, Viên minh và Niết bàn.

Thư Thái Giác chi (Passaddhi Sambojjahanga), điều mà Như Lai đã Giác ngộ, tu chứng và phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến Thượng trí, Viên minh và Niết bàn.

Định Giác chi (Samadhi Sambojjahanga), điều mà Như Lai đã Giác ngộ, tu chứng và phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến Thượng trí, Viên minh và Niết bàn.

Xả Giác chi (Upekkha Sambojjahanga), điều mà Như Lai đã Giác ngộ, tu chứng và phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến Thượng trí, Viên minh và Niết bàn.

Thật vậy, này Ca Diếp, đó là bảy Nhân sinh Trí tuệ mà Như Lai đã Giác ngộ, tu chứng và phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến Thượng trí, Viên minh và Niết bàn."

Khi nghe xong, Đại đức Ca Diếp hết sức hoan hỷ, và nhờ vậy cơn bệnh trầm trọng bỗng nhiên tan biến".

Hẳn là chúng ta lấy làm lạ khi thấy Đại đức Ca Diếp có thể bình phục chỉ vì nghe được đoạn kinh trên. Nhưng y học ngày nay cũng phải nhìn nhận rằng yếu tố tinh thần rất quan trọng trong việc trị liệu. Trong trường hợp vị lương y là Đức Phật, với tâm đại hùng, đại lực, đại Từ bi đã dùng một Chân lý siêu việt để an định tinh thần Đại đức Ca Diếp. Mặt khác bệnh nhân là Đại đức Ca Diếp, với tâm tôn kính, trong sạch và sáng suốt đã chú ý theo dõi Chân lý mà Đức Phật đã cố ý lập đi lập lại chín lần. Hai yếu tố tinh thần đó hẳn phải tạo được một kết quả mầu nhiệm không lường được.

Có nhiều trường hơp người mẹ mang một chứng bệnh trầm trọng vì một đứa con bị thất lạc, thuốc thang không làm cho người mẹ bình phục, thế mà khi người con trở về, người mẹ khỏi bệnh một cách kỳ diệu chỉ nhờ một mối cảm xúc mãnh liệt.

Nếu một cảm xúc có một công hiệu lớn lao như thế, thì tinh thần khi được chuyên chú và an định đem lại những kết quả mầu nhiệm cũng không phải là một điều lạ.

Đến đây chúng ta gạt sang một bên vấn đề huyền nhiệm của Thất Giác chi để tìm hiểu bảy pháp đó là gì.

1. Niệm Giác chi: Có công năng tiêu diệt tà niệm và vọng tâm. Tà niệm làm cho con người kinh nghi và thoái hóa, nó là một trở ngại lớn lao đối với sáng kiến cải tạo của chúng ta. Vọng tâm làm phân tán sức mạnh tinh thần bởi những cố gắng tìm tòi vô hiệu quả, những vấn đề triết lý viển vông, những mối quan hoài phức tạp.

Chánh niệm còn cho chúng ta thấy sự phù phiếm của dục lạc cũng như tính cách vô dụng của đời sống khổ hạnh quá mức, và giúp cho tâm ghi nhận, xét đoán những sự kiện xảy đến với chúng ta hằng ngày một cách đúng đắn, nhờ đó chúng ta có thể thấy rõ chân tướng Vô thường, Khổ não và Vô ngã của vạn hữu.

2. Trạch Pháp Giác chi: Một người muốn đạt đến chánh Tư duy phải rèn luyện tu tập pháp này. Trạch Pháp là phân tích, suy luận các pháp để biết đâu là chân, đâu là giả... Ngay cả những lời dạy của Đức Phật, Ngài cũng không bắt buộc hàng Tứ chúng phải mù quáng tin theo mà phải tìm hiểu xem Giáo lý ấy có đem lại hạnh phúc và Giải thoát cho con người đúng theo tiêu chuẩn và cứu cánh của đạo Phật hay không rồi mới chấp nhận. Thái độ phân tích khách quan và sáng suốt như thế rất hữu ích trong việc tìm Chân lý. Tôn giáo có trách nhiệm hướng dẫn tinh thần con người, nhưng nếu chúng ta tin tưởng Tôn giáo một cách mù quáng, thì chỉ làm cho đời sống tinh thần càng ngày càng mê muội, thoái hóa.

3. Tin Tấn Giác chi: Dù một lý tưởng đã được đặt ra nhưng nếu thiếu nỗ lực, thiếu bền chí thì khó mà hoàn thành được. Vì thế Tinh tấn là điều kiện tối cần để thực hiện lý tưởng Giải thoát Giác ngộ.

Đạo Phật là Giáo lý đòi hỏi nhiều cố gắng, hy sinh và kiên nhẫn để chống lại phiền não. Hai Giác chi đầu tiên, là niệm và trạch pháp, giúp ta nhận chân được thực lực của giặc phiền não. Còn thực lực của ta chính là sức mạnh của tinh tấn. Thiếu nó ta không thể dẹp tan được giặc phiền não.

Hành giả có thể đạt được lý tưởng khi cương quyết tự nguyện rằng: "Dù máu đổ thịt rơi hay thân ta thành cát bụi, ta vẫn không thối bước, không do dự trong chí hướng đã định. Không có gì có thể cản trở bươc tiến của ta. Không khổ đau nào, không đe dọa nào dù nguy hại đến tánh mạng có thể làm ta ngã lòng. Ta sẽ kiên trì tiến tới cho đến khi nào hoàn thành sứ mạng."

4. Hỷ Giác chi: Không một cố gắng nào có thể lâu bền nếu không tìm thấy hứng thú trong hành động của mình, vì vậy hoan hỷ là một yếu tố giúp cho hành giả phấn khởi trên đường đi đầy gian lao hiểm trở dẫn đến cứu cánh cuối cùng.

Hỷ là một trong những tâm sở khi hiện hành trong thiện tâm thì trở thành thiện tâm sở, nhưng đồng hành với bất thiện tâm nó cũng là bất thiện tâm sở. Hỷ Giác chi ở đây được tìm thấy trong một số thiện tâm và thiền tâm. Trong năm chi thiền, hỷ là chi thiền thứ ba, có công năng đối trị sân triền cái, khiến cho tâm được mát mẻ và vui thích trong đối tượng Thiền định.

5. Thư Thái Giác chi: Tức là nhẹ nhàng và an tịnh, một trong 25 tịnh quang sở, có nhiệm vụ hóa giải lửa phiền não và đối trị trạo cử, một bất thiện tâm sở làm cho tâm giao động, bất an. Người phát triển được tâm sở thư thái sẽ cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng thư thái như khách viễn hành trút bỏ được gánh nặng, nhờ thế họ có thể thong thả đi tới đích.

6. Định Giác chi:

Trong Phật giáo, Định được ứng dụng với mục đích khác hẳn ngoại đạo. Nếu một vài Tôn giáo dùng định để phát triển thần thông, nhà thôi miên dùng định lực để chữa bịnh hay sai khiến người khác làm theo ý họ, nhà bác học chú tâm để giải quyết một vấn đề khoa học... thì Phật giáo dùng Định để phát triển Trí tuệ (Định năng sinh Huệ). Người Phật tử khi đạt đến đệ tứ thiền vẫn có thể có thần thông nhưng không dừng lại ở đó để dùng những sức mạnh tinh thần này trong những ước vọng tầm thường, họ chỉ dùng nó như một phương tiện để tiến xa hơn trong việc phát triển Trí tuệ, vì Trí tuệ là điều kiện tối hậu để hoàn tất lý tưởng Giác ngộ.

7. Xả Giác chi: Xả là tâm không bị chi phối bởi ngoại cảnh. Không một đối tượng nào có thể lay chuyển được người có tâm xả. Họ không bất bình trước nghịch cảnh, cũng không tham ái đối với thuận cảnh. Họ thản nhiên khi được tán dương hay bị phỉ báng, được lợi lộc hay bị mất mát, dù có địa vị hay không có danh vọng, và dù vui hay khổ cũng thế.

Giữ được tâm tự tại vô ngại như thế không phải là dễ, chỉ những bậc đã rèn luyện tâm mình đến mức độ siêu việt mới mong thực hiện được. Và một khi đã giữ được tâm xả thì phán đoán sẽ vô cùng sáng suốt, không chủ quan thiên lệch nữa.

Tóm lại, một hành giả muốn đạt đến lý tưởng tự giác tha phải tu chứng, phát triển đầy đủ Thất Giác chi vì đó là con đường dẫn đến Thượng trí, Viên minh và Niết bàn như lời Đức Phật đã dạy.