Tích Truyện Pháp Cú Tập 3

(Tập 3 trọn bộ 3 tập) Tập "Tích Truyện Pháp Cú" này được dịch theo bản Anh ngữ "Buddhist Legends" của học giả Eugène Watson Burlingame. Nhà học giả này đã căn cứ trên nguyên tác Pháp Cú Sớ Giải (Dhammapada Commentary) bằng tiếng Pàli. Tương truyền Pháp Cú Sớ Giải là công trình của Ngài Buddhaghosa (Phật Âm), sống khoảng thế kỷ thứ V Tây lịch.

Cả thế gian chìm trong đêm tối dày đặc của vô minh phiền não. Ngài cũng ở thế gian mà quét sạch được nó. Với năng lực siêu phàm chứng đạt được, Ngài đã thắp sáng ngọn đèn Chánh pháp.

Ngài là bậc Toàn Trí, phân biệt rành mạch chơn ngụy trong mọi vấn đề. Ðấng Ðạo sư đã thuyết nói chánh pháp, vì lòng từ vô lượng đã giảng giải giáo pháp theo căn cứ, khiến trời người đều được an vui, mãn nguyện.

Tích Truyện Pháp Cú

(Tập 3)

Nguyên tác: "Buddhist Legends",

By Eugène Watson Burlingame

Thiền sinh Thiền viện Viên Chiếu

Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh. PL. 2544 – DL. 2000

Mục Lục Tập 3

Phẩm XVII: Sân Hận

1. Sân Hận Tàn Phá Dung Nhan

2. Thọ Thần Và Thầy Tỳ Kheo

3. Người Nghèo Và Cô Con Gái

4. Việc Thiện Nhỏ Đưa Đến Thiên Giới

5. Bà La Môn Đón Phật Như Con

6. Có Phải Người Tặng Quà Làm Nên Quà Tặng

7. Không Có Gì Quá Nhiều, Quá Ít

8. Lục Quần Tỳ Kheo.

Phẩm XVIII: Cấu Uế

1. Người Đồ Tể Và Đứa Con Trai

2. Dần Dà Từng Chút

3. Con Rận Tiếc Của

4. Thầy Tỳ Kheo Kiêu Ngạo

5. Tà Hạnh Của Nữ Nhân

6. Lịch Sự Và Thô Lỗ

7. Tất Cả Giới Cấm Đều Khó Giữ

8. Kẻ Bới Lỗi Người Khác

9. Những Người Lơ Đễnh

10. Trưởng Giả Ram

11. Tỳ Kheo Bới Lỗi

12. Hư Không Có Dấu Chân?

Phẩm XIX: Công Bình Pháp Trụ

1. Quan Tòa Bất Công

2. Lục Quần Tỳ Kheo

3. Không Phải Vì Nói Nhiều Mà Được Ca Tụng

4. Người Trẻ Có Thể Là Trưởng Lão?

5. Thế Nào Là Người Hoàn Toàn?

6. Ðầu Trọc Không Làm Nên Tỳ Kheo

7. Ðiều Gì Làm Nên Sa Môn

8. Không Phải Im Lặng Làm Nên Bậc Thánh

9. Cao Quí Là Hành Động Cao Quí

10. Ðừng Tự Mãn

Phẩm XX: Ðạo

1. Bát Chánh Đạo Là Đường Tối Thượng

2. Vô Thường

3. Khổ

4. Vô Ngã

5. Chớ Hẹn Ngày Mai

6. Con Quỉ Đầu Heo

7. Pothila, Ông Sư Rỗng

8. Các Lão Tỳ Kheo Và Lão Bà

9. Cỏ Úa, Hoa Phai

10. Chắc Chắn Sẽ Chết

11. Người Mẹ Mất Con Và Những Hạt Cải

12. Người Đàn Bà Mất Hết Thân Quyến

Phẩm XXI: Tạp Lục

1. Sông Hằng Dâng Nước

2. Không Lấy Oán Báo Oán

3. Các Tỳ Kheo Phù Hoa

4. Sa Môn Giết Cha Mẹ

5. Cậu Bé Và Quỉ Dữ

6. Hoàng Tử Bạt Kỳ Làm Sa Môn

7. Cư Sĩ Tâm Người Thành Tín

8. Cô Gái Đức Hạnh

9. Vị Sa Môn Độc Cư

Phẩm XXII: Ðịa Ngục

1. Cái Chết Của Tôn Đà Ly

2. Con Quỷ Xương Khô

3. Xảo Thuật Tìm Thức Ăn

4. Kẻ Đào Hoa

5. Thầy Sa Môn Tự Phụ

6. Người Vợ Ghen Tuông

7. Tự Canh Phòng Như Giữ Thành

8. Các Đạo Sĩ Lõa Thể

9. Trẻ Con Quy Y Phật

Phẩm XXIII: Voi

1. Phật Bị Lăng Nhục

2. Thầy Sa Môn Luyện Voi

3. Lão Bà La Môn Và Các Con

4. Ăn Uống Điều Độ

5. Chú Tiểu Và Dạ Xoa

6. Con Voi Sa Lầy

7. Voi Làm Thị Giả Phật

8. Ma Vương Cám Dỗ Phật.

Phẩm XXIV: Tham Ái

1. Con Cá Vàng

2. Con Heo Nái Tơ

3. Thầy Tỳ Kheo Bỏ Đạo

4. Ngôi Nhà Tù

5. Sắc Đẹp Phù Du

6. Chàng Trai Có Cô Vợ Diễn Viên Nhào Lộn

7. Xạ Thủ Trẻ Tài Ba

8. Ma Vương Chẳng Nhát Được La Hầu La

9. Nhà Tu Khổ Hạnh Hoài Nghi

10. Pháp Thí Thắng Mọi Thí

11. Quan Chưởng Khố Không Con

12. Bố Thí Nhiều Và Bố Thí Ít

Phẩm XXV: Tỳ Kheo

1. Giữ Gìn Ngũ Căn

2. Thầy Tỳ Kheo Giết Ngỗng

3. Thầy Tỳ Kheo Không Giữ Gìn Mồm Miệng

4. Bằng Sự Tinh Tấn Làm Vinh Dự Cho Phật

5. Thầy Tỳ Kheo Lạc Bầy

6. Người Bà La Môn Cúng Dường Năm Lần Thành Quả Đầu Tiên

7. Ðảng Cướp Đi Tu

8. Cỏ Úa, Hoa Phai

9. Vị Sa Môn Nhàn Tịnh

10. Vị Sa Môn Và Chiếc Khố Rách

11. Người Thầy Chánh Pháp Là Thầy Ta

12. Vị Sa Môn Và Long Vương

Phẩm XXVI: Bà La Môn

1. Bà La Môn Đại Hỉ

2. Thế Nào Là "Hai Trạng Thái"?

3. Thế Nào Là Bờ Kia?

4. Thế Nào Là Bà La Môn?

5. Ðức Phật Sáng Ngời

6. Thế Nào Là Tỳ Kheo?

7. Ðức Nhẫn Nại Chinh Phục Sự Tàn Ác

8. Ngài Di Mẫu Thọ Giới

9. Tôn Kính Người Đáng Tôn Kính

10. Thế Nào Là Bà La Môn?

11. Người Bà La Môn Gian Xảo

12. Bà Kisa Gotami, Vị Tỳ Kheo Ni Tu Hạnh Đầu Đà

13. Thế Nào Là Bà La Môn?

14. Diễn Viên Xiếc Uggasena

15. Tranh Cãi Về Sức Kéo

16. Ðức Thế Tôn Chế Ngự Kẻ Sân Giận

17. Tôn Giả Xá Lợi Phất Bị Mẹ Mắng

18. A La Hán Có Phàm Thân Hay Không?

19. Người Nô Lệ Trút Gánh Nặng

20. Khemà Trí Tuệ

21. Vị Sa Môn Và Thiên Thần

22. Vị Sa Môn Và Người Đàn Bà

23. Bốn Vị Sa Di

24. Tôn Giả Ðại Bàn Đặc Có Còn Sân Giận Không?

25. Sức Mạnh Tập Khí

26. Thầy Tỳ Kheo Bị Kết Tội Trộm Cắp

27. Tôn Giả Xá Lợi Phất Bị Hiểu Lầm

28. Tôn Giả Mục Kiền Liên Bị Hiểu Lầm

29. Bỏ Cả Tốt Lẫn Xấu

30. Tôn Giả Nguyệt Quang

31. Bảy Năm Trong Bụng Mẹ

32. Cô Gái Giang Hồ Quyến Rũ Thầy Tỳ Kheo Sundarasamudda

33. Jotika Và Jatila

34. Vua A Xà Thế Đánh Chiếm Lâu Đài Jotika

35. Người Diễn Kịch Câm Xuất Gia Làm Sa Môn

36. Người Diễn Kịch Câm Xuất Gia Làm Sa Môn

37. Người Gõ Đầu Lâu

38. Ông Bà Visàkha

39. Angulimàla, Vô Não

40. Phạm Hạnh Của Thí Chủ Quyết Định Phước Báo Của Cúng Dường

Phần Kết

Phẩm XVII: Sân Hận

1. Sân Hận Tàn Phá Dung Nhan

Bỏ phẫn nộ, ly mạn...

Câu chuyện này được kể lại khi đức Phật ở tại rừng Banyan, liên quan đến Rohinì, thiếu nữ Sát lợi.

A. Cô Gái Bị Mụn Ðỏ Trên Mặt

Một thuở nọ, Tôn giả A Nậu Lâu Đà trở về thành Ca Tỳ La Vệ với năm trăm Tỳ kheo tùy tùng. Hoàng tộc họ Thích nghe tin đều đến Tinh xá đón chào, trừ cô em Rohinì. Tôn giả hỏi:

- Rohinì đâu?

- Thưa Tôn giả, còn ở nhà.

- Sao không đến?

- Thưa Tôn giả, công nương bị nổi mụn nhọt đầy người, nên xấu hổ khi đi ra ngoài.

- Hãy gọi Rohinì đến ngay.

Rohinì được gọi, che mặt dưới một lớp vải và đi đến. Khi nàng tới, Tôn giả hỏi:

- Sao cô không đến trước?

- Thưa Tôn giả con bị nổi mụn trên mặt, nên xấu hổ không dám đi đâu.

- Vậy sao không làm việc công đức?

- Thưa Tôn giả, con có thể làm gì?

- Hãy xây cất một giảng đường.

- Việc ấy tốn kém bao nhiêu?

- Cô có một bộ nữ trang nào không?

- Thưa, con có.

- Trị giá bao nhiêu?

- Khoảng mười ngàn.

- Tốt lắm, đem chi dùng trong việc xây cất.

- Ai sẽ xây cất cho con?

Tôn giả nhìn những hoàng thân đang đứng gần và nói:

- Ðây là bổn phận các vị.

- Nhưng, bạch Tôn giả, còn Ngài sẽ làm gì?

- Tôi ở đây, các vị đem vật liệu xây cất đến cho Rohinì.

- Thưa, vâng.

Và họ mang vật liệu đến, Tôn giả đưa ra đồ án xây cất, bảo Rohinì:

- Hãy cho xây cất một tòa nhà hai tầng, và khi tầng trên đã xong xuôi, cô đứng ở tầng dưới dọn quét sạch sẽ, chuẩn bị thức ăn và rót nước đầy các bình.

- Thưa, vâng.

Rohinì vâng lời, nàng bán toàn bộ nữ trang để lấy tiền xây cất. Khi tầng trên vừa xong, nàng đích thân dọn dẹp để đón chư Tỳ kheo, ngay khi đó các mụt nhọt lặn hết.

Khi tòa nhà hoàn thành, nàng mời chư Tăng được đức Phật dẫn đầu đến ngồi đầy nhà. Nàng dâng cúng thức ăn chọn lọc cả cứng và mềm. Phật thọ trai xong, hỏi:

- Ai cúng dường hôm nay?

- Thưa, cô Rohinì, em của Ngài, bạch Thế Tôn.

- Hãy gọi đến đây.

Nàng không muốn đi ra, nhưng Phật vẫn cho gọi nữa. Khi Rohinì đến, đảnh lễ Phật và ngồi, Phật hỏi:

- Rohinì, sao cô không đến trước?

- Bạch Thế Tôn, con bị nổi mụn nhọt khắp người nên xấu hổ không dám đi.

- Cô có biết nguyên nhân nào khiến mụn nhọt lan đầy người không?

- Thưa không.

- Chính vì lòng sân hận gây nên.

- Tại sao vậy, con đã làm gì?

- Hãy nghe đây!

Phật kể chuyện:

B. Bà Hoàng Ganh Tỵ Với Nữ Vũ Công

Thời quá khứ, có một Hoàng hậu của vương quốc Ba La Nại sanh tâm đố kỵ với một vũ nữ của hoàng gia, bà thầm nghĩ: "Ta sẽ làm cho nó đau khổ.” Bà liền tìm thật nhiều mày ghẻ đã khô, nghiền nát thành bột và cho gọi cô vũ nữ đến chỗ bà, bí mật sai người rắc bột ghẻ lên giường, ghế và khăn áo của cô. Rồi làm như đùa cợt, bà tung một ít bột lên mình cô. Lập tức cô gái nổi mụn nhọt khắp mình, nó lở loét trông rất ghê tởm, cô vừa đi vừa cấu khắp mình. Khi về nằm trên giường, bột ghẻ lại dính chặt vào da, cô bị đau đớn đến tột cùng. Bà hoàng ấy là Rohinì ngày nay.

Phật kể xong chuyện quá khứ, Ngài dạy:

- Rohinì, đó là hạt giống xấu mà cô đã gieo. Giận hờn hay ganh ghét, tuy ít bao nhiêu cũng không phải là điều chánh đáng.

Ngài nói kệ:

(221) Bỏ phẫn nộ, ly mạn,

Vượt qua mọi kiết sử,

Không chấp trước danh sắc,

Khổ không theo, vô sân.

Nghe xong, nhiều thính chúng chứng Sơ quả, Nhị quả, Tam quả. Rohinì cũng chứng Sơ quả. Ngay khi ấy toàn thân cô trở nên vàng óng.

C. Thiên Nữ Xinh Ðẹp

Rohinì sau khi mạng chung, tái sanh lên cõi trời Ba mươi ba ngay giao điểm các ranh giới của bốn thiên tử.

Cô gái đẹp đến nỗi sau khi nhìn thấy cô, cả bốn vị trời đều tranh nhau:

- Nàng thuộc về ranh giới của ta.

- Nàng tái sanh trong phạm vi của ta.

Họ kéo nhau đến chỗ Ðế Thích nhờ phân xử:

- Thiên chủ! Chúng tôi tranh cãi nhau về thiên nữ này, xin quyết định dùm.

Vừa nhìn thấy Rohinì, Ðế Thích cũng ước ao. Ngài hỏi:

- Khi các ông nhìn thấy nàng, cảm tưởng của các ông ra sao?

Vị thứ nhất nói:

- Tim tôi đập vang dội như trống chầu.

Vị thứ hai nói:

- Ý tưởng của tôi dồn dập như thác chảy.

Vị thứ ba nói:

- Vừa thấy nàng mắt tôi muốn nổ tung.

Vị thứ tư nói:

- Tim tôi hớn hở như lá cờ bay.

Ðế Thích kết luận:

Các vị vui thích nhất thời, còn tôi nếu không có nàng tôi sẽ chết.

- Ồ thiên chủ! Ngài cần gì phải chết!

Họ trao nàng cho Ðế Thích và lui về. Từ lúc ấy nàng rất được Ðế Thích sủng ái, nàng muốn dạo chơi nơi nào Ðế Thích liền chìu theo.

2. Thọ Thần Và Thầy Tỳ Kheo

Ai chặn được phẫn nộ...

Câu chuyện này được kể lại khi đức Thế Tôn ở Tinh xá Aggàlava liên quan tới một vị Tỳ kheo.

Từ sau khi đức Phật cho phép các Tỳ kheo được sống ngoài Tinh xá, các vị Trưởng giả thành Vương Xá bận rộn cất thất cho các Thầy. Một Tỳ kheo ở Alavi muốn cất thất riêng cho mình, Thầy thấy một thân cây thích hợp, bèn bắt đầu đốn xuống. Trên cây ấy, có một nữ thọ thần, bà ẵm đứa con nhỏ của mình, hiện ra trước Thầy năn nỉ:

- Thưa Thầy, xin đừng phá nhà con, con sẽ phải lang thang không chỗ trú ẩn với đứa con dại.

- Ta không thể tìm ra cây nào khác giống như cây này.

Thầy không chú ý đến lời cầu xin của nữ thần. Bà nghĩ thầm: "Nếu Thầy thấy con ta, chắc sẽ ngừng tay. Bà bèn đặt đứa bé lên nhánh cây. Tuy nhiên, Thầy Tỳ kheo đã vung rìu với đà quá mạnh, chặt mất cánh tay đứa bé. Nữ thần nổi giận vươn đôi tay định vặn chết Thầy Tỳ kheo, nhưng trong khoảnh khắc bà tự nghĩ: "Thầy Tỳ kheo này là một bậc Hiền Thiện, nếu ta giết Thầy, ta sẽ rơi xuống Địa ngục. Hơn nữa, nếu các thần cây khác thấy các Sa môn đốn cây của họ, sẽ bảo nhau: "Một thần cây đã giết Sa môn trong trường hợp như thế.", họ sẽ theo gương ta giết các Sa môn. Thầy Tỳ kheo này còn có Thầy, ta sẽ thuật chuyện cho Bổn sư của Thầy.”

Bà bỏ tay xuống, vừa đi vừa khóc đến chỗ đức Phật, đảnh lễ và đứng qua một bên. Phật hỏi:

- Có chuyện gì thế, thọ thần?

- Bạch Thế Tôn, đệ tử của Ngài làm như thế, như thế. Con đã định giết Thầy ấy, nhưng kịp nghĩ lại và đến đây.

Bà thuật lại câu chuyện cho Phật nghe, Phật dạy:

- Lành thay! Lành thay! Ngươi đã cư xử rất tốt khi kìm hãm cơn giận như thắng chiếc xe lao nhanh.

Ngài nói kệ:

(222) Ai chặn được phẫn nộ,

Như dừng xe đang lăn,

Ta gọi người đánh xe,

Kẻ khác, cầm cương hờ.

Nghe xong, nữ thần chứng Sơ quả, hội chúng cũng được lợi ích.

Nhưng sau đó, nữ thần vẫn đứng khóc. Phật hỏi:

- Có chuyện gì thế?

- Bạch Thế Tôn, nhà ở của con bị phá, con phải làm sao bây giờ?

- Thôi đừng sầu khổ, Ta sẽ cho một chỗ ở.

Ngài chỉ một cây ở gần hương thất của Ngài tại Kỳ Viên, và bảo nữ thần đến ở. Vì cây ấy là quà tặng của Như Lai, nên dù vị thần nào có uy lực lớn lao cũng không thể lay chuyển được. Nhân chuyện này, Phật ra lệnh cho các Tỳ kheo giữ giới "Không được chặt đốn cây cối.”

3. Người Nghèo Và Cô Con Gái

Lấy không giận thắng giận...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Trúc Lâm sau khi thọ trai tại nhà Uttarà, liên quan đến nữ Cư sĩ Uttarà.

A. Punna Ðược Công Ðức

Tại Vương Xá, có một người nghèo tên Punna sống bằng nghề làm thuê cho Trưởng giả Sumana. Punna có một người vợ và một con gái tên là Uttara, đều là nô tỳ của Trưởng giả.

Ngày nọ, lệnh truyền khắp thành Vương Xá tổ chức lễ hội trong bảy hôm. Sáng hôm lễ, Trưởng giả Sumana thấy Punna đến, bèn hỏi:

- Các người làm thuê cho ta đều nghỉ lễ, còn ngươi nghỉ hay làm?

- Thưa chủ, nghỉ lễ chỉ dành cho người giàu. Phần tôi không đủ cơm ăn cho ngày mai, tôi nghỉ lễ làm gì. Tôi sẽ dắt bò đi cày.

- Tốt lắm, thôi đi cày đi!

Punna bắt một cặp bò mạnh khỏe và lấy cày, nói với vợ:

- Mình ạ, mọi người trong thành đều nghỉ lễ, nhưng nhà mình nghèo quá tôi vẫn phải đi làm, mình đem hai phần cơm hôm nay cho tôi nhé.

Và Punna ra đồng.

Hôm ấy, Tôn giả Xá Lợi Phất sau khi nhập định bảy ngày, thầm nghĩ: "Hôm nay, ta sẽ ban phước đến cho ai?" Nhận thấy Punna có duyên với mình, Tôn giả tự hỏi: "Liệu ông ấy có đủ niềm tin và dâng cúng cho ta?" Quan sát tiếp thấy Punna tín thành, hỷ cúng và còn được hưởng số gia tài lớn, Tôn giả đắp y, mang bát đi đến cánh đồng Punna đang cày, dừng lại bên đường và nhìn chăm chú một bụi cây. Punna thấy Tôn giả, bỏ cày, đến đảnh lễ năm vóc sát đất, và tự nhủ: "Chắc Tôn giả cần tăm xỉa răng.” Ông đem tăm đến cho Tôn giả. Tôn giả trao đãy lược nước và bình bát cho Punna. "Chắc Tôn giả cần nước", Punna nghĩ thế cầm lấy đãy lược, lược nước đầy bát và đem trao Tôn giả. Tôn giả nghĩ: "Người này ở ngôi nhà sau cùng, nếu ta đi tới cửa vợ ông ta sẽ không thấy. Ta sẽ đợi đúng lúc bà ta mang cơm ra cho chồng.”

Tôn giả đứng đợi giây lát, khi thấy bà vợ Punna bắt đầu ra đến đường, Ngài bước đến. Người vợ thấy Tôn giả, tự nghĩ: "Một lần ta có thức ăn thì không gặp, lần khác gặp Ngài thì ta lại không có gì để cúng. Hôm nay ta vừa gặp Ngài lại có thức ăn. Ngài có ban phước cho ta chăng?” Bà đặt giỏ thức ăn xuống, đảnh lễ Tôn giả năm vóc sát đất và bạch:

- Thưa Tôn giả, xin Ngài đừng nghĩ rằng thức ăn ngon hay dở, xin hãy ban phước cho kẻ tôi tớ này.

Tôn giả đưa bình bát ra, bà sớt cơm vào bát, được phân nửa, Tôn giả bảo: "Ðủ rồi!" Và Ngài lấy tay che miệng bát. Người vợ thưa:

- Bạch Tôn giả! Một phần ăn không thể chia làm hai. Xin Ngài ban phước cho con đời này và đời sau. Con muốn cúng dường Ngài tất cả.

Bà sớt cơm vào bát Tôn giả với lời ước nguyện:

- Xin cho con được dự vào pháp vị mà Ngài đã chứng.

- Con sẽ được như thế.

Tôn giả đọc câu kệ hồi hướng, và ngồi xuống một nơi mát, sạch, thọ trai. Người vợ nông phu về nhà nấu cơm khác.

Punna đã cày hết nửa mẫu đất, đói bụng quá bỏ cày, ngồi xuống gốc cây trông chừng về phía đường. Khi người vợ mang cơm đến, thấy chồng ngồi trông, bà nghĩ: "Ông ấy bị đói dữ dội đang đợi ta kìa, ông sẽ trách ta đến trễ, lấy gậy đập ta, khiến cho việc ta vừa làm không có kết quả, chi bằng ta nói trước.” Và bà kêu lên:

- Mình ạ, hãy kiên nhẫn một chút và đừng làm mất hết thành quả của việc tôi mới làm. Sáng sớm tôi đem cơm cho mình gặp Tôn giả Xá Lợi Phất và đã cúng dường hết, về nấu cơm khác nên hơi lâu. Chắc mình hài lòng chứ?

Bà nói gì?

Sau khi nghe xong chuyện lần thứ hai, Punna bảo vợ:

- Mình đã làm việc tốt khi dâng cơm cho Tôn giả. Tôi cũng đã đem tăm và nước súc miệng đến cho Tôn giả sáng nay.

Với nỗi vui mừng khi nghe vợ kể chuyện, hơi mệt vì đã nhịn ăn từ sáng sớm, Punna gối đầu lên chân vợ và ngủ. Bấy giờ, tất cả đất được cày lên từ sáng đều biến thành vàng, sáng lấp lánh như hoa Kanikàra. Punna thức giấc, nhìn thửa ruộng bảo vợ:

- Mình nhìn xem, dường như đất biến thành vàng! Hay là tôi bị chóa mắt vì đã nhịn cơm trưa nay?

- Tôi cũng thấy như vậy.

Punna đứng dậy, bước xuống ruộng lượm một miếng đất lấy cán cày đập thử và thấy nó là vàng. Ông kêu:

- Ôi! Chúng ta cúng dường Tôn giả Xá Lợi Phất và phước báo đến ngay ngày hôm nay. Nhưng chúng ta không thể dấu hết chừng ấy vàng để xài riêng.

Thế là ông lấy cái giỏ của bà vợ chất đầy vàng đem đến cung vua, tâu:

- Tâu Ðại vương, hôm nay đất tôi cày đều biến thành vàng. Số vàng ấy có phải nhập kho không?

- Ngươi tên gì?

- Punna.

- Hôm nay ngươi đã làm gì?

- Sáng sớm hôm nay tôi dâng Tôn giả Xá Lợi Phất nước và tăm xỉa răng, vợ tôi dâng phần cơm của tôi cho Ngài.

Nhà vua giải thích:

- Ðó chính là quả phước do việc cúng dường. Ta phải làm gì đây?

- Xin hãy đưa vài ngàn chiếc xe đến để chở vàng về kho.

Khi người của nhà vua nhặt vàng, họ nói:

- Ðây là tài sản của nhà vua.

Vàng trong tay họ liền biến thành đất. Họ trở lại tâu vua. Vua hỏi:

- Các ngươi nói gì khi nhặt vàng?

- Chúng tôi nói nó là tài sản của đại vương.

- Ta mà là ai? Hãy đi và nói rằng đây là tài sản của Punna, rồi nhặt vàng.

Họ làm theo lời vua dặn, lập tức đất trong tay họ biến thành vàng. Họ chở hết số vàng này về sân cung điện, và chất thành đống cao tám mươi cubit.

Nhà vua cho vời các thị dân đến và hỏi:

- Có ai trong thành có nhiều vàng như thế này chăng?

- Tâu đại vương, không.

- Ta nên tặng gì cho ông ấy?

- Xin cho một cây lọng báu.

- Hãy gọi ông ấy là Ðại Phú Gia, Trưởng giả Bahudhana.

- Ðại vương, tôi sống nhờ nhà người, xin cho tôi một nơi để ở.

Nhà vua chỉ khoảnh đất của nhà một Trưởng giả trước đây, nói:

- Nhìn đây, có khoảng cây rậm rạp và ông hãy dọn sạch, cất nhà ở đấy.

Punna cất nhà xong, tổ chức lễ khánh thành, cúng dường trai Tăng suốt bảy hôm. Ðức Phật thuyết pháp cho ông, sau bài pháp cả Punna, vợ và cô con gái Uttarà đều chứng quả Dự lưu.

Thời gian sau, vị Trưởng giả thành Vương Xá muốn hỏi Uttarà cho con trai mình, Punna từ chối, Trưởng giả Vương Xá bảo:

- Ðừng làm thế, chúng ta là hàng xóm, ông giàu có và địa vị cao. Hãy gả nó cho con trai tôi.

- Con ông theo ngoại đạo. Con gái tôi tin Tam bảo. Tôi không gả được.

Nhiều nhà vọng tộc, phú hào, quyền chức đã khuyên Punna đừng làm mất tình thân của Trưởng giả kia. Cuối cùng, Punna nhận lời, vào ngày trăng tròn tháng Asalhi, gả Uttarà.

B. Uttarà Và Sirimà

Từ khi về nhà chồng Uttarà không có dịp gặp gỡ chư vị Tỳ kheo Tăng Ni, hoặc cúng dường, hoặc nghe pháp. Hai tháng rưỡi trôi qua, nàng hỏi người hầu.

- Mùa an cư còn bao lâu?

- Thưa phu nhân, nửa tháng nữa.

Uttarà nhắn tin về cha nàng: "Tại sao lại nhốt con trong cái nhà như vậy? Thà là đánh con, chửi con hơn gả con cho một gia đình như thế. Từ ngày về đây, con không được gặp một vị Sa môn nào, chẳng có dịp làm một công đức nhỏ.”

Cha nàng được tin, buồn bã nói:

- Ôi! Con ta bất hạnh quá!

Ông gởi cho nàng mười lăm ngàn kèm theo lời nhắn tin: "Trong thành này có cô kỹ nữ tên là Sirimà, một đêm một ngàn. Với số tiền này, con đưa cô ấy về cho chồng con, để thay con. Và con sẽ có thời giờ làm việc phước.”

Uttarà gọi Sirimà đến, cho tiền, đề nghị làm bạn với chồng mình. Chồng của Uttarà cũng say mê nhan sắc của Sirimà nên đồng ý, để Uttarà tự do đi cúng dường và nghe pháp.

Uttarà thỉnh chư Tăng và đức Phật:

- Bạch Thế Tôn, bắt đầu ngày nay xin thọ trai ở nhà con.

Ðược Phật nhận lời, nàng vui sướng nghĩ thầm: "Từ ngày mai trở đi cho đến ngày Tự Tứ, ta được dịp hầu hạ đức Phật và nghe pháp.” Và nàng bảo nhà bếp chuẩn bị thức ăn cần thiết: "Hãy nấu món này, hãy làm bánh này.”

Một hôm, vào ngày trước lễ Tự Tứ, chồng Uttarà đứng ở cửa sổ phòng mình nhìn vào nhà bếp, nghĩ thầm:

- Cô vợ khùng này đang làm gì kìa?

Khi thấy Uttarà đi tới đi lui, mình mẩy đẫm mồ hôi, dính đầy tro bụi mồ hóng... y nói thầm: "A, ở một chỗ như nhà mình mà con nhỏ đó không thích xa hoa, tiện nghi, chỉ thích nấu nướng cúng kính các Thầy tu trọc đầu", y bật cười rồi bỏ đi. Sirimà đứng gần đó thấy vậy, tự hỏi: "Ông ấy thấy ai mà cười?” Nhìn qua cửa sổ thấy Uttarà, Sirimà ghen tức "Chỉ vì thấy bà ta thôi, giữa họ vẫn còn tình tứ lắm" (Dù Sirimà sống nửa tháng trong nhà ấy như một nàng hầu, chóa mắt vì sự xa hoa lộng lẫy, nàng quên mình chỉ là nàng hầu mà tưởng mình là nữ chủ).

Sirimà cảm thấy ghét Uttarà muốn làm cho nàng khổ sở đau đớn. Cô chạy xuống lầu, đi vào nhà bếp, đến bên chảo bánh, múc một muỗng bơ đang sôi tiến về phía Uttarà. Uttarà thấy cô đi tới nhưng vẫn nói:

- Cô bạn đã giúp tôi rất nhiều. Trái đất này có thể nhỏ hẹp, cõi trời Phạm có thể chấp, nhưng lòng tốt của cô lớn lao hơn nhiều. Nhờ cô, tôi được rảnh để cúng dường và nghe pháp, nếu tôi nổi giận với cô tôi sẽ bị cháy bỏng. Nếu không, nó không làm hại tôi.

Nói như thế, và Uttarà hướng tâm thương yêu về phía đối thủ. Khi Sirimà tạt muỗng bơ đang sôi lên đầu nàng, nó giống như nước lạnh. Sirimà múc luôn muỗng thứ hai..

Các bà gia nhân của Uttarà thấy thế, la lên:

- Cút đi! Ðồ ngu! Mày có quyền gì mà chế bơ vào đầu chủ tao.

Họ xúm lại đánh đập, đá thoi, xô Sirimà xuống đất. Uttarà cố gắng can ngăn mà không được. Nàng đứng chắn trước Sirimà, đẩy gia nhân ra, hỏi han Sirimà:

- Sao cô hành động hung bạo thế?

Nàng đỡ Sirimà dậy, tắm rửa bằng nước nóng, lấy dầu loại quý thoa cho. Lúc ấy, Sirimà mới chợt nhớ mình chỉ là nàng hầu, tự nhủ: "Thật là một hành động thô bỉ khi ta đổ bơ nóng lên đầu nàng chỉ vì chồng nàng cười với nàng. Và nàng, thay vì ra lệnh cho gia nhân trói tréo ta lại, nàng lại đuổi họ đi khi họ đánh đập ta, rồi hết sức chăm sóc ta. Nếu ta không xin lỗi nàng, đầu ta sẽ bể làm bảy mảnh.” Sirimà quỳ dưới chân Uttarà nói:

- Phu nhân, hãy tha lỗi cho tôi.

Uttarà trả lời:

- Tôi là con của cha tôi, nếu cha tôi tha lỗi cho cô, tôi sẽ tha lỗi.

- Lành thay, phu nhân. Tôi sẽ xin lỗi cha nàng, Trưởng giả Punna.

- Punna là cha thế gian của tôi. Nếu người cha xuất thế gian của tôi tha lỗi cho cô, tôi sẽ tha lỗi.

- Nhưng ai là cha xuất thế gian của nàng?

- Là đức Phật, bậc Giác Ngộ Vô thượng.

- Tôi không dám tin vào Phật sống.

- Tôi sẽ làm cho nàng tin. Ngày mai đức Phật sẽ đến đây với chư Tỳ kheo, hãy chuẩn bị đồ cúng dường và đến đây xin sám hối.

- Thưa vâng, phu nhân.

Sirimà trở về nhà, bảo năm trăm tỳ nữ chuẩn bị sẵn sàng theo cô. Nàng sắm nhiều loại thức ăn ngon, hôm sau mang đến nhà Uttarà. Không dám đặt phẩm vật cúng dường vào bát của Phật và chư Tăng, nàng đứng đợi. Uttarà bèn nhận phẩm vật và tùy nghi dâng lên. Phật thọ trai xong, Sirimà và đoàn tỳ nữ quỳ dưới chân Phật, Ngài hỏi:

- Con đã gây tội gì?

- Bạch Ngài, hôm qua con đã làm như thế... Nhưng người bạn này đã ngăn gia nhân không cho đánh con. Nàng rất tốt nên con xin nàng tha thứ, nàng nói nếu Thế Tôn tha thứ, nàng sẽ tha thứ.

- Uttarà, đúng vậy không?

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!

Uttarà thuật lại những gì lòng nàng nghĩ về Sirimà, lúc ấy, Phật khen ngợi:

- Lành thay! Lành thay! Uttarà! Ðó là cách đúng nhất để dập tắt cơn giận. Từ bi có thể xóa sạch hận thù. Dùng không mắng chửi để thắng mắng chửi, dùng bố thí thắng xan tham, dùng thật ngữ thắng vọng ngữ.

Ngài nói kệ:

(223) Lấy không giận thắng giận,

Lấy thiện thắng bất thiện,

Lấy thí thắng xan tham,

Lấy chơn thắng hư ngụy.

4. Việc Thiện Nhỏ Ðưa Ðến Thiên Giới

Nói thật, không phẫn nộ...

Câu chuyện này được kể lại khi Phật ở Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên.

Một hôm, Tôn giả Mục Kiền Liên đi dạo nơi cung trời, thấy một vị trời có thần lực rất lớn đang đứng trước cung điện của mình. Thiên thần ấy đến chào Tôn giả, Tôn giả hỏi:

- Này thiên thần, ông có uy lực lớn, ông đã làm gì mà được như thế?

- Ồ! Bạch Ngài, xin đừng hỏi tôi. (vị trời này chỉ làm một việc thiện nhỏ, nên xấu hổ không muốn nói).

Tôn giả cứ hỏi lại, yêu cầu nói cho nghe, cuối cùng thiên thần nói:

- Thưa Tôn giả, tôi không hề cúng dường, tôn kính hay nghe pháp. Tôi chỉ nói thật mà thôi.

Tôn giả đến cung điện khác, hỏi một vài thiên nữ khác. Họ cố giấu việc mình làm nhưng không qua được Tôn giả, một người nói:

- Thưa Tôn giả, tôi không bố thí hay làm việc về Tôn giáo, nhưng vào thời Phật Ca Diếp tôi là đầy tớ của một ông chủ tàn bạo hà khắc. Ông ta chỉ có đánh đập. Nhưng khi tư tưởng sân hận nổi lên tôi tự an ủi mình rằng: "Ông ấy là chủ mình, có thể bắt giam mình, hoặc xẻo mũi mình, hay xẻo bất cứ nơi nào. Ðừng giận dữ.” Như thế, tôi làm lắng dịu lòng mình, chỉ có thế, tôi được phước quả này.

Người khác nói:

- Thưa Tôn giả, khi tôi đang canh chừng ruộng mía, tôi có cúng một cây mía cho một Sa môn.

- Tôi cúng một timbaràsaka.

- Tôi cúng một elàluka.

- Tôi cúng một phàrusaka.

- Tôi cúng một nắm củ cải.

Tất cả đều kết luận: "Bằng cách ấy chúng tôi đạt được quả phước.”

Tôn giả trở về bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, có phải người được sanh cõi trời chỉ vì đã nói thật, hay đã chế ngự cơn giận, hay bố thí một nắm đậu,v.v...?

- Vì sao ông hỏi ta điều ấy? Tất cả thiên thần đã chẳng kể rõ cho ông sao?

- Thưa vâng, con tin rằng chỉ vài điều thiện nhỏ như thế cũng đủ sanh thiên.

Phật dạy:

- Này Mục Kiền Liên, chỉ với lời nói thật, chỉ với việc chế ngự cơn giận, hay tặng một quà nhỏ, người được sanh thiên.

Ngài nói kệ:

(224) Nói thật, không phẫn nộ,

Của ít, thí người xin,

Nhờ ba việc lành này,

Người đến gần thiên giới.

5. Bà La Môn Ðón Phật Như Con

Bậc hiền không hại ai...

Câu chuyện này được kể lại khi đức Phật ở Anjanavana gần Sàketa, liên quan đến câu hỏi của chư Tỳ kheo.

Một hôm, đức Phật cùng chư Tăng đi vào Sàketa khất thực, một người Bà la môn ở trong thành nhìn thấy đấng Thập Lực đang đi vào cổng thành, ông ta quỳ xuống ôm chân Phật kêu lên:

- Con thân yêu! Bổn phận con cái là chăm sóc cha mẹ lúc tuổi già, sao lâu quá chúng ta không gặp con? Ðây là lần đầu cha mới gặp, hãy về thăm mẹ con đi.

Phật đi theo, ông lão đưa Phật về nhà, ngồi vào chỗ soạn sẵn, với chư Tăng. Vợ người Bà la môn đến gặp Phật, gieo người dưới chân Ngài nói:

- Con ơi! Bấy lâu nay con ở đâu? Không ai chăm sóc cha mẹ khi tuổi già.

Bà kêu con trai, con gái ra chào Phật và nói:

- Hãy đi chào anh con.

Vui mừng hân hoan, người Bà la môn và vợ cúng dường thức ăn cho Phật và Tăng chúng, thỉnh cầu;

- Bạch Thế Tôn, hãy thọ trai ở đây suốt đời.

Phật trả lời:

- Chư Phật không bao giờ thọ trai ở một nơi cố định.

- Như thế, xin Ngài cho chúng con biết được người nào mời thọ trai.

Từ đó, đức Phật bảo người đến thỉnh Ngài thọ trai rằng: "Hãy bảo cho Bà la môn đó.” Và họ đến nói với ông:

- Ngày mai chúng tôi thỉnh Phật thọ trai.

Người Bà la môn sẽ đem cơm canh từ nhà mình đến chỗ nào có đức Phật. Khi không ai mời, Phật dùng bữa tại nhà ông. Cả hai vợ chồng thường xuyên cúng dường Phật và nghe pháp, qua thời gian đều chứng Tam quả.

Các Tỳ kheo bàn tán ở Pháp đường:

- Chư hiền, người Bà la môn biết chắc chắn rằng phụ thân đức Như Lai là vua Tịnh Phạn, và mẹ Ngài là Hoàng hậu Ma Da. Dù vậy, cả hai ông bà đều gọi Như Lai là "Con chúng ta" và Phật chấp nhận lối xưng hô ấy. Chuyện này là thế nào?

Ðức Phật nghe việc này, Ngài dạy:

- Này các Tỳ kheo, hai vợ chồng Bà la môn đều có ý xem Ta như con khi họ gọi Ta là con.

Ngài nói về quá khứ:

- Thời quá khứ, Bà la môn ấy là cha của Ta trong năm trăm kiếp, là chú của Ta trong năm trăm kiếp, là ông nội của Ta năm trăm kiếp, bà vợ là mẹ của Ta năm trăm kiếp, là dì của Ta năm trăm kiếp, bà ngoại của Ta năm trăm kiếp. Ta được nuôi dưỡng suốt một ngàn năm trăm kiếp bên người chồng và một ngàn năm trăm kiếp bên người vợ.

Ðể giải thích việc ba ngàn đời là con cháu của họ, Phật nói kệ:

Khi ý tưởng hân hoan,

Và trái tim tin tưởng,

Ta có thể tin vào,

Người mới gặp lần đầu.

Qua liên hệ quá, hiện,

Lòng yêu thương khởi lên,

Như sen nhô trên nước.

Ba tháng ở tại Sàketa, đức Phật thường lui tới nhà Bà la môn ấy để thọ trai, sau ba tháng, họ chứng quả A la hán và nhập Niết bàn. Mọi người tỏ vẻ kính trọng thi hài họ, đặt lên giàn cây khiêng đi. Nghe tin rằng họ đã là mẹ và cha của đức Thế Tôn, dân chúng đi theo đám tang rất đông. Ðức Phật đến một giảng đường gần nơi hỏa táng, chờ ở đấy. Mọi người đến đảnh lễ Phật thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn, xin đừng buồn vì song thân qua đời.

Họ tìm cách an ủi Ngài. Thay vì quở họ đừng nói thế, đức Thế Tôn quan sát tâm tư mọi người và nói bài pháp tương ứng với trường hợp đặc biệt này, đọc kinh Jarà như sau:

Ðời sống thật ngắn ngủi.

Một trăm năm chưa qua,

Người ta đã phải chết.

Dù ai có sống lâu,

Rồi cũng sẽ chết già.

Các Tỳ kheo, không biết rằng người Bà la môn và vợ đã nhập Niết bàn, hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn, họ sẽ tái sanh nơi đâu?

- Này các Tỳ kheo, trường hợp của các A la hán Thánh nhân như họ không có kiếp sau. Họ đã đạt đến Ðại Niết bàn, cõi bất tử, vĩnh hằng.

Ngài nói Pháp Cú:

(225) Bậc hiền không hại ai,

Thân thường được chế ngự,

Ðạt được cảnh bất tử,

Ðến đây, không ưu sầu.

6. Có Phải Người Tặng Quà Làm Nên Quà Tặng?

Những người thường giác tỉnh...

Câu chuyện này được kể lại khi đức Thế Tôn ở tại núi Linh Thứu, liên quan đến Punna, đầy tớ gái của Trưởng giả thành Vương Xá.

Có một ngày, Punna phải giã gạo rất nhiều từ sáng sớm đến tối mịt, đốt đèn lên làm cũng không hết việc. Cuối cùng mệt quá, cô bước ra ngoài nghỉ một lát, thân thể ướt đẫm mồ hôi. Bấy giờ thần Dabba the Malla có nhiệm vụ đưa chư Tỳ kheo về chỗ nghỉ. Sau khi nghe pháp, ông dùng thần thông làm ngón tay sáng lên như một ngọn đèn và đi trước dẫn đường, các Tỳ kheo theo sau.

Ánh sáng khiến Punna chú ý đến các Sa môn đang đi trên đường núi. Cô nghĩ thầm: "Mình làm thân ở đợ nên giờ này còn chưa được ngủ. Còn các Tỳ kheo tôn kính kia sao không ngủ được?" Và cô đi đến kết luận: "Chắc có Thầy nào đau ốm hay bị rắn cắn gì đây?”

Sáng sớm hôm sau, Punna lấy một ít cám, nhồi với nước lạnh, nắn bánh và đem nướng. Sau khi nướng xong, cô đem bánh, nước uống, đi ra bờ sông tắm, dự định sẽ ăn bánh trên đường đi. Lúc ấy, đức Phật cũng đi trên đường ấy, vào làng để khất thực. Punna thấy Ngài, thầm nghĩ: "Có mấy hôm gặp Phật, ta không có gì để cúng dường, hoặc có thức ăn lại không gặp Phật. Hôm nay gặp Phật lại là lúc mình có sẵn bánh đây. Nếu Ngài không để ý bánh ngon hay dở, mình sẽ cúng dường Ngài.” Và cô đặt bình nước xuống bên đường, chào đức Phật và thưa:

- Bạch Thế Tôn, xin nhận phẩm vật đơn sơ này và ban phước cho con.

Phật nhìn sang A Nan, Tôn giả cầm bát vốn là quà tặng của một đại vương, trao cho Phật. Phật đưa bát và nhận bánh cám nướng. Punna đảnh lễ Phật, năm vóc sát đất và bạch:

- Bạch Thế Tôn, xin cho chân lý Ngài chứng ngộ, con cũng được dự phần.

- Con sẽ được như vậy.

Và đứng ngay tại chỗ, Thế Tôn nói lời chúc phúc. Nhưng Punna vẫn nghĩ: "Mặc dù Thế Tôn ban phước cho ta khi Ngài nhận bánh nhưng chắc Ngài không ăn. Chắc Ngài cầm nó đi một quãng đường rồi ném cho quạ, cho chó. Rồi Ngài đến nhà một ông hoàng hay vị đế vương nào đó, nhận thức ăn thượng vị.”

Ðức Phật biết Punna nghĩ như thế nên Ngài nhìn A Nan, tỏ dấu muốn ngồi. Tôn giả trải tọa cụ, đức Phật ngồi xuống ngoài cổng thành và ăn bánh nướng. Chư thiên các tầng trời bèn đổ mật ong (thức ăn thích hợp cho cả trời lẫn người trên khắp các cõi nước) vào chiếc bánh khô cứng của Punna. Punnà đứng nhìn Ngài thọ thực. Khi Thế Tôn ăn xong, A Nan dâng nước. Vào cuối bữa ăn sáng này, Thế Tôn quở Punnà:

- Này Punna, tại sao người phỉ báng đồ đệ Ta?

- Bạch Thế Tôn, con đâu có.

- Vậy ngươi nói gì khi thấy họ?

- Bạch Thế Tôn, con nghĩ đơn giản rằng: "Con bị bắt buộc làm việc nên không đi ngủ được, còn các Sa môn tôn kính kia vì sao không ngủ? Có thể một vài vị bị bệnh hoặc rắn cắn chi đây?"

Thế Tôn nghe xong, dạy Punnà:

- Này Punnà, trường hợp ngươi khổ sở vì không được ngủ. Nhưng các đệ tử của Ta luôn luôn tỉnh giác nên không ngủ.

Ngài nói kệ:

(226) Những người thường giác tỉnh,

Ngày đêm siêng tu học,

Chuyên tâm hướng Niết bàn,

Mọi lậu hoặc được tiêu.

Nghe xong, Punnà liền chứng Sơ quả, hội chúng cũng được lợi ích.

Thế Tôn về đến Tinh xá, các Tỳ kheo bàn tán về việc ban sáng như sau:

- Chư hiền, chắc đấng Thế Tôn đã ăn sáng khó nuốt lắm với chiếc bánh của Punnà làm bằng bột cám và nước bằng than.

Thế Tôn đến gần, hỏi các Thầy:

- Các Tỳ kheo, các ông tụ họp ở đây nói chuyện gì thế?

Khi nghe kể lại, Ngài nói:

- Này Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu Ta ăn như thế, sự việc này cũng đã xảy ra vào thời quá khứ.

Ngài nói kệ:

- Cỏ thừa ngươi thường ăn,

Váng cháo tấm ngươi uống

Ấy thức ăn ngày trước

Sao giờ ngươi chẳng ăn?

- Chưa rành giòng dõi xuất thân,

Thưa Ngài váng cháo tấm ăn no lòng.

Còn con, ngựa giống ngựa nòi

Ngài, con đều biết, cháo kia đâu thèm.

(Trích đoạn của truyện tiền thân)

Và Ngài kể lại chuyện tiền thân Kundakasimdhavapotaka.

7. Không Có Gì Quá Nhiều, Quá Ít.

A tu la nên biết...

Câu chuyện này xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ Viên, liên hệ đến nam Cư sĩ Atula.

Atula (Tu Lại) là một thiện tín sống ở Xá Vệ, và có một nhóm bạn năm trăm Phật tử. Một ngày nọ ông dắt cả năm trăm người đi đến Tinh xá nghe pháp. Ðầu tiên họ đến bên Tôn giả Ly Bà Đa (Revata), cung kính đảnh lễ và ngồi một bên. Tôn giả là người ưa độc cư, yêu thích cô độc như một con sư tử yêu thích cô đơn, nên Ngài không nói gì với họ.

Tu Lại nghĩ thầm: "Tôn giả chẳng nói năng chi.” Cả nhóm đứng dậy đi đến chỗ Tôn giả Xá Lợi Phất, và cung kính đứng bên. Tôn giả hỏi:

- Các ông đến gặp ta có chuyện gì?

Tu Lại thưa:

- Bạch Tôn giả, con đưa các bạn đi nghe pháp và đã gặp Ngài Ly Bà Đa. Nhưng Ngài chẳng nói gì, nên con bất mãn và đến đây. Xin Tôn giả thuyết pháp cho chúng con.

- Tốt lắm. Các ông hãy ngồi xuống.

Và Tôn giả Xá Lợi Phất giảng giải về A Tỳ Đàm tràng giang đại hải.

Tu Lại nghĩ thầm: "A Tỳ Đàm rất khó hiểu, Tôn giả chỉ giảng giải pháp ấy cho ta quá dài, điều ấy đâu có ích lợi gì?" Và ông bực bội dẫn chúng bạn đi đến chỗ Tôn giả A Nan. Tôn giả hỏi: - Có việc gì thế Cư sĩ?

Tu Lại thưa:

- Thưa Tôn giả, chúng con đến chỗ Ngài Ly Bà Đa mong được nghe pháp. Tôn giả chẳng nói lời nào. Chúng con đến chỗ Tôn giả Xá Lợi Phất, và Ngài dạy quá nhiều về A Tỳ Đàm với tất cả chi tiết. Chúng con chẳng hiểu gì cả và buồn bực Tôn giả ấy, nên đến đây. Xin Tôn giả thuyết pháp cho chúng con.

- Tốt lắm, hãy ngồi xuống và lắng nghe.

Tôn giả nói pháp cho họ, ngắn gọn và dễ hiểu. Nhưng họ cũng bực tức, bỏ đi và đến chỗ Thế Tôn đảnh lễ rồi lui ngồi một bên. Phật hỏi:

- Vì sao các ông đến đây?

- Bạch Thế Tôn, chúng con nghe pháp.

- Nhưng các ông đã nghe rồi.

- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Ly Bà Đa chẳng nói lời nào, Tôn giả Xá Lợi Phất giảng dạy quá nhiều, Tôn giả A Nan lại nói ngắn quá, chúng con không vui nên đến đây.

Phật nghe xong và quở:

- Này Tu Lại, từ xưa đến nay, người ta luôn chê bai. Người không nói, người nói nhiều, người nói ít đều bị chê, không ai hoàn toàn được khen, cũng không ai hoàn toàn bị chê. Ngay cả các bậc Ðế vương cũng được người khen kẻ chê. Ngay cả đại địa, mặt trời, mặt trăng, ngay cả một vị Phật, ngồi giữa tứ chúng mà thuyết pháp cũng có người khen kẻ chê. Lời khen chê của người ngu không quan trọng. Nhưng khi người học thức, thông minh khen hay chê, đó mới là đích thực.

Ngài nói kệ:

(227) A tu la nên biết,

Xưa vậy, nay cũng vậy,

Ngồi im, bị người chê,

Nói nhiều, bị người chê,

Nói vừa phải bị chê,

Làm người không bị chê

Thật khó tìm ở đời.

(228) Xưa, vị lai và nay,

Ðâu có sự kiện này,

Người hoàn toàn bị chê,

Người trọn vẹn được khen.

(229) Sáng sáng, thẩm sát kỹ,

Bậc có trí tán thán,

Bậc trí không tỳ vết,

Ðầy đủ giới, định, tuệ.

(230) Danh sáng như vàng ròng,

Ai dám chê vị ấy?

Chư thiên phải khen thưởng,

Phạm thiên cũng tán dương.

8. Lục Quần Tỳ Kheo

Giữ thân đừng phẫn nộ...

Câu chuyện này xảy ra khi Thế Tôn ở tại Trúc Lâm, liên quan đến Lục quần Tỳ kheo.

Ngày nọ, nhóm Lục quần Tỳ kheo mang guốc gỗ, hai tay cầm gậy khua lóc cóc, đi lên đi xuống rầm rầm trên một phiến đá. Phật nghe tiếng lốp bốp, mới hỏi Ngài A Nan:

- Này A Nan! Tiếng gì thế?

Tôn giả thưa:

- Bạch Thế Tôn, Lục quần Tỳ kheo mang guốc gỗ, đi tới đi lui nên gây ra tiếng ấy.

Nghe thế, Phật dạy:

- Một Tỳ kheo phải kiểm soát tư tưởng, lời nói, và hành động của mình.

Ngài nói kệ:

(231) Giữ thân, đừng phẫn nộ,

Phòng thân, khéo bảo vệ,

Từ bỏ thân làm ác,

Với thân, làm hạnh lành.

(232) Giữ lời, đừng phẫn nộ,

Phòng lời, khéo bảo vệ

Từ bỏ lời thô ác,

Với lời, nói điều lành.

(233) Giữ ý đừng phẫn nộ,

Phòng ý, khéo bảo vệ,

Từ bỏ ý nghĩ ác,

Với ý, nghĩ hạnh lành.

(234) Bậc trí bảo vệ thân,

Bảo vệ luôn lời nói,

Bảo vệ cả tâm tư,

Ba nghiệp khéo bảo vệ.


Phẩm XVIII: Cấu Uế

1. Người Ðồ Tể Và Ðứa Con Trai

Ngươi nay giống lá héo...

Câu chuyện này xảy ra khi Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến một đồ tể mổ bò.

Tại Xá Vệ, có một người đồ tể mổ bò. Ông ta giết hại biết bao nhiêu con bò, thường chọn phần thịt ngon nhất cho mình, sai vợ nấu nướng rồi ngồi vào bàn ăn, cùng vợ con nhậu thịt bò, phần còn lại ông bán lấy tiền. Suốt năm mươi lăm năm ông giữ nghiệp này. Trong thời gian ấy, mặc dù đức Thế Tôn ở tại Tinh xá bên cạnh nhà, không bao giờ ông cúng cho Thế Tôn một muỗng cháo hay muỗng cơm. Trừ thịt bò ra, ông ta không ăn cơm.

Ngày nọ, trời về chiều, sau khi bán vài miếng thịt, ông đưa cho vợ miếng thịt để nấu bữa tối, và đi ra ao tắm. Một người bạn đến nhà ông, hỏi bà vợ:

- Hãy để cho tôi ít thịt, nhà tôi có khách.

- Thịt bán hết rồi. Ông ấy vừa đi tắm.

- Nếu còn miếng thịt nào, chị vui lòng để cho tôi.

- Chẳng còn miếng thịt nào, trừ miếng thịt ông ấy dặn tôi làm đồ ăn cho ổng.

Người bạn nghĩ: "Nếu đã hết thịt bán, chỉ còn lại thịt dành riêng cho bữa ăn, và ông ấy sẽ không ăn nếu không có thịt, chắc gì ông ấy đã chịu để miếng thịt đó cho mình.” Và người này tự động xách miếng thịt ra đi.

Tắm xong, người đồ tể trở về. Khi bà vợ dọn ăn, chỉ có rau cải, ông hỏi:

- Còn thịt đâu?

- Không có ông ạ.

- Tôi chừa cho bà một miếng thịt trước khi tôi đi sao?

- Một người bạn đến nhà nài mua thịt vì nhà có khách. Tôi trả lời hết thịt bán, mà ổng cứ xách miếng thịt của ông đi về, dù tôi có nói miếng thịt đó cốt để làm thức ăn cho ông, nếu thiếu nó ông không ăn cơm được.

- Trừ khi có thịt tôi mới ăn. Tôi không ăn nữa, bà dẹp đi!

- Trời ơi, làm sao bây giờ? Thôi ông chịu khó ăn cơm không thịt một bữa.

- Tôi đã nói là không.

Bắt vợ dẹp mâm cơm, ông ta xách dao ra đi. Có một con bò bị cột gần nhà, ông bước tới chỗ con bò, thò tay vào miệng nó lôi lưỡi nó ra, xẻo luôn chiếc lưỡi rồi xách trở vô nhà, ông nướng chiếc lưỡi bò trên lò than, xong đặt nó trên cơm rồi mới chịu ăn uống. Ông ăn một miếng cơm và một miếng thịt. Vừa để miếng thịt vào miệng, lưỡi ông đứt làm đôi, và rớt xuống đĩa cơm. Ðúng lúc đó, ông nhận hình phạt mà ông gây ra. Máu tuôn thành dòng từ miệng, ông bò quanh sân nhà, rống lên như bò sắp chết.

Con trai ông đứng gần đấy, nhìn cha mình giãy chết, mẹ nó bảo:

- Này con, hãy nhìn đó, hình phạt tương tự sẽ đến với con. Con đừng lo cho mẹ, hãy tìm đường an ổn mà đi.

Ðứa con sợ hãi trước cảnh tượng ấy, từ giã mẹ chạy đi, nó đi về thành Takkasilà. Người đồ tể, sau khi rống lên một lúc, bò quanh sân và chết, rồi đọa vào Địa ngục A tỳ. Cả con bò cũng chết.

Ðến Takkasilà đứa con học nghề thợ bạc. Ngày nọ, chủ của nó đi về làng, dặn dò:

- Hãy làm món nữ trang như thế này, thế này...

Chú nhỏ làm theo lời dặn. Và khi người chủ về, nhìn món trang sức làm khéo léo theo ý mình, ông nghĩ: "Chú nhỏ này sẽ thành nghề và kiếm ăn dễ dàng.” Khi chú trưởng thành được chủ gả con gái cho, rồi sanh con trai, con gái. Các con trai của ông lần lượt trưởng thành, làm nghề khác, dời nhà qua thành Xá Vệ, và trở thành Phật tử thuần thành của đức Thế Tôn. Còn ông cha của chúng (con người đồ tể ngày xưa) ở lại Takkasilà, để thời gian trôi qua mà không làm được chút công đức nhỏ, rồi già nua kéo đến. Các con ông mời ông cụ trở về nhà mình nuôi nấng.

Chúng bàn nhau: "Chúng ta hãy cúng dường nhân danh cha chúng ta.” Họ mời đức Phật và chư Tăng về nhà thọ trai. Họ sắp đặt bàn ghế tại nhà, dâng thức ăn lên đức Phật và chư Tăng, hầu hạ kính cẩn. Cuối bữa ăn, họ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, thức ăn dâng cúng hôm nay là tạo phước cho cha già hiện đang sống của chúng con, xin Thế Tôn ban phước cho ông cụ.

Ðức Phật khuyên ông:

- Này ông lão, ông đã già nua, thân thể ông như lá héo úa, ông không tạo việc lành để làm tư lương cho đời sau. Hãy tạo cho mình một chỗ an trụ. Hãy làm người khôn ngoan, đừng làm kẻ si mê.

Phật nói kệ:

(235) Ngươi nay giống lá héo,

Diêm sứ đang chờ ngươi,

Ngươi đứng trước cửa chết,

Ðường trường thiếu tư lương.

(236) Hãy tự làm hòn đảo,

Tinh cần, gấp sáng suốt,

Trừ cấu uế, thanh tịnh,

Ðến Thánh địa chư thiên.

Nghe xong, ông cụ chứng Sơ quả, chúng hội cũng được hưởng lợi ích.

Ngày hôm sau, các con ông cũng thỉnh Phật và chúng Tăng thọ trai. Cuối bữa ăn, họ cũng xin hồi hướng phước báo cho cha già. Ðức Phật chúc phước cho ông cụ, nói thêm hai bài kệ:

(237) Ðời ngươi nay sắp tàn,

Tiến gần đến Diêm vương,

Giữa đường không nơi nghỉ,

Ðường trường thiếu tư lương.

(238) Hãy tự làm hòn đảo,

Tinh cần, gấp sáng suốt,

Trừ cấu uế, thanh tịnh,

Chẳng trở lại sanh già.

2. Dần Dà Từng Chút

Bậc trí theo tuần tự...

Câu chuyện này xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ Viên, liên quan đến một người Bà la môn.

Một buổi sáng sớm, người Bà la môn ra khỏi thành, dừng lại chỗ các Sa môn thường vấn y, ông đứng quan sát. Chỗ ấy cỏ mọc cao rậm rạp, khi một Sa môn khoác y vào, chéo y quét qua cỏ, dính sương đẫm ướt. Ông tự nhủ: "Ðám cỏ này phải được dọn sạch.” Hôm sau, ông đem cuốc ra rẫy cỏ, dọn sạch chỗ đó, nó trở nên bằng phẳng quang đãng. Hôm sau nữa, ông lại đến quan sát, khi các Tỳ kheo khoác y vào, chéo y quét trên đất và dính bụi. Ông nghĩ thầm: "Ta sẽ rải cát ở đây.” Ông lại đem cát đến đổ cho sạch nơi đó.

Vào một ngày, sáng sớm trời đã nóng bức. Dịp ấy ông thấy các Tỳ kheo mặc y, mồ hôi đổ giọt. Người Bà la môn nghĩ: "Ta sẽ cất một cái trại nơi đây.” Lập tức ông che lên một cái lều cho các Tỳ kheo. Lại ngày khác, sáng sớm trời đổ mưa, dịp này ông lại thấy các Tỳ kheo bị tạt ướt, ông nghĩ thầm: "Mình phải cất nhà mới được.” Nghĩ là làm, và khi ngôi nhà hoàn thành, ông tổ chức lễ khánh thành. Ông mời Phật và chúng Tăng đến đó, mời ngồi bên trong và bên ngoài, rồi dâng thức ăn.

Sau bữa ăn, ông cầm lấy bát của đức Phật, xin Ngài hồi hướng công đức. Ông nói:

- Bạch Thế Tôn, khi con đứng nơi này, đầu tiên nhìn các Tỳ kheo đắp y, con thấy như thế, và đã làm như thế, như thế.

Và bắt đầu từ khởi điểm, ông kể cho Phật nghe toàn bộ câu chuyện. Phật nghe xong nói:

- Này Bà la môn, người trí làm việc lành cũng vậy, hết lúc này đến lúc khác, từng việc một, dứt bỏ những nghiệp xấu.

Ngài nói kệ:

(239) Bậc trí theo tuần tự,

Từng sát na trừ dần.

Như thợ vàng lọc bụi,

Trừ cấu uế nơi mình.

3. Con Rận Tiếc Của

Như sét từ sắt sinh...

Câu chuyện này xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Thầy Tỳ kheo Tissa.

Ở Xá Vệ, có một chàng trẻ tuổi con nhà quyền quý xuất gia, làm đầy đủ bổn phận, là Thượng tọa Tissa. Lúc Thầy còn ở Tinh xá trong thành, được cúng dường một tấm vải thô dài tám thước. Sau ngày mãn hạ, Thầy về nhà, đưa vải cho chị xem. Chị Thầy nghĩ thầm: "Tấm vải này không xứng với em ta.” Cô bèn lấy dao bén, rọc vải thành từng mảnh, bỏ vào cối giả đập cho mềm, bỏ những sợi thô, dệt thành tấm vải mới.

Vài hôm sau, Thầy Tissa, tìm ra chỉ và kim, rủ thêm vài Thầy và vài chú Sa di biết may y, đến nhà người chị bảo:

- Ðưa em khúc vải, em muốn may y.

Cô lấy khúc vải mịn dài chín mét, đưa cho Thầy. Thầy từ chối:

- Vải kia của em là thứ thô xấu, dài tám mét, khúc này đẹp lại dài chín mét, không phải của em. Hãy đưa khúc vải hôm trước ấy.

- Thưa Thầy, vải này của Thầy đó.

Cô kể lại những việc làm của mình và bảo Thầy hãy lấy vải.

Thầy Tissa đem vải về Tinh xá, và tìm người may y. Chị Thầy sửa soạn cơm canh mang đến cho thợ may, và khi tấm y hoàn thành, trông nó rất đẹp. Thầy Tissa rất thích chiếc y mới, Thầy định ngày mai sẽ đắp nó.

Nhưng hôm ấy, Thầy bị bội thực và chết, tái sanh làm một con rận trong chiếc y mới của mình. Chị Thầy nghe tin, nhào lăn dưới chân các Tỳ kheo khóc lóc. Các Tỳ kheo lo tang ma xong, bàn định:

- Không ai hầu cận Tissa khi Thầy đau, chiếc y này thuộc Tăng chúng, chúng ta hãy chia phần.

Con rận la hoảng:

- Các Thầy tước đoạt tài sản của tôi.

Và nó vừa kêu la vừa bò quanh chiếc y.

Ðức Thế Tôn ngồi trong hương thất, biết việc xảy ra, bèn gọi A Nan:

- Này A Nan, hãy bảo chúng Tăng dời việc chia y bảy ngày.

Tôn giả làm theo lời dạy. Cuối ngày thứ bảy, con rận chết và tái sanh lên cõi trời Ðâu suất. Ngày thứ tám, đức Phật cho phép chúng Tăng chia y.

Sau khi chia xong, chư Tăng bàn tán:

- Tại sao đức Thế Tôn ra lệnh để chiếc y của Tissa lại bảy hôm, ngày thứ tám mới cho phân chia.

Ðức Phật đến gần các Thầy hỏi:

- Các ông tụ họp ở đây bàn tán việc gì?

Và khi các Thầy kể lại. Ngài nói:

- Tissa đã tái sanh làm con rận trong y mới của mình. Khi các ông định phân chia y, con rận đã nổi giận. Nó sẽ cự lại các ông, và sẽ đọa Địa ngục. Vì lẽ đó Ta bảo để y lại. Hiện nay thì Tissa đã sanh lên cõi trời Ðâu suất, Ta mới cho phép các ông lấy y đem chia.

Các Tỳ kheo bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, tham ái thật là một nỗi khổ lớn.

Phật xác nhận:

- Tham ái thật là vấn đề lo lắng lớn của chúng sanh trên quả đất, như gỉ sét phát sanh từ sắt, trở lại ăn mòn sắt, tham ái phát sanh từ chúng sanh và đưa chúng sanh xuống Địa ngục.

Phật nói kệ:

(240) Như sét từ sắt sinh,

Sắt sinh lại ăn sắt,

Cũng vậy, quá lợi dưỡng,

Tự nghiệp dẫn cõi ác.

4. Thầy Tỳ Kheo Kiêu Ngạo

Không tụng làm nhớp kinh...

Câu chuyện này xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên hệ đến Thầy Udàyi.

Tại Xá Vệ, năm mươi triệu Phật tử thường cúng dường bữa ăn sáng cho chư Tăng, và sau đó họ mang bơ, dầu mè, mật ong, mật mía, hương hoa và những vật cần dùng đến Tinh xá nghe pháp. Sau khi nghe xong ra về, họ ca tụng đức hạnh của hai Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Thầy Ưu Đà Di (Udàyi) nghe thấy thế bèn bảo họ:

- Các ông chỉ nghe hai Tôn giả ấy thuyết pháp nên ca tụng như thế, tôi chắc rằng nếu các ông nghe tôi nói pháp, còn khen đến đâu.

Hôm sau, họ thỉnh Thầy Ưu Đà Di:

- Thưa Tôn giả, hôm nay chúng con đến nghe pháp, sau khi cúng dường chư Tăng xong, xin Tôn giả thuyết pháp cho chúng con.

Thầy Ưu Đà Di nhận lời. Và thính chúng kéo đến bên Thầy. Thầy ngồi trên một cái ghế, phe phẩy quạt chẳng biết nói một câu gì, chỉ bảo:

- Ta sẽ đọc một bài chú, hãy để người khác thuyết pháp.

Thầy bước xuống. Thính chúng mời vị khác giảng dạy, và một lần nữa mời Thầy lên ghế đọc chú. Ưu Đà Di lại hẹn:

- Ta sẽ đọc chú vào đêm nay, hãy mời vị khác đọc chú.

Thính chúng mời vị khác, và đêm đến họ trở lại chỗ Thầy. Thầy lại hẹn:

- Sáng mai ta sẽ đọc.

Sáng hôm sau, Thầy cũng chẳng đọc được câu nào. Các thiện tín tức giận ném đất, ném gậy vào Thầy, nhiếc rằng:

- Khi chúng ta ca tụng đức hạnh của hai Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, Thầy nói những gì? Bây giờ sao Thầy làm thinh thế?

Thầy bỏ chạy, họ rượt theo, và Thầy té xuống một hầm phân.

Các thiện tín bàn tán về chuyện xảy ra trong ngày, nói rằng:

Khi chúng ta ca tụng phẩm hạnh của Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, Ưu Đà Di sanh tâm đố kỵ, tuyên bố rằng mình cũng là giảng sư. Thế mà khi được cung kính mời nói pháp, Thầy ấy bốn lần lên pháp tòa mà chẳng nói được một câu. Bị rượt và với gậy gộc, ngói đá, Thầy té xuống hầm phân.

Ðức Thế Tôn nghe được câu chuyện. Ngài bảo các Tỳ kheo:

- Ðây không phải là lần đầu tiên, Ưu Đà Di rơi xuống hầm phân, đời quá khứ Thầy ấy cũng đã làm như thế.

Ngài kể chuyện (Jàtaka 153)

(Chuyện kể rằng, có một con lợn rừng thách đấu với sư tử. Trước ngày ấy nó lăn trong đống phân khiến cả da lông đều hôi hám, rồi đến nơi hẹn. Sư tử không dám đến gần, để cho nó thắng).

Sư tử là Xá Lợi Phất, lợn rừng là Ưu Đà Di.

Phật nói lại câu kệ giữa hai con thú:

Tôi là thú, anh cũng thú,

Hãy đến đây hỡi sư tử.

Vì sao anh lại bỏ chạy.

Này heo kia, mi hôi hám, lông dày, dơ bẩn.

Nếu mày muốn đọ sức, ta nhường cho mi thắng cuộc.

Sau khi dạy như thế, Phật nói:

- Này các Tỳ kheo, Ưu Đà Di chỉ học được một câu kinh, nhưng không bao giờ đọc tụng là một lỗi lớn.

Ngài nói Pháp Cú:

(241) Không tụng làm nhớp kinh,

Không đứng dậy, bẩn nhà,

Biếng nhác làm nhơ sắc,

Phóng dật uế người canh.

5. Tà Hạnh Của Nữ Nhân

Tà hạnh nhơ đàn bà...

Câu chuyện này xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Trúc Lâm, liên quan đến một thanh niên quý tộc (Jàtaka 65).

Khi đức Thế Tôn ở tại Trúc Lâm, có một thanh niên dòng quý tộc kết hôn với một thiếu nữ đồng giai cấp. Sau đó không lâu, người vợ ngoại tình. Xấu hổ vì chuyện này, người thanh niên không dám gặp ai. Ðến phiên chàng vào hầu Phật, chàng đến đảnh lễ Thế Tôn, lui ngồi một bên. Phật hỏi:

- Này con, sao lâu nay con vắng mặt?

Chàng kể lại chuyện cho đức Phật nghe. Ngài bảo:

- Ngay trong thời quá khứ, Ta đã bảo con rằng: "Ðàn bà thay đổi như dòng sông, và người trí chớ có hơi đâu mà giận họ.” Nhưng vì luân hồi tái sanh che mờ tâm trí con, con đã quên điều này.

Chàng thanh niên yêu cầu Phật kể lại chuyện trước (Jàtaka 65), Ngài nói kệ:

Như dòng sông, con đường, quán rượu, phòng hội, nhà kho.

Ðàn bà trên thế gian đều như thế, không bao giờ biết được thời tiết của chúng.

Ngài dạy tiếp:

- Như thế, dâm ô là uế trược của đàn bà, bỏn sẻn là uế trược của người bố thí, ác nghiệp là uế trược của chúng sanh ở đời này và đời sau, nhưng trong tất cả uế trược, vô minh là uế trược nhất.

Ngày dạy Pháp Cú:

(242) Tà hạnh nhơ đàn bà,

Xan tham nhớp kẻ trí,

Ác pháp là vết nhơ,

Ðời này và đời sau.

(243) Trong hàng cấu uế ấy,

Vô minh, nhơ tối thượng,

Ðoạn nhơ ấy, Tỳ kheo,

Thành bậc không uế nhiễm.

6. Lịch Sự Và Thô Lỗ

Dễ thay, sống không hổ...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Culla Sàri ở chung với Tôn giả Xá Lợi Phất.

Một ngày nọ, Thầy Tỳ kheo đó làm khán bệnh, Thầy nhận được thức ăn bổ dưỡng. Trên đường đi Thầy gặp một Tôn giả đang khất thực, bèn mời:

- Tôn giả, tôi có ít thức ăn thượng vị được bệnh nhân cúng dường, không dễ gì có, xin mời Tôn giả ăn. Lần khác, nếu tôi nhận được, tôi sẽ mang cho Tôn giả.

Tôn giả nghe nói, nhưng cứ đi không trả lời. Các Tỳ kheo đem câu chuyện đó bạch Phật. Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, người nào không biết xấu hổ, trơ trẻn, bất lịch sự thì sống thoải mái. Người nào thành thật và sợ từng lỗi nhỏ, thì sống dè dặt. Ngài nói Pháp Cú:

(244) Dễ thay, sống không hổ,

Sống lỗ mãng như quạ,

Sống công kích huênh hoang,

Sống liều lĩnh, nhiễm ô.

(245) Khó thay, sống xấu hổ,

Thường thường cầu thanh tịnh,

Sống vô tư, khiêm tốn,

Trong sạch và sáng suốt.

7. Tất Cả Giới Cấm Ðều Khó Giữ.

Ai ở đời sát sinh...

Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ Viên, liên quan đến năm trăm tín đồ.

Có năm trăm tín đồ, người này chỉ giữ giới bất sát, người khác chỉ giữ một giới khác.. Ngày kia họ bàn tán, người nào cũng cho rằng giới của mình khó giữ, việc của mình khó nhất... và họ đến chỗ Phật kể lại câu chuyện. Phật dạy:

- Không có giới nào là quan trọng ít, giới nào là quan trọng nhiều, tất cả các giới đều khó giữ.

Ngài nói kệ:

(246) Ai ở đời sát sinh,

Nói láo không chân thật,

Ở đời lấy không cho,

Qua lại với vợ người.

(247) Uống rượu men, rượu nấu,

Người sống đam mê vậy,

Chính ngay tại đời này,

Tự đào bới gốc mình.

(248) Vậy người, hãy nên biết,

Không chế ngự là ác,

Chớ để tham phi pháp,

Làm người đau khổ dài.

8. Kẻ Bới Lỗi Người

Do tín tâm, hỷ tâm...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến chú Sa di Tissa.

Chuyện kể rằng, Sa di Tissa có thói quen tìm kiếm lỗi lầm trong phẩm vật cúng dường của Cấp Cô Ðộc, của tín nữ Tỳ Xá Khư, ngay cả của năm triệu thiện tín, đến cả phẩm vật tối thắng của vua Ba Tư Nặc cũng thấy khuyết điểm. Khi nhận được thức ăn nguội chú phàn nàn nguội quá, khi nhận được thức ăn nóng chú phàn nàn nóng quá. Khi nhận thức ăn ít, chú càu nhàu sao ít thế? Và khi nhận nhiều vật thực, chú cũng nói chắc ở nhà họ hết chỗ chứa, hoặc: "Họ chỉ cần cúng cho các Thầy để được ủng hộ, cúng nhiều cơm cháo thế này thật là lãng phí.”

Nhưng nếu đề cập đến bà con mình, chú nói: "Ô! Nhà của bà con tôi cung cấp đầy đủ cho các Sa môn tứ phương.”

Tissa chỉ là một con người gác cổng. Khi đi theo những người thợ lên Xá Vệ, chú xin xuất gia. Các Tỳ kheo thấy chú luôn luôn chỉ trích lỗi lầm và việc tốt của người khác, muốn tìm sự thật về chú, các Thầy hỏi thăm chỗ chú ở và sai vài Sa di hỏi thăm người làng:

- Có một Sa di tên Tissa người ở làng này, ai là thân tộc của chú?

Dân làng nghĩ thầm: "Ở đây không có thanh niên quý tộc nào xuất gia, các Sa di này muốn tìm ai?” Họ nói:

- Ở đây, chúng nghe có con của người gác cổng đi theo thợ mộc và xuất gia, chắc đó là người Thầy muốn hỏi.

Các Sa di về thuật lại với các Tỳ kheo rằng Tissa nói khoác, các Tỳ kheo bạch Phật. Phật dạy:

- Ðây không phải là lần đầu tiên Tissa hay cằn nhằn và nói khoác, đời quá khứ chú cũng đã khoe khoang khoác lác như thế.

Phật kể chuyện quá khứ (Jàtaka Katàhaka). Ngài dạy tiếp:

- Này các Tỳ kheo, người nào hay than phiền về vật thực cúng dâng ít quá hay nhiều quá, ngon hay dở, hoặc không cúng dường ta mà cúng dường người khác, người ấy không bao giờ chứng quả.

Ngài nói Pháp Cú:

(249) Do tín tâm, hỷ tâm

Loài người mới bố thí,

Ở đây ai bất mãn,

Người khác được ăn uống,

Người ấy ngày hoặc đêm,

Không đạt được tâm định.

(250) Ai cắt được, phá được,

Tận gốc, nhổ tâm ấy,

Người ấy, ngày hoặc đêm,

Tất đến được tâm định.

9. Những Người Lơ Ðễnh

Lửa nào bằng lửa tham...

Câu chuyện này xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến năm người thiện tín.

Khi đức Phật ở tại Tinh xá Kỳ Hoàn, có năm tín đồ nghe Ngài giảng pháp, họ đảnh lễ Phật và lui ngồi một bên. Phật không hề nghĩ rằng: "Người này dòng Sát lợi, người kia dòng Bà la môn, người nay giàu, người kia nghèo. Ta giảng rộng cho người này, không giảng rộng cho người kia.” Những việc này không liên quan đến đề tài Phật thuyết giảng, mọi người đều bình đẳng trước pháp, và Phật giảng dạy như nhau.

Nhưng năm người ngồi trước Phật, kẻ thì ngủ gục, người thì lấy ngón tay bươi trên đất, người đong đưa cành cây, người thì ngó lên trời. Chỉ có một người chăm chú nghe. Tôn giả A Nan đứng quạt hầu Phật, quan sát cử chỉ của năm người ấy, và sau đó bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, Ngài giảng dạy như tiếng sấm rền, mà những người ngồi nghe như thế, như thế.

- Này A Nan, ông có biết họ không?

- Bạch Thế Tôn, không.

- Người ngủ gục ấy, đã từng làm rắn trong năm trăm kiếp, thường cuộn mình lại ngủ say nên kiếp này cũng ưa ngủ, không có lời nào của Ta lọt vào tai.

- Bạch Thế Tôn, việc ấy xảy ra trong nhiều kiếp liên tục hay đứt quãng?

- Một lần, người này làm người, một lần khoác áo chư thiên, và lần khác làm rắn. Không thể dùng trí biết được số kiếp luân hồi của hắn. Nhưng trong năm trăm kiếp liên tục, hắn làm rắn và ngủ không bao giờ chán.

Người dùng tay bươi đất, là đã năm trăm kiếp làm côn trùng chui trong đất, nên bây giờ cứ bới đất, chẳng nghe lời Ta.

Người hay lay cành cây, là đã năm trăm kiếp làm khỉ, và vì thói quen chuyền cành, nên hiện tại cứ nắm cành cây, không nghe lời Ta nói.

Người nhìn lên trời, là đã năm trăm kiếp làm chiêm tinh gia, nên ngày nay cũng nhìn lên trời, không nghe Ta nói gì.

Người ngồi nghe chăm chú, là đã năm trăm kiếp làm Bà la môn đọc tụng Vệ đà nên hôm nay cũng chăm chú như đang đọc Mật thư.

- Bạch Thế Tôn, Ngài giảng dạy thấm sâu như chẻ da xương, vì sao những người này không chăm chú nghe?

- A Nan, ông tưởng giáo lý Ta dễ nghe được sao?

- Bạch Thế Tôn, Ngài cho rằng khó nghe được?

- Ðúng vậy.

- Tại sao, bạch Thế Tôn?

- Này A Nan, những chúng sanh này trong vòng luân hồi vô tận không nghe tên Tam bảo, nên bây giờ không thể nghe giáo pháp. Những chúng sanh này trong vòng sanh tử vô cùng ấy chỉ quen nghe tiếng nói của súc sinh. Hơn nữa, họ tiêu phí thời giờ trong việc ăn uống, vui chơi, múa hát, nên không thể nghe giáo pháp.

- Bạch Thế Tôn, vì lý do gì họ không thể nghe pháp?

- Này A Nan, vì tham ái, vì sân hận, vì si mê. Vì vậy, không lửa nào bằng lửa tham ái, đốt cháy hữu tình không một chút tro. Vào thời kiếp hỏa, hỏa tai thiêu rụi toàn thế giới không chừa một tí nào, nhưng lửa này chỉ cháy trong vòng bảy mặt trời, và chỉ cháy trong thời tiết nào thôi. Còn lửa tham ái không lúc nào không bốc cháy. Cho nên Ta nói không lửa nào bằng lửa tham ái, không kìm kẹp nào bằng sân hận, không lưới nào bằng si mê, không sông nào bằng ái dục.

Ngài nói Pháp Cú:

(251) Lửa nào bằng lửa tham!

Chấp nào bằng sân hận!

Lưới nào bằng lưới si!

Sông nào bằng sông ái!

10. Trưởng Giả Ram

Dễ thay thấy lỗi người...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở Jàtiyàvana gần thành Bạt Đề (Bhaddiya), liên quan đến Trưởng giả Ram.

Bối cảnh:

A. Thế Tôn Thăm Trưởng giả Ram

Thuở nọ, khi đức Phật du hành qua xứ Anguttaras, Ngài nhận thấy những người trong gia đình Trưởng giả Ram đều có duyên chứng quả Tu đà hoàn. Ông Trưởng giả vợ ông là Candapadumà, con trai là Trưởng giả Dhananjiya, con dâu Sumanà Devì, cháu nội Visàkhà, tớ gái Punna. Nhận thấy như thế, Ngài đi đến thành Bhaddiya, ngụ tại rừng Jàtiyà (Jàtiyàvana). Trưởng giả Ram nghe Phật đến bèn đi thăm. Nhưng tại sao ông có tên là Ram?

Ngoài đề:

B. Trưởng giả Ram Và Những Con Cừu Bằng Vàng.

Ðằng sau nhà ông, trong khoảng sân rộng tám mẫu, có những con cừu bằng vàng to bằng con voi, ngựa hoặc trâu nước. Chúng phi tới phi lui, cày đất tứ tung, thụi lưng vào nhau. Khi Trưởng giả Ram cần bơ, dầu, mật ong, hay mật mía, hoặc thức ăn, hoặc ông cần y phục, hoặc vàng bạc, ông chỉ cần đặt một trái banh bằng chỉ ngũ sắc vào miệng mấy con cừu, từ miệng chúng sẽ tuôn ra đủ tất cả các thứ cần dùng cho mọi người trên khắp cõi Diêm phù đề, dù chỉ lấy ở một con thôi. Ðó là lý do ông được gọi là Ram (Cừu). Nhưng ông đã làm gì trong quá khứ?

Chuyện quá khứ:

C. Bằng Cách Nào Trưởng giả Ram Có Ðược Cừu Bằng Vàng?

Vào thời Phật Tỳ Bà Thi, ông là cháu của một người tên Avaroja, ông cũng tên Avaroja. Người cậu dự định xây cất hương thất cho Phật, Avaroja cháu đến gặp Avaroja cậu, đề nghị:

- Thưa cậu, chúng ta hợp tác để xây cất hương thất.

- Ta không muốn chia sẻ công việc cho ai cả.

Người cậu trả lời như thế. Cháu nghĩ thầm: "Ngay khi hương thất xây xong, sẽ có một chuồng voi tại đây.” Chàng đặt thợ rừng cưa gỗ, dựng cột, cất một trại voi với tất cả rui mè, kèo, đòn tay, cửa cái, cửa sổ, sàn nhà, nóc đều cẩn đầy vàng bạc, châu báu. Như thế, đối diện với hương thất của Như Lai là một chuồng voi dành cho Ngài, trang hoàng bằng thất bảo. Trên nóc chuồng có một cái tháp bằng vàng ròng, đỉnh tháp bằng san hô. Chính giữa lều chàng đặt một cây lọng bằng ngọc, che trên tòa ngồi. Tòa ấy có bốn chân bằng vàng ròng, dưới bốn chân ghế có bốn con cừu bằng vàng đỡ chân, hai cừu vàng kê chân. Sáu cừu vàng vây quanh lọng. Mặt ghế trải thảm bằng chỉ vàng, chỉ bạc, lưng ghế bằng gỗ chiên đàn.

Khi hoàn thành lều voi, chàng mở tiệc ăn mừng, chàng thỉnh Phật và sáu trăm tám mươi ngàn vị Tỳ kheo cúng dường tám tháng. Ngày cuối cùng, chàng cúng dâng mỗi vị Tỳ kheo ba y, và chỉ một y cho mỗi vị Sa di cũng đã đáng giá trăm ngàn đồng vàng. Sau khi làm những công đức như thế trong thời Phật Tỳ Bà Thi, Avaroja cháu đã tái sinh cõi trời, cõi người. Và kiếp này nổi tiếng là Trưởng giả giàu có của thành Ba La Nại.

Chuyện quá khứ

D. Vì Sao Trưởng giả Ram Và Gia Quyến Ðược Phép Màu?

Một ngày kia, Trưởng giả Ram đến Hoàng cung chầu vua, gặp Thầy Tư tế của hoàng gia, ông hỏi:

- Thưa Thầy, Thầy có xem thiên văn không?

- Ðược chứ, ông cần gì?

- Xin cho biết vận mệnh của xứ này.

- Sẽ có thiên tai.

- Chừng nào xảy ra?

- Ba năm nữa sẽ có nạn đói.

Trưởng giả nghe nói thế, bèn về nhà ra lệnh trồng thật nhiều lúa, đem hết tài sản mua lúa, xây cất một ngàn hai trăm năm mươi vựa đựng thóc lúa, đổ đầy tràn, còn đổ thêm vào lu hũ chôn dưới đất, còn bao nhiêu ông cho trộn với đất sét, xây thành bức tường.

Thời gian sau, nạn đói xảy ra, ông đem số lúa dự trữ ra ăn. Khi ăn cạn hết lương thực, ông gọi thân quyến đến và bảo:

- Các người hãy đi vào núi mà kiếm thức ăn. Khi nạn đói qua hãy trở về. Nếu không muốn về cứ ở lại nơi nào mình thích.

Tất cả thân bằng quyến thuộc ra đi, chỉ còn lại vợ Trưởng giả, con trai, con dâu, và người giúp việc Punna ở lại với ông, cả thảy năm người. Sau khi ăn hết lúa chôn dưới đất, họ cạy bức tường, ngầm từng mảng vào nước, lượm lúa ra ăn. Nạn đói hoành hành rộng lớn và tường lúa cũng hết. Chỉ còn lại một lít lúa cuối cùng, bà Trưởng giả sợ trộm vét, bèn bỏ vào trong bình, đậy nắp lại chôn dưới đất.

Khi ông Trưởng giả ở cung vua về, hỏi vợ:

- Này bà, tôi đói bụng, còn gì để ăn không?

- Còn một ít lúa chôn dưới đất.

- Hãy đào lên và nấu ăn.

- Nếu tôi nấu cháo thì ăn được hai bữa, nếu nấu cơm thì chỉ một bữa thôi. Làm theo cách nào?

- Bây giờ chúng ta chẳng còn gì, chỉ ăn bữa cơm rồi chờ chết, thôi nấu cơm đi.

Bà vợ nấu cơm, chia làm năm phần, và đặt phần của ông Trưởng giả trước mắt ông.

Lúc ấy trên núi Kiền Đà (Grandhamàdana) có một vị Phật Bích Chi nhập định, Ngài không bao giờ bị đói, nhưng nếu Ngài ra khỏi định, chẳng bao lâu Ngài sẽ đói vì bao tử hoạt động trở lại. Lúc ấy Ngài quan sát xem nơi nào có thể khất thực. (Chúng sanh nào dâng cơm cho Ngài sau khi xuất đại định sẽ được phước báo làm tổng tư lệnh hoặc cấp ngang hàng).

Ðức Phật Bích Chi chỉ dùng thiên nhãn quan sát thế giới, Ngài thấy rằng một trận đói khủng khiếp đã xảy ra trên cõi Diêm phù đề, và tại nhà Trưởng giả nọ chỉ còn năm người với một lít gạo. Liệu họ có đủ thành tín để cúng cho Ngài? Nhận thấy họ rất mực thành tín, Ngài bèn đắp y, mang bát đến trước cửa nhà Trưởng giả.

Khi ông Trưởng giả nhìn thấy Phật, lòng ông tràn đầy niềm vui: "Vì quá khứ ta không hề cúng dâng nên giờ này mới chịu nạn đói kinh khủng, phần cơm này chỉ giúp ta sống một ngày, nếu cúng dường Phật ta sẽ thoát vòng sanh tử trong nhiều kiếp.”

Nghĩ thế, ông mời Phật vào nhà, đảnh lễ năm vóc sát đất, thỉnh Ngài ngồi, đem nước rửa chân, kê chân Ngài bằng chiếc nệm vàng, và sớt cơm vào bát Phật. Khi ông sớt được phân nửa, đức Bích Chi dùng tay che miệng bát, tỏ ý không nhận thêm. Ông Trưởng giả bạch Phật:

- Bạch Ngài, chúng con năm người chung một lít gạo, phần cơm này là một trong năm phần được chia. Con không muốn sớt làm hai, con muốn cúng dường Ngài tất cả, con không mong cầu Ngài ban phước lành cho con hiện đời.

Nói xong ông trút hết cơm vào bát Phật và phát lời nguyện:

- Bạch Ngài, mong rằng nơi nào con tái sinh, con xin sẽ không bao giờ chịu đói như hiện tại. Con sẽ có đủ thức ăn cho mọi người trên khắp cõi Diêm phù đề. Con không phải làm lụng cực nhọc để sống. con sẽ có một ngàn hai trăm năm chục vựa lúa, sau khi quét dọn sạch sẽ, con gội đầu và ngồi trước cửa kho, đúng lúc đó thóc lúa sẽ rơi đầy kho lẫm. Nơi nào con tái sinh, vợ con là người vợ này, con trai, con dâu và đầy tớ chính là những người này.

Vợ Trưởng giả nghĩ: "Ta sẽ không ăn khi chồng ta chịu đói.” Và bà cũng dâng cúng phần cơm của mình cho Phật, với lời nguyện:

- Nơi nào con tái sinh, con không chịu nạn đói lần thứ hai. Con có quyền năng dùng một bát cơm cho tất cả người trên cõi Diêm phù đề, cho bao nhiêu tùy ý mà bát cơm vẫn đầy. Nguyện những người này sẽ là chồng con, con trai, con dâu, và là người giúp việc của con trong kiếp sau.

Con trai ông Trưởng giả cũng cúng phần cơm của mình với lời nguyện:

- Con xin không bao giờ bị đói như thế này. Con sẽ có quyền năng chỉ với một túi tiền độ một ngàn đồng mà bố thí cho tất cả những người ở cõi Diêm phù đề, cho bao nhiều tùy ý, túi tiền vẫn đầy. Cha, mẹ, vợ, người giúp việc chính là những người này.

Con dâu cũng cúng phần cơm của mình cho Phật với lời nguyện:

- Con xin không bao giờ bị nạn đói. Con sẽ có một cái giỏ đựng thóc giống cung cấp cho mọi người không hết. Nơi nào con tái sinh, những người này là cha chồng, mẹ chồng, chồng và người giúp việc.

Người giúp việc Punna cũng cúng phần cơm của mình cho Phật Bích Chi với lời nguyện:

- Con sẽ không bao giờ bị đói. Khi con cày đất, ba luống cày bên mặt, ba luống cày bên trái và một đường cày giữa, cả bảy đường cày đều rộng vài sải tay.

Mặc dù ông ta có thể ước nguyện làm tổng tư lệnh, nhưng vì tình cảm liên hệ với gia chủ, ông cũng nguyện: "Những người này là ông chủ, bà chủ.”

Khi mỗi người phát nguyện, Phật Bích Chi đều nói:

- Sẽ được vậy?

Và Ngài nói lời cảm tạ bằng những bài kệ theo cung cách một vị Bích Chi Phật, rồi nghĩ thầm: "Bổn phận của Ta là làm thỏa nguyện vọng của những chúng sanh này.” Ngài thầm bảo: "Hãy để những người này nhìn theo thấy Ta cho đến tận núi Kiền Đà.” Ngài bay lên hư không và họ đứng nhìn theo. Ðến nơi, Ngài chia cơm trong bát cho năm trăm vị Bịch Chi Phật, do thần lực của Ngài cơm đầy đủ cho tất cả. Năm người vẫn đứng và thấy rõ.

Lúc ấy trời đã quá trưa, vợ ông Trưởng giả rửa sạch nồi cơm, đậy nắp lại và cất đi. Ông Trưởng giả đói meo, nằm dài ra ngủ. Ðến chiều, ông thức dậy gọi vợ:

- Này bà, tôi đói quá, bà xem còn sót miếng cơm cháy nào trong nồi không?

Bà nhớ kỹ rằng mình đã rửa sạch nồi cất đi, chắc chắn không còn một hột cơm cháy nào, nhưng thay vì nói: "Không còn gì hết", bà vẫn nói:

- Tôi sẽ xem thử coi.

Bà đi đến nơi cất nồi, giở nắp ra, và ngay lúc đó, nồi cơm đầy nhóc, thơm ngào ngạt, hơn thế nữa, cơm tràn tận miệng nồi đội cả nắp lên.

Chứng kiến việc lạ lùng này, toàn thân bà rung động vui mừng, bà gọi chồng:

- Này, ông dậy đi, tôi đã rửa sạch nồi cất đi, mà bây giờ cơm lại đầy nồi, thơm nghi ngút. Ðây là quả phước của việc thiện, quả phước của việc cúng dường. Dậy mà ăn, ông ạ.

Bà đem cơm cho chồng và con trai. Khi họ ăn xong, bà cùng ăn với con dâu, và sau đó cho người giúp việc Punna. Dù bới bao nhiêu, nồi cơm cũng không giảm, cứ xúc ra một vá thì vá cơm khác hiện ra. Vào ngày ấy, tất cả vửa lúa kho lẫm trong nhà ông đều đầy thóc. Ông Trưởng giả rao khắp thành phố: "Lúa thóc hiện đầy đủ trong nhà ông Trưởng giả, tất cả những ai muốn dùng cứ đến lấy.”

Mọi người đổ xô đến lấy lúa, và tất cả dân chúng cõi Diêm- phù đều được lúa thóc.

Ông Trưởng giả sau khi chết, tái sanh vào cõi trời, cõi người, vào thời Phật hiện tại, sanh trong gia đình giàu có ở Bhaddiya. Vợ ông khi xưa cũng là vợ hiện tại, cả con trai, con dâu, người giúp việc Punna. Do phước báo kể trên, những con cừu vàng lại hiện ra trong sân nhà ông.

E. Trưởng giả Ram Và Gia Quyến Thực Hiện Phép Màu

Một ngày nọ, Trưởng giả Ram muốn thử lại quyền lực của mình. Ông cho quét sạch một ngàn hai trăm năm mươi kho lúa, gội đầu, và ngồi ở cửa mỗi kho nhìn vào, lập tức các kho lẫm đều đầy lúa. Ông bảo vợ, con dâu và người giúp việc hãy thử quyền lực của mình.

Bà vợ trang điểm lộng lẫy, ngồi ở cổng nhà, cầm một muỗng vàng rao lên:

- Ai cần cơm cứ đến.

Bà sớt đầy cơm vào những bình và chậu đưa đến, tất cả ai đến xin đều được cho. Suốt ngày giỏ cơm của bà không vơi.

(Vào thời chư Phật quá khứ, cũng trong dịp này, bà dâng cơm cho chúng Tăng, với tay mặt cầm muỗng, tay trái xách giỏ cơm. Vì thế, nơi lòng bàn tay trái của bà có dấu hoa sen, lòng bàn tay mặt có dấu mặt trăng tròn. Khi bà dâng nước cho chư Tăng, đi tới, đi lui, thì dấu hoa sen và dấu mặt trăng lại hiện ở bàn chân. Vì thế bà có tên là Candapadumà (Liên Nguyệt).

Người con trai mang túi tiền chừng một ngàn đồng vàng, bố thí cho tất cả mọi người, và bao giờ trong túi cũng còn đủ một ngàn đồng vàng. Con dâu cũng trang điểm lộng lẫy, cung cấp thóc giống cho tất cả mọi người, túi thóc vẫn không vơi.

Người giúp việc cũng trang điểm hết mình, bắt ách vàng, cày vàng lên mình con bò, choàng dây vàng lên mình nó và dẫn ra ruộng. Mỗi nhát cày là bảy đường cày, ba đường bên trái, và một đường cày ở giữa.

Như thế, tất cả dân chúng trên cõi Diêm- phù đều nhân thức ăn, thóc giống, vàng bạc thỏa thích từ nhà Trưởng giả.

Kết Thúc Của Truyện:

F. Trưởng giả Ram Ðến Gặp Phật

Khi Trưởng giả đầy quyền lực nghe tin đức Bổn sư đến thành, ông đi đến thăm Phật. Trên đường đi ông gặp một nhóm ngoại đạo ngăn cản:

- Này Trưởng giả, ông đi đâu? Ông tin có Thần Ngã mà lại đến thăm Cồ Đàm, người không tin điều này.

Mặc dù họ cố gắng thuyết phục, ông vẫn không màng đến lời họ. Ông đi đến chỗ Phật, đảnh lễ và kính cẩn ngồi một bên. Phật thuyết pháp, nghe xong ông chứng quả Dự lưu. Ông thuật lại lời chống đối, phỉ báng của ngoại đạo cho Phật nghe. Phật dạy:

- Này Trưởng giả, những người ấy không thấy lỗi của mình dù là lỗi lớn, còn người khác không lỗi, họ cũng cố gắng kẻ vạch, như quạt thóc tìm trấu.

Ngài nói Pháp Cú:

(252) Dễ thay thấy lỗi người,

Lỗi mình thấy mới khó,

Lỗi người ta phanh tìm,

Như sàng trấu trong gạo,

Còn lỗi mình che đậy,

Như kẻ gian giấu bài.

11. Tỳ Kheo Bới Lỗi

Ai thấy lỗi của người...

Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả tên là Người Tìm Lỗi, Ujjhànasannì.

Tôn giả này thường dòm dỏ lỗi của các Tỳ kheo, Thầy nói:

- Thầy này đắp thượng y thế này, Thầy kia đắp hạ y như thế kia.

Các Tỳ kheo đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, Tôn giả ấy cứ như thế, như thế.

Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, người nào làm tròn bổn phận của mình và khuyên người khác như thế, người đó không thấy lỗi ai. Người nào có ý nhìn lỗi người, tìm lỗi người, và đi rêu rao lỗi người, hạng người này không bao giờ đạt được chút xíu giác ngộ, chỉ có sự ô nhiễm tăng trưởng trong họ.

Ngài dạy Pháp Cú:

(253) Ai thấy lỗi của người,

Thường sanh lòng chỉ trích,

Người ấy lậu hoặc tăng,

Rất xa lậu hoặc diệt.

12. Hư Không Có Dấu Chân?

Hư không, không dấu chân...

Câu chuyện xảy ra, liên quan đến du sĩ Tu Bạt Đà La (Subhadda). Khi đức Thế Tôn sắp nhập diệt, trong rừng Sa- la trong thành Câu- thi. Chuyện kể rằng khi trước con của Tu Bạt đã cúng dường chín lần những phẩm vật đầu mùa gặt cho đức Phật, còn Tu Bạt thì không ưng và từ chối, cuối cùng mới chịu cúng. Vì thế ông không gặp Thế Tôn lúc Ngài vừa thành đạo và giảng đạo. Ðến lúc cuối, Ngài gần nhập diệt, ông mới tự nghĩ: "Ta có ba điều nghi. Và đã hỏi các Trưởng lão để giải nghi. Lúc ấy Sa môn Cồ Đàm còn trẻ nên ta không đến hỏi. Bây giờ thời gian Niết bàn sắp đến, nếu ta không hỏi, sau sẽ ân hận.”

Ông đi đến chỗ Phật. Tôn giả A Nan ngăn ông lại, nhưng Phật đã bảo:

- A Nan, chớ ngăn Tu Bạt Đà La, hãy để ông vào thưa hỏi.

Tu Bạt vào, ngồi ở chân giường và hỏi Phật:

- Bạch Ngài, có con đường nào trên không trung? Có người nào được gọi Sa môn khi ở ngoài chánh đạo? Pháp hữu vi có trường tồn?

Phật dạy ông những việc ấy không thể có, Ngài giảng bằng bài kệ:

(254) Hư không, không dấu chân,

Ngoài chánh đạo, không Sa môn.

Chúng sanh thích hý luận,

Như Lai, hý luận trừ.

(255) Hư không, không dấu chân,

Ngoài đây, không Sa môn.

Các hành không thường trú,

Chư Phật không giao động.


Phẩm XIX: Công Bình Pháp Trụ

1. Quan Tòa Bất Công

Ngươi đâu phải pháp trụ...

Câu chuyện này xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ Viên, liên quan đến các vị chánh án.

Một ngày nọ, các Tỳ kheo đi khất thực tại cổng phía bắc thành Xá Vệ, và trở về Tinh xá, ngang qua trung tâm thành phố. Khi ấy trời đổ mưa, các Tỳ kheo Vào trú ẩn tại một pháp đình, các Thầy thấy các quan chánh án nhận của hối lộ và tịch biên tài sản của dân chúng một cách bất hợp pháp. Các Thầy nghĩ thầm: "Những ông quan này không công minh, chúng ta cứ tưởng họ là những chánh án liêm chính.”

Khi cơn mưa dứt, các Thầy trở về Tinh xá, đến chỗ Phật và bạch lên Phật câu chuyện vừa rồi, Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, người nào đầu hàng dục vọng thấp hèn, xét xử chuyên chế, không thể gọi là công bình. Chỉ những người đi sâu tìm tòi việc sai trái trong một vụ án, và xử lý việc sai trái đó đúng pháp, không chuyên chế, mới gọi là công bình.

(256) Ngươi đâu phải pháp trụ

Xử sự quá chuyên chế,

Bậc trí cần phân biệt,

Cả hai chánh và tà!

(257) Không chuyên chế, đúng pháp,

Công bằng, dắt dẫn người,

Bậc trí sống đúng pháp,

Thật xứng danh pháp trụ.

2. Lục Quần Tỳ Kheo

Không phải vì nói nhiều...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Lục quần Tỳ kheo.

Chuyện kể rằng nhóm Lục quần Tỳ kheo hay đi từ Tinh xá này đến Tinh xá khác, từ làng này sang làng khác, làm mất trật tự trong phòng ăn của chúng Tăng. Ngày đó, vài Tỳ kheo trẻ và Sa di, sau khi ăn sáng ở trong làng, đến Tinh xá. Các Tỳ kheo ở đây hỏi:

- Chư huynh đệ thích phòng ăn như thế nào?

- Xin đừng hỏi chúng tôi. Mấy ông Lục quần Tỳ kheo tự tuyên bố là: "Chỉ có chúng ta thông minh, chỉ có chúng ta là Trí tuệ. Chúng ta sẽ đánh mấy Thầy này, đổ rác lên đầu họ và đuổi họ ra.”

Và họ tóm lấy chúng tôi, đổ rác lên đầu, làm phòng ăn lộn xộn lên.

Các Tỳ kheo đến bạch Phật. Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, ta không gọi người nào thông minh khi người ấy nói nhiều và chọc giận người khác. Ta chỉ gọi là người Trí tuệ khi kẻ ấy kiên nhẫn, thoát khỏi sân giận và sợ hãi.

Ngài nói kệ:

(258) Không phải vì nói nhiều,

Mới xứng danh bậc trí,

An ổn, không oán sợ,

Thật đáng gọi bậc trí.

3. Không Phải Vì Nói Nhiều Mà Ðược Ca Tụng

Không phải vì nói nhiều...

Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Nhất Cú, tức A la hán Ekuddàna.

Tôn giả Nhất Cú sống một mình trong rừng và chỉ biết độc nhất một câu kệ:

Vị Sa môn tư tưởng thanh cao,

Tinh tấn, tu tập trong im lặng.

Sa môn ấy tâm hằng an tịnh,

Luôn chánh niệm, không còn phiền não.

Vào mỗi ngày tụng giới, Tôn giả chỉ đọc lên một câu kệ ấy, và chư thiên vỗ tay vang rền.

Ngày nọ, cũng vào dịp Bố tát, có hai vị Tỳ kheo lão thông Tam tạng, dẫn theo một ngàn đồ chúng đến nơi ấy. Tôn giả Nhất Cú thấy các Thầy, rất vui mừng, nói:

- Các vị đến thật may mắn, hôm nay chúng ta sẽ nghe pháp.

- Nhưng thưa Ngài, ở đây đâu có người nào để nghe.

- Có chứ, vào ngày nói giới, cả khu rừng đều vang động tiếng vỗ tay của chư thiên.

Như thế, một vị bèn đọc luật và vị kia giảng rộng nghĩa ấy, nhưng chẳng có một ông trời nào vỗ tay cả. Các vị hỏi:

- Này huynh, Ngài bảo chúng tôi là khi Luật được tuyên đọc, chư thiên vỗ tay vang rền. Như vầy là sao?

- Những ngày khác đều có, tôi không hiểu hôm nay có chuyện gì?

- Thế thì Ngài đọc luật đi.

Tôn giả Nhất Cú bèn cầm quạt, lên tòa ngồi và đọc câu kệ thường nhật, chư thiên lại vỗ tay vang rền. Khi ấy, các Tỳ kheo đồ chúng của hai bậc Thầy kia đều bất bình chư thiên, nói:

- Chư thiên ở rừng này bày tỏ sự kính trọng bằng cách vỗ tay. Dù cho Tỳ kheo thông Tam tạng giảng nhiều giới pháp, họ không nói một lời ca ngợi. Vậy mà khi Trưởng lão già chỉ đọc một câu, họ lại vỗ tay ồn cả lên.

Và trở về Tinh xá, họ đem câu chuyện trình bày với đức Phật. Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, ta không gọi người nào là thông suốt giáo pháp chỉ vì họ biết hoặc đọc nhiều kinh. Nhưng người nào chỉ biết đọc một câu, hiểu thấu sự thật, người ấy thật là người thông suốt Tam tạng.

Ngài nói Pháp Cú:

(259) Không phải vì nói nhiều,

Mới xứng danh trì pháp,

Những ai tuy nghe ít,

Nhưng thân hành đúng pháp,

Không phóng túng chánh pháp,

Mới xứng danh trì pháp.

4. Người Trẻ Có Thể Là Trưởng Lão?

Không phải là Trưởng lão...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên hệ đến Trưởng lão Lakuntaka Bhaddiya.

Một ngày nọ, Tôn giả Lakuntaka vào làm Thị giả hầu Phật, và khi vị này đi ra, có ba mươi Thầy tu ở rừng đến nhìn thấy. Các vị này vào gặp Phật, đảnh lễ và lui ngồi một bên. Ðức Phật nhận thấy ba mươi Thầy đều có khả năng chứng A la hán, bèn hỏi:

- Các ông có thấy một Trưởng lão vừa đi ra không?

- Thưa không, bạch Thế Tôn!

- Các ông không thấy ư?

- Chúng con chỉ thấy một Sa di.

- Này các Tỳ kheo, đó không phải là Sa di, đó là một Trưởng lão.

- Người ấy còn quá trẻ, thưa Thế Tôn!

- Ta không gọi người nào là Trưởng lão chỉ vì họ già, vì họ ngồi ở ghế Trưởng lão, nhưng người nào thấu đạt chân lý, và đối xử tốt với người khác, người ấy là Trưởng lão.

Phật nói kệ:

(260) Không phải là Trưởng lão,

Dù tuổi cao đầu bạc,

Không tịnh hạnh tu trì,

Tôn xưng bậc Hòa thượng,

Gọi suông có ích gì?

(261) Ai chân thật, đúng pháp,

Không hại, biết chế phục,

Bậc trí, không cấu uế,

Mới xứng danh Trưởng lão.

5. Thế Nào Là Người Hoàn Toàn?

Không phải nói lưu loát...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở Kỳ Viên, liên quan đến một số Tỳ kheo.

Một hôm, có vài Trưởng lão thấy các Sa di và Tỳ kheo trẻ hầu hạ Thầy, nhuộm y, giặt y... Các vị bàn tán:

- Chúng ta là những người giảng dạy thông suốt, vậy mà không được săn sóc như thế. Bây giờ chúng ta đến chỗ Phật thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chúng con đều tinh thông Giáo pháp, xin Ngài ra lệnh cho các Tỳ kheo tân học và Sa di rằng: "Dù được học giáo lý với ai, không được ôn luyện cho đến khi các ông được các Trưởng lão này giảng dạy.” Như thế chúng ta sẽ được danh dự và lợi dưỡng.

Bàn thế, các Trưởng lão đến chỗ Phật và thưa như trên, Phật nghĩ: "Trong truyền thống Tôn giáo ta, có quyền nói như vậy, nhưng mấy ông này chỉ nghĩ đến quyền lợi của họ.” Và Ngài bảo:

- Ta không nhận xét các ông đã hoàn toàn chỉ vì các ông nói lưu loát. Nhưng người nào mà mọi ô nhiễm và phẩm hạnh xấu đều bị trừ tuyệt bởi Thánh quả, người ấy mới thật hoàn toàn.

Ngài nói kệ:

(262) Không phải nói lưu loát,

Không phải sắc mặc đẹp,

Thành được người lương thiện,

Nếu ganh, tham, dối trá.

(263) Ai cắt được, phá được,

Tận gốc nhổ tâm ấy,

Người trí ấy diệt sân,

Ðược gọi người Hiền Thiện.

6. Ðầu Trọc Không Làm Nên Tỳ Kheo

Ðầu trọc, không làm nên Sa môn...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên hệ đến Hatthaka.

Chuyện kể rằng, mỗi khi Thầy Hattthaka bị thua cuộc trong khi tranh luận, bèn hẹn:

- Hãy đến nơi ấy, nơi kia vào đúng giờ ấy, giờ kia, sẽ kết thúc cuộc bàn cãi.

Và Thầy đến trước nơi hẹn, và nói:

- Xem kìa! Mấy người ngoại đạo sợ ta đến nỗi không dám đến gặp. Vậy là họ thua cuộc rồi.

Thầy luôn luôn dùng cách ấy nói với đối phương mỗi khi thua cuộc.

Ðức Phật nghe nói Hatthaka làm như vậy, bèn gọi Thầy đến hỏi:

- Hatthaka, có phải ông làm như thế, như thế?

- Thưa vâng.

- Tại sao ông làm như thế? Một người làm điều sai quấy không thể gọi là Sa môn, dù đầu họ cạo trọc. Người nào sửa được mọi lỗi lầm lớn nhỏ mới thật sự là Sa môn.

Ngài nói kệ:

(264) Ðầu trọc, không Sa môn,

Nếu phóng túng, nói láo,

Ai còn đầy dục tham,

Sao được gọi Sa môn.

(265) Diệt trừ mọi tội lỗi,

Dù lớn nhỏ đều không,

Xô đuổi nhân phiền não,

Là thanh tịnh Sa môn.

(Phạm Thiên Thư dịch).

7. Ðiều Gì Làm Nên Sa Môn

Ðâu phải là Tỳ kheo...

Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ Viên, liên hệ tới một Bà la môn.

Có một người Bà la môn từ bỏ gia đình, trở thành Tu sĩ ngoại đạo. Khi ông đi khất thực, ông tự nghĩ: "Sa môn Cồ Đàm gọi các đệ tử là "Tỳ kheo" khi họ đi khất thực. Ông ấy cũng phải gọi ta là Tỳ kheo.” Ông ta đi đến chỗ Phật và nói:

- Sa môn Cồ Đàm, tôi cũng tự nuôi sống bằng cách xin ăn, hãy gọi tôi là Tỳ kheo.

Phật trả lời:

- Này Bà la môn, ta không gọi ai là Tỳ kheo chỉ vì người ấy xin ăn. Người làm tất cả mọi hình thức giống Tỳ kheo cũng không phải Tỳ kheo. Chỉ có người thấy biết như thật về các uẩn và hành trì tương ưng, người ấy thật sự là Tỳ kheo.

Ngài nói kệ:

(266) Chỉ khất thực nhờ người,

Ðâu phải là Tỳ kheo!

Phải theo pháp toàn diện,

Khất sĩ không, không đủ.

(267) Ai vượt qua thiện ác,

Chuyên sống đời Phạm hạnh,

Sống thẩm sát ở đời,

Mới xứng danh Tỳ kheo.

8. Không Phải Im Lặng Làm Nên Bậc Thánh

Im lặng nhưng ngu si...

Câu chuyên xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến ngoại đạo.

Các Thầy ngoại đạo khi nhận được thức ăn cúng dường thường chúc lành cho chủ nhân:

- Xin chúc các vị bình an, hạnh phúc, tăng thêm tuổi thọ. Các vị sẽ không đến những nơi gai góc, sình lầy như nơi nọ nơi kia.

Như thế, họ hồi hướng phước lành, cảm tạ và xong rồi mới đi. Về phần Tăng chúng của Phật, ban đầu chưa hồi hướng, các Thầy chỉ nhận vật thực rồi đi. Dân chúng phê bình như sau:

- Chúng ta được nghe lời cám ơn và chúc lành của ngoại đạo, còn các Thầy Tỳ kheo thì hoàn toàn im lặng.

Các Tỳ kheo bạch Phật điều ấy. Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, khi ngồi ở phòng ăn hay nơi nào thọ thực, hãy cám ơn thức ăn mình nhận, và nói lời vui lòng chủ nhân khi họ ngồi gần đó.

Như thế, đức Phật ra lệnh cho các Tỳ kheo hồi hướng công đức cho thí chủ. Khi nghe các lời ấy, mọi người cố gắng thỉnh các Thầy về nhà thọ thực, và cúng dường rất nhiều. Các ngoại đạo phê bình:

- Chúng ta là Thánh và giữ im lặng, còn đệ tử của Cồ Đàm nói dông dài trên bàn ăn và các nơi thọ thực.

Khi đức Phật nghe kể lại, Ngài dạy:

- Ta không gọi người nào Thánh chỉ vì họ im lặng. Có nhiều người không nói vì ngu dốt, vì thiếu niềm tin, có khi vì keo kiệt không muốn người khác học hỏi những gì mình biết. Vì thế ta nói người ấy không phải là Thánh chỉ vì họ im lặng. Chỉ người nào thoát khỏi dục nhiễm mới là Thánh.

Ngài nói kệ:

(268) Im lặng nhưng ngu si,

Ðâu được gọi ẩn sĩ?

Như người cầm cán cân,

Bậc trí chọn điều lành.

(269) Từ bỏ các ác pháp,

Mới thật là ẩn sĩ.

Ai thật hiểu hai đời,

Mới được gọi ẩn sĩ.

9. Cao Quý Là Hành Ðộng Cao Quý

Ðâu được gọi hiền Thánh...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến một người đánh cá tên Cao Quí. Một hôm, đức Phật quan sát thấy người đánh cá này có khả năng chứng quả, nên sau khi khất thực gần cửa thành phía Bắc của Xá Vệ, Ngài và chúng tăng trở về qua chỗ người này. Ðúng lúc ấy, người đánh cá đang câu cá. Gặp Phật và chư Tăng, Cao Quí bèn ném cần câu và đứng yên. Ðức Thế Tôn đứng cách đó không xa, quay lại hỏi tên Ngài Xá Lợi Phất và các vị khác:

- Ông tên gì?

- Con là Xá Lợi Phất.

- Con là Mục Kiền Liên.

Người đánh cá nghĩ thầm: "Ðức Phật hỏi tên mọi người, chắc sẽ hỏi tên ta.” Phật biết ý quay sang hỏi:

- Này Cư sĩ, ông tên gì?

- Bạch Thế Tôn, con tên Cao Quí.

Phật bảo:

- Này Cư sĩ, người đoạt mạng sống người khác không thể gọi là Cao Quí. Cao Quí là không bao giờ làm hại ai.

Ngài nói kệ:

(270) Còn sát hại sanh linh,

Ðâu được gọi Hiền Thánh.

Không hại mọi hữu tình,

Mới được gọi Hiền Thánh.

10. Ðừng Tự Mãn

Chẳng phải chỉ giới cấm...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến vài Tỳ kheo đức hạnh.

Một vài vị Sa môn đầy đủ đức hạnh tự nghĩ rằng:

- Chúng ta đầy đủ giới đức, chúng ta tu tập theo giáo lý thanh tịnh, chúng ta học rộng, chúng ta sống tịnh cư, chúng ta phát triển thần thông nhờ Thiền định. Vì thế, chúng ta chứng A la hán không khó, chúng ta sẽ chứng A la hán bất cứ khi nào.

Cũng như thế, các vị chứng quả A na hàm cũng nghĩ:

- Ðối với chúng ta, chứng quả A la hán không khó.

Một ngày kia các vị đi đến chỗ Phật, đảnh lễ và lui ngồi một bên. Phật hỏi:

- Này các Tỳ kheo, các ông đã xong việc chưa?

Các Thầy thưa:

- Bạch Thế Tôn, chúng con đã đạt những bậc Thánh như thế đó, khi nào muốn chúng con sẽ chứng quả A la hán. Vì nghĩ như vậy, nên chúng con giữ nguyên vị trí.

Nghe nói thế, Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, không thích đáng cho một Sa môn chỉ vì đã giữ tròn giới luật, hoặc chỉ chứng được Tam quả, và nghĩ rằng: "Chỉ còn chút ít phiền não trong đời hiện tại của ta.” Trái lại, chừng nào lậu hoặc chưa hoàn toàn diệt trừ, người ấy chưa có quyền tự cho rằng mình đã thật sự chứng đắc.

Ngài nói kệ:

(271) Chẳng phải chỉ giới cấm.

Cũng không phải học nhiều.

Chẳng phải chứng Thiền định,

Sống thanh vắng một mình.

(272) Ta hưởng an ổn lạc,

Phàm phu chưa hưởng được,

Tỳ kheo, chớ tự tín,

Khi lậu hoặc chưa diệt.


Phẩm XX: Ðạo

1. Bát Chánh Ðạo Là Ðường Tối Thượng

Bát chánh, đường thù thắng...

Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở Kỳ Viên, liên quan đến năm trăm vị Tỳ kheo.

Một hôm, đức Phật sau khi du hành khắp nước, trở về Xá Vệ. Lúc ấy có năm trăm Tỳ kheo bàn tán về những con đường đã đi qua: "Con đường của làng này bằng phẳng, con đường của làng này gồ ghề, con đường của làng này đầy sỏi đá, con đường của làng này không có sỏi... "Ðức Phật nhận thấy các Thầy đủ duyên để chứng quả A la hán, bèn đi đến Pháp đường, hỏi:

- Các ông ngồi đây bàn tán việc gì?

Khi các Thầy thưa xong, Ngài dạy:

- Này các Tỳ kheo, những con đường đó chẳng đáng cho chúng ta quan tâm. Một người là Tỳ kheo phải đi theo con đường Thánh Ðạo, chỉ có thế mới giải thoát mọi đau khổ.

Ngài nói kệ:

(273) Bát chánh, đường thù thắng,

Tứ Ðế, lý thù thắng,

Ly tham, pháp thù thắng,

Giữa các loài hai chân,

Pháp nhãn, người thù thắng.

(274) Ðường này, không đường khác,

Ðưa đến kiến thanh tịnh.

Nếu ngươi theo đường này,

Ma quân sẽ mê loạn.

(275) Nếu ngươi theo đường này,

Ðau khổ được đoạn tận.

Ta dạy ngươi con đường,

Với trí, gai chướng diệt.

(276) Ngươi hãy nhiệt tình làm,

Như Lai chỉ thuyết dạy.

Người hành trì Thiền định,

Thoát trói buộc ác ma.

2. Vô thường

Tất cả hành Vô thường...

Câu chuyện xảy ra khi Thế Tôn ở Kỳ Viên, liên quan đến năm trăm Thầy Tỳ kheo.

Có năm trăm vị Tỳ kheo nhận đề tài Thiền định từ đức Phật, và cố gắng nỗ lực tối đa ở trong rừng, nhưng không chứng quả A la hán. Các vị trở lại xin Phật đề tài khác thích hợp hơn. Nhận thấy rằng các Tỳ kheo này, vào thời Phật Ca Diếp, đã chuyên chú Thiền quán trong hai ngàn năm về đề tài Vô thường. Vậy Vô thường là đề mục mà Ta sẽ giảng. Nghĩ thế, Phật bèn dạy:

- Này các Tỳ kheo, trong cõi này và cõi khác, tất cả pháp hữu vi do không thật nên đều bị chi phối bởi Vô thường.

(277) Tất cả hành Vô thường,

Với tuệ quán thấy vậy,

Ðau khổ được nhàm chán,

Chính con đường thanh tịnh.

3. Khổ

Tất cả hành khổ đau...

Chuyện này như chuyện trên, Phật dạy các Thầy quán sát về khổ.

- Này các Tỳ kheo, tất cả các uẩn ép bức chúng ta, đó là khổ.

Ngài nói kệ:

(278) Tất cả hành khổ đau.

Với tuệ quán thấy vậy,

Ðau khổ được nhàm chán,

Chính con đường thanh tịnh.

4. Vô Ngã

Tất cả pháp vô ngã...

Cùng một câu chuyện trên, Phật nhận thấy các Thầy từng quán về Vô Ngã trong năm trăm kiếp, Ngài dạy:

- Này các Tỳ kheo, các uẩn đều không cố định, và đều không thực.

Ngài nói kệ:

(279) Tất cả pháp vô ngã,

Với tuệ quán thấy vậy,

Ðau khổ được nhàm chán,

Chính con đường thanh tịnh.

5. Chớ Hẹn Ngày Mai

Khi cần, không nỗ lực...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở Kỳ Viên, liên hệ đến Tôn giả Padhànakammika Tissa.

Có năm trăm thanh niên thành Xá Vệ theo Phật xuất gia, nhận đề tài Thiền quán từ đức Bổn sư và đi vào rừng. Một người trong bọn họ nhác tu, hẹn lần hồi, nhưng bốn trăm chín mươi chín người kia nỗ lực Thiền định và đắc quả A la hán. Bấy giờ, các Thầy trở về bạch Phật về thành quả đạt được. Khi đi khất thực qua một ngôi làng cách Xá Vệ một dặm, một tín đồ trông thấy các Thầy. Người ấy mời các vị về, cúng dường cơm và thực phẩm, và sau khi nhận lời hồi hướng, tín đồ ấy mời các Thầy ngày mai đến thọ thực.

Về đến Xá Vệ, các Thầy xếp cất y bát, đến đảnh lễ đức Phật. Ðức Thế Tôn tỏ lòng hoan hỷ và thăm hỏi thân mật các Thầy. Chỉ nhà Thầy nhác tu thầm nghĩ: "Ðức Thế Tôn hết lời vui mừng chào đón các Thầy kia. Còn ta, vì chưa chứng quả nên Ngài không thèm nói một lời. Ngay hôm nay ta phải chứng quả A la hán, có thế khi ta trở lại, Thế Tôn mới nói chuyện với ta.”

Các vị Sa môn bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, trên đường về chúng con được một thiện tín mời ngày mai thọ thực. Sáng mai chúng con sẽ đi.

Sa môn chưa chứng quả, suốt đêm ấy đi tới đi lui, rốt cuộc buồn ngủ quá Thầy té nhằm một ghế đá, gãy chân, Thầy kêu lên đau đớn. Các Sa môn khi nghe tiếng chạy đến, săn sóc cho Thầy. Trời đã sáng mà họ vẫn còn bận bịu chăm sóc cho Thầy. Kết quả là năm trăm Thầy không rảnh được để đi thọ thực sáng hôm ấy.

Phật hỏi:

- Sao các ông không đi vào làng nhận vật thực?

Các Thầy thưa lại mọi chuyện. Phật bảo:

- Ðây không phải lần đầu tiên ông ấy ngăn trở các ông nhận vật thực. Ðời quá khứ ông ấy cũng như vậy.

Ngài kể chuyện quá khứ (Jàtaka 71), và kết luận:

- Này các Tỳ kheo, người nào không trỗi dậy đúng giờ, ý chí yếu ớt và lười biếng, người ấy không bao giờ phát triển Thiền định và chứng Thánh quả.

Ngài nói kệ:

(280) Nỗ lực không nhằm nơi,

Tiêu trầm chí khí mạnh,

Tuổi hoa sớm biếng lười,

Mong gì đạo chánh Thánh.

6. Con Quỷ Ðầu Heo

Lời nói được thận trọng...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Trúc Lâm, liên quan đến một con quỷ đầu heo.

Một hôm, Tôn giả Mục Kiền Liên cùng Tôn giả Lakkhana xuống núi Kỳ Xà Quật. Ðến một chỗ nọ Tôn giả Mục Kiền Liên bỗng mỉm cười, Tôn giả Lakkhana hỏi:

- Sao sư huynh cười?

- Lúc này không nên hỏi, hãy đợi đến lúc gặp Thế Tôn.

Hai vị tiếp tục đi khất thực ở thành Vương Xá. Xong trở về Trúc Lâm, đến trước Phật đảnh lễ lui ngồi một bên. Và Tôn giả Lakkhana bèn hỏi Tôn giả Mục Kiền Liên câu trước, lúc này Tôn giả mới trả lời:

- Tôi thấy một con quỷ to lớn thân hình cao gần một dặm, dáng người nhưng đầu heo, trong miệng mọc ra một cái đuôi đầy dòi bọ lúc nhúc. Tôi nghĩ thầm: "Thật ta chưa hề thấy một sinh vật nào như thế.” Vì thế tôi mỉm cười.

Ðức Phật xác nhận:

- Mục Kiền Liên quả là có mắt thấy. Ta cũng từng thấy như thế khi ngồi dưới cây Bồ đề, nhưng Ta nghĩ: "Nếu có ai chẳng tin, thật là điều tai họa cho chúng.” Và vì thương những kẻ đó nên Ta không nói. Bây giờ có Mục Kiền Liên chứng kiến, Ta mới mạnh dạn nói sự thật.

- Bạch Thế Tôn, con quỷ ấy kiếp trước đã làm gì?

- Này các Tỳ kheo, hãy lắng nghe.

Chuyện quá khứ

A. Kẻ Phá Hoại Tình Huynh Ðệ

Vào thời đức Phật Ca Diếp, có hai Tôn giả sống hòa thuận với nhau trong một tu viện của làng nọ, người lớn sáu mươi tuổi, người nhỏ năm mươi chín tuổi. Tôn giả ít tuổi hơn thường mang y bát giùm cho vị lớn và đi theo sau, làm tròn mọi bổn phận như một chú tiểu hầu huynh trưởng. Giống như hai anh em cùng cha mẹ, họ sống trong hòa thuận, an lạc.

Một ngày kia, có một giảng sư đến chỗ họ ở. Ngày ấy là ngày nghe pháp, cả hai Tôn giả khoản đãi vị sư khách và nói:

- Ðại đức, xin giảng pháp cho chúng tôi.

Vị này giảng dạy pháp lý cho cả hai, họ rất vui mừng. Ngày hôm sau, hai Tôn giả đưa khách vào làng khất thực. Sau khi ăn xong, họ lại thỉnh:

- Tôn huynh, xin hãy giảng tiếp đoạn pháp hôm qua.

Và hai Thầy thỉnh giảng sư thuyết pháp luôn cho dân chúng. Nghe xong, Phật tử mời giảng sư xin đến vào ngày mai. Cứ như vậy các vị đi khất thực khắp các làng lân cận, hai Thầy đưa giảng sư đến những nhà quen.

Giảng sư nghĩ thầm: "Hai Thầy này rất nhẹ dạ. Ta sẽ tìm cách khiến họ rời nơi đây và chiếm tư viện này.” Buổi chiều, ông đến chăm sóc hai Tôn giả lớn tuổi. Khi đến giờ đi nghỉ, ông đến chỗ vị lớn tuổi, nói:

- Tôn giả, tôi có việc muốn nói với Ngài.

- Xin cứ nói.

Giảng sư ngần ngừ rồi nói:

- Ðiều tôi nói ra có nhiều tai hại.

Xong ông im lặng bỏ đi, đến chỗ vị nhỏ tuổi cũng làm như vậy.

Ngày thứ hai, ông cũng đóng kịch như vậy, ngày thứ ba, cả hai Tôn giả đều bị kích động. Giảng sư đến chỗ Tôn giả lớn tuổi, nói:

- Thưa Ngài, tôi có chuyện muốn nói nhưng không dám thốt ra trước mặt Ngài.

Vị này nài ép:

- Không sao, tôn huynh cứ nói.

- Nhưng, Tôn giả nhỏ kia có liên quan gì với Ngài không?

- Ngài bảo sao? Chúng tôi như anh em một mẹ, người này nhận cái gì thì người kia cũng nhận thế ấy, tôi chưa bao giờ thấy Thầy ấy có lỗi.

- Thật vậy à?

- Thật chứ?

- Thưa Tôn giả, đây là điều Tôn giả nhỏ tuổi nói với tôi: "Thưa Ngài, Ngài thuộc dòng cao quí, nhưng còn Tôn giả lớn tuổi này, nếu Ngài có định quan hệ với ông ấy, và tưởng rằng ông ấy trung hậu và dễ mến, thì hãy coi chừng.” Thầy lặp đi lặp lại với tôi như thế ngay từ hôm tôi mới đến tới giờ.

Nghe nói xong, Tôn giả lớn tuổi cảm thấy giận vô cùng, cõi lòng tan nát như một lọ gốm bị đập. Giảng sư đến chỗ Thầy nhỏ tuổi, cũng nói y như trên, và Thầy cũng cảm thấy đổ vỡ như sư huynh mình, hai vị thường đi khất thực với nhau, ngày đó Tôn giả trẻ đi vào làng một mình, đi trước sư huynh của mình và dừng bước nơi thọ thực, Tôn giả lớn tuổi đến sau.

Khi thấy sư huynh mình, Tôn giả trẻ nghĩ thầm: "Ta có nên mang y bát của Ngài hay không? Không, ta không mang.” Nhưng sau đó: "Khoan! Chẳng bao giờ ta xử sự như thế này, ta không thể thiếu sót bổn phận.” Và mềm lòng, Thầy đến chỗ vị lớn tuổi:

- Thưa Tôn giả, hãy đưa y bát cho con.

Trưởng lão từ chối:

- Chú hãy đi đi, người giả dối. Chú không xứng đáng mang y bát cho tôi.

Vừa nói Ngài vừa xua tay khinh rẻ.

- Phải, tôi cũng nghĩ tôi không mang y bát cho Ngài.

- Này chú, chú tưởng tôi luyến tiếc tu viện này hay sao?

- Tôi cũng không cần ở tu viện. Tu viện Ngài, Ngài cứ ở.

Nói xong, Thầy ôm y bát bỏ đi. Trưởng lão cũng ra đi, và thay vì đi chung với nhau như mọi lần, bây giờ một người đi hướng Ðông, một người đi hướng Tây. Giảng sư nói với họ:

- Ðừng làm thế.

Hai Trưởng lão bảo:

- Thôi, Ðại đức ở lại.

Và giảng sư làm chủ tu viện. Hôm sau, giảng sư đi vào làng kế cận, dân chúng hỏi thăm:

- Thưa Ðại Ðức, các vị kia đâu?

- Ðừng hỏi tôi. Hai Thầy ấy gây gổ nhau và ra khỏi tu viện hôm qua. Tôi can hết sức mà không được.

Nghe thế, một số người khờ khạo tin liền, nhưng những người khôn ngoan bảo nhau:

- Trong suốt thời gian ở đây, chúng ta không thấy hai Tôn giả bất hòa với nhau. Nếu các vị sợ hãi bỏ đi, chắc tại ông Thầy mới đến.

Và họ rất buồn.

Về phần hai Tôn giả, cả hai đều bất an. Trưởng lão nghĩ thầm: "Ôi! Thiệt là chú nhỏ rất lầm lỗi", khi thấy khách chú đã bảo "đừng liên hệ với ta.” Và Tôn giả trẻ tuổi cũng nghĩ như thế. Cả hai đều bực bội, không thể đọc kinh hay tọa Thiền.

Một trăm năm trôi qua, tình cờ cả hai Tôn giả cùng đến một tu viện miền Tây và cùng nhận chung một phòng. Khi Trưởng lão già vừa bước vào phòng và ngồi lên giường, Tôn giả trẻ cũng vừa đến. Thấy nhau, họ không cầm được nước mắt. Thầy trẻ suy nghĩ: "Ta có nên nói hay không? Chuyện đó không đáng tin.” Và Thầy đến chào vị Trưởng lão, nói:

- Bạch Ngài, trong suốt thời gian con mang y bát theo Ngài, Ngài có thấy con có gì sơ sót trong tư tưởng, lời nói và hành động?

- Không, ta không thấy.

- Thế thì tại sao Ngài bảo với vị sư khách rằng đừng dính dáng gì với con?

- Này chú, ta không nói như thế, mà trái lại ta được nghe chú nói như vậy về ta.

- Thưa Ngài, con cũng không hề nói như thế bao giờ.

Lúc ấy, cả hai mới nhận ra rằng, ông giảng sư nọ nói như vậy chỉ vì muốn chia rẽ huynh đệ, và cả hai đều nhận lỗi của mình. Sau thời gian một trăm năm bất an, cả hai vị giảng hòa với nhau. Và hai Tôn giả trở về tu viện cũ để mời sư Thầy lắm chuyện ra khỏi cửa.

Giảng sư thấy hai vị trở về, vội đến trước đỡ lấy y bát. Nhưng hai Trưởng lão điểm mặt Thầy:

- Ông không xứng đáng ở trong tu viện.

Không dám nán lại giây phút, giảng sư lập tức rời tu viện. Sau khi chết, giảng sư rơi vào Địa ngục A tỳ, trong thời gian giữa hai đức Phật chịu hình phạt ở Địa ngục, và bây giờ mang thân quỷ khổ sở như đã nói trên.

Sau khi nói xong, đức Phật dạy:

Ngài nói Pháp Cú:

(281) Lời nói được thận trọng,

Tâm tư khéo hộ phòng,

Thân chớ làm điều ác,

Hãy giữ ba nghiệp tịnh,

Chứng đạo Thánh nhân dạy.

7. Pothila, Ông Sư Rỗng

Tu Thiền Trí tuệ sinh...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Pothila.

Trưởng lão Pothila, thông thuộc Tam tạng trong thời đại của bảy đức Phật, là người tuyên đọc giáo lý cho một nhóm năm trăm Tỳ kheo. Một ngày nọ, đức Phật nhủ thầm: "Nếu có dịp, ta sẽ khuyến khích Trưởng lão này chấm dứt lậu hoặc.” Và từ đó, mỗi khi Tôn giả đến bên Thế Tôn, Ngài thường gọi;

- Hãy đến đây, Pothila rỗng!

Hoặc:

- Chào ông Pothila rỗng.

- Ngồi xuống, Pothila rỗng.

- Hãy đi, Pothila rỗng.

Và khi Trưởng lão ra đi, Ngài còn nói theo:

- Pothila rỗng đã đi.

Trưởng lão Pothila tự nghĩ: "Ta thông thuộc Tam tạng và đọc suốt chú giải, ta là giáo thọ của năm trăm Tỳ kheo, mười tám hội chúng. Vậy mà đức Thế Tôn luôn luôn gọi ta là Pothila rỗng. Chắc chắn vì ta chưa phát triển Chánh định nên Ngài gọi ta như vậy.” Rất kích động, Trưởng lão quyết định vào rừng, Thiền định. Chiều hôm ấy, Ngài sắp xếp y bát, và vào chập tối, đi lẫn trong hàng người nghe kinh. Các Tỳ kheo đang tụng kinh không để ý đó là Thầy của mình.

Pothila đi một khoảng đường một trăm hai mươi dặm, cuối cùng đến khu rừng có ba nươi vị Tỳ kheo đang ẩn cư. Ðến nơi, Ngài chào vị trưởng chúng và nói:

- Bạch Trưởng lão, xin hãy chỉ giáo cho tôi.

- Tôn giả, Ngài là giảng sư, chúng tôi còn phải học với Ngài, sao Ngài nói thế?

- Thưa Ngài, xin đừng từ chối, hãy chỉ dạy tôi.

Thật ra, tất cả các Tỳ kheo này đều chứng quả A la hán. Vị Trưởng lão đệ nhất nghĩ thầm: "Vị Tỳ kheo này, vì học rộng chắc sẽ cao ngạo.” Và vì thế, đưa Pothila sang vị thứ hai, người thứ hai lại đưa xuống cho người thứ ba. Và cứ thế, họ đẩy Pothila đến người trẻ nhất trong nhóm, một chú Sa di bảy tuổi đang ngồi vá y. Như thế kiêu khí của Pothila đã giảm rất nhiều.

Pothila đến bên chú Sa di, chấp tay cung kính:

- Ðại đức, xin chỉ giáo cho tôi.

- Ơ kìa! Giáo sư, Ngài nói gì thế? Ngài hơn tôi về tuổi tác và học vấn, tôi còn phải học với Ngài.

- Ðại đức, xin đừng từ chối, hãy chỉ dạy cho tôi.

- Thưa Tôn giả, nếu Ngài kiên nhẫn, tôi sẽ chỉ cho.

- Tôi sẽ kiên nhẫn, nếu Ngài bảo tôi nhảy vào lửa tôi cũng nhảy.

Chú Sadi chỉ một cái ao cách đó không xa, bảo Pothila:

- Ngài hãy xuống ao, để cả y áo.

Chú biết rằng Pothila mặc y đẹp, đắt giá, nói thử như vậy để xem Pothila có dễ dạy không. Vừa nói xong, Pothila đã nhảy xuống ao, y áo ướt sũng. Chú Sa di kêu lên:

- Hãy đến đây!

Lập tức, Pothila leo lên và đến gần chú. Chú bảo:

- Này Tôn giả, giả sử ở đây có một cái hang với sáu cửa, một con tắc kè chui vào hang, người nào muốn bắt nó, phải bít năm cửa hang, chừa lại một cửa là sẽ tóm được tắc kè. Như thế Ngài nên đóng hết đóng hết năm căn, và tập trung vào ý căn.

Với một người thông minh như Pothila, câu nói của chú Sa di đã soi sáng vấn đề.

- Như thế đã đủ, Ðại đức.

Pothila tập trung tư tưởng, quán sát thân mình, và bắt đầu Thiền định. Ðức Phật ở cách xa một trăm hai mươi dặm, biết rằng Tôn giả sẽ trở nên bậc đại Trí tuệ Ngài hóa hiện trước Tôn giả, nói kệ:

(282) Tu Thiền, Trí tuệ sanh,

Bỏ Thiền, Trí tuệ diệt.

Biết con đường hai ngả,

Ðưa đến hữu, phi hữu.

Hãy tự mình nỗ lực,

Khiến Trí tuệ tăng trưởng.

Nghe xong, Pothila đắc quả A la hán.

8. Các lão Tỳ Kheo Và Lão Bà

Ðốn rừng, không đốn cây...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến một số các Tỳ kheo già.

Tại Xá Vệ, có một số đại phú gia quyền thế, và lớn tuổi, họ kết thân với nhau, cùng làm nhiều việc thiện. Khi nghe đức Thế Tôn giảng dạy, họ bảo nhau:

- Chúng ta đều già cả, sao còn ở lại gia đình làm Cư sĩ.

Họ bèn đến xin Phật xuất gia, gia nhập Tăng đoàn, theo nếp sống Sa môn. Vì lớn tuổi không thể học thuộc kinh kệ, họ cất một thảo am ngoài vòng tu viện, và ở chung với nhau. Mỗi khi khất thực, họ về nhà vợ con nhận thức ăn. Trong số đó, có một Thầy Tỳ kheo già, vợ cũ của Thầy tên Madhurapàcikà, rất tử tế với các Thầy. Các Thầy thường mang vật thực nhận được đến nhà bà thọ thực, bà Madhurapàcikà vẫn hay dâng cúng nước xốt và càri. Ít lâu sau, bà lâm bệnh rồi qua đời. Các Tỳ kheo già hay tin ôm cổ nhau than khóc kể lễ, người này té vào người kia:

- Ôi! Nữ thí chủ Madhurapàcikà đã chết.

Nghe kêu khóc rền rĩ, các Tỳ kheo khác chạy đến, hỏi han:

- Các huynh, việc gì vậy?

Các Sa môn già trả lời:

Bà vợ của một người bạn chúng tôi mới chết. Bà ấy là một thí chủ tốt bụng nhất. Chúng tôi biết tìm đâu ra một người như vậy. Vì thế nên kêu khóc.

Các Tỳ kheo bàn tán việc này tại Pháp đường, đức Thế Tôn đi đến hỏi:

- Các ông tụ tập ở đây bàn việc gì?

Khi các Tỳ kheo thuật lại câu chuyện, Phật dạy:

- Ðây không phải lần đầu họ làm như vậy. Ðời quá khứ cũng đã xảy ra chuyện này.

Chuyện quá khứ

A. Jatakakàka

Trong thời quá khứ, họ là một đàn quạ. Và bà nữ thí chủ là một con quạ cái, khi bay qua bờ biển nó bị sóng cuốn và nhận chìm, cả đàn kêu khóc, và tìm cách dùng mỏ tát nước biển để cứu bà quạ. Rốt cuộc cả đàn đều mệt mỏi vô ích.

Kể chuyện quá khứ, Phật dạy tiếp:

- Này các Tỳ kheo? Khi nào còn rừng rậm tham, sân, si, các ông còn chịu đau khổ. Hãy đốn ngã rừng cây ấy các ông mới được giải thoát.

Ngài nói kệ:

(283) Ðốn rừng, không đốn cây

Từ rừng, sinh sợ hãi.

Ðốn rừng và ái dục

Tỳ kheo, hãy tịch tịnh.

(284) Khi nào chưa cắt tiệt,

Ái dục giữa gái trai

Tâm ý vẫn buộc ràng

Như bò con bú mẹ.

9. Cỏ Úa, Hoa Phai

Tự cắt dây ái dục...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến một Thầy Tỳ kheo đệ tử Ngài Xá Lợi Phất.

Có một thanh niên khôi ngô, con nhà thợ bạc, từ bỏ gia đình, xuất gia tu học với Ngài Xá Lợi Phất. Tôn giả nghĩ thầm: "Ðồ đệ ta còn trẻ, tham dục rất mạnh.” Ðể giúp Thầy Sa môn trẻ chống đỡ lại dục nhiễm, Tôn giả dạy Thầy phép quán Bất tịnh. Nhưng đề mục ấy không thích hợp, nên mặc dù Thầy đã rút vào rừng, nỗ lực phấn đấu trên một tháng, Thầy vẫn không sao tập trung tư tưởng.

Thầy trở lại, Tôn giả hỏi:

- Con đã nắm vững đề mục Thiền quán chưa?

Thầy trình bày sự thất bại của mình. Tôn giả bảo:

- Một người không bao giờ nói rằng: "Tôi không đạt được đề mục Thiền quán.”

Tôn giả chỉ dạy cẩn thận thêm về đề tài ấy. Thầy cũng không tiến bộ bao nhiêu, phải trở lại trình với Thầy. Lần thứ ba, Tôn giả cũng dạy đề mục đó, chỉ dạy cặn kẻ về lý do, nguyên nhân và các ảo tưởng tương tự. Một lần nữa Thầy lại thất bại trong công phu Thiền quán.

Tôn giả Xá Lợi Phất nghĩ thầm: "Một Sa môn bén nhạy, khi tham dục hiện hữu Thầy biết nó hiện hữu. Khi tham dục không hiện hữu biết rằng chúng không hiện hữu. Sa môn này bén nhạy, không trì độn, vững vàng trong đạo chưa lay chuyển. Tuy thế ta lại không thể hiểu được tư tưởng và khuynh hướng của Thầy. Chắc chắn Thầy sẽ thuần phục lời dạy của Phật.”

Vào buổi chiều, Tôn giả dẫn đồ đệ đến chỗ Phật, và kể hết câu chuyện:

- Bạch Thế Tôn, đây là đệ tử con, con đã dạy y như thế...

Phật dạy:

- Biết được tư tưởng và khuynh hướng là quyền năng riêng của Phật, là bậc Toàn Giác có trí quán chiếu thông suốt, khiến cho mười ngàn thế giới ngợi khen.

Ðức Phật quán sát gia thế của Thầy Sa môn trẻ, biết rằng không những đời này Thầy sanh trong nhà thợ bạc, mà đã năm trăm kiếp sanh trong nhà đó. Và trải qua thời gian lâu xa làm thợ kim hoàn, chuyên chạm trổ các hoa sen, hoa Ca nị sắc bằng vàng ròng, nên Thiền quán về đề tài nhờm gớm và tẻ nhạt, chắc chắn không thích hợp với Thầy, chỉ có đề mục vui tươi mới thích hợp. Phật bảo Tôn giả:

- Này Xá Lợi Phất! Với Sa môn mà ông chỉ định đề mục Thiền quán vừa trải qua bốn tháng mệt nhọc vô ích, ông sẽ thấy y chứng A la hán ngay hôm nay, ông hãy đi nơi khác.

Sau khi đuổi Tôn giả đi, Phật dùng thần thông tạo ra một hoa sen bằng vàng to bằng bánh xe, cọng lá tươi tắn y như thật, đưa cho Thầy Sa môn bảo:

- Này Tỳ kheo, hãy cầm lấy hoa sen này ra phía ngoài Tinh xá, cắm nó trên đỉnh cát, và ngồi kiết già trước nó, ở giai đoạn sơ khởi, hãy lặp lại câu "Ðỏ thắm! Ðỏ thắm!"

Ngay khi nhận hoa sen từ bàn tay Thế Tôn, Thầy Sa môn trở nên bình an. Thầy làm theo lời Phật dạy, làm một đống cát ngoài rào Tinh xá, cắm hoa sen lên, ngồi kiết già trước mặt nó, và lẩm nhẩm "Ðỏ thắm! Ðỏ thắm!" Ngay khi ấy, các triền cái bị tiêu diệt, Thầy bắt đầu nhập định, phát triển Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền. Cả toàn thân Thầy chìm sâu trong Thiền định. Ðức Phật dự biết Thầy đạt được định, tự hỏi "Sa môn này có thể tự mình phát triển Thánh quả đến tận cùng không?" Thấy rằng Thầy không thể tự đạt, Ngài ra lệnh "Hoa sen hãy héo!" Lập tức đóa sen Thiền quán của Thầy ngã màu, nhợt úa như bị vò nát.

Thầy Tỳ kheo xuất định, thấy thế, tự nghĩ: "Bằng cách gì mà bông sen này trở nên già úa? Nếu những vật như thế không bị lệ thuộc vào giới thông tục mà còn bị chế phục bởi tuổi già, không có gì nghi ngại chuyện chúng sanh đắm luyến thế gian đều sẽ bị chế phục tương tự. "Thế là, Thầy thấu rõ lẽ Vô thường. Ðồng thời, Thầy thấu luôn cả lý khổ và vô ngã. Ba pháp ấn hiện rõ rệt với Thầy như lửa rực cháy, hay như sợi dây cột quanh cổ.

Lúc ấy có một lũ trẻ con chơi gần đấy, lội xuống hồ bẻ bông sen chất thành đống trên bờ. Thầy Tỳ kheo nhìn những đóa hoa dưới nước và hoa trên bờ. Những hoa dưới nước tươi xinh đẹp, còn hoa trên bờ héo úa, tàn rũ. Thầy lại tự nhủ: "Nếu tuổi già đã đánh bại những vật không bị lệ thuộc vào thế gian, có lý nào lại không đánh bại chúng sanh đắm luyến thế gian?"

Và Thầy càng thấu rõ lý vô thường, khổ, vô ngã.

Ðức Thế Tôn thấy rằng các đề mục Thiền định đã hoàn toàn chinh phục Thầy. Ngài bèn hóa hiện đến trước mặt Thầy.

- Cái gì thế kia?

Thầy Tỳ kheo ngạc nhiên nhìn lên thấy dường như đức Phật đến đứng trước mặt. Thầy lật đật đứng lên, chấp tay cung kính.

Ðức Thế Tôn nói kệ:

(285) Tự cắt dây ái dục,

Như tay bẻ sen thu,

Hãy tu đạo tịch tịnh,

Niết bàn, Thiện Thệ dạy.

Nghe xong Thầy chứng A la hán.

10. Chắc Chắn Sẽ Chết

Mùa mưa ta ở đây...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến đại phú thương Mahàdhana.

Mahàdhana cùng đoàn xe năm trăm chiếc chất đầy vải mhuộm đỏ, từ thành Ba La Nại đem đi bán. Khi về Xá Vệ, ông dừng lại bên bờ sông và nhủ thầm: "Ngày mai ta sẽ qua sông.” Ông dừng xe, ngủ lại bên bờ. Suốt đêm ấy, một trận bão kéo đến và mưa như trút. Suốt bảy ngày nước sông dâng cao và dâng chúng lại nghỉ lễ bảy ngày. Mahàdhana không có dịp bán số vải của mình, ông tự nhủ: "Ta đã đi xa, nếu quay về sẽ tốn công, ta sẽ ở lại đây mùa mưa, mùa đông và mùa hè sang năm, để bán hết số vải.”

Khi Thế Tôn đi khất thực, Ngài nhận ra dự tính của Mahàdhana và mỉm cười. Tôn giả A Nan hỏi lý do. Ngài bảo:

- Này A Nan, ông có thấy đại phú gia Mahàdhana chăng?

- Bạch Thế Tôn, có ạ.

- Ông ấy không biết mình sắp chết, và dự định ở lại đây suốt năm để bán hàng.

- Bạch Thế Tôn, ông ấy sắp chết sao?

- Này A Nan, trong bảy hôm nữa, ông ấy sẽ bị cá nuốt.

Ngài nói kệ:

Hãy hăng say làm việc

Làm những gì nên làm ngày hôm nay.

Ai biết thần chết sẽ viếng ngày mai.

Chẳng phải chúng ta vẫn hằng vật lộn

Mỗi ngày cùng thần chết?

Ðây là lời hiền nhân ca ngợi:

Hạnh phúc thay, kẻ sống nhiệt tình

Ngày và đêm, không mệt mỏi

Dù chỉ một đêm y được sống.

- Bạch Thế Tôn, con sẽ nói với ông ấy.

- Ðược rồi, cứ đi.

Tôn giả đi đến chỗ Mahàdhana khất thực, ông ta cung kính cúng dường Tôn giả. Tôn giả hỏi:

- Ông dự định ở lại đây bao lâu?

- Thưa Tôn giả, tôi đã đến từ xa xôi, nếu trở về chắc sẽ trễ nãi. Tôi sẽ ở lại suốt năm để bán hàng rồi mới tiếp tục đi.

- Này Cư sĩ, người ta dù cái chết gần kề cũng khó biết được. Nên cẩn thận điều này.

- Sao, con sắp chết ư?

- Phải đấy Cư sĩ, chỉ trong bảy ngày nữa thôi.

Mahàdhana rất xúc động khi nghe Tôn giả bảo như thế, và ông mời Phật cùng chư Tăng đến cúng dường trong bảy ngày, vào ngày cuối, ông xin Phật chúc phước cho mình. Phật dạy:

- Này Cư sĩ, người khôn ngoan không bao giờ nên nghĩ rằng: "Ta sẽ ở lại đây suốt mùa mưa, qua đông đến hạ, ta sẽ làm việc này, việc nọ... ” Tốt hơn, người ấy cần quán tưởng về cái chết của mình.

Ngài nói kệ:

(286) Mùa mưa ta ở đây,

Ðông, hạ cũng ở đây,

Người ngu tâm tưởng vậy,

Không tự giác hiểm nguy.

Nghe xong, Mahàdhana chứng quả Dự lưu, chúng hội cũng được lợi ích. Ông tiễn chân các chư tăng một quãng đường rồi quay lại. Ông cảm thấy nhức đầu và đi nằm. Chẳng bao lâu ông chết, và tái sinh lên trời Ðâu suất.

11. Người Mẹ Mất Con Và Những Hạt Cải

Người tâm ý đắm say...

Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ Viên, liên hệ đến Ngài Kisà Gotami.

Câu chuyện của Tỳ kheo ni Kisà Gotami, như đã kể ở Pháp Cú 114, phẩm Ngàn. Khi ấy, đức Phật hỏi:

- Này Kisà Gotami, có tìm thấy hột cải trắng?

- Thưa, con không tìm thấy, trong làng người chết còn nhiều hơn người sống.

- Không phải chỉ có ngươi bị mất con. Ðó là luật chung cho mọi sinh vật. Thần chết như một dòng nước lũ dữ, cuốn phăng, giật đi và ném mọi loài vào biển hoại diệt, trong khi chúng sống chưa thỏa thích.

Ngài nói kệ:

(287) Người tâm ý đắm say,

Con cái và súc vật,

Tử thần bắt người ấy,

Như lụt trôi làng ngủ.

Nghe xong bà chứng quả Dự lưu, hội chúng cũng được lợi.

12. Người Ðàn Bà Mất Hết Thân Quyến

Không có con che chở...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến bà Patàcàrà. Câu chuyện của Tỳ kheo ni Patàcàrà như đã kể ở phẩm Ngàn, Pháp Cú 113.

Ngày nọ, đức Thế Tôn biết bà đã vơi cơn sầu khổ, bèn bảo:

- Này Patàcàrà, người nào khi rời bỏ thế gian, không có con cái hay cha mẹ, họ hàng có thể bảo trợ, che chở hay cho ẩn trú. Cho nên, dù những người ấy đang sống đó, cũng như không có. Người khôn ngoan nên có đạo đức thanh tịnh để dẹp sạch đường đến Niết bàn.

Ngài nói kệ:

(288) Một khi tử thần đến,

Không có con, che chở,

Không cha, không bà con,

Không thân thích che chở.

(289) Biết rõ ý nghĩa này,

Bậc trí lo trì giới,

Mau lẹ làm thanh tịnh,

Con đường đến Niết bàn.

Nghe xong bà Patàcàrà chứng quả Dự lưu, hội chúng có người chứng Dự lưu, Nhị quả và Tam quả.


Phẩm XXI: Tạp Lục

1. Sông Hằng Dâng Nước

Nhờ từ bỏ lạc nhỏ...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Trúc Lâm, liên quan những hành động quá khứ của Ngài.

Một thuở, thành Tỳ Xá Ly là một đô thị giàu mạnh, dân cư đông đúc. Có bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy Hoàng tử nối nhau trị vì. Mỗi ông Hoàng có cung điện riêng, nhiều đền chùa, lâu đài, công viên, hồ tắm ở khắp nơi trong xứ. Tóm lại đó là một thành phố sung túc.

Nhưng ít lâu sau nguồn lương thực bị cạn dần, rồi mất mùa, kế đến là nạn đói. Những người nghèo đói chết trước nhất, tử thi của họ bị vất khắp nơi, mùi hôi thúi xông lên quyến rũ một số ác quỷ. Bọn này tung hoành làm một số người chết thêm, mùi hôi xác chết kinh khiếp đưa đến bệnh dịch. Như vậy có ba thiên tai xảy ra: nạn đói, ác thần và bệnh dịch.

Dân cư trong thành họp lại dâng kiến nghị lên nhà vua:

- Ðại vương! Trong thành chúng ta đang bị ba thiên tai, trong thời bảy vua quá khứ không hề xảy ra điều này. Thời của vị minh quân nào đã qua cũng không có thiên tai đến như thế.

Nhà vua họp đại hội toàn quốc, tuyên bố:

- Có thể ta phạm một vài lỗi lầm, hãy phán xét ta.

Dân chúng tìm tòi những hành vi của nhà vua từ trước đến giờ, không thấy lỗi gì.

- Ðại vương, chúng tôi không tìm thấy lỗi nơi Ngài.

Họ họp nhau, tìm cách giảm bớt những thiên tai đang xảy ra. Một số người đề nghị tế lễ, cầu cúng, hội hè, nhưng thiên tai không giảm bớt. Số người khác đưa kế hoạch:

- Hiện đang có sáu vị giáo chủ nhiều quyền năng, chúng ta mời các vị ấy đến xem may ra có giảm bớt thiên tai.

Người khác nói:

- Ðấng Toàn Giác đã hiện ra nơi đời, Ngài là đấng Thế Tôn giảng dạy giáo lý cứu khổ cho chúng sanh. Ngài có nhiều thần thông và quyền lực siêu nhiên. Nếu Ngài đến đây, thiên tai sẽ giảm.

Mọi người tán thành ý kiến sau cùng.

- Hiện nay Thế Tôn đang ở đâu?

Lúc ấy, gần đến ngày an cư, đức Thế Tôn ở tại Trúc Lâm, theo lời hứa với vua Tần Bà Sa La. Và lúc đó, có một ông hoàng dòng Licchavi tên là Mahàli, là người trong hội đồng hoàng tộc của vua Tần Bà Sa La, đã chứng quả Dự lưu, có mặt trong hội nghị. Dân Tỳ Xá Ly sắm sửa phẩm vật long trọng gởi kèm theo ông hoàng Mahàli, cùng với con trai của vị Tư tế, đến thành Vương Xá để xin thỉnh Phật.

Hoàng tử Mahàli và con trai Thầy Tư tế đến gặp vua Tần Bà Sa La dâng phẩm vật, nói rõ lý do và thỉnh cầu:

- Ðại vương! Hãy để đức Thế Tôn đến thành phố chúng tôi.

Nhà vua chỉ nói:

- Các ông là những người thông minh, có thể tự thỉnh lấy.

Họ bèn đi đến chỗ Phật, đảnh lễ và thưa:

- Bạch Thế Tôn, tại thành phố chúng con có ba thiên tai tàn phá. Nếu Ngài đi đến đó chúng sẽ giảm bớt. Xin Ngài đến với chúng con.

Ðức Phật nghe xong lời thỉnh cầu, quan sát và dự biết rằng, ngay khi câu kinh Kim Cương được đọc tụng tại Tỳ Xá Ly, sẽ làm chấn động tam thiên thế giới. Khi bài kinh kết thúc, sẽ có tám muôn bốn ngàn người được Pháp nhãn, và thiên tai giảm thiểu Ngài nhận lời.

Vua Tần Bà Sa La nghe tin Phật nhận lời đến Tỳ Xá Ly, bèn ra lệnh báo tin khắp thành Vương Xá, còn vua đến chỗ Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn, có phải Ngài sắp đi đến Tỳ Xá Ly.

- Ðúng vậy, đại vương!

- Nếu thế, xin hãy đợi con dọn dẹp đường.

Nhà vua ra lệnh dọn con đường dài năm dặm, từ thành Vương Xá đến bờ sông Hằng, mỗi dặm đặt một trạm nghỉ chân. Khi đâu đó xong xuôi, nhà vua báo tin cho Phật biết rằng Ngài có thể lên đường. Ðức Phật ra đi, dắt theo năm trăm vị Tỳ kheo. Trên mỗi dặm đường, nhà vua ra lệnh trải hoa ngũ sắc ngập đến đầu gối, cờ lọng giăng đầy, hai lọng trắng che trên đức Thế Tôn, còn mỗi vị Tỳ kheo một lọng trắng. Chung quanh Phật và các Tỳ kheo, nhà vua tung hoa, rắc hương, mỗi trạm nghỉ đêm nhà vua cúng dường vật thực thật nhiều. Trong năm ngày, nhà vua đưa Phật ra đến bờ sông, trang hoàng một chiếc thuyền lộng lẫy rồi nhắn tin cho dân thành Tỳ Xá Ly:

- Hãy sửa soạn đường sá và cung nghinh đức Thế Tôn.

Dân Tỳ Xá Ly tự nhủ: "Chúng ta sẽ đón tiếp Thế Tôn long trong gấp hai lần vua Tần Bà Sa La.” Vì thế, từ bờ sông Hằng đến Tỳ Xá Ly dài ba dặm, họ dọn đất bằng phẳng dựng cờ lọng dãy cao dãy thấp, dành riêng cho Phật bốn lọng, các Tỳ kheo mỗi vị hai lọng. Chuẩn bị xong, họ đứng chờ bên này bờ sông.

Vua Tần Bà Sa La cột hai chiếc thuyền lại với nhau, dựng mái che ở trên, trang hoàng đầy hoa rực rỡ, đặt một chiếc ghế bằng các loại ngọc cho Phật ngồi. Ðức Thế Tôn ngồi vào ghế, chư Tỳ kheo bước xuống thuyền, ngồi vây quanh đức Phật. Nhà vua đi theo thuyền, lội xuống nước tận đến cổ, và bạch Phật.

- Bạch đức Thế Tôn, con sẽ ở lại bên bờ sông này, đợi Ngài trở về.

Nói xong, vua đẩy thuyền ra giữa dòng và trở vào. Sau khi thuyền bơi được một dặm, Phật đến giang phận thành Tỳ Xá Ly.

Các Hoàng tử dòng Licchavi đến đón đức Phật, họ cũng lội xuống nước ngang cổ, kéo thuyền vào bờ và đưa đức Phật rời thuyền lên bờ. Khi Phật vừa đặt chân lên bờ, một cơn bão lớn nổi lên, mưa như trút, nước dâng lên cao, cuốn sạch các tử thi xuống sông, và toàn thể thành phố trở nên sạch sẽ tinh khiết. Các Hoàng tử Licchavi mời Phật nghỉ chân từng dặm đường, dâng cúng phẩm vật gấp đôi số phẩm vật của vua Tần Bà Sa La. Sau ba ngày, Phật đến Tỳ Xá Ly.

Thiên chủ Ðế Thích bay xuống đấy, cả chư thiên tùy tùng; với ảnh hưởng quyền lực rộng lớn như thế, các ác thần chạy trốn gần hết. Vào buổi chiều, đức Phật đứng ở cổng thành, ra lệnh cho Tôn giả A Nan.

- Này A Nan, hãy nghe ta nói kinh Kim Cương và đi quanh thành trùng tụng lại để tạo năng lực bảo hộ trên ba lớp thành Tỳ Xá Ly, thành phố của các Hoàng tử Licchavi.

Tôn giả A Nan tiếp nhận kinh từ kim khẩu Thế Tôn, lấy nước trong bình bát của Phật, rồi đi ra đứng tại cổng thành Tỳ Xá Ly. Tôn giả quán tưởng về tất cả công hạnh của Phật "Bắt đầu từ ý chí quyết thành Phật, đến mười Ba la mật của Như Lai, năm pháp đại thí, ba ân đức, là vì lợi lạc cho thế giới, vì lợi lạc cho thân quyến và cho sự tìm cầu giác ngộ; Bồ tát vào thai mẹ trong đời sống cuối cùng, Ðản sanh, Xuất gia, hành Khổ hạnh, hàng phục Ma vương, đạt Tam Minh và chín tầng Thiền Ðịnh.” Quán tưởng như thế xong, Tôn giả đi vào thành, suốt ba canh trong đêm đi kinh thành trong ba lớp thành, vừa đi vừa tụng đọc kinh Kim Cương như một năng lực bảo hộ.

Khi Tôn giả đọc đến đoạn thứ ba và rải nước, những giọt nước rơi trúng các ác ma. Từ đoạn thứ ba trở đi, những giọt nước kết tụ thành những quả cầu bằng bạc nhỏ tí, bay trên không trung đến nơi trên các người bệnh. Lập tức họ lành bệnh, trỗi dậy khắp mọi nơi và vây quanh Tôn giả. Cũng thế, khi câu kinh đoạn ba vừa đọc lên, các loài ác ma chui núp trong đống củi, đống rác, kẹt tường, khi chạm nhằm các giọt nước ấy đều trốn hết, chúng chen chúc nhau chật cửa đến nỗi phải phá tường mà chui ra.

Dân chúng dùng đủ loại hương rảy lên trên hội trường thành phố nằm ngay trung tâm Tỳ Xá Ly, cho dựng mái che ở trên gắn đầy sao vàng và các thứ trang sức khác, sắp đặt chỗ cho Thế Tôn ngồi. Ðức Thế Tôn ngồi vào tòa, các vị Tỳ kheo và các Hoàng tử Licchavi ngồi vây quanh thành vòng tròn, rồi thiên chủ Ðế Thích cùng chư thiên quyến thuộc cũng đứng vào chỗ của mình. Tôn giả A Nan đi quanh thành vừa xong, trở về cùng với số đông các người bệnh được chữa lành, cũng đến đảnh lễ Phật, ngồi một bên. Ðức Thế Tôn quan sát chúng hội, lặp lại kinh Kim Cương thêm một lần nữa. Nghe xong có tám muôn bốn ngàn người được Pháp nhãn. Ðiều này xảy ra liên tiếp bảy hôm nữa, đức Thế Tôn vẫn dạy cùng một bài kinh trên. Sau đó, nhận thấy tất cả thiên tai đều tiêu trừ, Ngài giảng dạy cho các Hoàng tử Licchavi xong, rời thành Tỳ Xá Ly. Các ông hoàng tôn phụng Thế Tôn gấp bội, và lần nữa suốt ba ngày theo sau Phật đến bờ sông Hằng.

Các vua rồng cư trú tại sông Hằng tự nghĩ: "Loài người đã tôn kính Như Lai, tại sao chúng ta không làm như thế?" Bèn hóa hiện những con thuyền bằng vàng, bạc, châu báu, trên ấy đặt ghế trân bảo, mặt nước trải đầy hoa sen ngũ sắc. Các vua rồng thỉnh Phật lên thuyền:

- Bạch Thế Tôn, xin hãy ban phước cho chúng con.

Lúc ấy, chư thiên từ cõi trời Dục đến cõi trời Phạm bảo nhau:

- Người và rồng đã tôn kính Như Lai, tại sao chúng ta không làm như thế?

Và họ cùng tôn vinh Phật. Các long vương dựng những cây lọng này kế tiếp cây lọng kia, cao một dặm và bên dưới, các long vương khác cũng làm như thế. Các loài chư thiên ở trên cây, trong rừng, trên núi, trên trời, từ thế giới rồng đến cõi trời Phạm, tụ họp thành vòng tròn, mỗi vị tay cầm lọng, giữa lọng là cờ, giữa cờ là phướn, tung hương rải hoa, rưới nước thơm. Các thiên nam trang sức lộng lẫy như ngày hội, bay lượn trên không, ca ngợi vang rền (Theo truyền thống, có ba cuộc đại hội như thế: một vào dịp Phật hóa hiện thần thông song hành, một vào dịp Ngài từ cung trời xuống, và một vào dịp sông Hằng dâng nước). Bên bờ sông phía thành Vương Xá, vua Tần Bà Sa La đã chuẩn bị phẩn vật gấp đôi số phẩm vật của các Hoàng tử Licchavi và đứng đợi đức Phật.

Khi đức Phật nhìn thấy các phẩm vật long trọng của các vị vua hai bờ sông Hằng, nhìn thấu tư tưởng của chư thiên, long vương, Ngài bèn hóa thiện một hóa Phật và năm trăm Tỳ kheo cho mỗi chiếc thuyền. Cũng y như thế, một vị hóa Phật ngồi dưới mỗi cây lọng trắng, một vị ngồi dưới mỗi cội cây như ý, một vị ngồi dưới mỗi vòng hoa báu, vây quanh là vô số rồng thần. Giữa các chư thiên cõi người và cõi trời, cũng có một vị hóa Phật và đồ chúng. Như là một dịp lễ hội của toàn cõi thế giới, và để tỏ lòng chiếu cố loài rồng, trên mỗi chiếc thuyền bằng châu báu của loài rồng có một vị hóa Phật ngồi, và để chiếu cố chúng Tăng, trên mỗi thuyền châu báu đều có hóa Phật ngồi.

Long vương đưa Phật và chúng Tăng xuống long cung, nghe Phật giảng pháp suốt đêm; ngày sau cúng dường Phật và Tăng chúng những thức ăn thượng vị loại cứng, loại mềm. Sau khi hồi hướng phước báo cho vua rồng, đức Phật rời long cung, cùng đoàn thuyền năm trăm chiếc bơi ngang sông Hằng, trong sự cung nghinh của chư thiên trời Ðế Thích. Vua Tần Bà Sa La đến đón Phật, thỉnh Ngài rời thuyền, cúng dường, tiếp đón Phật long trọng gấp đôi các ông hoàng Licchavi, và đưa Phật về thành Vương Xá.

Hôm sau, các Thầy Tỳ kheo đi dự hội trở về, ngồi bàn tán tại pháp đường:

- Ôi! Thần thông của đức Thế Tôn thật phi thường. Thật thành tín thay! Lòng thành kính tin tưởng của người và trời đối với Thế Tôn. Suốt tám dặm trải dài dọc theo hai bờ sông Hằng, với lòng kính tin Phật, các nhà vua đã dọn bằng phẳng đất đai, trải cát sạch, rải hoa ngập đến đầu gối. Còn long vương thì rắc hoa sen ngũ sắc đầy trên sông, cờ lọng giăng từ thấp lên đến các tầng trời, toàn cõi thế giới trang hoàng như ngày lễ.

Ðức Phật đến gần và hỏi:

- Các ông ngồi đây bàn tán chuyện gì?

Và khi nghe kể lại, Ngài bảo:

- Sự tôn kính và các phẩm vật ấy dành cho Ta không phải do thần thông của Phật, không phải do thần thông của long vương và chư thiên. Ðó là do một phẩm vật đơn sơ Ta đã cúng dường từ quá khứ, mà hiện tại Ta nhận được như thế.

Các Thầy Tỳ kheo hỏi lý do. Ðức Phật kể lại câu chuyện quá khứ.

A. Bà La Môn Samkha

Thuở xưa, cách đây rất lâu, có một người Bà la môn tên Samkha, cư ngụ tại Takkasilà, ông có một người con trai mười sáu tuổi tên Susìma. Ngày kia Susìma nói với cha:

- Thưa cha, con muốn đến Ba La Nại, học tập kinh điển.

- Tốt lắm, ta có một người bạn Bà la môn ở đấy, con sẽ học với ông ta.

Susìma nghe lời cha, đến Ba La Nại tìm người Thầy Bà la môn. Người Bà la môn nhận con của bạn mình làm đồ đệ. Và sau khi đã nghỉ ngơi, chàng bắt đầu học với Thầy. Chàng học rất nhanh, rất nhiều và nhớ hết, không sót một điều gì, như sữa sư tử đựng trong bình vàng, không chảy ra giọt nào. Không bao lâu chàng học hết của Thầy những gì đáng học. Chàng đọc tụng thông suốt, hiểu thấu đoạn đầu, đoạn giữa, nhưng không hiểu đoạn cuối. Chàng thưa điều ấy với Thầy, Thầy bảo:

- Này con, ta cũng không hiểu đoạn cuối.

- Vậy ai là người hiểu đoạn cuối, thưa Thầy.

- Ở Isipatana có những bậc hiền triết, may ra hiểu thấu, con hãy đến đấy hỏi.

Susìma đến chỗ các vị Phật Ðộc Giác và hỏi:

- Có thật là các Ngài hiểu rõ đoạn này?

- Phải, chúng ta hiểu.

- Xin hãy dạy cho con.

- Chúng ta không dạy cho người chưa xuất gia. Nếu con muốn học, hãy trở thành Sa môn.

Chàng Susìma đồng ý xuất gia và trở thành một Sa môn trong giáo đoàn của các vị Ðộc Giác. Các Ngài dạy Thầy Sisìma: "Hãy mặc hạ y như thế này, hãy mặc thượng y như thế... " Như thế, Thầy học oai nghi của người sơ cơ.

Ở lại đây như một đồ đệ ngoan ngoãn, Thầy học hết những gì được dạy, vì có khả năng đặc biệt nên không bao lâu Thầy đạt quả vị Ðộc Giác. Danh tiếng Susìma nổi như cồn trong thành Ba La Nại như mặt trăng tròn trên bầu trời, Ngài nhận nhiều sự tôn kính và cúng dường. Chẳng bao lâu, Phật Ðộc Giác Susìima nhập Niết bàn, bởi vì các nghiệp Ngài tạo tác chỉ đưa đến một thọ mạng ngắn. Các vị Phật Ðộc giác và dân chúng làm lễ hỏa táng trọng thể, thu nhập Xá Lợi, xây tháp thờ tại cổng thành.

Khi ấy, người cha nghĩ thầm: "Con ta đi khá lâu, ta sẽ đi tìm thăm xem việc gì xảy ra cho nó.” Ông đến Ba La Nại, thấy đám đông dân chúng, ông nghĩ: "Chắc có vài người biết về con ta.” Ông bước đến hỏi:

- Trước đây có một thanh niên tên Susìma từng đến thành này, các vị có biết tin tức gì về chàng ấy?

- Chúng tôi biết! Người ấy học hết ba bộ Vệ Đà tại nhà Bà la môn nọ, sau đó xuất gia làm Sa môn, đạt quả vị Ðộc Giác và nhập Niết bàn. Tháp này là tháp của vị ấy.

Nghe nói xong, Bà la môn đập tay xuống đất, khóc than kể lể, đi chung quanh tháp. Ông nhổ sạch cỏ quanh tháp, dùng áo đựng cát sạch rải chung quanh tháp, tưới nước, tung hoa để tỏ lòng kính trọng, trải áo ra như một lá phướn và cắm cây lọng của mình che trên tháp, xong rồi đi về.

Kể xong chuyện, Phật kết luận:

- Lúc ấy Ta là Bà la môn Samkha, do phước báo nhổ cỏ chung quanh tháp của vị Phật Ðộc Giác Susìma, nên hiện tại ông hoàng dọn sạch con đường dài tám dặm, không còn cây cỏ, đất bằng phẳng. Vì Ta trải cát quanh tháp, nên con đường dài Ta đi hôm nay cũng được rải cát. Vì Ta tung hoa lên tháp nên hôm nay các loại hoa được rải trên đường, và một dặm trên sông Hằng đầy hoa sen ngũ sắc. Vì Ta tưới nước quanh tháp nên khi ta vừa đến Tỳ Xá Ly một trận mưa rơi xuống. Vì Ta treo cờ cắm lọng nên toàn thể chư thiên cầm cờ lọng cao đến tận trời.

Này các Tỳ kheo, các phẩm vật và những sự tôn kính ấy không phải tự nhiên đến với ta do thần lực của Ta là thật, không do thần lực của trời, rồng. Trái lại từ thần lực có từ những phẩm vật thô sơ Ta cúng dường từ thời quá khứ.

Ngài nói kệ:

(290) Nhờ từ bỏ lạc nhỏ,

Thấy được lạc lớn hơn,

Bậc trí bỏ lạc nhỏ,

Thấy được lạc lớn hơn.

2. Không Lấy Oán Báo Oán

Gieo khổ đau cho người...

Câu chuyện này xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên hệ đến một người đàn bà ăn trứng của một con gà.

Trong một ngôi làng không xa thành Xá Vệ, có một người đánh cá. Một hôm trên đường đi đến thành Xá Vệ, ông bắt gặp một vài cái trứng rùa dọc theo bờ sông Aciravatì, ông bèn nhặt lấy. Ðến Xá Vệ, ông vào nhà người quen, luộc mấy quả trứng, khi ngồi ăn ông cho cô con gái chủ nhà một trứng. Cô bé ăn xong, đòi ăn thêm, bà mẹ phải lấy trứng trong ổ con gà mái luộc cho cô. Cô bé ăn trứng gà, từ đó cô đâm thích món ăn này và thường tự lấy trứng ăn.

Con gà mẹ để ý rằng mỗi lần mình đẻ trứng đều bị cô bé mang đi ăn hết; nổi cơn bất bình oán hận cô, nó thề rằng: "Khi tôi chết, tôi sẽ tái sanh làm chằn tinh, ăn thịt mấy đứa con cô này.” Sau khi chết nó trở lại làm con mèo của nhà này, còn cô bé trở lại làm gà mái. Gà mái đẻ trứng đều bị mèo ăn hết, như vậy đến ba lần. Gà mái tức quá bèn trù: "Ba lần ngươi ăn trứng của ta, còn muốn ăn thịt cả ta. Khi ta tái sanh, ta sẽ nhai xương ngươi và con ngươi.”

Sau đó gà mái sanh làm beo rừng, con mèo thành con nai. Khi nai có con, beo đến ăn thịt cả mẹ lẫn con. Như thế trong năm trăm kiếp liên tục, họ ăn nuốt lẫn nhau, gây đau khổ cho nhau. Cuối cùng một bên làm bà chằn, một bên làm phụ nữ trong thành Xá Vệ. Câu chuyện tiếp diễn như cũ, cho đến khi gặp Phật, Ngài dạy câu:

(291) Gieo khổ đau cho người,

Mong cầu lạc cho mình,

Bị hận thù ràng buộc,

Không sao thoát hận thù.

Hai kẻ thù nghe xong, bà chằn xin quy y, thọ năm giới. Không còn hận thù, người đàn bà nọ cũng chứng Sơ quả. Hội chúng đều được lợi ích.

3. Các Tỳ Kheo Phù Hoa

Việc đáng làm không làm...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại hang động Jàtiyà gần Bhaddiya, liên hệ đến các Tỳ kheo Bhaddiya.

Một thời, đức Thế Tôn đang ở tại động Jàtiyà, gần thành Bhaddiya. Các Tỳ kheo ở đây có thói quen trang trí giày dép của các Thầy, như trong Vệ Đà diễn tả "Các Tỳ kheo ở Bhaddiya có thói quen mang những đôi dép sặc sỡ đủ kiểu.” Họ tự làm hoặc đặt làm những đôi dép bằng vật liệu quý nhẹ, đắt tiền, đúng mốt, hợp thời trang... Như thế họ lơ là với học hỏi, giới luật, Thiền định, Trí tuệ.

Các Tỳ kheo khác thấy thế rất bực tức, bèn bạch với Phật. Phật quở trách mấy Thầy ham chưng diện này:

- Các ông đến đây vì mục đích gì, mà bây giờ đeo đuổi chuyện vô ích như thế?

Ngài nói kệ:

(292) Việc đáng làm, không làm,

Không đáng làm, lại làm,

Người ngạo mạn, phóng dật,

Lậu hoặc ắt tăng trưởng.

(293) Người siêng năng cần mẫn,

Thường thường quán thân niệm,

Không làm việc không đáng,

Gắng làm việc đáng làm.

Người tư niệm giác tỉnh,

Lậu hoặc được tiêu trừ.

Các Thầy Tỳ kheo ưa đẹp này nghe xong, liền chứng A la hán, hội chúng cũng được lợi ích.

4. Sa môn Giết Cha Mẹ

Sau khi giết mẹ cha...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Lakuntaka Bhaddiya.

Một thời, đức Thế Tôn đang ở tại Kỳ Viên, có một số Tỳ kheo đến viếng thăm Ngài. Sau khi đảnh lễ, các Thầy kính cẩn lui ngồi một bên. Khi ấy Tôn giả Lakuntaka Bhaddiya đi ngang đấy không xa. Ðức Phật biết tâm của các Tỳ kheo đúng lúc, Ngài nhìn Tôn giả và nói với các Tỳ kheo.

- Các ông hãy nhìn kia! Ðó là Tỳ kheo đã giết cha, giết mẹ, thoát khổ đau.

- Ðức Thế Tôn nói gì thế?

Các Tỳ kheo kêu lên, nhìn nhau, nghi ngờ, và hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ngài nói gì?

Phật bèn nói kệ:

(294) Sau khi giết mẹ cha,

Giết hai vua Sát lợi,

Giết vương quốc, quần thần,

Vô ưu, Phạm chí sống.

Nghe xong các Thầy chứng A la hán.

Câu chuyện liên quan câu kệ sau cũng giống như chuyện trên, Phật cũng nói về Tôn giả Lakuntaka:

(295) Sau khi giết mẹ cha,

Hai vua Bà la môn,

Giết hổ tướng thứ năm (nghi)

Vô ưu, Phạm chí sống.

[Theo Chú Giải: ... ” Mẹ (mata) là ẩn dụ cho lòng tham ái (tanha), và cha (pita) là ẩn dụ của ngã mạn (mana). Chính vì tham ái và ngã mạn mà ta phải tái sinh nhiều đời, nhiều kiếp trong cõi ta bà luân hồi này. Hai vị vua chính là hai biên kiến của vô minh: thường kiến (eternalism) và đoạn kiến (annihilationism), thường tạo ra nhiều tranh cãi vô ích, cần phải được phá bỏ. Vương quốc lãnh thổ kia chính là 6 căn và 6 trần: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, và sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Vị Quốc khố đại thần (treasurer) là để chỉ lòng tham đắm dục lạc phát sinh và chất chứa từ 6 căn đó. Sau cùng, hổ tướng thứ năm chính là con quỷ thứ năm làm cản trở sự định tâm, phát tuệ. Ðó là "nghi" của 5 triền cái: tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử, và hoài nghi. Sau khi đã đoạn diệt tất cả các chướng ngại nầy thì hành giả mới thong dong, tự tại, đi đến giải thoát... "]

5. Cậu Bé Và Quỷ Dữ

Luôn luôn tự tỉnh giác...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Trúc Lâm, liên quan đến một cậu bé con người bán củi.

Tại thành Vương Xá, có hai đứa bé thường chơi banh với nhau, một đứa là Phật tử, một đứa là con nhà ngoại đạo. Thiếu niên Phật tử thường niệm tưởng đức Phật, mỗi khi tung banh lên, em đọc "Nam mô Phật Đà.” Em con nhà ngoại đạo thường xưng tụng công đức các ngoại đạo, và mỗi khi tung banh lên em đọc "Nam mô A la hán.” Trong trò chơi, thiếu niên Phật tử thường thắng cuộc, còn cậu bé ngoại đạo thường thua. Quan sát đối phương, cậu bé nghĩ: "Bạn trẻ này thường tưởng nhớ đức Phật và đọc như thế mỗi khi tung banh, và do đó thường thắng ta. ta cũng sẽ làm như vậy.” Và em bắt đầu tập thói quen niệm tưởng Phật Đà.

Một ngày nọ, cha em đánh xe vào rừng tìm củi, đem em đi theo. Sau khi chất đầy xe củi, ông trở về. Trên đường về, ông dừng lại tại một bãi đất hỏa táng ngoài thành, chọn địa điểm sạch sẽ, đủ nước, cỏ rồi đem cơm ra ăn. Chiều đến, con bò kéo xe của ông đi theo một bầy trâu bò vào thành. Người cha chạy theo bắt bò lại, trở ra thì trời đã tối, cổng thành đóng ông không ra được. Ðêm ấy, cậu bé ở ngoài bãi tha ma ngủ một mình dưới chiếc xe.

Lúc ấy, thành Vương Xá thường có vài ác quỷ lui tới, gần bãi đất hỏa táng có hai con quỷ chú ý đến cậu bé nằm ngủ ở đấy. Một con quỷ thường hay tìm mỗi trên bãi đất hỏa táng và theo tà đạo, con quỷ kia thì chân chánh. Quỷ tà bảo quỷ chánh:

- Ðứa bé này là mồi ngon, chúng ta hãy ăn thịt nó.

Quỷ chánh bảo;

- Thôi đi! Ðừng nghĩ bậy.

Mặc dù nó cố gắng cản ngăn, quỷ tà cứ làm theo ý mình, nó nắm chân cậu bé định xé đôi. Lúc ấy, theo thói quen tưởng niệm Phật, cậu bé trong giấc ngủ chợt nói: "Nam mô Phật", con quỷ tà kinh sợ thối lui. Quỷ chánh nói:

- Chúng ta làm điều không nên làm, chúng ta sẽ bị phạt.

Và để chuộc lỗi, nó đứng canh cho cậu bé, còn quỷ tà vào thành, lấy một cái dĩa bằng vàng ròng trong cung vua, đựng đầy thức ăn đem về. Cả hai con quỷ săn sóc cậu bé như cha mẹ, đánh thức cậu dậy và đưa thức ăn cho cậu. Sau đó chúng dùng quyền lực khắc thư lên dĩa kể lại câu chuyện xảy ra, bảo nhau: "Hãy để nhà vua đọc thư này, người khác không thể đọc.” Ðể dĩa lên chiếc xe, chúng đứng canh suốt đêm, và đến sáng mới đi.

Ngày sau đó, tin truyền rằng ăn trộm lấy mất dĩa vàng của nhà vua. Dân chúng đóng cửa thành và lục tìm. Tìm không thấy, họ ra ngoài thành, lục lọi khắp nơi, họ thấy chiếc dĩa trên xe của cậu bé. Họ túm lấy cậu và điệu về trình vua:

- Ðây là ăn trộm.

Nhà vua nhận chiếc dĩa, đọc xong câu chuyện viết trên ấy, hỏi:

- Này con, thế này nghĩa là gì?

- Thưa đại vương, con không biết. Ðêm rồi, cha mẹ con mang thức ăn đến cho con và canh chừng cho con ngủ. Con yên chí có cha mẹ nên không sợ và ngủ ngon. Ðó là những gì con biết.

Ðúng lúc ấy, cha mẹ cậu bé vừa đến. Nghe họ bảo rằng đã để con một mình ngoài thành... Nhà vua đưa cả ba đến chỗ Phật, kể lại câu chuyện và hỏi:

- Bạch Thế Tôn, có phải niệm tưởng Phật là một sự che chở, hay niệm tưởng Pháp và những điều khác cũng được hộ trì?

Ðức Phật trả lời:

- Này đại vương, niệm tưởng Phật Đà không phải chỉ là cách duy nhất có ý nghĩa được bảo hộ, nhưng người Phật tử chân chánh thực hành thâm sâu niệm tưởng một trong sáu đề mục thì không cần bất cứ sự bảo hộ nào, phương cách bảo hộ nào, câu thần chú nào, hay dược thảo nào cả.

Ngài nói kệ:

(296) Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Thường tưởng niệm Phật Ðà.

(297) Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Thường tưởng niệm Chánh pháp.

(298) Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Thường tưởng niệm Tăng- già.

(299) Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm

Thường tưởng niệm sắc thân.

(300) Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Ý vui niềm bất hại.

(301) Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Ý vui tu Thiền quán.

6. Hoàng Tử Bạt Kỳ Làm Sa Môn

Vui hạnh xuất gia khó...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Tinh xá Ðại Lâm (Mahàvàna) gần thành Tỳ Xá Ly, liên quan đến một ông hoàng dòng Bạt Kỳ (Vajjian) đã xuất gia thành Sa môn. câu chuyện như sau:

Một ông hoàng dòng Bạt Kỳ xuất gia làm Sa môn. Thầy Sa môn vương giả này sống ẩn cư trong một khu rừng gần thành Tỳ Xá Ly. Thành phố tổ chức đại lễ tưng bừng suốt đêm. Thầy Sa môn Hoàng tử nọ nghe tiếng xôn xao, tiếng trống tiếng nhạc từ thành Tỳ Xá Ly vọng lại, Thầy nổi cơn sầu muộn, bèn buồn khóc rên rỉ:

Ta cô đơn trong rừng,

Như khúc cây bị bỏ.

Trong đêm như đêm nay,

Có ai bằng ta khổ.

Nguyên Sa môn này đã từng là Hoàng tử trong vương quốc Bạt Kỳ, khi đến phiên mình trị nước, đã từ bỏ Hoàng cung xuất gia làm Sa môn. Vào ngày trăng tròn tháng Kattika, toàn thể phố xá thành Tỳ Xá Ly treo cờ kết lọng, tổ chức hội hè. Dạ hội kéo dài tận đêm, Thầy Sa môn nghe tiếng trống, tiếng kèn, tiếng âm nhạc, đàn lục huyền... Khi bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy Hoàng tử Vesàli cũng như bao nhiêu Hoàng tử, đại thần trang sức lộng lẫy, đổ xô ra đường dự hội, thì Thầy một mình đi kinh hành trong hành lang rộng sáu mét, trên đầu chỉ có một vầng trăng. Thầy đến ngồi trên ghế, suy nghĩ về thân phận mình, thiếu cả hội hè, thiếu cả quần aó trang sức, như khúc gỗ bị ném bỏ trong rừng. Thầy tự nghĩ: "Có ai bất hạnh hơn ta không?"

Bình thường, Thầy có đủ công hạnh, và đức tính của một vị ẩn tu, nhưng trong lúc này vì bất mãn Thầy đã nói như thế. Một vị lâm thần ở khu rừng ấy biết được nên tự nhủ: "Ta sẽ khuyến khích Thầy", và thần nói kệ:

Ngài cô đơn trong rừng,

Như khúc cây bị bỏ.

Nhiều người ước được thế,

Như kẻ đoạ Địa ngục,

Ganh người ở thiên đàng.

Vị Sa môn nghe kệ, ngày hôm sau đến chỗ đức Phật, đảnh lễ và cung kính ngồi một bên. Phật đã dự biết, và muốn nói cho Thầy biết đầy đủ về khổ đau của đời sống thế gian. Ngài nói về năm thứ đau khổ trong bài kệ:

(302) Vui hạnh xuất gia khó,

Tại gia sinh hoạt khó,

Sống bạn không đồng, khổ,

Trôi lăn luân hồi, khổ,

Vậy chớ sống luân hồi,

Chớ chạy theo đau khổ.

7. Cư sĩ Tâm - Người Thành Tín

Tín tâm, sống giới hạnh...

Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Cư sĩ Tâm (Citta).

Citta là một nam Cư sĩ giàu tâm đạo, chàng luôn được quý trọng mỗi khi đến hầu Phật. Tôn giả A Nan thấy thế bèn hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ khi nào Citta đến viếng Phật mới được trọng vọng như thế? Hay cũng được quý trọng khi đến thăm các người khác?

Phật dạy:

- Này A Nan! Ông ấy luôn được quý trọng như vậy, dù cho đến viếng Ta hay viếng ai. Vì Cư sĩ ấy đầy niềm tin, tâm đạo và đức hạnh. Người như thế, dù đi đến nơi nào cũng được tôn kính.

Ngài nói kệ:

(303) Tín tâm, sống giới hạnh,

Ðủ danh xưng, tài sản,

Chỗ nào người ấy đến,

Chỗ ấy được cung kính.

8. Cô Gái Ðức Hạnh

Người lành dù ở xa...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Cullà Subhaddà, con gái ông Cấp Cô Ðộc.

Thời còn niên thiếu, Cấp Cô Ðộc có một người bạn thân tên Úc Già, cũng con nhà Trưởng giả, họ cùng học chung một Thầy, và cùng hứa hẹn rằng sau này khi thành gia thất, cả hai sẽ gả con cho nhau để kết thêm tình thân ái. Và sau đó Cấp Cô Ðộc cùng Úc Già đều trở thành Trưởng giả tại thành phố của mình.

Trong một chuyến buôn xa, Trưởng giả Úc Già đến thành Xá Vệ với năm trăm cỗ xe. Ông Cấp Cô Ðộc bèn kêu con gái, cô Cullà Subhaddà, đến dặn dò:

- Này con, cha con - ông Úc Già - đến viếng nhà, con hãy săn sóc ông thật đầy đủ.

- Thưa cha, vâng.

Và khi ông Úc Già đến, cô đích thân sửa soạn thức ăn với đầy đủ hương liệu, chuẩn bị phấn, kem, nước thơm, dầu xức... tất cả tiện nghi cho ông. Sau khi ông dùng bữa, cô chăm sóc phòng tắm một cách chu đáo làm tròn phận sự mình.

Trưởng giả Úc Già nhận thấy cô hoàn toàn, nên hả dạ lắm. Trong một buổi nói chuyện tương đắc, ông nhắc lại với Cấp Cô Ðộc lời hứa ngày xưa, và xin cưới cô Cullà cho con trai mình. Trưởng giả Úc Già theo ngoại đạo, nên ông Cấp Cô Ðộc đến hỏi ý kiến Phật. Thế Tôn biết Úc Già có duyên chứng Thánh quả nên khuyên ông nhận lời; và Cấp Cô Ðộc sau khi bàn với vợ, đã đồng ý với Úc Già, rồi định ngày hôn lễ.

Như Trưởng giả Dhananiaya khi gả cô Visàkha, Trưởng giả Cấp Cô Ðộc cũng cho con thật nhiều của hồi môn. Ông cũng khuyên con mười điều: "Này con, khi sống trong nhà cha mẹ chồng, chớ đem lửa trong nhà ra ngoài... ” Ông cũng cho tám người theo đỡ đầu cho cô Cullà.

- Nếu con gái ta có lỗi lầm gì với cha mẹ chồng, các ông hãy chỉ dạy nó.

Ngày hôn lễ, ông cúng dường Phật và Tăng chúng trọng thể, và để chứng tỏ những quả báo tốt đẹp của cô trong quá khứ, ông đưa cô về nhà chồng trong nghi lễ hết sức huy hoàng.

Cô Cullà đến thành của Úc Già, gia đình chồng cùng tất cả thân quyến ra đón. Giống như Visàkha, cô ngồi trên chiếc xe ngựa, đi chào khắp thành trong vẻ lộng lẫy của một cô dâu. Cô nhận quà của mọi người và đáp lại tương xứng theo sở thích mỗi người, khiến cho tất cả thành phố ca ngợi vẻ đẹp và công hạnh của cô.

Cha chồng cô thường mời các đạo sĩ lõa thể đến nhà trong các dịp lễ lớn, dịp này các Thầy ấy cũng có mặt. Cha chồng cô ra lệnh:

- Hãy đến ra mắt và làm lễ tôn kính với các bậc Thầy của ta.

Nhưng cô Subhaddà không thể nhìn vào các đạo sĩ lõa thể, cô từ chối không đến chào. Lần thứ hai, lần thứ ba, cô cũng không đến chào, ông cha chồng của cô nổi giận:

- Hãy đuổi con bé ấy ra khỏi nhà.

Cô trả lời:

- Không thể kết tội con mà không có nguyên nhân.

Cô mời các vị bảo hộ đến, trình bày mọi việc, và họ công nhận cô vô tội.

Ông Trưởng giả thuật chuyện với vợ và bảo:

- Con dâu ta từ chối không làm lễ các đạo sĩ vì nó cho rằng các Thầy ấy khiếm nhã.

Bà hỏi:

- Tư cách của các Thầy nó thế nào mà nó tôn kính đến vậy?

Bà gọi con dâu đến hỏi:

Các Thầy con khen ngợi

Tư cách họ ra sao?

Giới luật gì họ giữ?

Tu tập những hạnh nào?

Ðể trả lời, cô Subhaddà ca tụng ân đức của Phật và các đệ tử Phật:

Căn các Thầy thanh tịnh,

Tâm các Thầy thanh tịnh.

Thanh tịnh khi Thầy đi,

Khi đứng cũng an định.

Mắt Thầy luôn nhìn xuống,

Miệng ít khi nói năng,

Các Sa môn Thầy con,

Thân khẩu ý tịch lặng,

Như hạt ngọc không tỳ,

Trong lẫn ngoài đều sáng.

Phẩm hạnh luôn xứng đáng

Các Thầy con như vậy.

Thế gian buồn khi mất,

Khi được thì vui mừng.

Các Thầy con không thế,

Ðược mất đều dửng dưng.

Vinh danh thế gian vui,

Hổ danh thế gian sầu.

Các Thầy con không vậy,

Vinh nhục tâm chẳng màng.

Thế gian mừng được khen

Thế gian buồn bị chê.

Các Thầy con không thế,

Ðiềm nhiên dù khen chê.

Thế gian khóc cười theo,

Khổ vui trong cuộc sống.

Các Thầy con thanh thản,

Vui khổ chẳng động lòng.

Với các câu trả lời như thế, Subhaddà làm mẹ chồng hài lòng. Bà hỏi:

- Chúng ta có thể gặp các Thầy của con?

- Thưa, được.

- Tốt lắm, hãy sắp đặt để chúng ta được gặp.

Subhaddăa liền chuẩn bị nhiều phẩm vật cho Phật và chúng Tăng. Cô leo lên lầu cao, hướng về phía Thế Tôn, đảnh lễ năm vóc sát đất, tưởng niệm ân đức Phật Đà, tôn kính Phật bằng hương thơm, hoa và nhang trầm, cô tung lên hư không một vốc hoa lài và thốt lên:

- Bạch đức Thế Tôn, con thỉnh Ngài và chư Tăng ngày mai đến nhà con. Xin để cho Ngài biết rằng con đã cung thỉnh.

Hoa lài bay qua hư không, kết lại thành tràng, dừng trước đức Phật, khi Ngài đang giảng pháp cho chúng hội.

Vào lúc ấy, Trưởng giả Cấp Cô Ðộc cũng thỉnh Phật đến nhà ngày mai. Phật trả lời:

- Này Trưởng giả, Ta đã nhận lời mời của người khác.

- Nhưng, đâu có ai đến trước con, Ngài đã nhận lời ai?

- Cullà Subhaddà mời Ta.

- Con gái con ở cách xa đây hơn một trăm hai mươi dặm, làm sao mời được?

- Ðúng thế, nhưng người lành dù ở xa, vẫn hiện rõ như ở gần.

Ngài nói kệ:

(304) Người lành dù ở xa,

Sáng tỏ như núi tuyết.

Người ác dầu ở gần,

Như tên bắn đêm đen.

Vua trời Ðế Thích biết đức Phật nhận lời thỉnh của Subhaddà, ra lệnh cho thần Vissakamma:

- Hãy hóa hiện năm trăm ngôi tháp, ngày mai đưa Phật và chúng Tăng đến thành của Úc Già.

Ngày hôm sau, Vissakamma biến đủ năm trăm ngôi tháp và đứng đợi ở cổng Kỳ Viên. Ðức Phật đem theo năm trăm vị A la hán, và Ngài cùng chúng Tăng ngồi vào tháp, bay đến thành Úc Già. Trưởng giả Úc Già cùng gia quyến theo sự chỉ dẫn của Subhaddà đứng đợi ở con đường Phật sẽ đến. Ông thấy đức Phật và chúng Tăng đi đến trong vẻ trang nghiêm siêu phàm, lòng tràn đầy hoan hỷ. Ông tỏ lòng cung kính rất mực, rước Phật và chúng Tăng vào nhà, tung hương rải hoa, cúng dường long trọng, thỉnh Phật ở lại bảy hôm. Phật thuyết pháp, và sau đó Trưởng giả Úc Già cùng tám mươi bốn ngàn người đều đắc Pháp nhãn. Ðặc biệt ban ân cho Subhaddà, Phật chỉ định Tôn giả A Nậu Lâu Đà ở lại. Từ đó, dân thành Úc Già trở nên thần thành, giàu tâm đạo.

9. Vị Sa Môn Ðộc Cư

Ai ngồi, nằm một mình...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên hệ đến Tôn giả Ðộc Cư.

Tôn giả Ðộc Cư nổi tiếng trong bốn bộ chúng rằng Ngài là người đi một mình, đứng một mình và ngồi một mình. Các Tỳ kheo đến bạch Phật về Tôn giả:

- Bạch Thế Tôn, Trưởng lão ấy làm như thế, như thế.

Ðức Phật khen ngợi:

- Lành thay! Lành thay! Tỳ kheo ấy có thể sống độc cư:

Và khen ngợi đời sống viễn ly, đơn độc, Ngài nói kệ:

(305) Ai ngồi nằm một mình,

Ðộc hành không buồn chán.

Tự điều phục một mình,

Sống thoải mái rừng sâu.


Phẩm XXII: Ðịa Ngục

1. Cái Chết Của Tôn Ðà Lỵ

Nói láo đọa Địa ngục...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên hệ đến một nữ du sĩ ngoại đạo tên Tôn Đà Lỵ.

Khi đức Thế Tôn cùng Tăng đoàn ở tại Kỳ Viên, Ngài nhận được sự cúng dường trọng vọng của dân chúng nhiều ngang bằng một trận lũ lụt do nước các sông Ngũ Hà dâng cùng một lượt (five great rivers), và các giáo phái ngoại đạo trước sự hiện diện của Ngài, trở nên lu mờ như ngọn đèn trước ánh sáng mặt trời. Họ mất hết cả lợi lộc và danh tiếng. Ngày nọ, họ họp nhau bàn tán:

- Từ khi Sa môn Cồ Đàm xuất hiện, chúng ta bị mất hết lợi lộc và danh dự, trước kia chúng ta còn được dâng cúng, bây giờ chẳng ai thèm biết đến chúng ta. Chúng ta phải tìm cách phá vỡ danh tiếng và lợi lộc mà y đang có. Ai sẽ là người có thể làm được việc này?

Họ bàn tán du sĩ một hồi và bảo nhau:

- Có nữ du sĩ Tôn Đà Lỵ, cô ấy sẽ làm được việc.

Và khi Tôn Đà Lỵ đến tu viện của họ, chẳng ai nói với cô một lời. Cô hỏi đến hai, ba lần mà họ vẫn lặng thinh. Cô bèn hỏi:

- Thưa các vị, có ai đã gây tổn thương các vị?

- Chị không thấy Sa môn Cồ Đàm đã làm thiệt hại chúng ta, tước đoạt mọi lợi lộc, danh tiếng, mà chúng ta có từ trước?

- Con có thể làm gì đây?

- Chị có nhan sắc tuyệt vời, khả ái, hãy làm mất danh dự Sa môn Cồ Đàm, hãy khiến dân chúng đồn đại không tốt và làm mất thanh danh quyền lợi của ông ấy.

- Ðược thôi.

Tôn Đà Lỵ chấp nhận.

Sau đó, mỗi buổi chiều, khi dân chúng đi nghe pháp trở về thành, họ lại thấy Tôn Đà Lỵ trang điểm lộng lẫy đi về hướng Kỳ Viên, với hương hoa, dầu thơm, kem, phấn, long não, trái cây. Và khi họ hỏi:

- Cô đi đâu?

Cô trả lời:

- Ðến chỗ Ngài Cồ Đàm, tôi có thói quen ở lại một mình trong hương thất suốt đêm.

Và sau đó, cô đến một tu viện ngoại đạo ở lại. Sáng hôm sau, lại ngược đường trở về thành. Nếu có ai hỏi:

- Tôn Đà Lỵ, cô đi đâu thế?

Cô ta trả lời:

- Tôi đã ở lại đêm trong hương thất của Cồ Đàm, chỉ một mình và bây giờ trở về.

Vài ngày sau, nhóm ngoại đạo đưa tiền cho một số du đãng và bảo:

- Hãy giết Tôn Đà Lỵ, rồi ném thi hài cô ta nơi đống rác gần hương thất của Cồ Đàm.

Bọn du đãng làm theo mệnh lệnh. Và các ngoại đạo bắt đầu rêu rao:

- Tôn Đà Lỵ bị mất tích.

Họ tâu sự việc lên nhà vua. Vua hỏi:

- Các người có nghi ngờ ai không?

- Vài ngày trước, cô ta hãy còn ở đêm tại Tinh xá Kỳ Viên, từ đó xảy ra chuyện gì, chúng tôi không biết.

- Như thế, hãy đi tìm.

Ðược lệnh nhà vua, họ tập hợp đồ đệ kéo vào Kỳ Viên lục lọi, và thấy thi hài Tôn Đà Lỵ nằm ở đống rác trong Tinh xá. Họ khiêng tử thi về thành, tâu lên nhà vua:

- Ðám đệ tử của Sa môn Cồ Đàm đã tự nhủ: "Chúng ta sẽ che đậy được việc xấu Thế Tôn đã làm.” Do đó họ giết Tôn Đà Lỵ và vất thi thể vào đống rác.

Vua phán:

- Hãy báo cho dân chúng biết.

Các ngoại đạo đi rêu rao khắp thành:

- Hãy nhìn xem hành động của đám Sa môn đệ tử dòng họ Thích.

Với những câu phỉ báng tương tự, họ truyền tín khắp thành, rồi trở về cung vua. Nhà vua ra lệnh đặt thi hài Tôn Đà Lỵ trên đất hỏa thiêu, cắt người canh gác. Phần đông dân cư thành Xá Vệ, trừ các Thánh đệ tử, đều la ó:

- Coi kìa, đám đệ tử dòng họ Thích đã làm nên chuyện này.

Trong thành, ngoài thành, trong rừng, trong xóm, họ đều chửi mắng các Sa môn. Các Thầy đến bạch Phật, Phật dạy:

- Các ông chê trách họ làm gì. Ngài nói kệ:

(306) Nói láo, đọa Địa ngục,

Có làm nói không làm,

Cả hai chết đồng đẳng,

Làm người, nghiệp hạ liệt.

Nhà vua ngầm cho thám tử điều tra về cái chết của Tôn Đà Lỵ. Khi ấy, bọn du đãng nhận tiền rồi nhậu nhẹt say sưa, gây gổ. Chúng lảm nhảm với nhau:

- Mầy đã giết Tôn Đà Lỵ, mầy ném xác ả vào đống rác. Mầy được tiền nhiều tha hồ uống. Ðược lắm! Ðược lắm!

Thám tử liền trói họ, giải đến trước vua. Vua hỏi:

- Các người giết Tôn Đà Lỵ?

- Tâu vâng.

- Ai mướn các người?

- Các Thầy ngoại đạo.

Nhà vua cho đòi các ngoại đạo đến, bắt phải rao lên trong thành như sau:

- Chúng ta giết Tôn Đà Lỵ vì muốn hạ nhục Sa môn Cồ Đàm. Sa môn và đệ tử không có lỗi gì.

Họ phải thi hành lệnh trên, đám đông dân chúng ngờ nghệch lại nghe theo. Các ngoại đạo bị trừng phạt nặng nề, và từ đó, danh dự của Phật lại tăng thêm.

2. Con Quỷ Xương Khô

Nhiều người khoác cà sa...

Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở tại Trúc Lâm, liên hệ đến những chúng sanh bị quả báo xấu do ác nghiệp.

Một ngày nọ, khi xuống núi với Trưởng lão Lakkhana, Tôn giả Mục Kiền Liên nhìn thấy những con quỷ hình thù chỉ có bộ xương khô, Ngài bèn mỉm cười. Khi được hỏi, Tôn giả chỉ bảo:

- Này huynh, chớ hỏi điều ấy ở đây. Khi nào đến trước đức Thế Tôn chúng ta sẽ thảo luận.

Và khi về đến Tinh xá, trước đức Phật, Trưởng lão Lakkhana hỏi lại chuyện ấy. Tôn giả Mục Kiền Liên trả lời rằng Ngài thấy những con quỷ xương khô. Ngài còn kể tiếp:

- Khi tôi xuống núi, tôi còn thấy một Sa môn bay qua toàn thân bốc cháy.

Và còn thêm vài lần, Tôn giả thấy những con quỷ hình dáng Sa môn với y bát, tất cả đều bốc cháy. Nhân đó, thời Phật dạy các Tỳ kheo rằng: "Những Tu sĩ ấy, thời Phật Ca Diếp đã xuất gia nhưng không làm tròn bổn phận của mình.”

Ngài nhấn mạnh đến quả báo ác nghiệp cho các Tỳ kheo đáng hiện diện được rõ, và nói kệ:

(307) Nhiều người khoác áo cà sa,

Ác hạnh không nhiếp phục.

Người ác, do ác hạnh,

Phải sanh cõi Địa ngục.

3. Xảo Thuật Tìm Thức Ăn

Tốt hơn nuốt hòn sắt...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở Tinh xá Ðại Lâm (Mahàvana) gần thành Tỳ Xá Ly, liên hệ đến các Tỳ kheo Vaggumudàtiriya.

Các Tỳ kheo Vaggumudàtiriya thường khen ngợi lẫn nhau rằng người này chứng quả, người kia chứng quả khi có mặt Cư sĩ, để họ dâng cúng thức ăn ngon. Ðức Phật biết chuyện, bèn hỏi các Thầy:

- Này các ông! Có thật phải là chỉ vì cái bao tử mà các ông ca tụng lẫn nhau trước mặt Cư sĩ để họ dâng cúng thức ăn ngon?

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!

Phật bèn quở trách các Thầy, và nói kệ:

(308) Tốt hơn nuốt hòn sắt,

Cháy đỏ như lửa bừng,

Hơn ác giới, buông lung,

Ăn đồ ăn quốc độ.

4. Kẻ Ðào Hoa

Bốn nạn chờ đợi người...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên hệ đến Khema, con trai Trưởng giả, cháu Cấp Cô Ðộc.

Khema là một chàng trai tuấn tú khôi ngô. Các bà các cô khi gặp mặt chàng đều yêu mến mê mệt. Khema thì lại đeo đuổi vợ người. Một đêm nọ, người của nhà vua bắt chàng ta, giải đến trước mặt vua. Nhà vua cảm thấy ái ngại thay cho danh tiếng của Trưởng giả nên không nói gì, thả chàng ra. Khema vẫn cứ chứng nào tật nấy.

Lần thứ hai, lần thứ ba, chàng vẫn bị bắt, và nhà vua cũng trả tự do cho. Chuyện đến tai Trưởng giả, ông đem con đến gặp đức Thế Tôn, trình bày câu chuyện và bạch:

- Xin đức Thế Tôn giảng dạy cho nó.

Ðức Phật khơi dậy lương tri của Khema và chỉ cho chàng Thầy lỗi lầm khi theo đuổi vợ người bằng Pháp Cú:

(309) Bốn nạn chờ đợi người,

Phóng dật theo vợ người,

Mắc họa, ngủ không yên,

Bị chê là thứ ba,

Ðọa Địa ngục, thứ bốn.

(310) Mang họa, đọa ác thú,

Bị hoảng sợ, ít vui,

Quốc vương phạt trọng hình,

Vậy chớ theo vợ người.

Chuyện quá khứ:

A. Lời Nguyền Của Khema

Thời đức Phật Ca Diếp, Khema là một tay đô vật quán quân, ngày kia chàng treo hai cây cờ giải thưởng của mình bên ngôi tháp vàng của đức Phật, và nguyện: "Xin cho tất cả mọi phụ nữ, trừ các nữ nhân thân quyến và bà con ruột thịt của tôi, khi nhìn thấy tôi đều say mê.” Vì thế, dù tái sanh ở đâu, chàng cũng được tất cả các bà yêu mến.

5. Thầy Sa Môn Tự Phụ

Như cỏ sa vụng nắm...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên hệ đến một Thầy Tỳ kheo tự phụ.

Chuyện kể rằng, có một vị Tỳ kheo lỡ tay làm đứt một cọng cỏ. Lương tâm Thầy áy náy bèn tìm đến một huynh đệ, thuật lại câu chuyện và hỏi:

- Thưa huynh, Tỳ kheo làm đứt cỏ, có sao không?

Thầy kia trả lời:

- Ðừng quan trọng khi cho rằng làm đứt cỏ cây sẽ bị hậu quả. Chỉ cần xưng tội ra là được khỏi tội thôi.

Nói xong, Thầy nhổ luôn một bụi cỏ, vứt đi. Các Tỳ kheo đến bạch Phật. Phật quở trách Thầy Tỳ kheo tự phụ nặng nề, và nói Pháp Cú:

(311) Như cỏ Sa (Kusa) vụng nắm,

Tất bị họa đứt tay.

Hạnh Sa môn tà vạy,

Tất bị đọa Địa ngục.

(312) Sống phóng đãng buông lung,

Theo giới cấm ô nhiễm,

Sống Phạm hạnh đáng nghi,

Sao chứng được quả lớn.

(313) Cần phải làm, nên làm,

Làm cùng tận khả năng.

Xuất gia sống phóng đãng,

Chỉ tăng loạn bụi đời.

6. Người Vợ Ghen Tuông

Ác hạnh không nên làm...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên hệ đến một bà vợ ghen.

Một ông chồng dan díu với một nữ tỳ giúp việc nhà. Vợ ông biết được, bèn trói người nữ tỳ, cắt tai, cắt mũi, nhốt vào phòng kín đóng cửa lại. Ðể che giấu tội ác, bà rủ chồng đi nghe pháp. Hai vợ chồng đến Tinh xá, ngồi vào hội chúng. Khi ấy, có vài người bà con bên vợ đến nhà thăm. Họ mở cửa, chứng kiến cảnh tàn nhẫn trong nhà, bèn mở trói cho cô tớ gái. Cô này đến Tinh xá, tố cáo mọi việc với Phật và Tăng chúng. Nghe xong, Phật dạy:

- Không nên làm việc ác dù nhỏ, nghĩ rằng chẳng ai biết. Với việc lành, dù không người biết vẫn nên làm. Hành động ác dù che giấu ân hận về sau. Còn hành động tốt sẽ khiến ta an vui.

Ngài nói kệ:

(314) Ác hạnh, không nên làm,

Làm xong chịu khổ lụy,

Thiện hạnh, ắt nên làm,

Làm xong, không ăn năn.

Cuối bài pháp, hai vợ chồng chứng quả Dự lưu. Họ trả tự do cho cô tớ gái và hướng dẫn cô theo chánh pháp.

7. Tự Canh Phòng Như Giữ Thành

Như thành ở biên thùy...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan tới một số Tỳ kheo.

Một số các Tỳ kheo đến an cư ở một thị trấn biên giới. Tháng đầu trôi qua hết sức an ổn. Nhưng tháng thứ hai, bọn trộm cướp tấn công thị trấn và bắt một số người làm con tin. Từ lúc ấy, mọi người phải bận rộn phòng thủ, chống lại trộm cướp, và không còn thì giờ chăm sóc đến thức ăn vật dụng cho các Thầy. Các Thầy trải qua những tháng thật bất an.

An cư xong, các Thầy trở về Tinh xá Kỳ Viên, đảnh lễ Phật, lui ngồi một bên. Ðức Phật hỏi thăm thân mật:

- Các ông có được an ổn không?

- Bạch Thế Tôn, tháng đầu thật an ổn. Nhưng những tháng sau trộm cướp hoành hành, dân chúng chẳng còn thì giờ đâu lo lắng cho chúng con. Thời gian đó thật khốn đốn.

Phật dạy:

- Không sao. Các ông đừng phiền muộn. Không dễ gì lúc nào cũng tìm được nơi an cư hoàn toàn như ý. Nhưng hãy như dân cư phòng thủ trị trấn của họ, mỗi Thầy Tỳ kheo phải tự canh phòng mình.

Ngài nói kệ:

(315) Như thành ở biên thùy,

Trong ngoài đều phòng hộ,

Cũng vậy, phòng hộ mình,

Sát na chớ buông lung,

Giây phút qua, sầu muộn,

Khi rơi vào Địa ngục.

8. Các Ðạo Sĩ Lõa Thể

Không đáng hổ lại hổ...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên hệ đến các đạo sĩ phái Kỳ Na, lõa hình ngoại đạo Ni Kiền Tử. Một hôm các Thầy Tỳ kheo nhìn thấy các đạo sĩ phái Ni Kiền Tử, đã bàn tán với nhau.

- Này chư huynh, các Ni Kiền Tử này dễ nhìn hơn các đạo sĩ phái Acelaka (Lộ già na). Mấy ông kia hoàn toàn trần trụi, còn ác Ni Kiền Tử này ít ra cũng có một tí vải che thân, nhìn đỡ xấu hổ.

Các Ni Kiền Tử nghe chuyện đã nói:

- Không phải vì xấu hổ mà chúng tôi che thân. Chỉ vì bụi đất cũng là những hữu tình chúng sanh có sự sống, vì sợ chúng rơi vào thức ăn mà chúng tôi mang một mảnh vải.

Các Thầy Tỳ kheo, một số đồng ý với lý do trên, số khác không đồng ý, cứ bàn tán mãi. Sau cùng, tất cả đi đến chỗ Phật, thưa ra câu chuyện, Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, người nào hổ thẹn khi không đáng hổ thẹn, và không cảm thấy hổ thẹn khi cần phải hổ thẹn, sẽ chịu khổ về sau.

Ngài nói kệ:

(316) Không đáng hổ, lại hổ,

Việc đáng hổ, lại không,

Do chấp nhận tà kiến,

Chúng sanh đi ác thú.

(317) Không đáng sợ, lại sợ,

Ðáng sợ, lại thấy không,

Do chấp nhận tà kiến,

Chúng sanh đi ác thú.

9. Trẻ Con Quy Y Phật

Không lỗi, lại thấy lỗi...

Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ Viên, liên hệ đến một số Cư sĩ ngoại đạo.

Có một đám trẻ chơi chung với nhau, con nhà ngoại đạo và con các Phật tử. Khi các trẻ em ngoại đạo về nhà, cha mẹ chúng cấm không cho chào hỏi các Sa môn đệ tử Phật và không được vào Tinh xá. Họ bắt chúng phải giữ lời thề. Và sang ngày khác, khi bọn trẻ chơi đùa gần Tinh xá Kỳ Viên, chúng bị khát nước. Các trẻ con ngoại đạo phải nhờ một bạn Phật tử vào Tinh xá xin nước uống. Em này vào Tinh xá, gặp đức Thế Tôn và kể lại câu chuyện cho Ngài nghe

Phật dạy:

- Uống nước xong, các em ra kêu các bạn vào đây uống.

Tất cả bọn vào gặp Phật. Ngài kể cho các em nghe một câu chuyện dễ hiểu, giảng pháp, khiến các em có niềm tin vững mạnh rồi khiến các em quy y và giữ giới. Các trẻ em ngoại đạo về nhà, kể lại chuyện ba má. Họ giận dữ, khóc lóc rên rỉ:

- Con chúng ta đã theo Thầy tà.

Khi ấy, một vài người láng giềng có Trí tuệ ở gần đó, sang an ủi họ, giảng giải cho họ nghe. Chừng đó, họ nhận thấy Phật pháp lợi ích bèn quyết định:

- Chúng ta chỉ cho các con đi theo sự hướng dẫn của Ngài Cồ Đàm.

Với bà con dòng họ đông đảo, họ đưa nhau đến Tinh xá lễ Phật, nghe pháp. Phật quan sát tâm tư của họ bèn giảng kệ:

(318) Không lỗi, lại thấy lỗi,

Có lỗi lại thấy không,

Do chấp nhận tà kiến,

Chúng sanh đi ác thú.

(319) Có lỗi, biết có lỗi,

Không lỗi, biết là không,

Do chấp nhận chánh kiến,

Chúng sanh đi cõi lành.


Phẩm XXIII: Voi

1. Phật Bị Lăng Nhục

Ta như voi giữa trận...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở Kỳ Viên, trong trường hợp của chính Ngài.

Trong truyện tích Pháp Cú (179) đã đề cập đến trường hợp Màgandiyà bị Phật từ chối, và cô bị chạm tự ái nặng. Khi trở thành Hoàng hậu, nàng quyết tâm trả thù Phật. Nàng tung tiền mướn cư dân thành, bảo họ rằng:

- Khi Sa môn Cồ Đàm đến đây khất thực, các ngươi hãy tụ tập những người hạ tiện đi theo chửi mắng ông ta, đuổi ông ta đi.

Khi đức Phật và A Nan đi đến thành, dân cư không tin Tam bảo đã đi theo Ngài, la hét.

- Ông là kẻ giặc cướp, ngu dốt, khùng, ông là lạc đà, bò, lừa, quỷ ở Địa ngục, là súc sanh, không có hy vọng được cứu rồi, ông chỉ có nước chờ bị đọa thôi...

Như vậy, họ dùng mười cách mắng chửi để mắng chửi Phật. Nghe các câu mạ nhục, Tôn giả A Nan bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, dân cư nơi này chửi mắng chúng ta, xin hãy đi nơi khác.

- Chúng ta sẽ đi đâu, A Nan?

- Ði đến thành phố khác, bạch Thế Tôn.

- Nếu như dân ở thành phố đó cũng chửi mắng ta?

- Thì chúng ta lại đi đến thành phố khác, bạch Thế Tôn.

- Nếu như đến nơi kia cũng bị mắng chửi?

- Ði đến chỗ khác nữa, bạch Thế Tôn.

- Này A Nan! Chúng ta không nên làm như thế. Bất cứ nơi nào có rắc rối, phiền não nổi lên, chúng ta nên ở lại đó cho đến khi chúng lắng dịu hẳn, và chỉ khi đó chúng ta mới nên đi nơi khác. Nhưng ai đã chửi mắng chúng ta?

- Bạch Thế Tôn, những kẻ hạ tiện, nô tỳ, tất cả đều chửi mắng.

- Này A Nan! Ta như con voi đã ra trận. Và như con voi giữa trận hứng chịu tên bay từ bốn phía, bổn phận ta phải nhẫn nại nghe những lời ác độc thốt ra.

Và Ngài lấy mình làm tiêu đề giảng pháp với các câu:

(320) Ta như voi giữa trận,

Hứng chịu cung tên rơi,

Chịu đựng mọi phỉ báng,

Ác giới rất nhiều người.

(321) Voi luyện, đưa dự hội,

Ngựa luyện, được vua cưỡi,

Người luyện, bậc tối thượng,

Chịu đựng mọi phỉ báng.

(322) Tốt thay, con la thuần,

Thuần chủng loài ngựa Sindh [- ]

Ðại tượng, voi có ngà,

Tự điều mới tối thượng.

[- ] loài ngựa đẹp ở vùng sông Sindha, Ấn Ðộ

Nghe xong, quần chúng ở hai bên đường, ở ngã ba, ngã tư, những kẻ ăn tiền chửi mướn Phật đều chứng từ Sơ quả đến Tam quả.

2. Thầy Sa Môn Luyện Voi

Chẳng phải loài cưỡi ấy...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên hệ đến một Tỳ kheo từng là quản tượng.

Một ngày nọ, một vị Tỳ kheo trước kia từng là quản tượng, đứng bên bờ sông Acirvatì thấy một người quản tượng đang cố gắng huấn luyện một con voi. Thấy người ấy không đạt kết quả, Thầy muốn mách nước, bèn nói với các Thầy Tỳ kheo đứng gần:

- Nếu đánh con voi ở chỗ này, chỗ này... nó sẽ nghe lời ngay thôi.

Người quản tượng nghe được, làm theo lời, và chẳng bao lâu con voi tuân theo ý ông...

Các Tỳ kheo bạch Phật câu chuyện. Phật cho gọi Thầy Tỳ kheo ấy lên hỏi:

- Có phải thật ông nói như thế?

- Bạch Thế Tôn, vâng!

Phật quở:

- Ngươi vô tích sự, ngươi thi thố tài nghệ với người luyện voi, luyện thú để làm gì? Không phải leo lên lưng những con thú đó là có thể đi đến nơi muốn đến mà chưa đến được. Chỉ có trong sự tự huấn luyện bản thân mới có thể đến được nơi khó đến. Từ đây ngươi hãy tự điều phục chính mình, đừng làm trò huấn luyện thú như thế nữa:

Ngài nói kệ:

(323) Chẳng phải loài cưỡi ấy,

Ðưa người đến Niết bàn,

Chỉ có người tự điều,

Ðến đích, nhờ điều phục.

3. Lão Bà La Môn Và Các Con

Con voi tên Tài Hộ...

Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở Xá Vệ, trong trường hợp một Bà la môn già bị các con hất hủi.

Tại thành Xá Vệ, một Bà- là- môn có bốn người con trai và gia tài tám trăm ngàn đồng tiền vàng. Khi các con đến tuổi trưởng thành, ông cưới vợ cho chúng và cho mỗi đứa một trăm ngàn tiền vàng. Sau đó, vợ ông chết, các người con họp nhau lại bàn tán:

- Nếu cha ta cưới vợ khác, gia tài sẽ bị chia cho mấy đứa con sau và không còn gì cả. Chi bằng chúng ta săn sóc ông già để hưởng gia tài của ông.

Chúng bu quanh hầu hạ ông chu đáo, lo thức ăn ngon, quần áo đẹp, tắm rửa cho ông, mọi bổn phận đều làm tròn.

Một ngày nọ, chúng đến hầu thấy ông vẫn còn ngủ. Ngay khi ông thức giấc, chúng rửa tay chân cho ông, và nói về sự bất lợi của một gia đình chia hai dòng con. Chúng hứa:

- Chúng con sẽ săn sóc cha cho tới khi cha chết, cha hãy chia cho chúng con số tiền còn lại.

Ông già chiều theo lời yêu cầu, chia luôn bốn trăm ngàn tiền còn lại làm bốn phần, cho mỗi đứa một phần, riêng ông chẳng còn gì, ngoài bộ quần áo dính da.

Vài ngày đầu, đứa con trưởng hầu hạ ông. Một hôm, khi ông đến nhà người này như thường lệ, mụ con dâu đứng ở cửa vừa gặp ông liền nói:

- Ông có cho thêm con trai ông một trăm hay một ngàn đồng không? Rõ ràng ông cho mỗi con trai ông hai trăm ngàn đồng mà. Ông không biết đường đi tới nhà mấy ông con kia à?

Ông Bà la môn giận dữ, mắng:

- Im đi, con đàn bà đê tiện.

Ông đến nhà đứa con thứ hai. Nhưng chỉ vài hôm, ông lại bị đuổi ra khỏi nhà theo cách của đứa thứ nhất, và cảnh ấy cũng diễn ra ở tại nhà đứa út. Rốt cuộc ông không có nhà để nương thân.

Do đó, ông từ bỏ đời thế gian, đi tu theo giáo đoàn Pandaranga, xin ăn từ nhà này sang nhà khác. Theo thời gian, ông trở nên gầy ốm vì tuổi già, thân thể suy sụp vì thức ăn tồi tệ và chỗ ngủ không đủ ấm. Một ngày nọ, sau khi đi xin ăn về, ông nằm dài tại chỗ và ngủ thiếp đi. Mở mắt ra ông mệt mỏi nhìn quanh chẳng thấy có đứa con nào để nhờ cậy. Ông nghĩ thầm: "Họ nói rằng Sa môn Cồ Đàm có một dáng dấp từ hòa, vẻ mặt chân thật cởi mở, rằng thái độ của Ngài hoan hỷ, rằng Ngài tiếp khách lạ với tất cả vẻ thân thiện. Có lẽ ta nên đến với Sa môn Cồ Đàm, để được tiếp đãi ấm áp.”

Ông khoác áo, ôm bát, chống gậy đi đến chỗ Thế Tôn. Ðến nơi ông ngồi qua một bên thật cung kính. Ðức Thế Tôn chào đón ông vui vẻ và hỏi:

- Này Bà la môn, vì sao ông đến nơi này với vẻ tiều tụy, áo rách tả tơi thế kia?

- Thưa Cồ Đàm, tôi có bốn đứa con trai, nhưng chúng bị mê hoặc bởi mấy con vợ, rồi đuổi tôi ra khỏi nhà.

- Ðược rồi, ông hãy học thuộc bài kệ này. Và khi mọi người và các con ông đến nhà họp, ông đọc lên trước chúng.

Ngài dạy:

Chúng là những đứa con khi sanh ra tôi vui mừng, mong mỏi.

Vậy mà chúng nghe lời vợ xúi giục, đuổi tôi như xua chó.

Chúng gọi tôi "Cha thân yêu!.." thật ác độc và rỗng tuếch.

Quỷ đội lốt con trai, chúng bỏ rơi tôi khi tuổi già, như bỏ đói con ngựa già vô dụng.

Làm cha một lũ ngu, phải xin ăn lang thang từng nhà.

Một cây gậy còn tốt hơn lũ con bất hiếu.

Gậy còn đuổi được bò rừng chó dữ.

Gậy dẫn đường trong đêm tối, đỡ chân qua vũng nước bùn lầy.

Ông Bà la môn học thuộc lòng bài dạy trên.

Một ngày nọ, dòng Bà la môn họp mặt, các con trai ông cũng đến họp. Chúng ăn mặc sang trọng, trang sức quí giá và ngồi vào chỗ danh dự giữa những người Bà la môn. Ông già nhủ thầm: "Ðây là cơ hội tốt cho ta.” Ông đi vào phòng họp, giữa mọi người ông đưa tay lên nói:

- Tôi muốn đọc một bài thơ, xin các Ngài hãy nghe cho.

- Ông đọc đi, chúng tôi nghe.

Ông đứng giữa hội chúng, đọc lên bài kệ đức Phật dạy.

Luật pháp thời ấy ấn định rằng: "Nếu người nào hưởng gia tài của cha mẹ, mà không nuôi dưỡng cha mẹ, sẽ bị tử hình.” Các con ông đã hoảng sợ, quỳ xuống dưới chân ông van xin:

- Cha ơi! Xin cứu chúng con.

Trái tim người cha mềm yếu, ông bèn bảo lãnh cho chúng.

- Xin các vị đừng xử tội chúng. Chúng sẽ nuôi nấng tôi.

Hội chúng hăm đám con ông:

- Từ nay, nếu các anh không săn sóc ông cụ tử tế, chúng tôi sẽ đưa ra pháp luật đấy.

Bốn người con trai hoảng sợ, vội khiêng ông cụ về nhà, tắm rửa kỳ cọ, xoa dầu, bôi kem, ướp phấn... cho ông cụ, rồi gọi vợ đến bảo:

- Từ nay bổn phận của các bà phải săn sóc cha cho chu đáo. Nếu thiếu sót coi chừng ăn đòn.

Chúng dọn thức ăn thượng vị cho ông.

Từ đó được bồi dưỡng, nghỉ ngơi êm ấm tiện nghi, ông cụ phục hồi sức khỏe, thân thể tươi tốt. Ông tự nhủ: "Ta được như vầy là nhờ Sa môn Cồ Đàm.” Ông bèn chọn một cặp vải tốt, đi đến chỗ đức Phật, chào Ngài và lui ngồi một bên, đặt vải dưới chân Phật, thưa:

- Kính bạch Cồ Đàm, dòng Bà la môn chúng tôi mong ước rằng một vị Thầy nhận lễ vật, xin đức Cồ Đàm tôn kính là Thầy của tôi, nhận lễ vật này.

Phật nhận xấp vải, và giảng pháp cho ông cụ nghe. Nghe xong, ông quy y Phật và thưa:

- Bạch Cồ Đàm, các con tôi thường cung cấp cho tôi một ngày bốn bữa ăn, tôi xin cúng dường Ngài hai bữa.

- Rất tốt đó ông lão, nhưng chúng ta chỉ đi đến nhà nào được chọn.

Ông cụ về nhà bảo các con:

- Này các con, Sa môn Cồ Đàm là bạn của ta, ta dâng Ngài hai bữa ăn. Khi Ngài đến hãy tiếp đãi đừng thiếu sót.

Các con đều hứa nghe lời. Ngày hôm sau, đức Phật đi khất thực, Ngài đứng trước cửa nhà của người con trưởng. Người này vội đỡ lấy bình bát của Ngài, mời vào nhà, soạn ghế nệm gấm thỉnh Phật ngồi, và cúng dường thức ăn thượng vị. Những ngày sau, đức Thế Tôn đến các người con kế, họ đều tiếp đón Ngài nồng hậu.

Ngày nọ sắp đến lễ hội, người con trưởng hỏi ông:

- Thưa cha, ai là ân nhân danh dự của chúng ta?

- Chỉ có Sa môn Cồ Đàm thôi, không ai khác.

- Như thế, ngày mai xin mời Ngài và năm trăm vị Sa môn.

Ông cụ thỉnh Phật và năm trăm Tăng chúng. Ngày hôm sau, Phật cùng chúng Tăng đến nhà ông. Ngôi nhà trang hoàng theo nghi thức lễ hội, ông Bà la môn dọn chỗ ngồi cho Phật và chúng Tăng, dâng cúng các thức ăn thượng vị loại cứng, loại mềm. Bốn người con ngồi trước Phật, bạch rằng:

- Thưa Ngài Cồ Đàm, chúng tôi săn sóc ông già chu đáo, không dám lơ là. Ngài hãy nhìn ông cụ xem.

Phật dạy:

- Các ngươi làm như thế tốt lắm. Người khôn ngoan bao giờ cũng nuôi dưỡng cha mẹ chu đáo.

Ngài nói kệ:

(324) Con voi tên Tài Hộ,

Phát dục, khó điều phục,

Trói buộc không ăn uống,

Voi nhớ đến rừng voi.

Ðức Phật kể chuyện con voi Tài Hộ (Dhanapàla) dù được vua săn sóc, cho ăn ngon, ở nơi đẹp, vẫn nhớ mẹ nơi rừng voi. Không chịu ăn uống vì nghĩ đến bổn phận làm con đối với cha mẹ. Nghe xong, mấy người con đều rơi lệ. Ðức Phật biết rằng họ đã thấm nhuần bèn giảng pháp. Cuối cùng, cả ông cụ, các con trai, con dâu, đều chứng Sơ quả.

4. Ăn Uống Ðiều Ðộ

Người ưa ngủ, ăn lớn...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên quan đến vua Ba Tư Nặc.

Có một lúc, vua Ba Tư Nặc thường ăn rất nhiều cơm nấu với cà ri, nước sốt gia vị. Ngày kia, sau bữa điểm tâm dồi dào quá độ, cơ thể và tâm tư ngầy ngật, nhà vua đến chỗ Phật, đi tới đi lui trước mặt Ngài với vẻ thật mệt mỏi. Nhà vua chỉ muốn nằm lăn ra ngủ mà không được nên đến ngồi xuống một bên Phật. Ðức Phật thấy thế bèn hỏi:

- Ðại vương, trước khi đến đây Ngài chưa được ngủ nghĩ chăng?

- Bạch Thế Tôn, không phải. Con luôn khó chịu sau khi ăn no.

- Này Ðại vương! Ăn uống vô độ thường đưa đến sự mệt mỏi.

Ngài nói kệ:

(325) Người ưa ngủ, ăn lớn,

Nằm lăn lóc qua lại,

Chẳng khác heo no bụng,

Kẻ ngu nhập thai mãi.

Muốn giúp nhà vua, Phật dạy thêm:

Người khôn ăn uống vừa chừng

Thân tâm nhẹ nhỏm, lâu già, sống vui.

Phật bảo Hoàng tử Uttara (Uất Đà):

- Con hãy học thuộc bài kệ này, và mỗi khi nhà vua ngự yến, con đọc lên theo cách sau và nhà vua sẽ tự ngừng.

Xong, đức Phật bày cho Hoàng tử cách làm. Hoàng tử tuân theo lời Phật dạy. Và sau một thời gian nhà vua ăn uống nhỏ nhẹ, giảm bớt trọng lượng và trở nên dễ chịu. Nhà vua thường xuyên đến thăm Phật, tổ chức lễ hội dâng cúng phẩm vật tối thắng trong bảy ngày. Khi đức Thế Tôn nói lên lời hồi hướng, cả hội chúng triều đình đều được ích lợi lớn.

5. Chú Tiểu Và Dạ Xoa

Trước tâm này buông lung...

Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ Viên, liên quan tới chú tiểu Sànu.

Sànu là con trai duy nhất của một gia đình mộ đạo, chú được nhận vào Tăng đoàn khi còn rất bé. Hồi ấy chú rất nhiệt tâm và đạo hạnh. Chú làm tròn bổn phận một cách trung hậu với Thầy Tế độ, với Giáo thọ và các khách tăng. Mỗi tháng, vào ngày mùng 8, chú dậy sớm, xách nước đổ đầy các chum vại, quét dọn giảng đường, lau chùi bàn ghế, thắp đèn, và dùng tiếng trong thanh kêu gọi thiện tín đến nghe pháp.

Các Thầy Tỳ kheo thấy chú ngoan ngoãn và cần mẫn, lại thích thú giọng chú đọc tụng kinh nên thường yêu cầu chú tụng đọc. Chú không bao giờ từ chối, nói rằng: "Con mệt tim... " hay "Con nhức mình... " hay tỏ ra miễn cưỡng tuân lời. Chú ngồi trên ghế, cao tiếng tụng đọc như dòng hải triều tuôn từ cõi chư thiên. Mỗi khi tụng đọc xong, chú tụt xuốnng ghế và hồi hướng: "Tất cả phước báo do việc tụng đọc kinh này, xin hồi hướng cho cha mẹ tôi.”

Song thân hiện tại chú không biết gì về sự hồi hướng ấy, nhưng bà mẹ kiếp trước của chú, tái sanh làm quỷ Dạ xoa. Bà thường cùng đến nghe kinh với các vị thần. Và bà nói: "Con yêu quí, ta cảm tạ sự hồi hướng của con.” Thường có câu: "Một vị Sa môn giữ giới trong sạch được trời và người quý mến.” Vì thế, chư thiên kính trọng chú Sa di, xem ngang bằng trời Ðại Phạm, hoặc như ngọn đuốc sáng. Cũng thế, họ tôn kính và ca ngợi bà Dạ xoa, mẹ kiếp trước của chú. Khi các Dạ xoa hợp đến nghe kinh, bà được ngồi ghế thứ nhất, uống nước trước nhất, có thức ăn trước nhất. Ngay cả các Dạ xoa đầy uy lực, cũng nhường bước và nhường chỗ ngồi cho bà.

Khi Sànu đến tuổi trưởng thành, tâm sinh lý chú phát tirển, chú trở nên lười chán. Và không tự thắng được chính mình, ngày kia, chú không nói với ai, để râu tóc mọc dài, y áo nhớp nhúa, chú mang y bát trở về nhà. Bà nữ thí chủ thấy con trở về, bà chào chú:

- Ủa này con, lúc trước con thường về nhà với Thầy con hoặc một sư huynh hay vài Sa di nhỏ, sao hôm nay con về một mình?

Chú bày tỏ với mẹ nỗi khổ về sự bất mãn của mình. Nữ Cư sĩ là người mộ đạo, giảng giải cho chú những bất lợi của cuộc sống thế tục, nhưng chú không nghe. Rốt cuộc, mẹ chú nghĩ thầm: "Có lẽ không cần sự khuyên bảo của ta, chú ấy sẽ nghĩ lại.” Bà nói:

- Thôi con ngồi đây, đợi mẹ làm cơm cho con ăn. Ăn xong, mẹ đem áo quần tốt ra cho con mặc.

Bà lo sắp chỗ ngồi, đem bánh trái ra thết đãi chú, và dọn bánh xèo, rồi mới lo nấu cơm. Bà ngồi vo gạo cách đấy không xa.

Lúc ấy, bà Dạ xoa tự hỏi: "Chú Sa di đi đâu? Chú có khất thực được không?” Bà quan sát thấy chú muốn hoàn tục, đang trở về ngồi tại nhà mẹ ruột.

Bà nghĩ: "Nếu ta khuất phục được chú Sa di, ta sẽ được chư thiên kính trọng. Ta sẽ ngăn cản chú ấy.” Lập tức bà nhập vào chú, khống chế tay chân, vặn cổ chú và xô té xuống đất, chú Sa di mắt trợn ngược, sùi bọt mép, giãy giụa. Bà mẹ đang vo gạo, thấy thế vội ẵm chú lên, mọi người chung quanh chạy đến, mang đồ cấp cứu.

Bà mẹ khóc, đọc bài kệ:

Tôi nghe chư A la hán

Dạy: "Người mỗi nửa tháng

Giữ giới Bát quan trai

Và giới Bố tát ngày

Mồng tám, rằm, mười bốn

Giữ phạm hạnh như thế

Dạ xoa không xâm hại"

Nhưng hôm nay tôi lại

Thấy họ phá Sànu.

Quỷ Dạ xoa nghe bà đọc bài kệ, bèn đáp:

Chư A la hán nói trúng

Ai cứ mỗi nửa tháng

Giữ giới Bát quan trai

Và giới Bố tát ngày

Mồng tám, rằm, mười bốn

Giữ phạm hạnh như thế

Dạ xoa không xâm hại.

Rồi Dạ xoa đọc kệ khuyên Sànu:

Sànu,

Hãy nghe Dạ xoa nói

Ðừng xa Phật, làm ác

Lén lút hay công khai.

Nếu làm ác đời nay

Hoặc sau này, ngươi sẽ

Chẳng bao giờ thoát khổ

Dù có cánh để bay

Lên trời tìm đường ẩn.

Nói xong, quỷ xuất ra. Sànu mở mắt, thấy mẹ mình tóc tai rối bù, khóc than kể lể, mọi người chung quanh. Không biết mình mới bị quỷ nhập, chú hỏi:

- Vừa mới đây con còn ngồi trên ghế, mẹ vo gạo gần con. Sao bây giờ con lại nằm dưới đất?

Và chú nói tiếp:

Người ta khóc kẻ chết

Hoặc người đi không về

Con ngồi đây sao mẹ

Lại khóc con tỉ tê?

Bà mẹ muốn chỉ rõ cho chú thấy hậu quả xấu của việc đã xuất gia từ bỏ mọi thú vui thế gian, mọi lạc thú nhục dục, lại muốn hoàn tục. Bà đáp:

Con à, người ta khóc

Người chết, hoặc người đi

Ði mãi chẳng trở về.

Họ cũng khóc nữa khi

Người tu lại ra đời

Những người như thế ấy

Sống chết đâu khác gì.

Bà tiếp tục so sánh đời sống thế tục như lò than, như hỏa ngục, nhấn mạnh sự nguy hại của đời sống tại gia.

Than hừng cả hai bên.

Con có muốn ngã nào?

Ðịa ngục từ bốn phía,

Con có muốn rơi vào?

Bà nói thêm:

- Con ơi! Cầu con được may mắn! Con đã được mẹ cứu như giựt củi khỏi đống lửa, con đã từ bỏ thế gian đi theo Phật nay lại muốn trở lui thiêu đốt trong nhà thế gian. Con hãy mau ra khỏi và che chở cho chúng ta!

Nói xong, bà tự nhủ: "Không có cách nào để ta đánh thức sự chán ghét, ghê tởm của chú hơn nữa sao?"

Ðể chú rõ thêm, bà đọc kệ:

Hãy tinh tấn con ơi!

Cầu con đi đường may

Bằng cách nào mẹ khiến

Con gớm đời được đây?

Ðã giựt ra khỏi lửa,

Con là thanh củi say,

Muốn cháy thiêu lần nữa,

Làm sao, làm sao đây?

Chú Sànu nghe mẹ nói xong, tri giác tự tỉnh và nói:

- Con không hoàn tục.

- Tốt lắm! Con yêu quý!

Bà mẹ rất hoan hỷ, bà dọn đủ món ngon cho chú. Ăn xong, bà hỏi tuổi chú và được biết chú đủ tuổi để thọ Tỳ kheo chánh thức gia nhập Tăng đoàn, bà cúng dường chú ba y. Với y và bát đầy đủ, chú được chính thức là vị Tỳ kheo của Tăng đoàn.

Ðức Thế Tôn, ngay lúc ấy đã khuyên chú nên kiểm soát tư tưởng:

- Nếu một người để tư tưởng mình rong ruổi xa xôi, lâu dài, suy nghĩ đủ mọi chuyện mà không cố gắng kiểm soát, người ấy không thể đạt được Giải Thoát. Vì thế phải nỗ lực kiểm soát tư tưởng, như người nài voi kiềm thúc con voi trong thời phát dục bằng móc sắt.

Ngài nói kệ:

(326) Trước tâm này buông lung,

Chạy theo ái, dục, lạc,

Nay ta chánh chế ngự,

Như cầm móc điều voi.

Nghe xong, chư thiên cùng đến nghe pháp với Sànu, đã chứng Pháp nhãn. Sau này, Thượng toạ Sànu thông suốt Tam tạng, Ngài trở nên một vị giảng sư uyên bác, sống một trăm hai chục tuổi, giáo hóa toàn cõi Diêm phù đề, và sau cùng nhập Niết bàn.

6. Con Voi Sa Lầy

Hãy vui không phóng dật...

Câu chuyện xảy ra khi đức Phật ở tại Kỳ Viên, liên quan đến voi Pàveyyaka.

Vua Ba Tư Nặc có một con voi tên Pàveyyaka. Khi còn nhỏ nó rất mạnh, nhưng trở về già sức lực yếu đi. Một ngày nọ, nó lội ngang các hồ lớn, bị lún chân xuống bùn không bước được. Dân chúng kháo nhau:

- Xem kìa! Con voi hồi nhỏ mạnh như thế, bây giờ yếu như thế.

Nhà vua nghe tin, lập tức ra lệnh cho người quản tượng:

- Hãy kéo con voi ra khỏi đám bùn,

Người quản tượng đi đến bờ hồ, giả cách để cho voi thấy như mình sắp ra trận, đầu đội mũ sắt, trống đánh vang lừng.

Kiêu khí của con voi trỗi dậy. Nó đứng lên mau mắn, và rút chân ra khỏi sình, bước liền lên đất khô. Các vị Tỳ kheo chứng kiến sự việc, về bạch Phật, Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, con voi đã tự kéo mình ra khỏi sình lầy. Nhưng các ông bị đắm nhiễm trong bãi lầy dục vọng, hãy cố gắng với tất cả sức lực của mình để thoát ra.

Ngài nói kệ:

(327) Hãy vui không phóng dật,

Khéo phòng hộ tâm ý,

Kéo mình khỏi ác đạo,

Như voi bị sa lầy.

7. Voi Làm Thị giả Phật

Nếu được bạn hiền trí...

Câu chuyện xảy ra khi Phật ở trong một khu rừng với voi Pàveyyaka, liên quan đến một nhóm Tỳ kheo.

Khi Phật ở Kosambi, các Thầy Tỳ kheo ở đấy đã chia phe tranh cãi nhau không dứt. Phật dạy bảo cũng không ai nghe, Ngài bèn vào rừng nhập hạ một mình. Ở đấy, một con voi chúa đã hầu hạ Ngài chu đáo. Ðiều này mọi người tăng tục đều hay tin. Nơi thành Xá Vệ, ông Cấp Cô Ðộc, bà Tỳ Xá Khư, các nhà đại phú hộ khác đến thỉnh cầu Tôn giả A Nan:

- Bạch Tôn giả, xin cho chúng con được gặp Phật.

Và năm trăm Thầy Tỳ kheo ở xứ khác, sau khi an cư, đã đến thỉnh cầu A Nan:

- Thưa Tôn giả, đã lâu chúng tôi không được nghe pháp âm của đức Thế Tôn. Xin Tôn giả vui lòng cho chúng tôi được gặp Thế Tôn và nghe Ngài giảng pháp.

Tôn giả A Nan liền dắt năm trăm Tỳ kheo đi đến khu rừng nơi Phật ở. Ðến cửa rừng, Ngài nghĩ thầm: "Ðức Như Lai đã sống cô tịch trong ba tháng. Bây giờ thật không thích hợp, nếu ta đột ngột mang hết mấy trăm người này cùng vào với ta.” Nghĩ thế, Ngài bèn đi một mình đến chỗ Phật. Khi voi chúa Pàveyyaka thấy Tôn giả, bèn tung vòi tiến tới. Ðức Phật bảo:

- Hãy lui, Pàveyyaka, đừng xua đuổi người ấy. Ðó là Thị giả của Như Lai.

Voi chúa bèn cuốn vòi lại, và ngỏ ý muốn đỡ y bát của Tôn giả, nhưng Ngài từ chối. Voi nghĩ: "Nếu người biết lễ phép, sẽ không đặt vật dụng của mình lên phiến đá của Như Lai ngồi.” Tôn giả đặt y bát của mình xuống đất (Theo lễ nghi không được để vật dụng của mình nơi giường hoặc ghế của Thầy). Sau khi lễ Phật, Tôn giả lui ngồi một bên. Phật hỏi:

- Ông đến một mình?

A Nan thưa rằng mình đến với năm trăm Tỳ kheo.

- Họ ở đâu?

- Con không biết ý của Thế Tôn nên để họ ở ngoài rừng.

- Hãy gọi họ vào.

Tôn giả trở ra gọi năm trăm Tỳ kheo vào. Thế Tôn hoan hỷ tiếp đón các Thầy. Và các Tỳ kheo đã bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, Ngài là một vị Phật tôn quý, một ông hoàng quý phái. Vậy mà Ngài phải ở một mình ba tháng tại nơi này, thật vất vả khi đứng, khi ngồi. Không có ai giúp đỡ Ngài trong các việc quan trọng cũng như lặt vặt, chẳng ai múc nước cho Ngài súc miệng...

Phật trả lời:

- Này các Tỳ kheo, voi chúa Pàveyyaka đã làm giúp ta tất cả mọi việc. Ðược một người bạn như thế, sống độc cư cũng tốt. Và nếu không có bạn như thế, tốt hơn là nên sống một mình.

Ngài nói kệ:

(328) Nếu được bạn hiền trí,

Ðáng sống chung, hạnh lành,

Nhiếp phục mọi hiểm nguy,

Hoan hỷ sống chánh niệm.

(329) Không gặp bạn hiền trí,

Ðáng sống chung, hạnh lành,

Như vua bỏ nước bại,

Hãy sống riêng cô độc,

Như voi sống rừng voi.

(330) Tốt hơn sống một mình,

Không người ngu kết bạn,

Ðộc thân, không ác hạnh,

Sống vô tư vô lự,

Như voi sống rừng voi.

8. Ma vương Cám Dỗ Phật

Vui thay, bạn lúc cần!...

Khi đức Bồ tát còn ở trong thời kỳ tu ẩn dật ở trong dãy núi Tuyết (Himàlaya), chế độ cai trị của các quốc vương khắc nghiệt. Và đức Thế Tôn trông thấy dân chúng bị nhiều hình phạt độc ác, Ngài động lòng thương xót. Ngài tự nhủ: "Tại sao không thực hành một chế độ công bình, chính trực, không có giết chóc, chinh phạt và đau khổ.”

Khi ấy Ma vương bắt gặp tư tưởng trên thoáng qua trong đầu đức Phật, hắn nghĩ: "Sa môn Cồ Đàm vừa nghĩ đến việc cai trị. Có lẽ bây giờ ông ấy muốn làm vua, đó là một dịp cho ông ấy tán tâm. Nếu ông ấy ra nắm quyền cai trị, ta có thể cám dỗ ông ấy. ta sẽ đến để gợi lòng tham ấy."

Ma vương đến chỗ Phật và bảo:

- Thưa Ngài, hãy để đức Thế Tôn cai trị, hãy để bậc Tối Thắng cai trị, sẽ không có giết chóc, chinh phạt và khổ đau, mà chỉ có công bằng và chính trực.

- Này Ma vương! Ông thấy ta thế nào mà nói như vậy?

- Thưa Ngài, một vị Phật có thể thi triển bốn phép mầu. Chỉ cần Ngài ra lệnh: "Ngọn núi Himàlaya hãy biến thành vàng", lập tức nó sẽ biến thành vàng. Tôi cũng sẽ lấy tài lực này để thực hiện tất cả những việc có thể thực hiện bằng tài lực. Như thế, Ngài sẽ cai trị công bằng chánh trực.

Phật bảo:

Lòng tham người không thỏa

Dù có núi tử kim

Biết vậy, người khôn tìm

Ðường thẳng ngay tiến bước.

Người đã sớm vẽ trước

Người nhân của khổ đau,

Ðâu có thể nào giao

Ðời mình cho lạc thú?

Hãy để người đã thấu

Nhân sanh tử luân hồi

Tự tu tập điều phục

"Lưỡi ái" buộc bao đời

Phật cảnh cáo Ma vương:

- Này Ma vương, ta khuyên ông một lần nữa, Ta không giống ông. Ðó là điều Ta muốn nói.

Ngài nói kệ:

(331) Vui thay, bạn lúc cần!

Vui thay, sống biết đủ!

Vui thay, chết có đức!

Vui thay, mọi khổ đoạn!

(332) Vui thay, hiếu kính mẹ!

Vui thay, hiếu kính cha!

Vui thay, kính Sa môn!

Vui thay, kính Hiền Thánh!

(333) Vui thay, già có giới!

Vui thay, tín an trú!

Vui thay, được trú tuệ!

Vui thay, ác không làm!


Phẩm XXIV: Tham Ái

1. Con Cá Vàng

Người sống đời phóng dật...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, trong trường hợp của cá vàng Kapilamaccha.

Chuyện quá khứ

A. Thầy Tỳ Kheo Tự Phụ - Ðảng Cướp

Thuở xưa, thời đức Phật Ca Diếp nhập Niết bàn, có hai anh em một gia đình quý tộc xuất gia làm Sa môn. Người anh tên Sodhana và người em tên Kapila. Cả người mẹ Sàdhinì và cô em gái Tàpanà cũng xuất gia làm Tỳ kheo ni. Khi xuất gia, cả hai anh em đều làm tròn bổn phận với bậc Thầy thế độ và các vị Giáo thọ một cách thành kính. Một ngày nọ, họ hỏi Thầy:

- Bạch Thầy, trong Tôn giáo này có bao nhiêu bổn phận chánh yếu?

- Có hai bổn phận: học và Thiền định.

Nghe thế, người anh cả nghĩ thầm: "Ta sẽ hoàn thành bổn phận Thiền định.” Và Thầy ở lại bên vị Bổn sư năm năm. Nhận một đề mục Thiền định dẫn đến quả Tuệ giác, Thầy vào rừng và sau khi nỗ lực hết sức mình, Thầy chứng A la hán.

Người em nói: "Ta còn trẻ, khi nào già, ta sẽ Thiền định.” Thầy chọn bổn phận học tập. Thầy học thông Tam tạng, do đó Thầy có đông đồ chúng và được nhiều lợi dưỡng. Say sưa với kiến thức đa văn của mình và bị ma tham danh chi phối, Thầy trở nên tự phụ. Thầy hay sửa lưng người khác. Khi người ta nói đúng Thầy bảo sai, khi người ta nói sai Thầy bảo đúng, việc có tội Thầy nói là vô tội, việc vô tội cho là có tội.

Các vị Sa môn hiền đức vẫn hay khuyên Thầy:

- Này huynh Kapila, đừng nói như vậy.

Các vị nhắc Thầy về điều luật, về Phật pháp. Nhưng Kapila trả lời:

- Các ông biết được gì? Hỡi những con cá rỗng?

Thầy lại tiếp tục nhục mạ người.

Các vị Sa môn kể lại với Thầy Sodhana. Thầy Sodhana khuyên em:

- Này Kapila, với cương vị Tỳ kheo, em nên cư xử đúng đắn. Em đừng khinh thường, bác bỏ các lời khuyên chân thật, và nói năng theo cách của em như thế.

Nhưng Thầy Kapila chẳng màng gì đến lời khuyên của anh. Thầy Sodhana kiên nhẫn khuyên hai, ba lần Thầy Kapila cũng không đếm xỉa gì đến. Thầy chỉ còn biết nói:

- Này sư đệ, em sẽ mang tiếng xấu vì những hành động Thầy nữa.

Thầy Kapila cư xử xấu và kết hợp một số đồ chúng cũng tệ như Thầy. Ngày nọ, Thầy tự nói: "Ta sẽ trùng tuyên Luật tạng tại Pháp đường.” Thầy cầm quạt, lên tòa ngồi, tuyên đọc Luật với câu hỏi thường lệ.

- Thưa các Đại đức, chúng đã nhóm, có ai cần phát lồ?

Các vị Tỳ kheo nghĩ thầm: "Trả lời ông ấy chẳng ích lợi gì.” Tất cả yên lặng. Kapila tiếp:

- Này chư huynh, ở đây không có Giáo lý cũng không có Giáo luật, các vị có nghe đọc luật cũng như không nghe thôi.

Nói rồi Kapila xuống tòa. Như thế, Thầy đã làm chậm trễ việc giảng dạy giáo pháp của đức Phật Ca Diếp.

Trong đời ấy, Trưởng lão Sodhana vào Niết bàn. Kapila với thái độ như thế đã vào ngục A tỳ. Cả mẹ và em gái Thầy theo chế nhạo các vị Sa môn hiền đức, cũng rơi vào Địa ngục.

Thời ấy, có năm trăm tên cướp, một ngày kia chúng bị rượt bắt, phải vào rừng ẩn náu. Chúng không tìm được nơi nương thân, và khi gặp một vị ẩn sĩ, chúng vái chào và thưa:

- Bạch Ngài, hãy cho chúng con nương tựa.

Vị ấy trả lời:

- Không có nơi nương tựa nào bằng đạo đức. Tất cả các anh có thể giữ năm giới được không?

- Thưa được.

Chúng bằng lòng thọ năm giới cấm.

Tôn giả ẩn sĩ khuyên họ:

- Hôm nay các anh đã thọ giới, cho dù mạng sống bị đe dọa đi nữa, các anh cũng không được phạm giới hay có tư tưởng ác.

- Ðược thôi.

Các tên cướp hứa sẽ giữ giới luật đã thọ.

Dân làng đuổi theo tận nơi bọn cướp ẩn náu, và giết chết hết tất cả. Chúng được tái sinh lên cõi trời, tên cầm đầu bọn cướp thành vị thiên chủ cai quản các vị kia. Sau khi tái sinh nhiều lần nơi các cõi trời, lúc ở cõi cao lúc cõi thấp suốt vô số kiếp trôi qua trong thời kỳ giữa hai vị Phật, chúng lại tái sinh trong đời Phật hiện tại vào một làng chài lưới có năm trăm gia đình gần thành Xá Vệ.

Vị Thiên chủ đầu thai vào nhà ông xã trưởng làng, những vị còn lại đầu thai trong các nhà kia. Như thế cùng một ngày tất cả năm trăm vị đầu thai và đều sanh ra một lượt. Ông xã trưởng nghĩ thầm: "Không biết hôm nay trong làng có các cậu bé khác chào đời hay không?” Cho người kiểm tra khắp làng ông được biết tất cả đều tái sinh vào một nơi. "Các cậu này sẽ là bạn của con trai ta.” Ông nghĩ vậy rồi gởi thực phẩm đến nhà nuôi hết các cậu bé. Chúng lớn lên, chơi đùa với nhau, kết bạn thân cho đến lúc cùng trưởng thành. Chàng trai lớn nhất trở nên một người danh tiếng, được trọng vọng, làm thủ lãnh cả nhóm.

Kapila thọ khổ trong ngục A tỳ suốt vô số kiếp trôi qua trong thời gian giữa hai vị Phật, và do dư báo của nghiệp ác, lúc ấy tái sinh làm con cá nơi dòng sông Aciravatì. Mình cá màu vàng óng nhưng hơi thở hôi thối vô cùng.

Chuyện hiện tại:

B. Nhóm Dân Chài Và Con Cá Hôi

Một ngày kia, đám bạn thanh niên ấy bảo nhau:

- Ta hãy tung lưới kiếm ít cá.

Họ lấy lưới quăng xuống sông, xui khiến thế nào con cá vàng lọt vào lưới. Khi dân làng trông thấy cá, họ mừng rỡ kêu lên:

- Các con chúng ta lần đầu bủa lưới, đã tóm được chú cá vàng. Thế nào đức vua cũng ban thưởng một cách hậu hỷ.

Ðám bạn thanh niên ném con cá lên thuyền, đi yết kiến đức vua. Thấy con cá, vua hỏi:

- Cái gì đấy?

Ðám thanh niên tâu:

- Tâu đại vương, đây là một con cá.

Nhận ra đó là một con cá vàng, vua nghĩ thầm: "Ðức Thế Tôn sẽ biết vì sao con cá này màu vàng.” Vua liền ra lệnh mang cá đi đến ra mắt đức Thế Tôn. Cá vừa mở miệng ngáp, cả Tinh xá Kỳ Viên tràn ngập mùi hôi thối. Vua bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, vì duyên cớ gì con cá này có màu vàng? Và tại sao hơi thở nó hôi thối đến thế?

- Ðại vương, vào thời Phật Ca Diếp, con cá ấy là một vị Tỳ kheo tên Kapila, đa văn, được đồ chúng theo đông đảo. Do vì buông lung theo lợi dưỡng, ông ấy đã chửi mắng, lăng mạc các Tỳ kheo không theo mình. Ông gây chậm trễ việc truyền bá giáo pháp đức Phật Ca Diếp và bị đọa vào ngục A tỳ. Sau, từ dư báo nghiệp ác, lại đầu thai làm con cá. Do nhân duyên giảng dạy giáo pháp Phật, đọc tụng kinh điển tán thán Phật trong thời gian khá lâu, mình cá mới có màu vàng ấy. Còn hơi thở thối vì ông đã chửi mắng lăng mạ các Tỳ kheo. Ðại vương, Như Lai sẽ khiến ông ấy kể về chính mình đây.

- Bạch Thế Tôn, xin Ngài dùng mọi cách để ông ấy tự kể về mình.

Ðức Phật hỏi con cá:

- Ngươi có phải là Kapila?

- Bạch Thế Tôn vâng, con là Kapila.

- Ngươi từ đâu đến?

- Bạch Thế Tôn, con từ ngục A tỳ đến.

- Còn anh ngươi, Sodhana, ra sao rồi?

- Bạch Thế Tôn, anh ấy đã nhập Niết bàn.

- Mẹ ngươi, bà Sàdhini đâu?

- Bạch Thế Tôn, người bị đọa Địa ngục.

- Còn em gái ngươi, Tàpanà, thì sao?

- Cô ấy cũng đọa Địa ngục, Bạch Thế Tôn!

- Giờ ngươi đi đâu?

- Bạch Thế Tôn, ngục A tỳ.

Nói xong, lòng đầy ăn năn, cá đập đầu chết ngay tại chỗ, bị tái sanh trong ngục A tỳ. Thính chúng vây quanh đều xúc động, lông tóc dựng ngược cả lên. Ðức Thế Tôn thấy tâm họ thuần phục, bèn giảng bài pháp thích hợp:

Hằng sống trong chánh kiến,

Hằng tu hạnh thanh tịnh,

Ðấy hạt ngọc sang đẹp,

Quý hơn trong tất cả.

Nói kệ rồi, đức Phật giảng tỉ mỉ toàn bài kinh "Kapila"; sau này được chép trong tập Suta Nipàta. Ngài nói kệ tiếp:

(334) Người sống đời phóng dật,

Ái tăng như dây leo,

Nhảy đời này đời khác,

Như vượn tham quả rừng.

(335) Ai sống trong đời này,

Bị ái dục buộc ràng,

Sầu khổ sẽ tăng trưởng,

Như cỏ bị gặp mưa.

(336) Ai sống trong đời này,

Ái dục được hàng phục,

Sầu rơi khỏi người ấy,

Như giọt nước lá sen.

(337) Ðây điều lành Ta dạy,

Các người tụ họp đây,

Hãy nhổ tận gốc ái,

Như thổ gốc cỏ bỉ,

Chớ để ma phái hoại,

Như dòng nước cỏ lau.

2. Con Heo Nái Tơ

Như cây bị chặt đốn...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Tinh xá Trúc Lâm, liên quan đến chị heo nái tơ nọ sống lăn lóc trong đống phân.

Chuyện kể rằng, một hôm đức Thế Tôn vào thành Vương Xá khất thực, gặp một con heo nái tơ. Ngài mỉm cười, Trưởng lão A Nan trông thấy vầng hào quang chói sáng từ răng Ngài, liền hỏi lý do:

- Bạch Thế Tôn, tại sao Ngài cười?

Ðức Phật bảo:

- Này A Nan, hãy nhìn con heo nái tơ kia.

- Con có thấy nó, bạch Thế Tôn!

- Vào thời đức Phật Kakusandha, con heo tơ này là một chị gà ở gần Thiền đường nọ. Chị thường chăm chú nghe một Thầy Tỳ kheo niệm đề mục Thiền tu chứng Tuệ giác. Chỉ nghe những âm thanh thiêng liêng kia thôi, cũng khiến chị thoát kiếp được tái sinh vào cung vua, làm công chúa tên Ubbari.

Một hôm công chúa đi vào nhà xí, thấy đống dòi. Liền tại chỗ ấy, chăm chú quan sát đám dòi, tâm định tĩnh, cô nhập Sơ Thiền. Sau khi mãn kiếp làm công chúa, cô được sanh vào dòng dõi Bà la môn. Từ giai cấp Bà la môn, do nghiệp tạo trong kiếp ấy, bây giờ cô lại tái sinh làm con heo nái tơ này. Ta biết những cảnh huống ấy nên cười.

Các Tỳ kheo đi sau Trưởng lão A Nan lắng nghe đức Thế Tôn nói, rất xúc cảm. Sau khi tác động tâm tư họ, đức Phật liền giảng giải sự ngu si của tham ái, và vẫn đứng giữa đường đi, Ngài nói kệ tiếp:

(338) Như cây bị chặt đốn,

Gốc chưa hại vẫn bền,

Ái tùy miên chưa nhổ,

Khổ này vẫn sanh hoài.

(339) Ba mươi sáu dòng ái,

Trôi người đến khả ái,

Các tư tưởng tham ái,

Cuốn trôi người tà kiến.

(340) Dòng ái dục chảy khắp,

Như dây leo mọc tràn,

Thấy dây leo vừa sanh,

Với tuệ, hãy đoạn gốc.

(341) Người đời nhớ ái dục,

Ưa thích các hỷ lạc,

Tuy mong cầu an lạc,

Họ vẫn phải sanh, già.

(342) Người bị ái buộc ràng,

Vùng vẫy và hoảng sợ,

Như thỏ bị sa lưới,

Chúng sanh ái trói buộc,

Chịu khổ đau dài dài.

(343) Người bị ái buộc ràng,

Vùng vẫy và hoảng sợ,

Như thỏ bị sa lưới,

Do vậy vị Tỳ kheo,

Mong cầu mình ly tham,

Nên nhiếp phục ái dục.

Sau kiếp ấy, chị heo nái tơ tái sinh vào cung vua ở Suvannabhùmi. Hết kiếp, cô tái sanh ở Ba La Nại, kiếp sau cô tái sanh ở cảng Supàraka trong nhà một người lái ngựa, rồi sanh vào nhà một thủy thủ cảng Kavìra. Kế tiếp, cô sanh vào nhà một gia đình quý tộc cao sang ở Anuràdhapura. Cuối cùng, cô tái sanh làm con gái ông Sumanà làng Bhokkkanta thuộc vùng phía Nam, được đặt tên theo cha là Sumanà.

Khi dân chúng bỏ làng đi hết, cha cô đến vương quốc Dìghavàpi, lập nghiệp tại làng Mahàmuni. Lakuntaka Atimbara, Tể tướng vua Dutthagàmanì, có việc đến đấy gặp cô, liền cưới làm vợ, đưa về sống tại làng Mahàpunna. Một hôm, Trưởng lão Anula trú tại Tinh xá Kotipabbata đi khất thực ngang qua nhà trông thấy cô bèn bảo các Thầy Tỳ kheo:

- Này chư huynh, con heo nái tơ đã trở thành phu nhân Ngài Lakuntaka Atimbara, Tể tướng của đức vua, thật lý thú biết bao!

Nghe những lời này cô bỗng nhớ hết các tiền kiếp của mình và chứng Túc mạng thông. Xúc dộng sâu xa, cô xin phép chồng từ bỏ đời thế tục xuất gia theo Tăng đoàn Tỳ kheo ni Pancabalaca. Sau khi nghe giảng bài pháp Mahà satipatthàna tại Tinh xá Tissa, cô đắc qủa Dự lưu. Rồi khi người Damilas bị tiêu diệt, cô trở về làng Bhokkanta sống với cha mẹ. Tiếp đó, nghe bài pháp Asìvisopama tại Tinh xá Kallaka, cô đắc qủa A la hán. Ngày cô nhập Niết bàn, đáp lời hỏi của các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, cô kể hết câu chuyện cho các Tỳ kheo Ni nghe. Giữa một buổi nhóm chúng của các Thầy Tỳ kheo, với sự giúp đỡ của Trưởng lão Maha Tissa, vị Tỳ kheo thường giảng nói Pháp Cú đang trú tại Mandalàràma, cô kể như sau;

- Vào thời xa xưa, con đánh mất thân người, sanh làm gà mái. Bị diều hâu xớt, và tái sanh ở thành Vương xá, từ bỏ cuộc đời thế tục, làm một Tỳ kheo ni hành khước đây đó và tu đạt đến Sơ Thiền. Hết kiếp ấy, con tái sanh vào nhà một Trưởng giả. Nhưng chỉ sống ít lâu, con đã bị đọa làm heo nái. Hết kiếp, con tái sanh ở Suvannabhùmi, rồi ở Ba La Nại, ở cảng Suppàraka, ở cảng Kavìra, ở Anuràdhapura và sau cùng tại làng Bhokkanta. Sau khi trải qua mười ba kiếp thăng trầm như vậy, kiếp này con cảm nhận được sự bất như ý của cuộc sống nên từ bỏ thế tục, xuất gia, và chứng quả A la hán. Xin chư vị mỗi người hãy tự mình chánh niệm tinh tấn tiến đến giải thoát.

Lời cô làm tứ chúng vô cùng xúc động. Sau đó cô nhập Niết bàn.

3. Thầy Tỳ Kheo Bỏ Ðạo

Ðược thoát khỏi buộc ràng...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Tinh xá Trúc lâm, liên quan đến một Thầy Tỳ kheo hoàn tục.

Thầy Tỳ kheo kia vốn là đồ đệ Trưởng lão Ðại Ca Diếp, tuy đã đạt Tứ Thiền nhưng một hôm đến chơi nhà ông chú làm thợ vàng, trông thấy nhiều đồ trang sức đẹp mắt, Thầy sanh lòng tham luyến, bèn hoàn tục. Thầy lại làm biếng chẳng chịu mó tay vào việc gì nên bị đuổi ra khỏi nhà. Từ đấy Thầy kết bạn với kẻ xấu, chuyên sống bằng nghề cướp bóc. Một hôm người ta bắt Thầy, trói chặt hai tay sau lưng, mang đi hành hình, trên đường cứ gặp mỗi ngã tư lại dùng roi da đánh đập Thầy.

Trưởng lão Ðại Ca Diếp vào thành khất thực, thấy Thầy Tỳ kheo bỏ đạo bị dẫn ra cửa Nam liền làm cho dây trói lỏng đi, và bảo Thầy.

- Ông hãy quán tưởng lại đề mục định như đã từng làm.

Vâng lời dạy, Thầy Tỳ kheo bắt đầu Thiền định, và nhập Tứ Thiền. Lính áp tải đưa Thầy đến chỗ hành hình, bảo:

- Bọn ta sẽ cho ngươi chết.

Rồi chúng nung đỏ chông sắt lên. Nhưng tên cướp chẳng hề lo sợ mảy may. Lính xử tội vây tứ phía đưa cao gươm giáo, lao phóng sáng lòa.

Thấy tên cướp không tỏ dấu sợ hãi chi cả, chúng phải kêu:

- Thưa các Ngài, hãy nhìn người này xem. Ðứng giữa trăm người lăm lăm vũ khí, ông ta chẳng run chẳng sợ. Thật là điều lạ lùng.

Quá kinh ngạc và thán phục, chúng reo hò ầm ĩ, rồi đến tâu lên vua. Nghe hết chuyện, vua phán:

- Hãy thả người ấy ra.

Họ đến bạch Phật câu chuyện. Ðức Thế Tôn phóng hào quang, phân thân đến pháp trường nói kệ:

(344) Lìa rừng lại hướng rừng,

Thoát rừng chạy theo rừng,

Nên xem người như vậy,

Ðược thoát khỏi buộc ràng,

Lại chạy theo ràng buộc.

Nghe pháp âm mầu nhiệm, Thầy Tỳ kheo bỏ đạo đang nằm trên bàn chông lính vây quanh kín đặc, liền quán tưởng đề mục sanh tử, quán tam pháp ấn, thấu rõ ngã không và đắc quả Dự lưu. Trong niềm an lạc của đạo quả vừa đắc, Thầy bay lên không đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài. Ngay giữa chúng hội, trong đó có cả nhà vua, Thầy đắc quả A la hán.

4. Ngôi Nhà Tù

Người trí xem chưa bền...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ngụ tại Kỳ Viên, liên quan đến ngôi nhà tù.

Một hôm, các tội phạm bị dẫn đến trước vua Ba Tư Nặc, nào trộm đạo, cướp đường, nào những kẻ giết người. Vua ra lệnh dùng gông cùm, dây thừng và dây xích trói họ lại. Lúc ấy, có ba mươi Thầy Tỳ kheo ở vùng quê đến thăm đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài rồi lui. Hôm sau, đi quanh thành Xá Vệ khất thực, các Thầy qua chỗ nhà tù và thấy bọn tội phạm. Chiều lại, khất thực xong các Thầy đến yết kiến Phật và bạch:

- Bạch Thế Tôn, hôm nay đi khất thực chúng con thấy các tội nhân ở trong nhà tù. Họ bị trói bằng gông cùm, dây thừng, dây xích, vô cùng đau khổ. Họ chẳng cởi nổi các gông cùm này để trốn thoát được. Bạch Thế Tôn, có thứ gì trói buộc bền chắc hơn nữa không?

Ðức Phật đáp:

- Này các Tỳ kheo, những thứ đó đâu đã lấy gì làm bền chắc. Hãy xem sự trói buộc của si mê, gông xiềng có tên là tham ái, sự ràng rịt của lòng tham luyến của cải, lúa thóc, vợ con. Dây trói buộc này còn bền chắc gấp trăm, nói cho đúng, gấp nghìn lần hơn những thứ các ông đã thấy. Nhưng dầu nó bền chắc như vậy và khó cởi bỏ đến thế mà xưa kia người có trí vẫn cởi bỏ được, ra đi vào Hy Mã Lạp Sơn, xa lìa thế tục.

Rồi Ngài kể chuyện tiền thân:

Chuyện quá khứ:

A. Chồng Và Vợ

Vào thuở xa xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba La Nại, Ngài là con trai một gia đình nhà nghèo nọ. Khi đến tuổi trưởng thành thì cha chết, chàng phải đi làm mướn nuôi mẹ. Bà mẹ chọn cưới cho chàng một cô gái con nhà tử tế, mặc những lời phản đối của chàng. Thời gian sau, mẹ già qua đời, vợ chàng hoài thai đứa con đầu lòng.

Chẳng biết vợ đang mang thai, chàng bảo:

- Này em, hãy tự kiếm sống nhé. Anh sẽ đi tu.

Vợ chàng đáp:

- Em đang có thai. Xin đợi đến ngày em sinh nở, chàng thấy mặt con rồi đi tu cũng không muộn.

- Thôi được.

Khi cô vợ sanh đứa bé xong, chàng từ giã vợ:

- Em thân yêu, em đã sanh nở mẹ tròn con vuông. Anh có thể đi tu được rồi chứ.

Nhưng cô vợ nói:

- Xin chàng chờ đến lúc con dứt sữa hãy đi.

Trong khi chàng chờ, cô vợ có thai đứa con thứ hai.

Chàng tự nghĩ: "Nếu ta làm theo lời yêu cầu của nàng thì chẳng bao giờ đi được. Ta sẽ bỏ trốn và xuất gia, đừng cho nàng hay gì cả.” Thế là không nói một lời về dự định của mình, giữa đêm chàng trở dậy trốn đi. Lính gác thành bắt chàng. Nhưng chàng thuyết phục được họ thả ra:

- Thưa các ông, tôi phải săn sóc mẹ già. Xin các ông tha cho tôi.

Ở lại quanh đấy một thời gian, chàng lên đường về vùng Hy Mã Lạp Sơn sống đời ẩn sĩ. Sau khi đắc thần thông và tu chứng được những quả vị cao hơn, chàng tiếp tục sống ở đấy, vui hưởng Thiền duyệt. Chàng thầm nghĩ: "Ta đã bứt tung được sợi dây trói thật quá ư bền chắc, sợi dây tham dục xấu xa, sợi dây của lòng luyến ái vợ con.”

Nghĩ rồi, chàng đọc một bài kệ.

(Kết Thúc Chuyện Quá Khứ)

Kể xong chuyện quá khứ, đức Thế Tôn nói kệ làm rõ nghĩa bài kệ của nhà ẩn sĩ:

(345) Sắt, cây, gai trói buộc,

Người trí xem chưa bền,

Tham châu báu, trang sức,

Tham vọng vợ và con.

(346) Người có trí nói rằng:

"Trói buộc này thật bền,

Trì kéo xuống, lún xuống,

Và thật sự khó thoát.

Người trí cắt trừ nó,

Bỏ dục lạc không màng.”

5. Sắc Ðẹp Phù Du

Người đắm say ái dục...

Câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ngụ tại Trúc Lâm, liên quan đến Hoàng hậu Khema, vợ vua Tần Bà Sa La.

Người ta nói rằng bà Khema, do phước báu lời nguyện dưới chân Phật Padumuttara, nhan sắc vô cùng lộng lẫy. Nghe đồn đức Thế Tôn thường chê trách sắc đẹp thể chất, bà tránh không gặp Phật. Vua Tần Bà Sa La biết bà rất tự kiêu về sắc đẹp của mình nên cho người làm những bài ca tán thán Trúc Lâm, rồi ra lịnh cho các nghệ sĩ hát các bài ca ấy khắp nơi.

Nghe các bài ca, Trúc Lâm đối với bà thật là một nơi xa xôi nào chưa từng biết. Bà hỏi các nghệ sĩ:

- Các ngươi hát về khu rừng nào thế?

- Tâu Hoàng hậu, chúng con hát về rừng Trúc Lâm của lệnh bà đấy.

Tức thì Hoàng hậu muốn xem Trúc Lâm. Lúc ấy, đức Thế Tôn đang ngự trên tòa giảng pháp cho tứ chúng, biết bà đến bèn hóa phép cho một cô gái tuyệt đẹp cầm quạt đứng quạt hầu Phật.

Hoàng hậu Khema bước vào Pháp đường, thấy cô gái bà nghĩ thầm: "Ta vẫn nghe nói đấng Ðại Giác chê trách sắc đẹp thể chất. Mà đây lại có cô gái này đứng quạt hầu Ngài. Ta chẳng sánh được một góc sắc đẹp cô ấy. Quả thực ta chưa bao giờ thấy ai đẹp như vầy. Chắc chắn người ta nói về đức Thế Tôn không được đúng lắm.”

Hoàng hậu cứ dán mắt vào người đẹp, lời giảng pháp của đứa Thế Tôn chẳng lọt một tiếng vào tai bà. Phật biết bà đang chú tâm vào cô gái, liền biến người đẹp trẻ trung diễm lệ kia thành bà già lụ khụ, rồi cuối cùng chỉ còn là một túi da bọc xương. Thấy thế, Hoàng hậu Khema suy nghĩ: "Chỉ trong phút chốc thôi, một hình hài tuyệt mỹ như thế đã đi đến chết chóc, hoại diệt. Quả nhiên hình hài vật chất này không thật chút nào!"

Ðức Thế Tôn đọc được tư tưởng bà, liền bảo:

- Khema, bà nghĩ một cách sai lầm rằng sắc đẹp thể chất là có thật. Bà hãy xem cái không thật của nó kìa.

Ngài nói kệ:

Bà Khema có thấy

Mớ duyên hợp kia không?

Ðầy bệnh hoạn thối ung

Ðồ bất tịnh dơ xấu

Từng phút giây rỉ chảy

Chỉ những kẻ ngu si

Mới đắm say thứ ấy.

Nghe xong, Hoàng hậu Khema đắc quả Dự lưu. Ðức Thế Tôn bảo bà:

- Này Khema, chúng sanh trong thế gian này đắm say ái dục, bị lòng sân hận làm hư hỏng, bị ngu si đánh lừa, do đó dính chặt trong dòng sông tham ái, không thể vượt thoát ra nổi.

Và Ngài nói kệ giảng pháp:

(347) Người đắm say ái dục,

Tự lao mình xuống dòng,

Như nhện sa lưới dệt,

Người trí cắt trừ nó,

Bỏ mọi khổ, không màng.

Khi bài pháp kết thúc, Hoàng hậu Khema đắc quả A la hán. Hội chúng cũng được lợi lạc.

Ðức Phật bảo vua Tần Bà Sa La:

- Ðại vương, bà Khema giờ hoặc phải xa rời thế tục, hoặc phải nhập Niết bàn.

Vua bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy nhận bà ấy vào Tăng đoàn, khoan nhập Niết bàn.

Bà Khema xuất gia và trở thành một trong những Trưởng lão ni xuất sắc của Tăng đoàn đức Phật.

6. Chàng Trai Có Cô Vợ Diễn Viên Nhào Lộn

Bỏ quá, hiện, vị lai...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Trúc Lâm, liên quan đến Uggasena.

Thuở ấy tại thành Vương Xá, mỗi năm một hoặc hai lần, năm trăm diễn viên xiếc nhào lộn lại đến biểu diễn cho nhà vua xem suốt bảy ngày. Họ kiếm được nhiều tiền và vàng: quả thực, người ta tung quà thưởng tới tấp vào họ. Khán giả chồng chất giường ngủ lên nhau thật cao, trèo lên xem cho rõ những màn xiếc hấp dẫn.

Hôm ấy, một nữ diễn viên leo lên cây cột cao, quay lộn một vòng rồi cô nhẹ nhàng đặt chân lấy thăng bằng trên đầu cột, cứ lơ lửng trên không như thế cô vừa khiêu vũ vừa hát. Trong đám khán giả có con trai quan Chưởng khố cũng đứng trên đống giường với bạn chàng, xem cô biểu diễn. Tay chân cô cử động mềm mại duyên dáng quá làm chàng nhìn say sưa, và chàng yêu cô gái luôn. Tan hát về nhà chàng nói: "Nếu cưới được nàng ấy ta mới sống, còn không ta chết quách cho xong.” Chàng gieo mình xuống giường, chẳng chịu ăn uống gì nữa.

Bố mẹ chàng hỏi:

- Con ơi, con bịnh làm sao?

Chàng đáp:

- Nếu con cưới được con gái người hát xiếc con mới sống. Còn không, con sẽ chết thôi.

Bố mẹ chàng khuyên:

- Con ơi, đừng làm vậy. Cha mẹ sẽ cưới cho con một cô vợ khác mới là môn đăng hộ đối chứ.

Chàng vẫn một mực nói câu ấy và nằm lỳ trên giường. Cha chàng kiên nhẫn giảng cho chàng hiểu, rốt cuộc cũng không làm cho chàng tỉnh trí được chút nào. Cuối cùng ông cho gọi người bạn của chàng đến đưa một ngàn tiền vàng và bảo:

- Cậu hãy trao số tiền này cho người hát xiếc và bảo ông ấy đưa con gái về cho con trai ta.

Người hát xiếc nói:

- Tôi đâu bán con lấy tiền. Nếu cậu ấy không thể sống thiếu con gái tôi thì hãy để cậu ấy đi với bọn tôi. Chịu như vậy tôi mới gả con gái.

Bố mẹ chàng cho chàng hay tin. Chàng liền bảo:

- Tất nhiên,con sẽ đi với họ thôi.

Bố mẹ chàng năn nỉ, khuyên lơn. Chàng chẳng màng đến những lời họ nói, bỏ theo đoàn hát xiếc.

Chàng cưới cô gái diễn viên và cùng đoàn hát đi biểu diễn qua khắp làng mạc, thành thị, kinh đô. Chẳng bao lâu, cô vợ sanh một đứa con trai. Mỗi khi chơi đùa với con, cô gọi con là "con bác đánh xe" hoặc "con chú loong toong", hay "con gã chẳng biết gì ráo.” Anh chồng quả cũng có đảm nhiệm việc chăm sóc cỗ xe gánh xiếc. Mỗi khi đoàn biểu diễn, chàng sửa soạn dụng cụ, dàn dựng lên hoặc dọn dẹp khi tan hát.

Chính muốn ám chỉ các việc làm ấy mà vợ khi nựng con đã dùng những từ trên. Chàng đi đến kết luận là cô muốn nói bóng gió mình, bèn hỏi:

- Nàng muốn ám chỉ ta ư?

- Ðúng thế, tôi nói anh đấy.

- Ðã vậy, ta sẽ bỏ nàng.

- Anh đi hay ở đâu việc gì đến tôi.

Cô vẫn dùng những từ ngữ ấy đùa với con. Sắc đẹp và số lợi tức khổng lồ cô kiếm được làm cô bất cần chồng.

Chàng nghĩ: "Sao cô ta kiêu ngạo thế?" Ngay sau khi ấy chàng hiểu ra: "Chính vì cô ta là một diễn viên tài năng.” Chàng quyết định: "Ðược! Ta sẽ học làm xiếc.”

Chàng học tất cả các ngón biểu diễn với cha vợ. Chàng đi trình diễn khắp làng mạc, thành thị, kinh đô, hết chỗ này đến chỗ kia, cuối cùng lại trở về Vương Xá, chàng truyền rao khắp thành: "Bảy ngày nữa, Uggasena con trai Ngài Chưởng khố sẽ biểu diễn nghệ thuật cho dân thành Vương Xá xem.” Dân chúng rộn rịp dựng khán đài thật cao, và đúng ngày thứ bảy, họ kéo nhau đến. Uggasena leo lên cây cột cao ba chục mét và đứng lơ lửng trên đầu sào.

Hôm ấy, từ sớm đức Thế Tôn quan sát thế gian và Uggasena xuất hiện trong tầm quán sát của Ngài. Thế Tôn tự nghĩ: "Người thanh niên ấy sẽ ra sao?” Ngay sau đó, Ngài biết được: "Con trai quan Chưởng khố sẽ đứng lơ lửng trên đầu sào kia để biểu diễn màn xiếc của chàng và đông đảo khán giả sẽ tụ tập xem. Vào thời điển ấy ta sẽ đọc bài kệ bốn câu. Nghe xong tám vạn bốn ngàn người sẽ được Pháp nhãn thanh tịnh, còn Uggasena thì đắc quả A la hán.”

Ngày hôm sau, lựa đúng giờ thích hợp, đức Thế Tôn cùng các Tỳ kheo lên đường vào thành Vương Xá khất thực.

Trước khi Phật đặt chân vào thành, tại chỗ biểu diễn, Uggasena đưa tay ra dấu chào trả tiếng vỗ tay của khán giả. Và giữ thăng bằng trên đầu cột, chàng bay lộn bảy vòng trong không, đặt chân trở lại trên đầu cột và đứng giữ thăng bằng ở đấy. Ðúng lúc này, đức Thế Tôn vào thành, và do sự xếp đặt của Ngài, khán giả quay nhìn Ngài thay vì nhìn Uggasena biễn diễn. Thấy khán giả không còn quan tâm đến mình nữa, Uggasena vô cùng thất vọng. Chàng nghĩ: "Ta phải mất một năm mới luyện được màn biểu diễn này. Thế mà đức Thế Tôn vừa đặt chân đến thành, khán giả đã bỏ ta quay lại chiêm ngưỡng Ngài. Buổi biểu diễn của ta thế là hoàn toàn thất bại. "Phật đọc được tư tưởng của chàng liền bảo Trưởng lão Mục- kiền liên:

- Ông hãy đến bảo con viên Chưởng khố ta muốn xem chàng biểu diễn tài nghệ.

Tôn giả đến bên cây cột nói với chàng diễn viên:

Này, Uggasena

Diễn viên xiếc tài ba!

Hãy phô trương tài nghệ,

Cống hiến dân thành ta.

Uggasena nghe vậy vô cùng hoan hỉ: "Chắc đức Thế Tôn muốn xem tài năng của ta.” Nghĩ vậy, chàng liền đáp, trong lúc vẫn đứng lơ lửng trên đầu cột:

Hãy xem tôi, Mục Kiền Liên Tôn giả!

Bậc đại trí, bậc đại thần thông!

Tôi trổ tài cống hiến đám đông

Và làm họ cười reo thỏa thích

Từ trên đầu cột chàng tung mình lên không, quay lộn mười bốn vòng rồi đặt chân trở lại, giữ thăng bằng trên đầu cột.

Ðức Thế Tôn bảo:

- Này Uggasena, người trí phải biết cởi bỏ buộc ràng của thân ngũ uẩn trong quá khứ, hiện tại và vị lại. Như vậy, người ấy mới thoát được sanh, già, bệnh, chết.

Ngài nói kệ:

(348) Bỏ quá, hiện, vị lai,

Ðến bờ kia cuộc đời,

Ý giải thoát tất cả,

Chớ vướng lại sanh già.

Phật nói xong, tám vạn bốn ngàn người được pháp nhãn thanh tịnh, con trai quan Chưởng khố đắc quả A la hán và được thần thông ngay khi chàng còn đứng lơ lửng đầu cột.

Chàng tụt xuống, tiến tới trước đức Thế Tôn, năm vóc gieo xuống đất đảnh lễ Phật và xin được gia nhập Tăng đoàn. Phật đưa tay nói: "Hãy đến, Tỳ kheo!" Chàng liền biến thành một vị Trưởng lão chừng sáu mươi tuổi, với đầy đủ tám vật dụng tùy thân. Các Thầy Tỳ kheo hỏi Trưởng lão:

- Này huynh Uggasena, huynh leo từ cây cột ba chục thước xuống mà không sợ sao?

Uggasena đáp:

- Chư huynh đệ, tôi chẳng sợ chút nào. Chúng Tỳ kheo bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, Uggasena nói "Tôi chẳng sợ chút nào" là nói điều không thật. Ông ấy phạm việc dối trá.

Phật bảo:

- Này các Tỳ kheo, Tỳ kheo như Uggasena đã diệt trừ tham ái, không còn lo âu sợ hãi gì nữa.

Ngài nói kệ:

(397) Ðoạn hết các kiết sử,

Không còn gì lo sợ,

Không đắm trước buộc ràng,

Ta gọi Bà la môn

Một hôm, chúng Tỳ kheo bàn luận với nhau trong Pháp đường: "Chư huynh đệ, vì sao một vị Tỳ kheo có khả năng chứng A la hán như vị này lại lưu lạc theo đoàn xiếc chỉ vì cô con gái của người hát xiệc? và làm thế nào ông ấy có khả năng chứng A la hán?"

Ðức Thế Tôn đến gần, hỏi:

- Này các Tỳ kheo, các ông tụ tập luận bàn gì thế?

Khi nghe họ bạch, Phật bảo:

- Này các Tỳ kheo, hai việc này xảy ra trong cùng một trường hợp thôi.

Ðể làm sáng tỏ câu chuyện, Phật kể:

Chuyện quá khứ:

A. Lời Nói Ðùa Và Qủa Báo

Thuở xa xưa, khi ngôi tháp bằng vàng thờ Xá Lợi Phật Ca Diếp đang được xây cất, con cái một số Phật tử thuần thành ở Ba La Nại đến chỗ xây tháp công quả bằng cách đích thân bắt tay vào việc xây cất công trình ấy, và họ mang theo những cỗ xe chất đầy thực phẩm. Trên đường đi, họ gặp nột Trưởng lão đang đi vào thành khất thực. Trong những người đi công quả có một phụ nữ trẻ thấy Trưởng lão bèn nói với chồng cô:

- Này anh, vị Trưởng lão tôn kính của chúng ta đang vào thành khất thực. Xe ta chứa vô số thực phẩm cả cứng lẫn mềm. Anh hãy đến đỡ bình bát của Ngài và cúng dường đi.

Người chồng đến đỡ bình bát Trưởng lão và họ múc đầy bát thức ăn vừa cứng vừa mềm. Xong hai vợ chồng phát nguyện:

- Bạch Ðại đức, chúng con nguyện được dự phần với Ngài chân lý mà Ngài đã sáng tỏ.

Vị Trưởng lão đã đắc A la hán. Ngài quan sát xem thử đời vị lai lời nguyện họ được thành không. Khi biết lời nguyện sẽ thành, Ngài mỉm cười. Cô vợ nhìn thấy nụ cười ấy bảo chồng:

- Anh à, vị Trưởng lảo tôn quý của chúng ta cười. Chắc Ngài cũng là diễn viên.

Anh chồng đáp:

- Ừ phải, chắc Ngài là diễn viên thật em ạ!

Họ tiếp tục đi lo công việc của mình. Ðây là nghiệp họ tạo trong quá khứ.

(Chấm Dứt Chuyện Quá Khứ)

Khi mãn kiếp, hai vợ chồng được tái sinh lên cõi trời. Vào thời đức Phật hiện tại, người vợ thọ sanh trong nhà một diễn viên xiếc, người chồng thì làm con trai quan Chưởng khố. Do chàng nói: "Ừ phải, chắc Ngài là diễn viên thật em ạ", kiếp này chàng phải phiêu bạt theo đoàn xiếc. Do chàng cúng dường một bữa ăn cho vị Trưởng lão A la hán, nên chàng đắc quả A la hán.

Cô gái con người hát xiếc tự bảo: "Chồng ta chứng đắc quả vị gì thì ta cũng sẽ chứng đắc như chàng"

Cô bèn xuất gia và cũng đắc quả A la hán.

7. Xạ Thủ Trẻ Tài Ba

Người tà ý nhiếp phục...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang trú tại Kỳ Viên, liên quan đến Thầy Tỳ kheo trẻ tên Culla dhanuggaha Pandita, có nghĩa là chàng xạ thủ tài ba.

Một hôm, một Thầy Tỳ kheo trẻ đến lượt đi nhận thức ăn cúng dường, cầm bát cháo về đến trai đường thấy hết nước uống. Thầy vào nhà đàn việt xin. Trong nhà lại có côn gái trẻ vừa trông thấy Thầy Tỳ kheo liền đem lòng luyến ái, cô nói:

- Bạch Ðại đức, khi nào cần nước uống, xin Ngài trở lại đây chớ đừng đi nơi khác.

Từ đấy, mỗi khi không có nước uống, Thầy chỉ đến nhà cô gái xin. Cô đích thân đỡ bình bát đổ đầy nước cho Thầy. Dần dà, cô cúng dường cả cháo. Một hôm, cô đem ghế mời Thầy ngồi và cúng dường cơm. Cô ngồi kề bên, gợi chuyện:

- Bạch Ðại Ðức, nhà đây thật là cô quạnh. Chúng con suốt ngày chẳng có bóng người khách viếng thăm.

Sau khi nghe cô trò chuyện vài lần, Thầy Tỳ kheo bắt đầu thấy chán đời tu.

Bữa kia, có vài Thầy Tỳ kheo khác đến thăm Thầy, hỏi:

- Huynh sao trông vàng vọt thế?

- Thưa chư huynh, tôi đang phiền muộn.

Các Thầy Tỳ kheo bèn đem Thầy đến gặp Thầy tế độ và Giáo thọ của Thầy. Hai vị lại đưa Thầy đi gặp Phật và bạch lên sự việc, Phật bảo:

- Này Tỳ kheo, có đúng là ông đang phiền não?

- Thưa đúng, Bạch Thế Tôn!

Nghe Thầy Tỳ kheo trả lời, đức Thế Tôn nghiêm nghị trách:

- Này Tỳ kheo làm sao mà sau khi xuất gia được nhập vào Tăng đoàn của Như Lai đại hùng đại lực, thay vì khiến mọi người phải nói rằng ông đã đắc quả Tu đà hoàn, hoặc quả Tư đà hàm, ông lại để họ nói rằng ông bị phiền não? Ông thật là có lỗi lớn.

Rồi đức Thế Tôn hỏi tiếp:

- Tại sao ông phiền não?

- Bạch Thế Tôn, có cô nọ nói với con như vầy, như vầy.

- Này Tỳ kheo, cô ta làm như thế chẳng có gì lạ lùng. Trong khiếp trước cô ta đã bỏ rơi Dhanuggaha, người bắn cung giỏi nhất trên toàn cõi Ấn độ. Chỉ vì sự đam mê bồng bột nhất thời với một tướng cướp, cô đã sát hại chồng.

Các Thầy Tỳ kheo xin Phật kể rõ câu chuyện. Ngài nói:

Chuyện quá khứ:

A. Xạ Thủ Trẻ Tài Ba

Thuở xa xưa, có chàng trai tên Xạ Thủ Tài Ba, Culla Dhanuggaha. Chàng theo học bắn cung với một vị Thầy rất danh tiếng ở Takkasilà. Chàng tiến bộ thật nhanh chóng khiến thấy hài lòng vô cùng, bèn gả con gái cho chàng. Cưới hỏi xong, chàng đưa vợ về Ba La Nại. Ðến một khu rừng, chàng giết được năm mươi tên cướp, chỉ dùng năm mươi mũi tên. Khi tên cạn, chàng túm lấy tên cầm đầu bọn cướp, quất xuống đất rồi kêu cô vợ:

- Nàng ơi! Hãy đưa kiếm cho ta.

Nhưng vừa thấy tên cướp, cô vợ bỗng đem lòng say mê, bèn trao kiếm cho hắn. Gã lập tức giết chàng xạ thủ rồi dẫn cô đi theo.

Vừa đi gã vừa nghĩ:

- Nếu cô ta thấy tên đàn ông khác cũng sẽ giết ta như đã giết chồng, ta giữ nàng phỏng có ích gì?

Ðến con sông, gã để cô ở lại bên này, mang hết đồ trang sức sang sông và nói:

- Nàng ở lại đây, ta đem đồ qua trước đã.

Rồi gã bỏ mặc cô đấy. Cô kêu:

- Hỡi chàng Bà la môn!

Chàng mang hết sang sông

Ðồ trang sức em đó

Xin chàng mau trở lại,

Ðem em theo qua cùng.

Tên tướng cướp đáp:

- Cô nàng ơi!

Cô đổi người chồng bao năm kề vai sát cánh

Ðể lấy ta, kẻ chưa hề quen.

Cô đem anh chồng từng ngọt bùi chia xẻ,

Ðổi một người cô chẳng biết ra sao.

Cô ạ, cô sẽ lại bỏ ta theo kẻ khác

Thôi chào cô, ta lo tránh xa đây.

Ðể làm người đàn bà phải xấu hổ, Ðế Thích liền hiện xuống mang theo người đánh xe và viên nhạc thần. Ðế Thích hóa thành con chó rừng, người đánh xe đội lốt cá, còn nhạc thần làm con chim. Chó ngậm miếng thịt đứng trước người đàn bà. Con cá nhảy lên nhảy xuống dưới nước, chó phóng xuống chụp, đánh rơi miếng thịt, chim cắp thịt bay vù đi. Cá biến dạng xuống dòng sông. Chó mất cả chì lẫn chài. Người đàn bà phá ra cười. Chó hỏi:

- Ai đứng bên bụi cây cười đó?

Xin nói đi, vì sao người đẹp cười

Ðâu phải nơi vũ hội, hát ca

Ðây đâu phải lúc vỗ tay đánh nhịp

Chính là lúc phải khóc, người đẹp ạ!

Người đàn bà đáp:

- Chó ngu ơi, trí khôn mày thật chỉ bé tẹo,

Mày chỉ có nước khóc như tên ăn mày,

Mày đánh mất cả cá lẫn thịt.

Chó đáp:

- Chân mình thì lấm mê mê,

Mà đi lấy đuốc để rê chân người,

Cả tình nhân lẫn chồng, cô mất

Chính cô mới nên khóc đấy ạ!

Bấy giờ cô ta mới nói:

- Ðúng vậy, hỡi chó rừng, vua loài thú,

Thôi từ đây ta ngoan ngoãn theo chồng.

Chó đáp lại:

- Ăn cắp trứng sẽ ăn cắp gà nữa

Làm ác rồi, cô sẽ tiếp tục thôi.

Ðức Thế Tôn kể xong câu chuyện tiền thân về chàng Culla Dhanuggaha (có trong quyển năm bộ Nipàta, Ngài nói:

- Kiếp ấy, ông là chàng xạ thủ trẻ, người đàn bà kia là cô gái cho ông uống nước đó. Vua Ðế Thích chính là ta. Cô kia chỉ mới thấy tên cướp đã mê mệt, giết mất chàng trai tài giỏi nhất Ấn Ðộ. Này Tỳ kheo, ông hãy nhổ hết gốc rễ lòng tham ái trong ông đối với người đàn bà này.

Khuyên răn Thầy xong, Phật giảng pháp thêm cho Thầy nghe, Ngài nói kệ:

(349) Niệm xấu làm não loạn

Dục lạc nhiều thường cầu

Rèn thêm xiền tham ái

Dây ràng xiết càng sâu.

(350) Ai vui, an tịnh ý,

Quán bất tịnh, thường niệm

Người ấy sẽ diệt ái,

Cắt đứt ma trói buộc.

8. Ma vương Chẳng Nhát Ðược La Hầu La

Ai tới đích, không sợ...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Ma vương.

Một hôm, nhiều Trưởng lão Tỳ kheo đến Tinh xá Kỳ Viên không phải thời. Các Thầy vào thất Trưởng lão. La Hầu La, đánh thức Tôn giả dậy. Thấy chẳng còn chỗ nào để ngủ, Tôn giả bèn đến nằm trước hương thất Phật. Vị Trưởng lão tôn kính này tuy mới tám tuổi nhưng đã đắc quả A la hán. Ma vương Vasavattì thấy vậy bèn nghĩ: "Con của Sa môn đang nằm trước cửa hương thất, còn Sa môn Cồ Đàm thì nghỉ ở trong. Nếu ngón tay người con bị kẹp đau, vị Sa môn cũng sẽ thấy đau như mình bị kẹp vậy.”

Rồi hắn biến thành voi chúa khổng lồ tiến đến bên vị Trưởng lão, dùng vòi quấn đầu Tôn giả và gầm lên thật to. Trong hương thất, đức Thế Tôn thấy hết, bèn nói:

- Này Ma vương, trăm ngàn kẻ như ngươi cũng không làm La Hầu La sợ hãi được. Người này không còn kinh sợ vì đã diệt trừ tham ái, mạnh mẽ hùng tráng, đại trí đại huệ.

Ngài nói kệ:

(351) Ai tới đích, không sợ,

Ly ái, không nhiễm ô,

Nhổ mũi tên sanh tử,

Thân này thân cuối cùng.

(352) Ái lìa, không chấp thủ,

Cú pháp khéo biện tài,

Thấu suốt từ vô ngại,

Hiểu thử lớp trước sau,

Thân này thân cuối cùng,

Vị như vậy được gọi,

Bậc đại trí, đại nhân.

Phật nói xong, rất nhiều người đắc quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm và A na hàm. Ma vương tự bảo: "Sa môn Cồ Đàm thấy ta", hắn bèn biến mất.

9. Nhà Tu Khổ Hạnh Hoài Nghi

Ta hàng phục tất cả...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này kiên quan đến đạo sĩ khổ hạnh Ngài tình cờ gặp tên là Upaka, thuộc giáo phái Ajìvaka.

Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật lưu lại bảy tuần tại đó. Rồi Ngài mang y, cầm bát lên đường đi mười tám dặm về Ba La Nại để chuyển bánh xe pháp. Trên đường đi, Ngài gặp đạo sĩ thuộc giáo phái khổ hạnh Ajìvaka. Ðạo sĩ hỏi:

- Huynh đệ, các căn Ngài thật tịch tịnh, da Ngài sáng đẹp quá. Ngài theo ai xuất gia? Ai là Thầy Ngài? Ngài tu theo giáo lý của ai?

Phật đáp:

- Như Lai không có Thầy tế độ, cũng không có giáo thọ.

Ngài nói kệ:

(353) Ta hàng phục tất cả,

Ta rõ biết tất cả,

Không bị nhiễm pháp nào,

Ta từ bỏ tất cả,

Ái diệt, tự giải thoát,

Ðã tự mình thắng trí,

Ta gọi ai Thầy Ta?

Upaka chẳng lộ vẻ đồng ý hay bất bình trước những lời của Ðức Như Lai. Ðạo sĩ chỉ lắc đầu, chép miện rồi rẽ vào đường tẻ, đi đến lều một thợ săn.

10. Pháp Thí Thắng Mọi Thí

Pháp thí thắng mọi thí...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang trú ở Kỳ Viên, liên quan đến vua trời Ðế Thích.

Một hôm, chư thiên cõi trời Ba mươi ba tụ họp lại đưa ra bốn câu hỏi:

- Vật gì bố thí cao quý nhất?

- Vị ngon nào trên tất cả?

- Hạnh phúc nào cao tột đỉnh?

- Tại sao diệt trừ tham ái là việc làm tối hệ trọng?

Chư thiên không ai trả lời được, vị này hỏi vị kia, vị kia hỏi vị nọ, cho đến lúc mỗi vị đã hỏi đủ các vị khác. Suốt mười hai năm, chư thiên đi khắp mười ngàn thế giới cũng không tìm ra được kẻ đáp được các câu hỏi trên.

Cuối cùng, tất cả chư thiên mười ngàn thế giới họp lại và cùng nhau đến gặp Tứ thiên vương. Các Ngài hỏi:

- Có việc gì mà chư vị tụ họp đông đảo thế này?

Chư thiên đáp:

- Chúng thần có bốn câu hỏi không ai trả lời được, nên kéo nhau đến hầu các đại vương.

- Những câu hỏi gì thế?

Nghe xong các câu hỏi, Tứ thiên vương đáp:

- Chư vị, chúng tôi cũng chịu thua. Có đức vua thường suy tư về các câu hỏi mà cả ngàn người khác cũng suy tư, và Ngài biết ngay câu trả lời. Phước đức Trí tuệ Ngài hơn hẳn chúng tôi. Ta hãy đến hầu Ngài.

Tứ thiên vương kéo đoàn chư thiên đông đảo kia đến gặp Ðế Thích. Vua hỏi:

- Chư vị có việc gì tụ họp đông đúc thế?

Họ tâu lên Ðế Thích mục đích cuộc viếng thăm. Vua nói:

- Chư vị, không ai có thể trả lời, trừ đức Phật. Các vấn đề này nằm trong phạm vi hiểu biết của chư Phật. Hiện giờ đức Thế Tôn đang ở đâu?

- Thưa tại Kỳ Viên.

- Ta hãy đến hầu đức Thế Tôn.

Vua Ðế Thích cùng đoàn chư thiên đông đảo đang đêm bay đến Kỳ Viên, hào quang sáng cả Tinh xá. Vua đảnh lễ Phật rồi lui ra một bên. Phật hỏi:

- Ðại vương, có việc gì mà đại vương cùng đông đảo chư thiên đến viếng hôm nay?

- Bạch Thế Tôn, các vị này nêu bốn câu hỏi không ai trả lời được, ngoại trừ Thế Tôn. Xin Ngài giảng giải cho chúng con rõ.

- Ðại vương, lành thay! Chính vì để dứt trừ nghi hối cho các chúng sanh như chư vị mà Như Lai hoàn thành mười Ba la mật, hành năm pháp đại xả, và chứng quả Chánh giác. Về câu hỏi của đại vương ư? Pháp thí thắng mọi thí. Pháp vị thắng mọi vị, pháp hỉ thắng mọi hỉ. Có diệt trừ tham ái mới đắc quả A la hán, cho nên đó là việc làm tối hệ trọng.

Ngài nói kệ:

(354) Pháp thí, thắng mọi thí!

Pháp vị, thắng mọi vị!

Pháp hỉ, thắng mọi hỉ!

Ái diệt, thắng mọi khổ.

Chú Giải Trong Nguyên Bản:

Pháp thí thắng mọi thí: dù cúng dường pháp y đúng màu đài hoa chuối cho tất cả các vị Phật, Các vị Bích Chi Phật, các vị A la hán nhiều đến nỗi họp lại thành một hàng dọc nối từ dưới đất lên đến cõi trời Phạm thiên cũng không bằng đọc một bài kệ hồi hướng công đức ở giữa hồi chứng. Bởi vì công đức cúng dường y này không bằng một phần mười sáu của việc đọc lên bài kệ. Do vậy mới biết tầm quan trọng của việc giảng pháp, đọc tụng pháp và nghe pháp.

Kẻ nào giúp chúng sanh được nghe pháp sẽ nhận được phước báo lớn hơn phước báo cúng dường vật thực, cho dù người múc đầy bình bát tất cả các vị Phật, Bích Chi Phật, A la hán nói trên với những thức ăn thượng vị. Phước báo do cúng dường pháp cũng lớn hơn cúng dường các thứ thuốc men bổ dưỡng như bơ, sữa... cũng lớn hơn cùng dường nhà ở, cho dù người ấy xây dựng không kể xiết cả trăm ngàn Tinh xá lớn như Maha Vihàra, những Tinh xá tiện nghi như Loha Pàsadà. Phước báo ấy cũng lớn hơn cả phước báo ông Cấp Cô Ðộc và các vị khác được hưởng do công cúng dường kho báu xây dựng các Tinh xá. Bố thí pháp dù chỉ đọc lên một bài kệ hồi hướng bốn câu, được phước báo vô lượng vô biên nhiều hơn cacù thứ bố thí ấy.

Tại sao thế? Tất cả những kẻ bố thí nó trên sở dĩ cúng dường do có nghe pháp. Nếu chưa được nghe, không bao giờ họ thực hiện những việc cúng dường ấy. Chúng sanh trong cõi Ta bà này nếu không từng nghe pháp chẳng ai bố thí một vá cháo, hoặc chỉ một muỗng cơm. Vì lý do ấy, pháp thí thắng mọi thí.

- Thực thế, trừ trường hợp ngoại lệ của chư Phật và các vị Bích Chi Phật, những vị như Tôn giả Xá Lợi phất và bạn bè Ngài dù có thần thông đếm được hết những giọt mưa của tất cả những trận mưa trong suốt một kiếp, cũng không thể tự mình đắc quả Tu đà hoàn và các quả vị khác mà phải nhờ đến bài pháp của Trưởng lão Ác bệ, của các vị khác. Và sau cùng, khi nghe pháp của đức Thế Tôn, Tôn giả mới hành trì được các Ba la mật Ðại Vương, vì lý do ấy, pháp thí thắng mọi thí.

Nói về các vị ngon, từ đường mật... cho đến sơn hào hải vị quý hiếm như thức ăn của chư thiên đều lôi cuốn người ham thích phải trôi lăn trong sanh tử luân hồi, cho nên nó là gốc khổ của chúng sanh. Chỉ có hương vị của Giáo pháp, hiểu thấu ba mươi bảy phần trợ đạo đưa đến Chánh giác và chín bậc Thiền định là thượng vị. Cho nên nói: Pháp vị thắng mọi vị.

Những lạc thú của người đời như con cái, dục lạc, ca nhạc, hát múa... cũng chỉ lôi cuốn người ham thích trôi lăn trong sinh tử luân hồi, nó cũng là gốc khổ của chúng sanh. Nhưng pháp hỉ sanh trong tâm kẻ nói pháp, hoặc nghe pháp, khiến họ được hưởng trạng thái an lạc vô biên, khiến nước mắt phải chảy, tóc lông phải dựng ngược. Sự an lạc này lại chấm dứt sanh tử luân hồi, cứu cánh đạt đến quả vị A la hán. An lạc này mới là tối thắng? Cho nên nói: Pháp hỉ thắng mọi hỉ.

Cuối cùng đến vấn đề tham ái. Khi tham ái diệt, hành giả chứng đắc A la hán. Do ái diệt nên dứt sạch hết đau sanh tử luân hồi, cho nên nói: Ái diệt thắng mọi khổ.

Phật nói pháp xong, vua Ðế Thích đảnh lễ Phật và nói:

- Bạch Thế Tôn, nếu pháp thí tôn quý như vậy sao Ngài không dạy hồi hướng công đức ấy cho chúng con? Từ đây mỗi khi Thế Tôn nói pháp cho chúng hội Tỳ kheo, cúi xin Ngài khiến họ hồi hướng công đức cho chúng con.

Phật nghe lời thỉnh cầu ấy liền họp chúng Tỳ kheo bảo:

- Này các Tỳ kheo từ đây trở đi mỗi khi có thuyết pháp, dù trong chúng hội lớn hay chỉ một buổi giảng pháp bình thường, hoặc một bài pháp vắn tắt, hoặc khi nói lời cảm tạ, các ông hãy nhờ hồi hướng lại công đức cho tất cả chúng sanh.

11. Quan Chưởng Khố Không Con

Tài sản hại người ngu...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang trú tại Kỳ Viên, liên quan đến quan Chưởng khố không con tên Aputtaka.

Chuyện kể rằng khi quan Chưởng khố chết, vua Ba Tư Nặc hỏi:

- Người không con khi chết tài sản thuộc về ai?

- Muôn tâu, thuộc về bệ hạ.

Vua cho chở tài sản người quá cố về cung suốt bảy ngày mới hết. Rồi vua đến hầu Phật, Phật hỏi:

- Kìa Ðại vương, do đâu giữa trưa đại vương đến dây?

- Bạch Thế Tôn, tại thành Xá Vệ này có quan Chưởng khố không con chết ngày hôm kia. Con vừa cho chở xong tài sản về cung rồi liền đến đây.

Vua bạch tiếp:

- Con nghe mỗi khi thức ăn thượng vị đựng trong dĩa vàng đem đến cho quan Chưởng khố, ông ấy nói: "Người ta ăn thức ăn này à? Tại sao bọn ngươi dám đùa cợt với ta ngay tại nhà ta?" Nếu các người hầu đánh bạo dọn cho ổng ăn, ổn sẽ ném đất đá hoặc lấy gậy đánh đuổi họ đi. Ông chỉ ăn cháo cám hoặc cháo chua, nói rằng: "Người ta chỉ ăn những thức ăn này thôi.” Người hầu đem đến những quần áo đẹp, xe cộ tốt, ô dù, đều bị ông đánh đuổi bằng đất đá, gậy gộc như trên. Ông chỉ mặc áo quần vải gai thô, đi cỗ xe cũ kỹ cọc sạch, đầu thì hái lá che.

Phật bèn kể chuyện kiếp trước của quan Chưởng khố:

Chuyện quá khứ:

A. Quan Chưởng khố Bỏn Xẻn

Ðại vương, vào thời quá khứ, quan Chưởng khố này đã cúng dường thức ăn cho một vị Bích Chi Phật tên Tagarasikhi.

- Hãy đem thức ăn cho Thầy Tỳ kheo.

Ông bảo vợ vậy, rồi đứng lên đi làm việc khác. Bà vợ mộ đạo nghe lời chồng, nghĩ thầm: "Thực lâu lắm ta mới nghe miệng ông ấy thốt ra chữ "đem cho.” Hôm nay, niềm nở mơ ước được cúng dường của ta biến thành sự thật.” Bà đỡ lấy bình bát của vị Bích Chi Phật, múc đầy những thức ăn ngon lành nhất.

Quan Chưởng khố quay lại, thấy vị Bích Chi Phật liền hỏi:

- Thầy đã nhận thức ăn chưa?

Ông cầm bát Thầy và trông thấy các thức ăn thượng vị, bất giác tiếc rẻ nghĩ thầm: "Phải chi các thứ này để bọn người hầu ta ăn thì tốt hơn biết mấy! Chúng ăn xong sẽ làm việc tích cực. Còn Thầy Tỳ kheo chỉ ăn rồi nằm ngủ. Thực phẩm này cho đi thật chẳng được gì"

Quan Chưởng khố lại còn giết chết con trai độc nhất của anh mình để đoạt gia tài. Người cháu thường nắm tay chú dẫn đi chỗ này, chỗ nọ, miệng liến thoắng:

- Cỗ xe này thuộc tài sản cha cháu đấy! Bò này cũng là bò của người.

Quan Chưởng khố nghĩ: "Lúc này hắn còn nói thế. Hắn khôn lớn rồi còn có thể thấy được của cải hắn trong nhà này?” Một hôm, ông dắt cháu vô rừng, xiết cổ cho chết như người ta bẻ một củ cải vậy, rồi quăng xác vào bụi rậm. Ðấy là tội ác của ông trong kiếp trước nữa.

(Chấm Dứt Chuyện Quá Khứ)

Ðại vương, do quan Chưởng khố kêu người vợ đem thức ăn cúng dường vị Bích Chi Phật, suốt bảy kiếp liền ông thọ phước lành rồi tái sanh trên cõi trời. Do dư báo của việc thiện ấy, suốt bảy kiếp ông giữ độc quyền chức Chưởng khố thành Xá Vệ. Ðại vương, trái lại do tiếc rẻ việc thiện mình đã làm và thốt lời báng bổ, khi quả báo đến ông không thể dùng thức ăn ngon, mặc đồ đẹp, đi xe tốt, không thể thưởng thức ngũ dục thế gian.

Hơn thế, do giết cháu để đoạt gia tài, ông bị đọa Địa ngục hàng trăm ngàn kiếp. Và do một phần của dư báo ác ấy, suốt bảy kiếp liền ông chết không con, tài sản bị tịch biên sung vào kho vua. Ðây là kiếp thứ bảy của ông. Ðại vương, do ông ta đã cạn phước báo mà không tạo nên phước mới, quan Chưởng khố giờ bị dọa tại Địa ngục Roruva.

Phật kể xong, vua Ba Tư Nặc thưa:

- Bạch Thế Tôn, quan Chưởng khố này tội thật quá lớn. Gia tài đồ sộ thế kia hắn chẳng chi dùng cho hắn hoặc phát tâm cúng dường đức Thế Tôn, vị Phật đang trú tại Tinh xá gần sát ngay nhà hắn.

Phật dạy:

- Ðúng vậy đại vương. Quả có thế, khi kẻ ngu được giàu sang họ chẳng tìm cầu Niết bàn. Trái lại, của cải chỉ khiến tham ái nổi lên trong tâm họ làm khỏ họ lâu dài thôi. Ngài nói kệ:

(355) Tài sản hại người ngu,

Không người tìm về bờ kia,

Kẻ ngu vì tham giàu,

Hại mình và hại người.

12. Bố Thí Nhiều Và Bố Thí Ít

Cỏ làm hại ruộng vườn...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Yellowstone Rock, Pandukambala Silà, liên quan đến Ankura. Câu chuyện đã được kể đầy đủ chi tiết trong phần chú giải câu kệ "Người chuyên tâm thiên định" truyện liên quan đến Indaka.

Một hôm, Trưổng lão A Na Luật vào làng khất thực. Indaka cúng dường Tôn giả một muỗng thức ăn của phần mình. Ðây là việc thiện ông làm trong đời trước. Còn Ankura thì cung cấp lò sưởi trên khắp năm mươi cây số suốt mười ngàn năm và bố thí cúng dường rất nhiều vật thực. Indaka được phước báo lớn hơn.

Phật dạy:

- Này Ankura, khi bố thí nên suy xét kỹ càng. Làm vậy sẽ giống như hạt giống gieo trên đất lành, đơm hoa kết trái sum suê. Nhưng ông đã không làm thế. Do đó, việc bố thí của ông chẳng đưa đến phước báo lớn.

Ðể làm sáng tỏ vấn đề, Phật bảo:

Bố thí nên suy xét,

Mới gặt nên quả tốt.

Bố thí có suy xét,

Ðược người trí ngợi khen.

Vật thực dâng cúng trước

Người xứng đáng cúng dường,

Sẽ được vô lượng phước,

Như hạt giống đem gieo,

Trên mảnh đất lành tốt.

Ngài nói kệ tiếp:

(356) Cỏ làm hại ruộng vườn,

Tham làm hại người đời.

Bố thí người ly tham,

Do vậy được quả lớn.

(357) Cỏ làm hại ruộng vườn,

Sân làm hại người đời.

Bố thí người ly sân,

Do vậy được quả lớn.

(358) Cỏ làm hại ruộng vườn,

Si làm hại người đời.

Bố thí người ly si,

Do vậy được quả lớn.

(359) Cỏ làm hại ruộng vườn,

Dục làm hại người đời.

Bố thí người ly dục,

Do vậy được quả lớn.


Phẩm XXV: Tỳ Kheo

1. Giữ Gìn Ngũ Căn

Lành thay phòng hộ mắt...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài trú tại Kỳ Viên, liên quan đến năm Thầy Tỳ kheo.

Khi Phật ở tại Kỳ Viên có năm Thầy Tỳ kheo, mỗi Thầy tự điều phục một trong năm giác quan. Một hôm, các Thầy gặp nhau bàn cãi. Thầy thì nói:

- Chỉ có giác quan của tôi khó điều phục.

Thầy khác cũng nói:

- Chỉ có tôi là người tự chế ngự giác quan khó nhất.

Rốt cuộc các Thầy cùng nhau đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, mỗi người trong chúng con tự chế ngự một giác quan, và cứ tưởng giác quan mình chế ngự khó hơn hết. Hôm nay chúng con xin Ngài xác định người nào trong chúng con điều phục giác quan khó nhất.

Ðức Phật thận trọng tránh không cho biết Thầy Tỳ kheo nào kém hơn các huynh đệ mình. Ngài dạy:

- Này các Tỳ kheo, tất cả các căn đều khó canh phòng. Nhưng không phải đây là lần đầu các ông thất bại trong việc canh phòng ngũ căn. Trong một kiếp quá khứ, các ông cũng thất bại trong việc kềm chế ngũ căn. Vì các ông không nghe lời khuyên của bậc thiện tri thức nên đã bị hại.

Chuyện quá khứ:

A. Thành Hoa Thị

Theo lời yêu cầu của năm Thầy Tỳ kheo, đức Phật kể rằng trong một kiếp quá khứ, Ngài là vị lãnh đạo năm ông quan cận thần đi đến thành Hoa Thị để nhận ngôi báu, sau khi toàn thể hoàng tộc vua bị quỷ Dạ xoa hại sạch. Trên đường đi, bọn quỷ Dạ xoa quyến rũ họ bằng đủ mọi âm thanh, hình ảnh, mùi hương, thức ăn ngon và gái đẹp. Bồ tát lúc ấy khôn ngoan không để bị đắm trước và căn dặn năm ông quan chớ bị để quyến rũ. Nhưng họ đều bỏ rơi khí giới đầu hàng trước sức cám dỗ của Dạ xoa, và rốt cuộc bị ám hại. Chỉ riêng Ngài kềm chế được mình, không mềm lòng trước cạm bẫy, không màng đến con quỷ Dạ xoa với vẻ đẹp sắc nước hương trời đeo theo Ngài bén gót, và thẳng tiến an toàn đến thành Hoa Thị, trở thành một vị quốc vương.

Khi nhận lễ đăng quang, ngồi trên ngai vàng dưới chiếc lọng trắng, nhìn lại vẻ uy nghiêm và sự vinh hiển của mình, Ngài tự mình: "Người ta nên sử dụng sức mạnh của ý chí mình.” Ngài nói kệ:

Kiên trì tuân phục Hiền Trí,

Lòng can đảm chẳng lung lay,

Khỏi bị Dạ xoa khống chế,

Vì ta không sợ không lo.

Qua cơn hiểm nguy gian khó,

Ðến nơi ta được an toàn.

Phật kết luận: "Năm ông quan thuở ấy là các ông, người đến được thành Hoa Thị an toàn và làm vua chính là Ta.”

Ngài nói thêm:

- Một Tỳ kheo cần phải canh phòng cẩn mật tất cả các căn, vì chủ thu hút căn mới thoát được khổ não.

Ngài nói kệ:

(360) Lành thay, phòng hộ mắt!

Lành thay, phòng hộ tai!

Lành thay, phòng hộ mũi!

Lành thay, phòng hộ lưỡi!

(361) Lành thay, phòng hộ thân!

Lành thay, phòng hộ lời!

Lành thay, phòng hộ ý!

Lành thay, phòng tất cả!

Tỳ kheo phòng tất cả,

Thoát được mọi khổ đau.

2. Thầy Tỳ Kheo Giết Ngỗng

Người chế ngự tay chân...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ngụ tại Kỳ Viên, liên quan đến một Thầy Tỳ kheo giết ngỗng.

Thuở ấy, tại Xá Vệ có hai thanh niên xuất gia, cùng ở trong tăng đoàn và trở thành bạn thân, thường đi chung với nhau. Một ngày nọ, hai Thầy ra bờ sông Aciravati tắm, và lên bờ đứng phơi nắng nói chuyện chơi. Lúc ấy có hai con ngỗng bay ngang. Thầy Tỳ kheo trẻ bèn nhặt hòn đá cuội nói:

- Tôi sẽ chọi trúng mắt một con ngỗng.

Thầy Tỳ kheo kia nói:

- Huynh chọi không trúng đâu.

- Rồi huynh coi, tôi sẽ chọi trúng cả hai mắt nó.

- Huynh chẳng làm được.

- Vậy thì huynh coi đây.

Thầy thứ nhất lượm hòn đá ném theo con ngỗng. Nghe tiếng viên đá bay rít trên không trung, con ngỗng quay đầu lại nhìn. Thầy thứ hai nhặt tiếp hòn đá và ném ngay mắt con ngỗng. Hòn đá chọi nhằm mắt bên này, xuyên qua mắt bên kia của ngỗng. Nó kêu lên đau đớn, lộn nhào xuống đất và rơi dưới chân hai Thầy Tỳ kheo.

Một số Thầy Tỳ kheo khác đứng gần đấy thấy vậy bèn nói:

- Này các huynh, sau khi từ bỏ thế gian vào cửa Phật, các huynh đã làm việc không đúng khi sát hại sinh vật như thế.

Các Tỳ kheo bèn đem hai Thầy đến chỗ đức Phật. Phật hỏi Thầy Tỳ kheo giết ngỗng:

- Có phải ông đã sát sanh?

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!

Phật quở:

- Này Tỳ kheo, sao đã xuất gia từ bỏ gia đình theo Ta để cầu đạo giải thoát mà ông lại làm như thế? Người trí thời Phật chưa ra đời, dù sống ở thế gian, cũng còn e dè thận trọng từng việc nhỏ nhặt. Các ông đã xuất gia theo Phật, lại không lo dè dặt chút nào vậy.

Rồi Ngài kể chuyện tiền thân.

Chuyện quá khứ:

A. Chuyện Tiền Thân Kuradhamma.

Vào thuở lâu xa, dưới triều vua Dhananjaya của vương quốc Kuru, Ngài là Thái tử con vua. Ðến tuổi trưởng thành, thái học tử học nghề bắn tên tại thành Hoa Thị. Khi thành nghề, Thái tử trở về vương quốc, được vua cha phong làm phó vương. Khi vua cha băng hà, Thái tử lên nối ngôi. Nhà vua nghiêm trì năm giới cấm và tuân theo mười đức của một vị vua. Ngay cả những người trong Hoàng cung như hoàng thái hậu, Hoàng hậu, hoàng đệ, phó vương, Thầy tử tế, quan cận thần, người đánh xe, quan Chưởng khố, quan coi kho, người canh cổng và cả thứ phi nữa, mười một người đều giữ ngũ giới nghiêm túc.

Lúc ấy, tại thành Dantapura của vương quốc Kalinga, trời hạn hán nhiều năm không một giọt mưa. Dân chúng ở vương quốc này biết nhà vua xứ Kuru có một thớt tượng tên Anjanasannibha thật đầy đủ ân đức. Họ tin rằng xin được Anjanasannibha về nước, chắc sẽ mưa. Vì thế, vua Kalinga cho gởi các vị Bà la môn sang Kuru để xin thớt tượng ấy. Họ sang yết kiến vua xứ Kuru và trình bày lời yêu cầu, xưng tụng đức hạnh của nhà vua. Nhưng dù có tượng Anjanasannibha, trong xứ kalinga vẫn không có mưa. Vua kalinga thầm nghĩ: Vua Kuru đã giữ năm giới nên trong nước thường được mưa. Vua bèn ra lệnh cho các Thầy Bà la môn và các quan cận thần sang Kuru khắc năm giới cấm lên một dĩa vàng về nước.

Khi những người này sang Kuru một lần nữa, cả triều đình từ vua trở xuống đều tự do, chối rằng:

- Chúng tôi không giữ được năm giới cấm toàn vẹn.

- Các vị đã không làm điều gì xâm phạm đến năm giới cấm đâu.

Họ năn nỉ mãi, cuối cùng nhà vua Kuru dạy họ năm giới. Khi mang về vương quốc Kalinga cũng tuân giữ thành kính năm điều cấm, và lập tức trời mưa. Trong nước lại thịnh vượng, ấm no.

Ðức Phật kết luận: "Lúc ấy thứ phi là Liên Hoa Sắc, người canh cổng là Punna, người giữ ngựa là Kaccàna, quan giữ kho là Kolita, quan Chưởng khố là Xá Lợi Phất, người đánh xe là A Na Luật, Thầy Bà la môn là Trưởng lão Ca Diếp, hoàng đệ phó vương là Nan Ðà, Hoàng hậu là mẹ của La Hầu La, hoàng thái hậu là bà Ma Da và vua Kuru là Ta.”

Ðức Phật nói tiếp:

- Này các Tỳ kheo, người trí thời xưa, dù một lỗi nhỏ họ cũng cảm thấy ái ngại. Còn các ông, đã xuất gia vào đạo của Phật đà lại chấp nhận một lỗi lơn là sát hại sanh vật. Một Tỳ kheo phải hằng kiểm soát được tay chân, và ngôn ngữ của mình.

Ngài nói kệ:

(363) Người chế ngự tay chân,

Chế ngự lời và đầu,

Vui thích nội Thiền định,

Ðộc thân, biết vừa đủ,

Thật xứng gọi Tỳ kheo.

3. Thầy Tỳ Kheo Không Giữ Gìn Mồm Miệng

Tỳ kheo chế ngự miệng...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang trú tại Kỳ Viên, liên quan đến Kokàlika. Trong bài kinh Kokàlika, câu chuyện bắt đầu với dòng chữ: "Lúc bấy giờ Thầy Tỳ kheo Kokãlika đến gần đức Ðạo Sư", ý nghĩa câu chuyện được giải thích trong tập chú giải liên quan đến bài kinh.

Thuở Phật còn ở Kỳ Viên, có Thầy Tỳ kheo tên Kokàlika vì đã phỉ báng hai đại đệ tử Phật là Tôn giả Xá Lợi Phất và Tôn giả Mục Kiền Liên nên bị đọa Địa ngục. Câu chuyện bắt đầu khi các vị Tỳ kheo tụ họp ở Pháp đường, bàn tán:

- Trời ơi! Thầy Tỳ kheo Kokàlika bị trầm luân vĩnh kiếp vì đã không giữ gìn miệng mồm. Ngay khi Thầy chửi rủa hai vị Tôn giả lãnh chúng, đã bị đất chôn xuống Địa ngục.

Lúc ấy đức Phật đến và hỏi:

- Các ông tụ họp ở đây bàn tán chuyện gì?

Khi các Thầy thuật lại, Phật bảo:

Không phải lần đầu Kokàlika bị đọa vì không giữ gìn khẩu nghiệp. Trong quá khứ cũng đã xảy ra chuyện ấy.

Các Tỳ kheo muốn nghe Phật thuật lại câu chuyện. Phật kể:

Chuyện quá khứ:

A. Con Rùa Ham Nói

Hồi xưa, có con rùa kia ở tại cái hồ nước trên vùng núi Hy Mã. Một ngày nọ có đôi ngỗng đi lang thang tìm thức ăn, gặp rùa ta và vài ngày sau chúng kết tình thân hữu. Có lần ngỗng khoe với rùa:

- Bác ạ, chúng tôi ở trên ngọn Cittakuta, trong một động vàng. Thật là một nơi ở thích thú. Bác có muốn đi với chúng tôi không?

- Làm sao tôi có thể đi đến đó?

- Nếu bác chịu ngậm miệng trong lúc chúng tôi đưa đi, thì bác sẽ đến nơi.

- Ðược rồi, tôi sẽ ngậm chắc miệng mồm. Hãy mang tôi đi với.

- Tốt lắm.

Ðôi ngỗng bảo bác rùa ngậm một cây gậy, và hai con tha hai đầu gậy, bay lên không trung.

Vài đứa bé ở thôn xóm dưới đất thấy rùa bay qua với ngỗng, bèn la lên:

- Bay ơi, ra xem hai con ngỗng mang con rùa trên cây gậy.

Rùa nghĩ thầm: Tụi nhóc con du đãng này, bạn ta tha ta đi đâu thì có dính dánh gì tới tụi bây mà phải la lối!

Ngay khi nó vừa mở miệng định nói ra ý nghĩ ấy, vì cặp ngỗng bay mau, nó liền rơi xuống đất và bể làm hai mảnh ngay trong sân của một Hoàng cung ở Ba La Nại.

Rùa tự hại vì ham nói chuyện,

Gậy ngậm rồi miệng vẫn thày lay,

Rớt liền xuống đất tan thây,

Người khôn ngoan thấy gương đây giữ mình.

Lựa lời nói đúng lúc đúng chỗ,

Xem gương rùa chịu khổ thiệt thân.

Ðức Phật kết luận:

- Này các Tỳ kheo, một Tỳ kheo phải kiểm soát lời nói, sống lặng thinh, không tự kiêu và thoát khỏi phiền não.

Phật nói kệ:

(363) Tỳ kheo chế ngự miệng,

Vừa lời, không cống cao.

Khi trình bày pháp nghĩa,

Lời lẽ dịu ngọt ngào.

4. Bằng Sự Tinh Tấn Làm Vinh Dự Cho Phật

Vị Tỳ kheo thích pháp...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài trú tại Kỳ Viên, liên quan đến Trưởng lão Dhammarama.

Khi đức Phật tuyên bố "Còn bốn tháng nữa, Ta sẽ vào Niết bàn", hằng ngàn vị Tỳ kheo bỏ hết thì giờ để hầu cận Ngài. Những vị chưa chứng Sơ quả thì khóc lóc, những vị chứng A la hán cũng cảm động sâu xa, tất cả đều tụ năm họp ba, bàn tán: "Chúng ta nên làm gì?"

Riêng có một vị Tỳ kheo tên Dhammarama (Trú Pháp Hỷ) thì không như vậy. Thầy tự nghĩ: "Ðức Thế Tôn đã tuyên bố bốn tháng nữa nhập Niết bàn, mà ta chưa thoát khỏi ràng buộc của tham ái. Ngày nào Ngài còn tại thế, ta sẽ cố gắng chứng A la hán.” Và Thầy tự sống một mình, tư duy, quán tưởng, ôn lại những lời dạy của Phật, chẳng màng trả lời những câu hỏi tò mò của các Tỳ kheo khác, mà cũng chẳng lui tới hầu hạ Phật.

Các Tỳ kheo mách đức Như Lai:

- Bạch Thế Tôn, Thầy Dhammarama không có lòng thương kính Thế Tôn. Khi nghe chúng con báo tin "Phật sắp nhập Niết bàn, chúng ta sẽ làm gì?", Thầy chẳng nói, chẳng hoạt động chung với chúng con.

Ðức Phật gọi Tỳ kheo Dhammarama đến hỏi. Thầy thưa thật ý định của mình muốn cố gắng chứng quả A la hán. Nghe xong, Phật ngợi khen Thầy:

- Lành thay! Lành thay!

Và Ngài bảo các Tỳ kheo:

- Này các Tỳ kheo, mỗi vị nên bày tỏ sự kính mến Ta như Dhammarama đã làm. Chẳng phải dùng hương hoa, hoặc những thứ cúng dường mà tôn kính ta. Chỉ cò người thực hành theo giáo lý mới thật sự tôn kính Ta.

Ngài nói kệ:

(364) Vị Tỳ kheo thích pháp,

Mến pháp, suy tư pháp,

Tâm tư niệm chánh pháp,

Không rời bỏ chánh pháp.

Nghe xong, Thầy Trú Pháp Hỷ liền chứng quả A la hán, hội chúng cũng được lợi lạc.

5. Thầy Tỳ Kheo Lạc Bầy

Không khinh điều mình được...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài trú tại Trúc Lâm, liên quan đến một Thầy Tỳ kheo lạc bầy.

Khi đức Phật ở tại Trúc Lâm, có một Thầy Tỳ kheo kết bạn thân với một Thầy Tỳ kheo ly khai Tăng đoàn, thuộc nhóm Ðề Bà Đạt Đa. Một ngày kia, đi khất thực về, gặp Thầy Tỳ kheo bạn, Thầy nọ hỏi thăm:

- Huynh đi đâu thế?

- Tôi đi thất thực về.

- Có được ai cúng dường không?

- Có.

- Nơi chỗ tôi ở, có nhiều vật thực và tặng phẩm giá trị, Hãy đến chỗ tôi vài hôm.

Thầy Tỳ kheo nhận lời, lưu lại nhóm của Ðề Bà Đạt Đa vài ngày, và sau đó trở về với Tăng đoàn. Các vị Tỳ kheo trong Tăng đoàn đến mách Phật:

- Bạch Thế Tôn, Thầy Tỳ kheo kia đã thọ lãnh vật thực, tặng phẩm của nhóm Ðề Bà Đạt Đa, Thầy ấy đã theo Ðề Bà Đạt Đa rồi:

Ðức Phật cho gọi ông Thầy nọ đến và hỏi:

- Có phải họ mách Thầy như vậy là đúng?

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn, con ở trong nhóm Tỳ kheo của Ðề Bà Đạt Đa vài ngày, nhưng con không hợp với quan điểm của Ðề Bà Đạt Đa.

- Ta thừa nhận rằng ông không theo tà kiến, nhưng ông không có lập trường nhất định nên hay bị lung lạc bởi ý kiến người khác. Trong thuở quá khứ ông cũng đã làm như vậy.

Theo lời các vị Tỳ kheo yêu cầu, Phật bèn kể chuyện con Voi Damsel- face:

Voi Damsel - face rất ngoan, nhưng khi đi đường nghe một nhóm trộm cướp du đãng nói chuyện thô lỗ với nhau, nó cũng đâm ra hung hăng, bất trị và chạy bậy, giết người. Rồi sau đo, nghe các vị Bà la môn luận đạo, nó trở lại ngoan ngoãn. Voi Damsel - face thuở ấy là Thầy Tỳ kheo dễ tin hôm nay.

Ðức Phật kết luận:

- Là một Tỳ kheo, nên hài lòng với những gì mình nhận được, và không ham muốn những gì người khác có. Nếu ham muốn như vậy chẳng bao giờ đắc Thiền định, Trí tuệ, hoặc Thánh quả. Nếu hài lòng với những gì đang có, ông sẽ có tất cả.

Ngài nói kệ:

(365) Không khinh điều mình được,

Không ganh người khác được,

Tỳ kheo ganh tỵ người

Không sao chứng Thiền định.

(366) Tỳ kheo dầu được ít,

Không khinh điều mình được,

Sống thanh tịnh không nhác,

Chư thiên khen vị này.

6. Người Bà La Môn Cúng Dường Năm Lần Thành Quả Ðầu Tiên

Hoàn toàn, đối danh sắc...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến người Bà la môn cúng dường năm lần thành quả đầu tiên.

Khi Phật ở Kỳ Viên, có một người Bà la môn làm ruộng. Lúc lúa chín, ông cúng dường những bông lúa cắt đầu tiên ngoài đồng. Lúa đem về đập, ông cúng dường những hạt lúa đập xong trước tiên. Khi cất lúa vào bồ, ông lại cúng dường phần lúa đổ trong bồ đầu tiên. Khi dược nấu thành cơm, ông cúng dường bát cơm đầ tiên bới trong nồi. Khi dọn ra dĩa, ông lại cúng dường những hạt cơm đầu tiên múc ra dĩa. Cúng dường năm lần như vậy cho người nào hiện diện lúc ấy, ông không hề nếm một miếng cho đến lúc cúng xong, do đó được gọi là"người cúng năm ần thành quả đầu tiên.”

Ðức Phật quan sát căn cơ biết hai vợ chồng ông có thể chứng A na hàm bèn đi đến nhà ông khất thực. Lúc ấy, ông Bà la môn ngồi ăn cơm trong nhà, xây lưng ra ngoài cửa, do đó không thấy đức Thế Tôn. Bà vợ ông ta đang dọn ăn cho chồng, thấy đức Phật bèn nghĩ thầm:

- Chồng ta sau khi cúng dường năm lần, bây giờ đang ăn cơm. Nếu thấy Sa môn Cồ Đàm, ông sẽ cúng hết phần cơm của mình, mà ta thì không thể nấu cơm cho ông được nữa.

Nghĩ vậy bà bèn đứng sau lưng chồng, muốn che hình ảnh đức Phật không cho chồng thấy, tưởng như lấy tay che được mặt trăng tròn. Bà đứng vậy rồi liếc mắt trông chừng Thế Tôn, tự nói thầm: "Ông đã đi hay chưa?" Ðức Thế Tôn vẫn đứng yên một chỗ. Bà vợ ráng không thốt thành tiếng: "Ông đi đi chứ", sợ chồng mình nghe được. Nhưng một lát sau, bà bước lui và nói thật khẽ: "Ông đi đi.”

- Ta không đi.

Ðức Phật khởi nghĩ như thế và lắc đầu. Khi đức Phật, bậc Ðạo sư của trời người, nghĩ thầm: "Ta không đi" và lắc đầu, bà vợ ông Bà la môn không nén nổi, bật cười lớn. Ðức Phật liền phóng một đạo hào quang, hiện hình Ngài trong nhà. Người Bà la môn đang ngồi quay lưng về phía Phật, vừa nghe tiếng cười của vợ, thì cũng thấy cả đạo hào quang sáu sắc và hình ảnh Phật. Bởi vì chư Phật, dù ở làng mạc hay rừng sâu, không bao giờ đi khỏi khi chưa hiện thân trước những người có cơ duyên đắc đạo. Người Bà la môn trông thấy Phật rồi, ông lật đật rầy vợ:

Bà này hại tôi! Khi Thái tử đứng trước nhà ta, sao bà không báo trước cho tôi biết? Bà có lỗi lớn đa nghe!

Và ông mang đĩa cơm đang ăn dở, đem ra trước Phật nói:

- Thưa Sa môn Cù- đàm, sau khi cúng dường năm thành quả đầu tiên, tôi dùng bữa trưa. Ðây là phần cơm của tôi, tôi chia làm hai, và ăn một nửa, Ngài có thể nhận phần cơm này không?

Thay vì trả lời:

- Ta không nhận cơm ông ăn dư.

Ðức Phật nói:

- Này Bà la môn, dù là phần còn lại hay đầu tiên cũng được, chúng ta cũng giống như quỷ thần, sống bằng những thức ăn bố thí.

Ngài nói kệ:

Dù phần đầu, phần giữa, phần dư,

Người khất thực đều vui lòng nhận,

Không phiền hà, trách móc dư thừa,

Người khôn ấy chính bậc chánh trí.

Ông Bà la môn nghe Phật nói như vậy trong lòng rất vui mừng, liền xưng tụng:

- Thái tử thật kỳ diệu, Ngài ở địa vị vua của thế gian, thay vì nói "Ta không ăn cơm thừa của ông", lại nói như trên.

Và vẫn đứng ở cửa, ông hỏi tiếp:

- Thưa Ngài, Ngài gọi các đệ tử là "Tỳ kheo.” Vậy những điều gì làm nên một Tỳ kheo?

Ðức Phật nghĩ thầm: "Ta sẽ giảng cho người này bằng cách nào đây để được lợi ích nhất? Vào thời Phật Ca Diếp, Ngài giảng cho hai ông bà này nghe về Thân và Tâm, nay ta cũng sẽ giảng cho ông như vậy.”

Ngài bảo:

- Này Bà la môn, một vị Tỳ kheo là người không bị ràng buộc, cột trói bởi những gì thuộc về Danh (Tâm) hay Sắc (Thân).

Ngài nói kệ:

(367) Hoàn toàn, đối danh sắc,

Không chấp ta, của ta,

Không chấp, không sầu não,

Thật xứng danh Tỳ kheo.

7. Ðảng Cướp Ði Tu

Tỳ kheo trú từ bi...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài ở tại Kỳ Viên, liên quan đến một nhóm lớn Tỳ kheo.

Khi Thượng tọa Kaccana ở trên một ngọn núi gần thành phố Kuraraghara trong nước Avanti, có một Phật tử tên Sona Kutikanna sau khi thấm nhuần chân lý do Ngài giảng dạy, bèn xin xuất gia. Ngài hai lần từ chối.

- Sona, thật là một điều khó khăn khi sống đời tịnh hạnh, phải cư trú đơn độc, ẩm thực đơn độc.

Nhưng Sona quyết chí xuất gia nên xin đến lần thứ ba, và được phép gia nhập Tăng đoàn. Vì chư Tăng ở miền nam rất hiếm, Thầy ở lại đó ba năm làm tròn bổn phận của một tăng sĩ. Và sau đó Thầy xin phép sư phụ lên đường về Kỳ Viên, với ước mong được gặp đức Thế Tôn. Ðược sư phụ cho phép và kèm theo lời dặn dò, Thầy đến Kỳ Viên, đảnh lễ Phật, được đức Phật đón tiếp thân mật và cho phép vào hương thất của Ngài một mình.

Thầy Sona đi kinh hành ngoài trời hầu như suốt đêm, gần sáng mới vào hương thất nằm nghỉ một chút. Khi bình minh đến, đức Phật bảo Thầy hãy tụng bài kinh "Mười sáu đoạn.”

Thầy đọc xong, đức Phật cám ơn và ngợi khen "Hay thay! Hay thay!" Chư thiên, trời, rồng, Dạ xoa cho tới cõi trời Phạm thiên đều ca ngợi Thầy vang rền. Lúc ấy, tại nhà mẹ Thầy ở Avanti cách đấy một trăm hai mươi dặm, vị thần cư ngụ trong nhà cũng ngợi khen nhiệt liệt. Bà mẹ Thầy hỏi:

- Ai đang ca tụng vậy?

- Dạ tôi đây, thưa chị.

- Ông là ai?

- Tôi là vị thần cư ngụ tại nhà chị đây.

- Từ trước tôi chẳng được nghe ông ca ngợi, sao hôm nay ông làm thế?

- Không phải tôi ca ngợi bà chị đâu?

- Vậy ông ca ngợi ai?

- Trưởng lão Kutikanna Sona, con trai chị đấy.

- Con tôi đã làm được gì?

- Hôm nay Tôn giả ở trong hương thất đức Như Lai, tụng kinh cho Ngài, và được Ngài hài lòng ngợi khen, do đó tôi cũng ngợi khen. Chư thiên các tầng trời từ cõi Ta bà đến cõi Phạm thiên nghe lời ngợi khen của đức Tối Thắng, cũng ca ngợi Tôn giả.

- Này, có thật ông nói rằng con tôi đọc kinh cho đức Thế Tôn? Hay đức Thế Tôn đọc cho con tôi nghe?

- Con chị đọc cho đức Thế Tôn nghe đó chứ.

Vị thần nói thế làm bà cảm thấy thâm tâm hoan hỷ, nghĩ thầm:

- Nếu con ta đã đọc kinh cho đức Thế Tôn tại hương thất của Ngài, chắc cũng sẽ đọc kinh cho ta nghe được. Khi nào con ta trở về, ta sẽ yêu cầu được nghe giáo lý.

Khi được đức Thế Tôn khen ngợi, Trưởng lão Sona nghĩ thầm, "Ðây chính là lúc mình bạch lên đức Phật lời Thầy mình đã đặn dò.” Tôn giả bèn thỉnh cầu đức Phật ban cho năm ân huệ, điều đầu tiên là xin gia nhập nhóm năm Thầy Tỳ kheo đang ẩn cư trong rừng, trong nhóm này có một Thầy rành thông Luật tạng. Tôn giả lưu lại bên đức Thế Tôn ít ngày nữa rồi bái biệt, rời Kỳ Viên trở về với Thầy Tế độ. Ngày hôm sau, Tôn giả theo Thầy đi khất thực, đến trước cửa nhà thân mẫu. Thấy con, bà hết sức vui mừng, hỏi han, săn sóc chu đáo, và nói:

- Này con, nghe đâu con được vào hương thất đức Thế Tôn một mình và đọc kinh cho Ngài nghe phải không?

- Thưa tín nữ, ai nói việc ấy?

- Con à, vị thần cư ngụ tại nhà ta lớn tiếng khen ngợi, mẹ bèn hỏi "Ai khen ngợi đó.” Thần trả lời "Tôi đây", rồi thần bảo mẹ như vầy như vầy. Sau khi nghe thần nói, mẹ nghĩ: "Nếu con ta đã đọc kinh cho đức Thế Tôn thì nó sẽ đọc cho ta nghe được.” Con à, con đã đọc kinh cho đức Thế Tôn thì con đọc cho mẹ nghe được chứ! Vào ngày ấy tháng ấy mẹ sẽ chuẩn bị mọi thứ để nghe con thuyết giảng pháp nhé!

Thầy nhận lời. Sau đó bà cúng dường chư Tăng trọng thể, cho xây cất một Pháp đường rộng lớn, đem tất cả gia quyến đi nghe Tôn giả Sona thuyết pháp, chỉ chừa lại một người tớ gái trông nhà.

Lúc ấy, một đảng cướp chín trăm tên luôn luôn tìm cách lẻn vào nhà bà. Nhưng thật khó mà vào được vì toàn thể ngôi nhà có bảy lớp tường bao bọc, mỗi cửa thảy đều có chó dữ canh chừng. Những đường mương dẫn nước đều đổ đầy chì. Ban ngày chúng nóng chảy thành chất nước sền sệt, ban đêm thì đông cứng lại. Gần các mương ấy người ta đóng từng hàng cọc sắt kiên cố. Do đó trộm cướp khó có thể vào nhà.

Nhưng vào ngày đặc biệt đó, biết rằng bà đi nghe giảng pháp, chúng đào một địa đạo xuyên qua đường mương bằng chì và hàng cọc sắt, vào tận trong nhà. Chúng để tên đầu đảng canh chừng nữ chủ, bàn bạc rằng nếu thấy bà chủ trở về khi biết có cướp vào nhà thì tên đầu đảng phải giết bà lập tức.

Hắn bèn đi đến nhà giảng pháp, đứng kế bên bà chủ nhà. Còn bọn cướp vào nhà được rồi thắp đèn sáng lên và mở cưa kho tiền đồng. Người tớ gái trông thấy chúng bèn chạy tìm nữ chủ báo tin:

- Thưa phu nhân, bọn cướp vào nhà và đang mở kho tiền đồng.

- Thây kệ chúng! Muốn lấy bao nhiêu thì lấy. Ta đang nghe thuyết pháp, đừng làm rộn ta. Hãy về đi.

Khi bọn cướp hốt sạch kho tiền đồng, chúng bèn ăn sang kho tiền bạc. Cô tớ gái lại chạy báo tin cho chủ nhân. Bà cũng trả lời như trên và tiếp tục nghe giảng pháp. Bọn cướp lại hốt hết kho tiền bạc, sang mở kho tiền vàng. Cô tới gái nóng ruột chạy đến báo tin lần thứ ba, bà cũng nói:

- Con đã làm rộn ta hai lần rồi. Ta đã bảo cứ để bọn cướp mang đi những gì chúng muốn, ta đang nghe pháp, đừng làm ồn, vậy mà con không nghe. Nếu còn nói nữa ta sẽ phạt con đích đáng đó. Hãy về nhà đi!

Tên đầu đảng nãy giờ ở cạnh bà canh chừng, nghe thấy vậy bèn nghĩ thầm: "Nếu chúng ta lấy tài sản của một người như bà này, trời Ðế Thích sẽ đánh vỡ đầu chúng ta.” Hắn trở về ra lệnh cho đồng bọn trả tất cả tài sản cho bà. Bọn cướp lại để tiền đồng, tiền bạc, tiền vàng đầy vào kho như cũ. Người ta nói rằng kẻ nào sống chân thật thì được chính sự chân thật ấy bảo vệ, thật chí lý thay! Bậc Tối Thắng từng nói:

Chân thật che chở người ngay,

Người chân thật sống ngày ngày đều vui.

Người ngay sẽ được lợi thôi,

Khổ đau phiền não chẳng lôi bao giờ.

Bọn cướp kéo đến giảng đường nghe pháp. Ðến sáng, Tôn giả mới chấm dứt thời thuyết pháp và bước xuống tòa. Lúc đó, tên đầu đảng quỳ dưới chân bà Phật tử mẹ Tôn giả:

- Xin phu nhân tha thứ cho tôi.

- Chuyện gì vậy, đạo hữu?

- Tôi ghét bà, và đứng gần với ý định sẽ giết bà.

- Không sao. Tôi tha thứ cho anh.

Tất cả bọn cướp cũng đều đến bày tỏ sự ăn năn, bà đều tha thứ hết. Họ thưa:

- Thưa phu nhân, xin bà cho chúng tôi được vào Tăng đoàn của vị giảng sư con trai bà.

Bà bèn đến bảo vị giảng sư:

- Này con, những vị hảo hán đây cảm động vì lòng tử tế của mẹ và bài thuyết giảng của con, muốn gia nhập Tăng đoàn. Con hãy độ họ.

- Rất tốt.

Vị giảng sư cho cắt hết những chiếc váy chúng mặc lót bên trong, còn áo ngoài thì cho nhuộm màu vàng đất, rồi truyền giới cho chúng.

Khi bọn họ đã hoàn tất nhiệm vụ của một Tăng sĩ giáo đoàn, Thầy cho mỗi người một đề mục Thiền quán. Chín trăm Thầy Sa môn nhận chín trăm đề mục, lên trên một ngọn núi và mỗi người ngồi dưới một cội cây Thiền định.

Lúc ấy, đức Thế Tôn ở tại giảng đường Kỳ Viên, cách đó một trăm hai mươi dặm, quán sát các Thầy để chọn bài pháp thích hợp căn cơ. Ngài hiện đến trước các Thầy, nói kệ:

(368) Tỳ kheo trú Từ bi,

Tín thành giáo pháp Phật,

Chứng cảnh giới tịch tịnh,

Cách hạnh an tịnh lạc.

(369) Tỳ kheo, tát thuyền này,

Thuyền không, nhẹ đi mau,

Trừ tham, diệt sân hận,

Tất chứng đạt Niết bàn.

(370) Ðoạn năm, từ bỏ năm,

Tu tập năm tối thượng,

Tỳ kheo vượt năm ái,

Xứng danh "vượt bộc lưu.”

(371) Tỳ kheo, hãy tu Thiền,

Chớ buông lung phóng dật,

Tâm chớ đắm say dục,

Phóng dật, nuốt sắt nóng,

Bị đốt, chớ than khổ!

(372) Không Trí tuệ, không Thiền,

Không Thiền, không Trí tuệ,

Người có Thiền, có tuệ,

Nhất định gần Niết bàn.

(373) Bước vào ngôi nhà trống,

Tỳ kheo tâm an tịnh,

Thọ hưởng vui siêu nhân,

Tịnh quán theo chánh pháp.

(374) Người luôn luôn chánh niệm,

Sự sanh diệt các uẩn,

Ðược hoan hỷ, hân hoan,

Chỉ bậc Bất tử biết.

(375) Ðây Tỳ kheo có trí,

Tu tập pháp căn bản,

Hộ căn, biết vừa đủ,

Gìn giữ căn bản giới,

Thường gần gũi bạn lành,

Sống thanh tịnh tinh cần.

(376) Giao thiệp khéo thân thiện,

Cử chỉ mực đoan trang,

Do vậy hưởng vui nhiều,

Sẽ dứt mọi khổ đau.

8. Cỏ Úa, Hoa Phai

Như hoa Vassikà...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài ở tại Kỳ Viên, liên quan đến năm trăm vị Tỳ kheo.

Chuyện kể rằng, các Thầy Tỳ kheo này sau khi khi được đức Thế Tôn cho đề mục Thiền định rồi, liền lui vào rừng sâu và bắt đầu hành Thiền. Ðang ngồi Thiền, các Thầy trông thấy những bông lài mới nở tươi tắn chỉ sáng nay thôi, chiều đã úa tàn rũ cánh gục đầu. Các Thầy tự nghĩ: "Chúng ta phải diệt trừ được thâm sân si trước khi những đóa hoa lìa cành.” Và các Thầy càng nỗ lực chuyên chú vào việc hành Thiền, như vừa được tiếp thêm sức mạnh mới. Ðức Thế Tôn quán sát các Thầy Tỳ kheo ấy và dạy rằng:

- Này các Tỳ kheo, cũng như đóa hoa kia thoát khỏi cành, một vị Tỳ kheo cần phải gắng sức thoát khỏi mối khổ sanh tử.

Vẫn ở tại hương thất, Ngài phóng một đạo hào quang và nói kệ cho các Thầy Tỳ kheo:

(377) Như hoa Vassikà,

Quăng bỏ cánh úa tàn,

Cũng vậy vị Tỳ kheo,

Hãy giải thoát tham sân.

Nghe xong, tất cả năm trăm Thầy Tỳ kheo đều đắc quả A la hán.

9. Vị Sa Môn Nhàn Tịnh

Thân tịnh, lời an tịnh...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Trưởng lão Santakaya.

Tỳ kheo Santakaya là một vị Sa môn không bao giời mắc lỗi khiếm nhã trong cách đi đứng và mọi oai nghi cử chỉ. Thầy không bao giờ ngáp lớn hoặc dang tay đưa chân thô tháo, luôn luôn có vẻ điềm tĩnh, trang nhã. Chuyện kể rằng Thầy vốn được sanh ra từ bụng một con sư tử. Loài sư tử mỗi khi kiếm được mồi, chúng thường vào trong những động vàng bạc châu báu, mã não và nằm ở đấy bảy ngày trên một lớp bột vàng trộn với bột hoàng thạch. Ngày thứ bảy, khi trỗi dậy, chúng quan sát chỗ nằm, nếu thấy có dấu vết di chuyển của đuôi, tai, hoặc bốn chân làm bụi bột tung tóe, chúng liền tự bảo: "Thế này là chưa xứng với dòng dõi của mình.” Và ở lại nhịn đói thêm bảy ngày nữa, giữ gìn cẩn thận hơn. Cho đến khi không thấy bụi bột dấy lên, chúng tự nói "Ðây mới xứng với dòng dõi của ta.” Chúng mới rời ổ, ngáp và duỗi tay chân, quan sát tứ phía, rống lên ba tiếng và đi tìm mồi. Ðược sanh từ bụng một con sư tử như thế nên Thầy luôn có vẻ điềm tĩnh.

Tư cách trang nhã của Thầy khiến các Thầy khác chú ý và đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, chúng con không hề thấy Sa môn nào như Thầy Santakaya. Khi Thầy đi đứng, không bao giờ Thầy lúc lắc tay chân, không hề ngáp và quơ tay, đá giò...

Ðức Phật bảo:

- Này các Tỳ kheo, một vị Sa môn nên như Trưởng lão Santakaya, an tịnh trong khi đi đứng, trong lời nói, tư tưởng.

Ngài nói kệ:

(378) Thân tịnh, lời an tịnh,

An tịnh, khéo Thiền tịnh,

Tỳ kheo bỏ thế vật,

Xứng danh "bậc tịch tịnh.”

10. Vị Sa Môn Và Chiếc Khố Rách

Tự mình chỉ trích mình...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Trưởng lão Nangalakula.

Thuở ấy, có một người nghèo khổ chuyên đi làm thuê. Một ngày kia có vị Sa môn thấy anh đang đi trên đường, trên người chỉ đóng chiếc khố rách, vai vác cái cày. Vị Sa môn hỏi:

- Nếu anh chỉ kiếm sống bằng cách ấy, sao không đi tu cho khỏe?

- Bạch Ngài, ai mà chịu cho con, một người làm thuê đi tu?

- Nếu anh muốn, ta sẽ độ cho.

- Thật là tốt phước cho con. Nếu Ngài độ con xuất gia, con xin làm Sa môn.

Vị Sa môn đem người cày thuê về Tinh xá Kỳ Hoàn tự tay tắm rửa cho y. Vị Sa môn bảo chú Sa di mới hãy treo chiếc khố rách với cái cày trên một nhánh cây gần tịnh thất. Từ đó Thầy có tên là Nangalakula, Tôn giả "Thợ Cày.”

Sau một thời gian sống trong tu viện, với những thực phẩm cúng dường sung túc, Tôn giả "Thợ Cày" trở nên bất mãn. Không chống chọi nổi sự dày vò, Thầy nhủ thầm: "Ta không muốn đắp chiếc y vàng do đàn việt cúng nữa.” Thầy đến dưới gốc cây, và tự sỉ nhục mình: "Mi thật xấu xa, không thành tâm chút nào. Bộ mi muốn mặc chiếc khố rách này, trở về thế tục để làm thuê hay sao?" Sau khi tự cảnh tỉnh mình, Thầy lại trở về tu viện, hăng hái tu hành. Vài hôm sau, cơn bất bình lại kéo đến. Thầy cũng ra gốc cây nhìn chiếc khố rách và tự khiển trách như trước. Cứ thế, mỗi khi buồn bực, Thầy đến gốc cây để lại lấy ý chí.

Các vị Sa môn để ý Thầy thường lui tới gốc cây, bèn hỏi:

- Này huynh Thợ Cày, huynh đến đó làm gì thế?

- Thưa chư vị, tôi đến viếng vị giáo thọ của tôi.

Vài hôm sau, Thầy chứng A la hán. Các vị Sa môn thấy Thầy không đến gốc cây bèn hỏi đùa:

- Này huynh, lâu nay không thấy huynh lui tới đường này, chắc huynh không đến vị giáo thọ nữa?

- Thưa vâng, khi tôi còn vướng bận thế gian, tôi thường lui tới đường này. Nhưng nay tôi chẳng còn liên hệ gì với thế gian nữa, tôi không cần phải đi.

Các vị Sa môn nghe thế đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, Thầy ấy nói điều không thật, Thầy ấy vọng ngữ.

Ðức Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, Thầy ấy nói đúng. Thầy ấy đã tự khuyên răn mình và đã đạt được Thánh quả.

Ngài nói kệ:

(379) Tự mình chỉ trích mình,

Tự mình dò xét mình,

Tỳ kheo tự phòng hộ,

Chánh niệm, trú an lạc.

(380) Tự mình y chỉ mình,

Tự mình đi đến mình,

Vậy hãy tự điều phục,

Như khách buôn ngựa hiền.

11. Người Thấy Chánh Pháp Là Thấy Ta

Tỳ kheo nhiều hân hoan...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Trúc Lâm, liên quan đến Trưởng lão Vakkali.

Tại thành Xá Vệ, có một thanh niên dòng Bà la môn. Một ngày nọ, chàng thấy đức Như Lai đi và thành khất thực. Trông tướng hảo uy nghiêm của đức Phật, chàng rất yêu thích, và chán ghét hình ảnh của mình, chàng nghĩ thầm: "Ta sẽ tình cách để được nhìn đức Như Lai suốt ngày.” Chàng bèn theo Phật xuất gia và ở trong Tăng đoàn. Thầy Sa môn này cứ luôn luôn tìm chỗ đứng có thể chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, chẳng màng đến kinh kệ và Thiền định. Ðức Như Lai biết vậy, và đợi cho Trí tuệ của Thầy thuần thục, Ngài không nói một lời. Ngày nọ, đức Phật nghĩ:

"Bây giờ Trí tuệ của Thầy ấy đã thuần thục.” Ngài bèn bảo:

- Này Vakkali, đâu có gì thích thú khi ngắm một hợp thể bất tịnh gọi là thân Ta? Này Vakkali, ngườì nào thấy pháp là thấy Ta.

Nhưng mặc lời khuyên của đức Như Lai, Thầy Vakkali vẫn không thể rời tia mắt khỏi đức Phật, hoặc lìa khỏi chỗ Phật ngồi. Cuối cùng đức Phật nghĩ:

"Thầy Sa môn này sẽ không bao giờ tỉnh ngộ, trừ phi gặp một cơn xúc động lớn.” Lúc ấy, mùa an cư đã đến, đức Như Lai tìm nơi an cư. Ngài về thành Vương Xá, đuổi Thầy Vakkali trở lại Trúc Lâm. Và suốt ba mùa trăng, Vakkali không được thấy Phật, không được nghe Ngài nói. Buồn quá, Thầy sinh ra ý tưởng muốn tự tử. Thầy bèn leo lên ngọn Linh Thứu và định nhảy xuống chết.

Ðức Thế Tôn biết Thầy quá đau khổ và chán đời, Ngài nghĩ thầm: "Nếu Thầy Vakkali không được sự an ủi của ta, thấy sẽ làm hỏng cả dịp chứng quả Thánh.” Lập tức Ngài bèn hiện thân trước Thầy Vakkali, lúc đó đang toan đâm đầu xuống núi. Vừa thấy đức Như Lai, Thầy liên cảm thấy yêu đời, nỗi buồn khổ tiêu tan. Và như rót đầy nước vào một đáy hồ khô cạn, đức Như Lai đã làm tuôn dậy mối hoan hỷ trong lòng Thầy. Ngài nói kệ:

(381) Tỳ kheo nhiều hân hoan,

Tịnh tín giáo pháp Phật,

Chứng cảnh giới tịch tịnh,

Các hạnh an tịnh lạc.

Ðức Như Lai đưa tay về phía Thầy Vakkali và bảo:

Ðến đây Vakkali!

Nhìn Như Lai chớ sợ.

Ta sẽ đưa tay đỡ

Như kéo voi sa lầy

Vakkali, đến đây!

Nhìn Như Lai chớ sợ.

Ta giúp ngươi giải thoát,

Như gỡ được mặt trời,

Ra khỏi cơn nhật thực.

Ðến đây, Vakkali

Nhìn Như Lai chớ sợ.

Ta sẽ giải thoát người,

Như gỡ vầng trăn tỏ

Cho khỏi bị nguyệt thực.

Thầy Vakkali nghĩ thầm: "Ta vừa thấy được đấng Thập Lực, và Ngài bảo ta hãy đến bên Ngài!" Lòng Thầy tràn ngập hân hoan. "Ta làm sao đến được?", Thầy tự nghĩ thế. Ðứng trên đỉnh núi cao, dù chẳng thấy có đường đi, Thầy tung mình nhảy vào không trung đến trước mặt đấng Thập Lực ngay khi vừa nghe những chữ đầu của câu Pháp Cú. Và trong lúc đang bay, suy niệm bài kệ của đức Thế Tôn, Thầy chế ngự được cơn hoan lạc và chứng A la hán cùng một lúc với các thần thông. Và đầy lòng cảm thán đức Như Lai, Thầy hạ xuống đất, đảnh lễ đức Phật. Thế Tôn xếp Thầy đệ nhất trong hàng đệ tử có lòng tin chân thật.

12. Vị Sa Môn Và Long Vương

Tỳ kheo tuy nhỏ tuổi...

Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Pubbarama, liên quan đến Sa di Sumana

Chuyện quá khứ:

A. Chàng Annabhhàra Nghèo Khổ Và Quan Chưởng khố Sumana Giàu Có

Vào thời Phật Padumuttara, có một thanh niên gặp Phật vào lúc Ngài đang ở giữa tứ chúng tuyên bố một Thầy Tỳ kheo nọ là Thiên nhãn đệ nhất. Lòng mong muốn đạt đến địa vị ấy, chàng thỉnh Phật và chúng Tỳ kheo đến nhà thọ thực suốt bảy ngày, rồi phát nguyện: "Bạch Thế Tôn, con nguyện xin được thành Thiên nhãn đệ nhất dưới thời một vị Phật tại thế.”

Ðức Phật Padumuttara quán sát rồi thọ ký:

- Một trăm ngàn kiếp nữa, dưới thời Phật Thích Ca, người thanh niên này sẽ được Thiên nhãn đệ nhất, mang tên A Na Luật.

Sau khi được thọ ký, mỗi ngày chàng đều cảm thấy như sẽ được đắc thần thông vào ngày mai. Phật nhập Niết bàn rồi, chàng hỏi các Thầy Tỳ kheo phải tu hành như thế nào để đắc Thiên nhãn thông. Chàng cho thắp đuốc thành vòng tròn bảy hải lý quang ngôi tháp vàng thờ Phật, lấy ánh sáng tôn vinh Ngài. Hết kiếp ấy, chàng thọ sanh lên cõi trời. Sau nhiều kiếp tái sanh suốt một trăm ngàn kiếp, chàng đầu thai vào một nhà nghèo ở Ba La Nại. Chàng khuân vác cỏ mướn cho quan Chưởng khố Sumana nên có tên là annabhàra, người khuân vác cỏ ăn. Quan Chưởng khố Sumana thường cúng dường bố thí rộng rãi tại đôi thị này.

Một hôm, đức Phật Ðộc Giác Uparittha xuất diệt tận định, và tự quán sát: "Hôm nay ta sẽ độ ai?" Một tư tưởng liền đến trong đầu Ngài: "Hôm nay ta sẽ độ annabhara", và Ngài tiếp tục quán sát: "Lúc này Annabhara đang mang cỏ cắt trong rừng về.” Ngài bèn lấy y bát, dùng thần thông bay đến trước mặt Annabhara. Chàng thấy bát trống trong tay Ngài, bèn thưa:

- Bạch Ngài, Ngài chưa được cúng dường ư?

- Ta đang khất thực, hỡi chàng trai tốt phước.

- Vậy thì, bạch Ngài, xin Ngài đợi giây lát.

Ném bó cỏ, chàng vội vã về nhà hỏi vợ:

- Mình ơi, có để dành phần ăn cho tôi không?

- Dạ có ạ.

Annabhara lại vội quay về gặp vị Phật Ðộc Giác, đỡ lấy bát của Ngài. Chàng nghĩ thầm: "Lâu nay mỗi lần muốn cúng dường, mình không có gì để cúng. Còn khi có vật thực để cúng, mình lại chẳng gặp được vị nào. Hôm nay mình có được cả hai, thật may mắn làm sao!” Chàng về đến nhà, múc cơm vào bình bát, mang đến cúng dường đức Phật, phát nguyện:

- Bạch Ngài, xin cho con được thoát khỏi cuộc sống đọa đày hiện nay của con. Xin cho con đừng bao giờ phải nghe tiếng "không có.”

Vị Phật Ðộc giác liền hồi hướng công đức cho chàng:

- Này thiện nam tử, sẽ được vậy.

Vị thần trú trong chiếc lọng của quan Chưởng khố Sumana kêu lên:

- Ôi đức Phật Uparittha được cúng dường món vật thực cao quý biết bao!

Và thần ba lần tán thán Annabhara.

Quan Chưởng khố hỏi:

- Lâu nay ông không thấy ta bố thí sao?

Thần đáp:

- Chẳng phải tôi tán thán ông cúng dường đâu. Tôi đang ca ngợi chàng Annabhara cúng dường Phật Uparittha đấy.

- Hay thay! Ta đã cúng dường biết bao nhiêu từ trước đến giờ thần chẳng ca ngợi. Còn chàng Annabhara làm mướn cho ta chỉ cúng một bữa ăn lại được khen. Ta sẽ trả giá mua phần cúng dường này về phần ta.

Quan Chưởng khố cho gọi Annabhara đến hỏi:

- Hôm nay, anh có cúng dường ai không?

- Thưa ông chủ có ạ. Tôi đã cúng dường phần cơm tôi cho Phật Ðộc Giác Uparittha.

- Anh cầm đồng xu này và nhường cho tôi phần cúng dường ấy nhé!

- Thưa ông, không được đâu.

Quan Chưởng khố tăng giá lên một ngàn đồng, Annabhara vẫn không chịu. Ông bèn nói:

- Thôi được rồi, nếu anh không nhường phần cúng dường ấy thì hãy lấy một ngàn đồng này và hồi hướng cho tôi phần phước vậy.

- Xin ông hãy để tôi hỏi ý kiến Ngài rồi quyết định ạ.

Chàng chạy đến gặp đức Phật Ðộc Giác.

- Bạch Ngài, quan Chưởng khố trao con một ngàn đồng và yêu cầu hồi hướng công đức cho ông ấy. Con phải làm sao?

Ðức Phật dùng thí dụ đáp:

- Như trong làng kia có một trăm nhà, một người chỉ thắp một ngọn đèn nhà mình rồi các nhà khác đến đó châm đèn mang về. Vậy ánh sáng đó phải của ngọn đèn dầu đầu tiên không?

- Bạch Ngài trong trường hợp ấy ánh sáng của cây đèn đầu tiên đã gia tăng lên.

- Thiện nam tử, việc cúng dường của anh cũng thế. Dù một môi cháo, một muỗng cơm, khi ta hồi hướng phước đức do công cúng dường ấy qua những người khác, phước sẽ gia tăng theo số người được hồi hướng. Ðây anh chỉ cúng dường một phần ăn. Nhưng khi anh hồi hướng quan Chưởng khố phước đức ấy thì nó tăng lên gấp đôi, một thuộc về anh và một thuộc quan Chưởng khố.

- Bạch Ngài, quý hóa quá.

Annabhàra từ giã vị Phật Ðộc Giác đến gặp quan Chưởng khố:

- Thưa ông, xin ông hãy nhận phần phước đức cúng dường của tôi.

- Ðây anh cầm lấy tiền.

- Tôi không bán đâu ạ. Tôi tặng ông phần phước đức ấy là từ lòng tin của tôi thôi.

- Vậy cũng tốt. Về phần tôi, tôi cảm phục nhân cách cao quý của anh lắm. Anh bạn, hãy nhận số tiền này đi. Từ nay anh khỏi cần cực nhọc làm thuê mướn cho tôi nữa. Anh hãy cất một căn nhà nơi đường phố lớn mà ở. Lúc nào cần thức gì, anh cứ lại kho tôi lấy.

Aáy là quả hiện báo do cúng dường bữa ăn cho một vị xuất định diệt thọ tưởng. Nhà Vua nghe chuyện cũng cho gọi Annabhàra đến, xin chàng một phần phước đức, ban thưởng chàng rất hậu và cho làm chức Chưởng khố.

Bây giờ Annabhàra là bạn hữu của quan Chưởng khố Sumana. Chàng tiếp tục làm việc phước thiện cho đến khi mãn kiếp, được thọ sanh lên cõi trời. Qua nhiều lần tái sinh trong cõi trời và người, chàng thọ sanh vào một gia dình hoàng tộc dòng Thích Ca, hoàng thân Amitodana, tại thành Ca Tỳ La Vệ, dưới thời đức Phật hiện tại. Sau mười tháng cưu mang, phu nhân Amitodana mới sinh chàng, đặt tên A Na Luật. Tôn giả là em út vương tử Mahanam, anh em chú bác của Phật. Tôn giả được nuôi dưỡng trong sự chăm sóc cưng chiều, là vị vương tử có phước báo rất lớn.

Chuyện hiện tại:

B. A Na Luật Xuất Gia

Một hôm sáu vị vương tôn chơi đánh bạc ăn bánh, A Na Luật thua, nhờ người đi xin bánh nơi thân mẫu. Phu nhân sắp đầy bánh vào một đĩa vàng lớn đem đến. Các vương tôn ăn bánh xong chơi tiếp. A Na Luật thua, lại xin bánh. Phu nhân ba lần cho mang bánh tới, lần thứ tư bà nhắn: "Không có bánh nữa.” Chưa bao giờ nghe chữ "không có" nên nghe mẫu thân nhắn, chàng tưởng tượng: "Chắc có thứ bánh gọi là "không có" bèn bảo người hầu:

- Ði xin ít bánh "không có" Phu nhân nghe vậy bèn nghĩ: "Con ta chưa hề nghe tiếng "không có.” Ta làm sao giảng cho nó hiểu đây?”

Phu nhân rửa sạch một chiếc bát vàng, lấy chiếc bát vàng khác úp lên, rồi bảo người hầu đem đi nói:

- Ðây, con trao cái này cho cậu.

Lúc ấy, chư thiên cõi trời giữ thành tự nghĩ: "Trong kiếp trước, chủ nhân chúng ta là Annabhàra đã cúng dường phần thức ăn mình cho vị Phật Ðộc Giác Uparittha, và phát nguyện: "Xin đừng bao giờ nghe tiếng "không có.” Chúng ta biết hết đầu đuôi câu chuyện mà có thái độ thờ ơ, coi chừng đầu nứt thành bảy miếng. Nghĩ vậy, chư thiên bèn cho vào chiếc tô ấy đầy những chiếc bánh chư thiên vẫn dùng. Người hầu mang tô đến, đặt trước mặt sáu vị vương tôn và mở ra. Mùi bánh thơm ngào ngạt khắp cả kinh thành. Hơn thế, mỗi miếng bánh được cho vào miệng liền gây cảm giác khoan khoái cho đủ cả bảy ngàn dây thần kinh vị giác.

Vương tử A Na Luật nghĩ thầm: "Ðúng là lâu nay mẹ không thương mình, chưa bao giờ mẹ làm cho mình ăn thứ bánh "không có" này.

Chàng đến gặp mẹ, hỏi:

- Mẹ ơi, mẹ không thương con phải không?

- Kìa con, nói gì vậy? Mẹ cưng con hơn mắt mẹ, quý con hơn tim mẹ mà.

- Mẹ thân yêu ơi, nếu mẹ thương quý con, sao trước giờ mẹ không cho con ăn thứ bánh "không có" này?

Phu nhân hỏi người hầu:

- Này con, trong chiếc bát có gì không?

- Thưa phu nhân, có. Trong bát đầy những chiếc bánh con chưa từng thấy bao giờ.

Phu nhân suy nghĩ: "Con ta thường làm việc thiện. Chắc chư thiên đã cho bánh của các vị.”

Vương tử A Na Luật lại bảo:

- Mẹ thân yêu ơi, con chưa bao giờ được ăn thứ bánh ấy. Từ rày mẹ chỉ chiên bánh này cho con ăn thôi nhé.

Về sau mỗi khi cậu đòi "cho con ăn bánh", phu nhân lại rửa sạch một chiếc bát vàng, lấy chiếc bát vàng khác úp lên cho mang đến, và chư thiên lại sắp đầy bánh của cõi trời vào bát. Cậu cứ thế sống trong sự chăm chút nâng niu của gia đình, chẳng bao giờ biết đến nghĩa chữ "không có", và ăn toàn bánh chư thiên.

Khi nhiều vị vương tôn công tử thuộc hoàng tộc Thích Ca nối tiếp nhau lần lượt xuất gia, nhập vào Tăng đoàn đức Thế Tôn, Ngài Mahanam đến gặp cậu em A Na Luật bảo:

- Này em, gia đình ta chưa có ai xuất gia làm Sa môn. Hai anh em mình phải có một người xuất gia theo Phật mới được.

Cậu đáp:

- Từ trước tới giờ em quen sống được chăm sóc chu đáo. Em không thể xuất gia làm Sa môn được đâu anh.

- Thế thì em coi sóc ruộng vườn đi, anh sẽ xuất gia.

- Coi sóc ruộng vườn là làm sao?

Cậu không biết đến cả chuyện thực phẩm từ đâu có, làm sao biết việc trông nom ruộng vườn?

Có lần ba vương tử A Na Luật, Bạt Đề và Kiếp Tân Na bàn tán về vấn đề: "Cơm từ đâu có?” Kiếp Tân Na nói trước:

- Cơm lấy từ kho ra.

(Kiếp Tân Na từng thấy người ta đem gạo chất vào kho nên tưởng rằng cơm từ kho mà có).

Bạt Đề bảo Kiếp Tân Na:

- Cậu chẳng biết gì cả. Cơm lấy từ trong nồi cơm. (Một hôm Bạt Đề thấy cơm được bới từ nồi nấu cơm ra nên bảo cơm từ nồi mà có).

A Na Luật bảo hai vương tử:

- Các cậu đều không biết gì. Cơm lấy từ chiếc liễn vàng có quai nạm ngọc kia. (Cậu chưa từng thấy người ta giã gạo hay nấu cơm, chỉ thấy cơm sau khi đã được múc từ nồi nấu ra, đặt trước mặt cậu trong chiếc liễn vàng).

Như vậy, làm sao vị vương tôn có phước báo lớn này lại rành chuyện ruộng vườn?

Vương tử Mahanam bảo:

- Này A Na Luật, anh sẽ cho em hay một gia chủ phải làm gì nhé! Trước hết em cho cày ruộng..

Ông bắt đầu giảng giải cho em nghe các thứ công việc. Nghe anh liệt kê một dọc nhiệm vụ công tác mà một vị chủ nhân phải đảm đương, cậu nói:

- Em chẳng làm xong vai trò chủ nhân ấy đâu.

Em xin phép mẫu thân xuất gia làm Sa môn. Cùng với năm ông hoàng khác của dòng Thích Ca, cậu từ giã thành Ca Tỳ La Vệ, trước hết đến vườn xoài Anupiya gặp Phật xin xuất gia. Tôn giả tu hành tinh tấn và sau một thời gian chứng Tam minh. Tôn giả có thể dùng Thiên nhãn thấy suốt ba ngàn đại thiên thế giới dễ dàng như ngắm trái cây trong lòng bàn tay. Ngồi trên đơn, Tôn giả ngâm kệ:

Ta biết hết đời ta những kiếp trước

Ta đã đắc thiên nhãn, đắc thần thông.

Tam thông ta đạt, và ta thấu triệt.

Giáo pháp nhiệm mầu của đức Thế Tôn.

Rồi Tôn giả suy nghĩ: "Ta đã làm những gì để được như vậy?” Liền khi ấy, Tôn giả biết: "Vào thời Phật Padumuttara, ta đã có lời phát nguyện. Sau thời gian luân hồi qua lại, ta được tái sanh ở Ba La Nại vào thời nọ và sống bằng nghề làm mướn cho quan Chưởng khố Sumana. Tên ta là Annabhàra.”

Tôn giả ngâm kệ tiếp:

Trong một kiếp ta là người cắt cỏ

Tên Annabhàra, kẻ làm mướn nghèo cùng

Ta đã cúng dường bữa cơm thật khiêm nhường

Cho vị Phật Uparittha danh tiếng.

Bỗng Tôn giả chợt nghĩ: "Quan Chưởng khố Sumana bây giờ ở đâu? Ông đã tặng ta tiền đổi lấy phần cơm ta cúng dường Phật Uparittha, và nhận phần phước đức cúng dường ấy.” Tôn giả liền thấy được quan Chưởng khố ngay: "Nơi rừng Vinjha, tại một chân núi ở thị trấn Munda, có Phật tử tên là Mahà Munda. Con trai lớn của ông tên là Mahà Sumana, còn người con trai thứ tên là Culla Sumana, chính là quan Chưởng khố Sumana tái sinh.”

Thấy được quan Chưởng khố rồi, Tôn giả nghĩ tiếp: "Ta có nên đến đấy không?" Tôn giả quán sát và thấy rằng khi Tôn giả vừa gặp, Culla Sumana tuy mới bảy tuổi cũng sẽ xuất gia và đắc quả A la hán rất nhanh. Quán sát xong xuôi, vì mùa mưa sắp đến, Tôn giả dùng thần thông bay đến cổng làng.

Chuyện hiện tại:

C. Sa di Sumana Và Long Vương

Trong một kiếp quá khứ, Phật tử Mahà Munda là bạn thân của Tôn giả A Na Luật. Do đó, đến giờ khất thực, thấy Tôn giả đắp y, ông bảo người con trai lớn là Mahà Sumana:

- Này con, Trưởng lão A Na Luật tôn quý của cha đã đến. Nếu thấy chưa có ai cầm bát Ngài, con hãy ra đỡ bát đem vào đây, cha sẽ sửa soạn chỗ ngồi cho Ngài.

Mahà Sumana vâng lời. Phật tử Munda tiếp rước cúng dường hết sức chu đáo, và thỉnh Tôn giả ở lại an cư mùa mưa. Ngài nhã nhặn nhận lời. Suốt ba tháng an cư, vị Phật tử thuần thành chăm sóc Tôn giả cung kính tận tình như chỉ mới một ngày vậy.

Ðến buổi đại lễ Pavàranà, ông đem đường mật, dầu ăn, gạo.v.v.. đặt dưới chân Tôn giả, thưa:

- Bạch Ngài, xin Ngài nhận những phẩm vật này.

- Thôi đủ rồi, đạo hữu, tôi chẳng dùng các thứ này mấy.

- Bạch Ngài, đây là phần thường cúng dường cho các vị an cư. Thỉnh Ngài nhận cho con.

- Thôi đủ rồi, đạo hữu ạ.

- Bạch Ngài, sao Ngài không nhận?

- Tôi không có Sa di Thị giả.

- Bạch Ngài, vậy xin cho con trai tôi, Mahà Sumana, làm Sa di Thị giả Ngài.

- Này đạo hữu, Mahà Sumana chắc không được.

- Vậy xin Ngài nhận Culla Sumana vào Tăng đoàn.

- Tốt lắm.

Tôn giả nhận lời rồi, cho Culla Sumana xuất gia. Chưa bao lâu cậu đã đắc quả A la hán. Tôn giả ở lại thêm nửa tháng rồi nghĩ: "Ta sẽ về thăm đức Thế Tôn.” Từ biệt gia quyến ông Mahà Munda, Tôn giả bay đến vùng Hy Mã, và đáp xuống ở Arannakutika.

Tôn giả vốn tính rất năng động nên sau một đêm kinh hành vào giấc đầu hôm và giấc khuya, Tôn giả bị chứng khó tiêu. Chú Sa di để ý thấy Thầy tái xanh, hốc hác, bèn thưa hỏi:

- Bạch Thầy, Thầy bị bệnh sao ạ?

- Ta bị khó tiêu.

- Bạch Thầy, có bao giờ Thầy bị bệnh này chưa?

- Có.

- Bạch Thầy, lấy thuốc gì chữa?

- Này chú, nếu ta uống nước hồ Anotatta thì ổn ngay.

- Vậy con sẽ đi kiếm nước ấy.

- Này Sa di, chú có làm được không?

- Bạch Thầy, được ạ!

- Thế thì long vương Pannaka đang ở hồ Anotatta biết ta. Hãy cho vị ấy biết là chú đến xin một bình nước làm thuốc.

- Vâng ạ.

Chú Sa di đảnh lễ Thầy, bay lên không trung đến hồ Anotatta cách đó năm trăm hải lý.

Hôm ấy long vương đang định mở hội vui chơi dưới nước, có ca vụ giúp vui. Do đó thấy chú Sa di đến gần, long vương nổi giận, nói thầm: "Tên Sa di trọc đầu kia đi lung tung chân bắn cả bụi đất lên đầu ta. Chắc hẳn kiểu này là đi lấy nước ở hồ Anotatta về uống đây. Ðược, ta sẽ chẳng cho hắn một giọt nào tất.” Long vương bèn nằm xuống, giương vây ra che kín hết cái hồ rộng đến năm mươi hải lý, như ta lấy chiếc dĩa lớn đậy lên cái ấm. Chú Sa di quan sát thấy cung cách Long Vương, bèn nghĩ: "Ngài đang giận.” Chú nói kệ:

Hãy nghe, hỡi Long vương!

Kẻ sức mạnh phi thường

Và sức nóng kinh khiếp,

Ta vượt bao dặm đường

Ðến xin người chút nước

Vì chữa bệnh Thầy ta.

Long vương đáp:

- Nơi phía đông có dòng sông hùng mạnh,

Tuôn chảy ra biển cả, gọi sông Hằng,

Ðến đấy đi, đến lấy nước mà uống!

Chú Sa di nghe, nghĩ thầm: "Con rồng này không muốn cho ta nước. Vậy phải dùng vũ lực, hiện đại thần thông lấy nước mới được.” Chú bảo Long vương:

- Ðại vương, Thầy tôi dạy phải lấy nước hồ Anotatta chứ không lấy ở đâu khác. Giờ tôi phải lấy nước này thôi. Ðại vương đi đi, chớ kiếm cách cản trở tôi mãi.

Chú nói kệ:

Chỉ nước hồ này tôi mới lấy

Chỉ nước hồ đây tôi mới cần

Nếu đủ quyền năng và sức mạnh

Tự điều phục đi, hỡi rồng thần!

Long vương đáp:

Sa di! Lời ngươi ta tán thán.

Nếu ngươi đủ sức, đủ trưởng thành,

Thì nước hồ ta, ngươi cứ lấy,

Trổ tài cho xứng bực hùng anh.

Sumana trả lời:

- Ðại vương, vậy thì tôi lấy nước đây.

Long vương thách:

- Ngươi lấy được cứ lấy.

- Ðược lắm. Quyết định chắc chắn một lời thôi đấy.

Chú buộc long vương phải nói ba lần như trên. Rồi chú tự nghĩ: "Ta cần phải biểu dương sức mạnh giáo pháp Phật Đà ngay trong chuyện lấy nước này.” Chú bay lên trời gặp chư thiên. Chư thiên đảnh lễ chú, thưa:

- Bạch Ngài, Ngài cần gì?

- Sắp có trận chiến xảy ra giữa tôi và long vương Pannaka, ngự ở hồ Anotatta. Mời chư vị đến xem ai thắng bại.

Cứ thế, chú đi mời Tứ Thiên Vương, Ðế Thích, Suyyama, Santusita, Paranimmita - Vasavatì, và nói như trên. Rồi chú đi xa hơn, đến tận chín cõi trời Phạm Thiên. Chín vị Phạm thiên đều đến đảnh lễ chú và thưa:

- Bạch Ngài, Ngài cần gì?

Chú lại nói như trên. Như vậy, chú qua hết các thế giới chỉ trong chốc lát, viếng tất cả cõi trời, trừ ra cõi Vô Tưởng và cõi Vô Sắc Ðại Phạm, và chú cũng nói những lời ấy. Tất cả chư Thiên tụ hội trên hồ Anotatta, đông kín đặc bầu trời y như khi ta đổ bột chì vào trong đấu vậy. Xong xuôi, chú Sa di mới đứng trên không bảo long vương:

Hãy nghe, hỡi Long vương!

Kẻ sức mạnh phi thường,

Và sức nóng kinh khiếp,

Ta vượt bao dặm đường

Ðến xin ngươi chút nước

Về chữa bệnh Thầy ta.

Long vương đáp:

Sa di! Lời ngươi ta tán thán

Nếu ngươi đủ sức, đủ trưởng thành

Thì nước hồ ta, ngươi cứ lấy,

Trổ tài cho xứng bực hùng anh.

Buộc long vương phải nói ba lần như vậy xong, chú Sa di liền hiện thân thành Phạm thiên cao mười hai hải lý, từ trên không bay xuống đạp lên vây long vương, ép đầu hắn xuống, rồi dùng hết sức bình sinh đè lên người long vương. Giống như người có sức mạnh đạp tấm da ướt, chú Sa di vừa đạp lên chiếc vây long vương, nó liền cuộn từ khúc cỡ bằng cái muỗng và tuột đi. Từ mỗi chỗ khúc cuộn tuột đi đó, bắn lên những vòi nước cao bằng thân cây thốt nốt. Chú chỉ việc đứng trên không trung đưa bình ra hứng.

Chư thiên trầm trồ tán thán. Quá hổ thẹn và căm giận chú Sa di, mắt long vương quắc lên, đỏ như dâu chín, lòng tự nghĩ: "Gã này rủ rê chư thiên đến rồi đạp lên vây ta để làm nhục. Ta sẽ tóm hắn, cho tay hắn vào mồm ta và bóp nhừ tim hắn ra. Hoặc ta sẽ túm chân hắn ném xuống sông Hằng.” Long vương giở hết tốc lực đuổi theo chú Sa di, nhưng vẫn không kịp.

Sumana về đến nơi liền đặt bình nước vào thay Thầy chú, thưa:

- Bạch Thầy, mời Thầy dùng nước.

Lúc ấy, long vương vừa đuổi theo đến nơi, vội thưa Tôn giả:

- Bạch Ngài, vị Sa di của Ngài đã lấy nước mà tôi không cho. Xin Ngài chớ uống.

- Này Sa di, đúng như vậy không?

- Bạch Thầy, mời Thầy cứ việc dùng. Nước này là chính long vương đã cho con đấy ạ.

Tôn giả biết chú Sa di đắc quả A la hán không thể nói lời vọng ngữ nên liền uống. Ðược vài ngụm, Tôn giả thấy dễ chịu.

Long vương bạch:

- Bạch Ngài, vị Sa di của Ngài đã gọi chư Thiên đến và làm nhục tôi trước mặt họ. Tôi định xé tim chú ấy ra, hoặc túm chân ném chú xuống sông Hằng.

- Ðại vương, vị Sa di này có đại thần thông, Ðại vương không đánh lại đâu. Vậy hãy sám hối mà đi về.

Không cần ai nói long vương cũng biết dư chú Sa di có đại thần thông, rượt theo chú chẳng qua vì quá mất mặt mà thôi. Do đó long vương vâng lời Tôn giả, sám hối chú Sa di và kết bạn với chú. Long vương nói:

- Từ rày trở đi khi nào cần nước hồ Anotatta, Ngài khỏi phải nhọc mình đi lại. Xin nhắn một tiếng, tôi sẽ đích thân mang đến.

Rồi long vương từ biệt.

Tôn giả A Na Luật đem chú Sa di theo về. Ðức Thế Tôn biết Tôn giả đang trên đường đến gặp Ngài, bèn ở lại lâu đài Mẹ Migara chờ. Các Thầy Tỳ kheo thấy Tôn giả đến đều ra đón, đỡ y bát cho Tôn giả. Vài Thầy xoa đầu, nhéo tai Sumana, đùa:

- Sa di ơi, chú không thấy tu hành cực khổ sao?

Ðức Phật thấy vậy nghĩ: "Các Sa môn này đùa cợt chú Sa di thật là lầm lớn. Các ông ấy tự do cầm nắm người chú như ta tóm cổ một con rắn độc, không biết chú có đại thần thông. Hôm nay ta nên cho họ biết tài đức của Sa di Sumana.”

Trưởng lão A Na Luật đến đảnh lễ Phật và ngồi qua một bên. Ðức Thế Tôn thân mật hỏi Tôn giả, rồi quay sang bảo Ngài A Nan:

- Này A Nan, ta muốn lấy nước hồ Anotatta để rửa chân. Ông hãy đưa bình đựng nước cho các Sa di đi lấy nước!

Tôn giả A Nan cho gọi hết năm trăm vị Sa di của Tinh xá, trong đó có Sumana nhỏ tuổi nhất. Tôn giả bảo chú Sa di lớn nhất:

- Này Sa di, đức Thế Tôn muốn rửa chân bằng nước hồ Anotatta. Hãy mang bình đi lấy nước nghe.

- Bạch Ngài, con không làm việc ấy được.

Chú Sa di lớn tuổi nhất không muốn đi liền thưa vậy. Tôn giả lần lượt hỏi các Sa di khác, chú nào cũng từ chối. Thế không có vị Sa di nào đắc quả A la hán sao? Tất nhiên là có, nhưng sở dĩ các vị từ chối vì biết: "Lẵng hoa này chẳng phải kết dành cho chúng ta. Chính là vì Sa di Sumana đấy.” Còn những vị chưa đắc quả Tu đà hoàn thì từ chối vì họ biết không đủ sức đảm đương công tác ấy.

Cuối cùng đến phiên Sumana. Tôn giả A Nan lặp lại:

- Này Sa di, đức Thế Tôn muốn rửa chân bằng nước hồ Anotatta, và biểu chú đem bình đi lấy nước.

- Bạch Ngài, nếu đức Thế Tôn muốn con đi lấy nước, con sẽ đi.

Chú đảnh lễ Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn, con được biết Ngài muốn con đi lấy nước hồ Anotatta.

- Ðúng thế, Sumana.

Chú chọn trong đám bình hũ bằng vàng của Tinh xá do bà Visàkhà đặt làm để cúng dường, một chiếc hũ lớn bằng sáu mươi bình nước thường. Chú tự bảo: "Mình chẳng cần quảy nó lên vai làm chi.” Chú xách hũ lủng lẳng nơi tay, bay vút lên không, nhắm hướng vùng Hy Mã thẳng tiến.

Chú Sa di còn ở xa, long vương đã thấy vội ra đón, đỡ chiếc hũ đặt lên vai mình và nói:

- Bạch Ngài, chừng nào Ngài còn có con hầu hạ trong cõi giới này, Ngài đâu cần nhọc sức tự mình đi? Nếu cần nước, sao Ngài không tin cho con hay?

Ðổ nước đầy hũ rồi tự vác lên vai, long vương thưa:

- Xin Ngài đi trước, con sẽ đích thân mang hũ nước.

- Ðại vương đừng đi. Ðức Thế Tôn biểu tôi đi đấy.

Chú buộc long vương phải quay lại, và đưa tay cầm miệng hũ, chú bay lên biến mất dạng vào không trung.

Ðức Phật thấy chú về, bảo các Thầy Tỳ kheo:

- Này các Tỳ kheo, các ông hãy xem vẻ trang nhã của chú Sa di. Chú bay trong không trung thanh thoát như một con ngỗng chúa.

Sumana đặt hũ nước xuống, đảnh lễ Phật. Phật hỏi:

- Sumana, con bao nhiêu tuổi?

- Bạch Thế Tôn, con được bảy tuổi.

- Vậy thì Sumana, hôm nay con được thọ giới Tỳ kheo.

Và đức Phật truyền giới cụ túc cho Sumana. Trong Tăng đoàn tương truyền chỉ có hai vị Sa di bảy tuổi được thọ cụ túc giới: Sumana và Sopàka.

Sumana được thọ giới Tỳ kheo rồi, các Thầy Tỳ kheo bàn tán trong Pháp đường:

- Chư huynh đệ, thật là một việc tốt đẹp biết bao! Vị Sa di này thần thông thật là siêu việt. Chúng ta chưa từng thấy thần thông cao tuyệt như thế.

Lúc ấy, đức Phật đi đến hỏi:

- Này các Tỳ kheo, các ông tụ hội ở đây bàn luận việc gì?

Khi nghe các Thầy bạch lý do, Ngài bảo:

- Này các Tỳ kheo, sự chứng đắc ấy ngay cả một Tỳ kheo nhỏ tuổi vẫn có thể đạt được trong giáo pháp ta, nếu người ấy tinh tấn.

Ngài nói kệ:

(382) Tỳ kheo tuy nhỏ tuổi,

Siêng tu giáo pháp Phật,

Soi sáng thế gian này,

Như trăng thoát khỏi mây.


Phẩm XXVI: Bà La Môn

1. Bà la môn Ðại Hỉ

Hãy tinh tấn đoạn dòng...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Bà la môn Ðại Hỉ, Pasàdabahula.

Một hôm, sau khi nghe Phật thuyết pháp, một vị Bà la môn hoan hỉ đến nỗi từ đó đều đặn mỗi ngày ông thỉnh mười sáu vị Tỳ kheo đến nhà cúng dường. Mỗi khi các Thầy đến, ông ra đón, đỡ bình bát và mời:

- Xin cung thỉnh Ngài A la hán vào. Xin mời Ngài A la hán ngồi.

Dù thưa thỉnh với bất cứ Thầy Tỳ kheo nào, ông đều xưng tụng là A la hán. Những Thầy chưa chứng Sơ quả nghĩ thầm: "Ông Cư sĩ này tưởng trong chúng ta có Thầy chứng A la hán.” Còn các Thầy chứng A la hán lại nghĩ: "Ông Cư sĩ không biết chúng ta đắc A la hán.” Kết quả: Tất cả các Thầy đều buồn lòng và không đến nhà ông nữa.

Ông Bà la môn hết sức buồn khổ. Ông nghĩ: "Tại làm sao các vị Tỳ kheo cao quý ấy lại không đến nhà mình nữa kìa?” Ông vào Tinh xá đảnh lễ Phật và bạch sự việc. Ðức Thế Tôn hỏi các Thầy Tỳ kheo:

- Này các Tỳ kheo, vậy nghĩa là sao?

Các Thầy bạch Phật lý do. Phật bảo:

- Nhưng này các Tỳ kheo, các ông không muốn ông ấy gọi mình là A la hán ư?

- Bạch Thế Tôn, không ạ.

- Thế nhưng đây chỉ là cách một người bày tỏ lòng hoan hỉ, và việc biểu hiện niềm hoan hỉ ấy đâu có gì sai trái? Tấm lòng quí mến các vị A la hán của ông Bà la môn thật là vô bờ. Do đó, việc đúng đắn nhất đối với các ông là phải diệt trừ tham ái và chỉ lấy việc chứng đắc A la hán làm sự mong muốn duy nhất của mình.

Ngài nói kệ:

(383) Hỡi này Bà la môn

Hãy tinh tấn đoạn dòng,

Từ bỏ các dục lạc,

Biết được hành đoạn diệt,

Ngươi là bậc vô vi.

2. Thế Nào Là "Hai Trạng Thái"?

Nhờ thường trú hai pháp...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài ở tại Kỳ Viên, liên quan đến nhiều vị Tỳ kheo.

Một ngày nọ, có ba mươi Sa môn ở xứ khác đến Kỳ Viên đảnh lễ đức Phật và ngồi một bên. Tôn giả Xá Lợi Phất biết rằng các Thầy có đủ điều kiện chứng A la hán, bèn đến trước đức Phật thưa:

- Bạch Thế Tôn, Ngài thường dạy về "hai trạng thái", thế nào là "hai trạng thái?”

Ðức Phật dạy:

- Này Xá Lợi Phất, hai trạng thái là Thiền định và Trí tuệ.

Ngài nói kệ:

(384) Nhờ thường trú hai pháp,

Ðến được bờ bên kia,

Bà la môn có trí,

Mọi kiết sử dứt sạch.

3. Thế Nào Là Bờ Kia?

Không bờ này bờ kia...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Ma vương.

Một ngày nọ, Ma vương giả dạng đến chỗ đức Phật và hỏi Ngài:

- Bạch Thế Tôn, Ngài hay nhắc đến "bờ bên kia.” Xin cho biết cái gì là "bờ bên kia"?

Ðức Phật biết đó là Ma vương, Ngài bảo:

- Này Ma vương, ông liên hệ gì đến "bờ bên kia"? Chỉ có người thoát khỏi tham dục mới đạt đến đó thôi.

Ngài nói kệ:

(385) Không bờ này bờ kia,

Cả hai bờ không có,

Lìa khổ, không trói buộc,

Ta gọi Bà la môn.

4. Thế Nào Là Bà la môn?

Tu Thiền, trú ly trần...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến một người Bà la môn.

Ngày nọ, một ông Bà la môn chợt nghĩ: "Ðức Phật thường gọi các đệ tử là Bà la môn, còn ta cũng sanh trưởng trong dòng Bà la môn, ta cũng đáng được gọi như thế.”

Nghĩ vậy, y bèn đến chỗ Phật và nói lên vấn đề ấy. Ðức Phật nói:

- Ta không gọi ai là Bà la môn, chỉ vì dòng dõi. Ta chỉ gọi những người đạt đến quả vị A la hán là Bà la môn.

Ngài nói kệ:

(386) Tu Thiền, trú ly trần

Phận sự xong, vô lậu,

Ðạt được đích tối thượng

Ta gọi Bà la môn.

5. Ðức Phật Sáng Ngời

Mặt trời sáng ban ngày...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại lâu đài Mẹ Migàra, liên quan đến Tôn giả A Nan.

Vào ngày lễ Tự tứ, vua Ba Tư Nặc đến Tinh xá, nhà vua trang phục tô điểm thật rực rỡ, tay mang đầy hương hoa, chuỗi ngọc. Lúc ấy Tôn giả Ca Lưu Đà Di ngồi ở vòng ngoài chúng hội Tỳ kheo, đang nhập định, toàn thân tỏa ra một luồng hỷ lạc, sáng như vàng. Và mặt trời đang lặn, mặt trăng vừa mọc. Tôn giả A Nan ngắm ánh mặt trời hoàng hôn, ngắm ánh trăng đang lên, nhìn vẻ rực rỡ của châu ngọc trên người vua, nhìn vàng hào quang sáng quanh Ngài Ca Lưu Đà Di, và cuối cùng nhìn đức Như Lai. Hào quang trên thân đức Thế Tôn vượt xa hơn tất cả.

Ngài đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, hôm nay con ngắm ánh sáng của những thân và vật ấy, chỉ có hào quang Ngài làm cho con mãn nguyện, vì thân Ngài chiếu ánh sáng rực rỡ hơn hẳn các ánh sáng khác.

Ðức Phật bảo:

- Này A Nan, mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sáng ban đêm, nhà vua thì sáng khi trang điểm lộng lẫy, các vị A la hán thì sáng khi nhập định thoát phàm. Nhưng chỉ có chư Phật luôn luôn chiếu sáng ngày cũng như đêm, rực rỡ hơn gắp năm lần.

Ngài nói kệ:

(387) Mặt trời sáng ban ngày.

Mặt trăng sáng ban đêm.

Khí giới sáng Sát- lỵ.

Thiền định sáng Phạm chí.

Còn hào quang đức Phật,

Chói sáng cả ngày đêm.

Chú giải:

Giới đức của Phật có oai lực sáng tỏ, làm lu mờ điều bất thiện.

Ðức hạnh của Ngài có oai lực làm lu mờ các tật xấu.

Oai lực của Trí tuệ che lấp vô minh.

Oai lực của chánh hạnh che lấp điều bất chánh.

6. Thế Nào Là Tỳ Kheo?

Dứt ác gọi Phạm Chí...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến một Thầy Tỳ kheo.

Một người Bà la môn nọ xuất gia theo Thầy khác chứ không theo Phật, rồi lại nghĩ: "Sa môn Cồ Đàm gọi đệ tử là Tỳ kheo. Ta cũng đáng được gọi như thế.” Y bèn đến gặp Phật và nói lên vấn đề ấy.

Ðức Phật nói:

- Ta không gọi ai là Tỳ kheo chỉ vì lý do ông đưa ra. Ta chỉ gọi người đã trừ được lậu hoặc và cấu nhiễm là Tỳ kheo, "Người đã xa lìa.”

Ngài nói kệ:

(388) Dứt ác gọi Phạm Chí,

Tịnh hạnh gọi Sa môn,

Tự mình xuất cấu uế,

Nên gọi bậc xuất gia.

7. Ðức Nhẫn Nhục Chinh Phục Sự Tàn Ác.

Chớ có đập Phạm Chí...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Xá Lợi Phất.

Một ngày nọ, các thiện tín ngồi chung lại và ca ngợi đức hạnh của Tôn giả Xá Lợi Phất:

- Vị Tôn giả Thầy chúng ta, thật là đức nhẫn cao đến nỗi dù ai mắng chửi hay đánh đập, Ngài cũng không giận.

Lúc ấy, có một Bà la môn ngoại đạo hỏi:

- Ai mà không hề giận dữ?

- Thầy chúng tôi, Tôn giả Xá Lợi Phất.

- Chắc hẳn chưa ai chọc giận được ông ấy?

- Chưa hề có chuyện ấy đâu, Bà la môn.

- Ðược rồi, tôi sẽ chọc giận ông ta.

- Ông cứ thử xem.

- Tin tôi đi, tôi biết cách nên hành động như thế nào với ông ta.

Hôm sau, Tôn giả vào thành khất thực. Ông Bà la môn đi theo sau lưng Tôn giả tống một quả đấm vũ bão vào lưng Ngài. Tôn giả chỉ hỏi: "Cái gì thế?" mà không hề quay lại dòm và tiếp tục đi. Trước thái độ ấy, ông Bà la môn cảm thấy ân hận tràn ngập: "Ô! Thật là tôn quí thay đức hạnh của Tôn giả!”

Ông ta sụp xuống dưới chân Ngài:

- Xin Ngài hãy tha lỗi cho tôi.

- Chuyện gì vậy?

- Tôi muốn thử Ngài nên đã đấm vào lưng Ngài.

- Ðược, tôi không giận ông.

- Nếu Ngài sẵn lòng tha lỗi cho tôi, xin từ đây hãy chỉ đến nhà tôi thọ thực thôi.

Và ông đỡ lấy bát Tôn giả, đưa Ngài về nhà cúng dường bữa trưa. Tôn giả vui vẻ trao bát.

Vài kẻ ngoại cuộc thấy vậy rất tức tối.

- Tên ngoại đạo ấy đã đánh Thầy chúng ta, một vị đáng lý không ai được xúc phạm, tội ấy không thể tha thứ. Chúng ta phải giết hắn.

Họ nắm đất, đá, gậy gộc, kéo đến đứng trước cửa nhà người Bà la môn. Khi Tôn giả thọ thực xong trở ra, Ngài để bát cho người Bà la môn ôm, những người kia thấy ông ta đi ra với Tôn giả, bèn kêu:

- Bạch Tôn giả, xin Ngài ra lệnh cho ông Bà la môn trở lại.

- Này các đạo hữu, các ông muốn gì?

- Tên Bà la môn ấy đã đánh Ngài, và chúng con muốn xử hắn đích đáng.

- Sao? Ông ấy đánh ta hay đánh các ông?

- Thưa, đánh Ngài.

- Nếu vậy, ông ấy đã xin lỗi ta, các ông về đi.

Tôn giả khuyên các Phật tử, và cho phép ông Bà la môn về, Tôn giả trở lại Tinh xá.

Các vị Tỳ kheo hết sức bất bình.

- Thế này là sao? Một người Bà la môn đánh Tôn giả Xá Lợi Phất mà Ngài lại đến chính nhà của người ấy thọ thực! Ông ta đánh cả Tôn giả rồi thì còn kính trọng ai nữa? Ông sẽ đánh người này người nọ lung tung cho coi.

Ðức Thế Tôn nghe chuyện, bảo các Thầy Tỳ kheo:

- Này các Tỳ kheo, không có việc người Bà la môn đánh Bà la môn, chỉ có Bà la môn phàm tục đánh vị Bà la môn Thánh quả. Bởi vị nào đã chứng quả A na hàm hoàn toàn dứt trừ hết mọi giận dữ.

Ngài nói kệ:

(389) Chớ có đập Phạm Chí!

Phạm Chí chớ đập lại!

Xấu thay đập Phạm Chí!

Ðập trả lại xấu hơn!

(390) Ðối vị Bà la môn,

Ðây không lợi ích nhỏ,

Khi ý không ái luyến,

Tâm hại được chặn đứng,

Chỉ khi ấy khổ diệt.

8. Ngài Di Mẫu Thọ Giới

Với người thân, miệng, ý...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Ngài Ma ha Ba Xà Ba Đề.

Trước khi công khai công bố Bát kỉnh pháp, đức Phật đã nói riêng cho Ngài Di Mẫu hay, và Ngài cúi đầu thọ lãnh giới pháp ấy, giống như người đã quen thuộc với việc được trang sức cúi đầu nhận vòng hoa thơm. Tất cả các vị trong nhóm của Ngài cũng làm y như vậy. Thầy Tế độ và Thân giáo sư của Ngài không ai khác hơn là chính đức Thế Tôn. Ngài đã được gia nhập Tăng đoàn của Phật.

Về sau, một số Tỳ kheo ni trong nhóm Ngài lại bàn tán về việc Ngài được thọ giới:

Bà Ma ha Ba Xà Ba Đề không có Thầy Tế độ, không có Thân giáo sư. Bà tự tay lãnh thọ y vàng một mình.

Nghe thế, các Tỳ kheo ni khác bất mãn không chịu làm lễ Bố tát và lễ Tự tứ với bà. Họ đến bạch Phật câu chuyện, Ngài dạy:

- Chính ta trao Bát kỉnh pháp cho bà, ta là Thầy Tế độ, là Giáo sư của bà. Kẻ đã từ bỏ được những lỗi lầm cả về thân, miệng, ý, đã thoát mọi tham dục, với nhũng người như thế không nên nuôi dưỡng tư tưởng bất mãn.

Ngài nói kệ:

(391) Với người thân, miệng, ý,

Không làm các ác hạnh,

Ba nghiệp được phòng hộ,

Ta gọi Bà la môn.

9. Tôn Kính Người Ðáng Tôn Kính

Từ ai, biết chánh pháp...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Xá Lợi Phất.

Tôn giả Xá Lợi Phất được nghe bài kệ Phật pháp đầu tiên từ Tôn giả Ác Bệ, và từ ngày chứng quả Tu đà hoàn, Tôn giả khi nghe Ngài Ác Bệ nơi nào, luôn luôn hướng về phía ấy chấp tay cung kính, và luôn nằm xây đầu về hướng ấy. Các Thầy Tỳ kheo bàn tán:

- Tôn giả Xá Lợi Phất theo tà đạo, mỗi ngày đều lễ tứ phương.

Và họ đến bạch Phật. Phật gọi Tôn giả đến hỏi:

- Này Xá Lợi Phất, họ báo cáo ông kính lễ tứ phương, có đúng không?

- Bạch Thế Tôn! Ngài biết con, Ngài biết rằng con có hay không có kính lễ phương hướng.

Ðức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo:

- Xá Lợi Phất không hề kính lễ phương hướng. Chỉ vì kính lễ Tôn giả Ác Bệ, người đầu tiên mà Xá Lợi Phất được nghe pháp nên mới làm thế. Một vị Sa môn kính trọng người dạy pháp như người Bà la môn kính thờ lửa thiêng.

Ngài nói kệ:

(392) Từ ai, biết chánh pháp,

Bậc Chánh giác thuyết giảng,

Hãy kính lễ vị ấy,

Như Phạm chí thờ lửa.

10. Thế Nào Là Bà la môn?

Không vì đầu bện tóc...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến một người Bà la môn bện tóc.

Chuyện kể rằng, một ông Bà la môn chợt nghĩ: "Ta thuộc dòng dõi Bà la môn thuần túy. Sa môn Cồ Đàm thường gọi đệ tử Bà la môn. Ta cũng đáng được gọi như thế?”

Nghĩ rồi, y bèn đến chỗ Phật và nói lên vấn đề ấy. Ðức Phật bảo:

- Này Bà la môn, ta không gọi ai là Bà la môn chỉ vì người ấy đầu bện tóc, chỉ vì dòng dõi, huyết thống. Ta chỉ gọi người đã thâm nhập chân lý là Bà la môn.

Ngài nói kệ:

(393) Ðược gọi Bà la môn,

Không vì đầu bện tóc,

Không chủng tộc, thọ sanh,

Ai thật chân, chánh, tịnh,

Mới gọi Bà la môn.

11. Người Bà La Môn Gian Xảo

Kẻ ngu có ích gì...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Pháp đường, liên quan đến người Bà la môn gian xảo, treo ngược mình lên cây như dơi.

Tại thành Tỳ Xá Ly, có một Bà la môn muốn cầu lợi dưỡng, y bèn leo lên cây xoài gần cổng thành, móc hai chân vào cành, lộn đầu xuống đất, la lên:

- Hãy đem cho ta một trăm đồng vàng! Hãy cho ta xu bạc! Cho ta một người tớ gái! Nếu các người không cho những điều ta yêu cầu, ta sẽ buông chân ra, chết tại đây và trở thành ác thần phá hoại thành này.

Lúc ấy, đức Phật cùng chư tăng vào thành khất thực. Các Thầy Tỳ kheo trông thấy người Bà la môn treo ngược người lên cành cây, và khi rời thành, các Thầy thấy y còn treo trên cây. Dân cư trong thành thầm nghĩ: "Ông nội này đã treo ngược từ sáng tới giờ, nếu để ổng chết chắc chắn chúng ta không thể sống yên ở thành này.” Và lo sợ cho thành Tỳ Xá Ly xinh đẹp, họ đem chất dưới gốc xoài những thứ y yêu cầu. Người Bà la môn leo xuống, thu chiến lợi phẩm và ra đi.

Các Thầy Tỳ kheo lại thấy người Bà la môn gian xảo kia đi lang thang gần Tinh xá đang rống lên như một con bò. Các Thầy nhận ra y ngay, bèn hỏi:

- Này bạn, có phải bạn đã đạt được những gì yêu cầu?

- Phải.

Các vị đến bạch đức Phật. Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, đây không phải là lần đầu tiên người ấy gian xảo như một tên bợm. Thời quá khứ y cũng như vậy. Nhưng trong kiếp này y lừa gạt được những kẻ chất phác kia, còn kiếp trước, y chẳng đánh lừa được người khôn ngoan.

Rồi Ngài kể chuyện:

Chuyện quá khứ:

A. Nhà Ẩn Tu Giả Dối Và Kỳ Ðà Chúa

Ngày xưa, có một nhà ẩn tu ở gần một làng sống về nghề nông, và ông ta là một tên đạo đức giả. Lúc ấy, có một gia đình thường hay cúng dường thức ăn cho ông ta, dù ngày hay đêm họ đều chia sớt phần ăn cho nhà ẩn tu như họ đã chia cho con cái họ. Một chiều nọ, họ nướng thịt kỳ đà và để dành một phần cho nhà ẩn tu. Thầy tu nọ ngửi mùi thịt thơm phức bèn hỏi:

- Thịt gì đấy?

- Thịt kỳ đà.

Hôm sau, Thầy khất thực được một mớ bơ, sữa đông và tiêu đem về cất trong lều cỏ. Gần lều Thầy, có một cái đồi, một con kỳ đà chúa ở đấy. Nó thường viếng Thầy và rất kính trọng Thầy. Nhưng hôm ấy Thầy muốn giết con kỳ đà nọ, bèn giấu một cây gậy trong áo, đến gần đồi cát và giả vờ ngủ. Khi con kỳ đà rời hang, đến gần chỗ Thầy, thấy vẻ nằm đặc biệt khác thường, nó nghĩ thầm: "Hôm nay Sư phụ có vẻ làm sao ấy, ta không thích", và nó quay đầu bò trở về lại. Thầy tu thấy kỳ đà bò lui bèn ném cây gậy theo định giết, nhưng cây gậy rơi không trúng. Con kỳ đà lật đật nhảy vào hang, ngóc đầu ra nói:

- Tưởng Thầy tu chân thật,

Muốn gần, tôi đến nhanh,

Gậy cầm, Thầy toan giết,

Lộ chân tướng giả danh.

Kẻ ngu có ích gì,

Bện tóc với da dê,

Nội tâm toàn phiền não,

Ngoài mặt đánh bóng suông.

Nhà tu còn muốn dùng các thứ vật thực để dụ kỳ đà:

- Kỳ đà, mau quay lại!

Ðến nếm món cháo này.

Muối, tiêu, dầu ta có,

Muốn gì sẽ được ngay.

Kỳ đà đáp:

- Càng nghe Thầy nói, tôi càng muốn chạy xa.

Và kỳ đà nói kệ:

Thật đúng khi tôi chọn,

Chỗ ẩn tít trên đồi,

Thầy cho dầu, tiêu, muối,

Với tôi, chúng ích gì!

Rồi nó nói tiếp:

- Rất tiếc khi trước tôi lầm tưởng Thầy là nhà ẩn tu, nhưng khi Thầy cầm gậy giết tôi, lớp áo đạo đức đã rơi xuống. Hỡi người vô tri, có ích gì khi thắt tóc bím. Có ích gì khi mặc áo da dê mà đầy những móng vuốt? Bên trong là dục vọng, bên ngoài lại điểm tô.

Ðức Phật kết luận:

- Nhà ẩn tu ấy là người Bà la môn hiện nay, còn kỳ đà chúa là Ta.

Ngài nói kệ:

(394) Kẻ ngu có ích gì,

Bện tóc với da dê,

Nội tâm toàn phiền não,

Ngoài mặt đánh bóng suông.


12. Bà Kisa Gotami, Vị Tỳ Kheo Ni Tu Hạnh Ðầu Ðà

Người mặc áo đống rác...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ngụ tại núi Linh Thứu, liên quan đến Tỳ kheo ni Kisa Gotami.

Vào buổi đầu hôm, trời Ðế Thích cùng chư Thiên đến vây quanh đức Phật nghe pháp. Họ kính cẩn ngồi một bên để lắng nghe những lời dạy từ hòa của đức Thế Tôn. Lúc ấy, Ðại Ðức Tỳ kheo ni Kisa Gotami chợt nghĩ: "Ta sẽ đến viếng đức Thế Tôn.” Bà bay lên không trung, đến chỗ Phật, nhưng thấy trời Ðế Thích bèn quay lui. Ðế Thích thấy vậy hỏi Phật:

- Bạch Thế Tôn, ai mới đến vừa thấy Ngài liền trở ra?

Ðức Phật bảo:

- Ðại vương, đó là đệ tử ta, Tỳ kheo ni Kisa Gotami, người có hạnh Ðầu đà bậc nhất.

Ngài nói kệ:

(395) Người mặc áo đống rác

Gầy ốm, lộ mạch gân,

Ðộc thân Thiền trong rừng,

Ta gọi Bà la môn.

13. Thế Nào Là Bà La Môn?

Ta không gọi Phạm Chí...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến một người Bà la môn.

Một người Bà la môn thầm nghĩ: "Sa môn Cồ Đàm thường gọi các đệ tử là Bà la môn. Ta sanh trưởng trong dòng Bà la môn, vậy ông ấy phải gọi ta danh hiệu Bà la môn.” Nghĩ thế, ông đến yêu cầu Phật điều ấy. Phật nói:

- Ta không gọi ai là Bà la môn chỉ vì họ sanh ra từ một người mẹ dòng Bà la môn. Người nào không sở hữu những của cải thế gian, không chạy theo những thứ thế tục, chỉ người ấy ta gọi Bà la môn.

Ngài nói kệ:

(396) Ta không gọi Phạm Chí,

Vì chỗ sanh, mẹ sanh,

Chỉ được gọi tên suông,

Nếu tâm còn phiền não,

Không phiền não chấp trước,

Ta gọi Bà la môn.

14. Diễn Viên Xiếc Uggasena

Ðoạn hết các kiết sử...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Trúc Lâm, liên quan đến Uggasena. Chuyện này đã được kể đầy đủ chi tiết trong phần chú giải bài kệ bắt đầu bằng câu: "Bỏ quá, hiện, vi lai.”

Lúc ấy, các Thầy Tỳ kheo bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, Uggasena nói: "Tôi không sợ", chắc chắn Thầy ấy đã nói dối.

Ðức Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, giống như con ta, kẻ nào đã dứt trừ mọi ràng buộc, kẻ ấy chẳng còn sợ hãi.

Ngài nói kệ:

(397) Ðoạn hết các kiết sử,

Không còn gì lo sợ,

Không đắm trước buộc ràng,

Ta gọi Bà la môn.

15. Tranh Cãi Về Sức Kéo

Bỏ đai da, bỏ cương...

Ðức Thế Tôn, dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến hai người Bà la môn.

Hai người Bà la môn nọ có hai con bò, một tên Tiểu Hồng (Culla Rohita), và một tên Ðại Hồng (Mahà Rohita). Một hôm, hai ông Bà la môn bàn cãi, so sánh hai con bò của nhau, ai cũng nói "Bò tôi mới là số dzách!”

Cãi lộn hết hơi rồi, họ nghĩ ra cách thử sức kéo của bò. Lập tức họ đánh xe bò ra bờ sông Aciravati, thi nhau chất lên xe bò mình nào cát, đá thật đầy và bắt bò kéo. Nhưng mặc cho họ thúc giục, chiếc xe vẫn không nhúc nhích và thình lình dây thừng đều bị đứt. Các vị Tỳ kheo lúc ấy ra sông tắm, thấy vậy về bạch Phật. Ngài dạy:

- Này các Tỳ kheo, đó là những dây bên ngoài, có thể cắt đứt. Nhưng một vị Sa môn phải cắt đứt những sợi dây giận dữ và tham dục ở nội tâm.

Ngài nói kệ:

(398) Bỏ đai da, bỏ cương,

Bỏ dây, đồ sở thuộc,

Bỏ then chốt, sáng suốt,

Ta gọi Bà la môn.

16. Ðức Thế Tôn Chế Ngự Kẻ Sân Giận

Không ác ý, nhẫn nhục...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này trong khi Ngài đang trù tại Trúc Lâm, liên quan đến Akkosa Bhàradvàja.

Khi Phật ở tại Trúc Lâm, có một tín nữ Bà la môn đã chứng quả Tu đà hoàn, mỗi khi bà hắt hơi, ho, hoặc trợt té, đều buột miệng:

- Nam mô Phật Ðà! Như Lai Tối tôn, Vô thượng giác!

Chồng bà là một Bà la môn quạu quọ, không tin Phật, và rất bực mình khi nghe vợ mình cứ xưng tụng đức Phật. Ngày kia, trong khi dọn cơm cho các vị Bà la môn, bà trợt chân và cũng buộc miệng niệm danh hiệu Phật rất lớn. Ông Bà la môn nổi giận, nghĩ thầm: "Thiệt là hết chịu nổi. Mụ vợ ngốc của ta mỗi lần trợt té cứ lải nhải tôn xưng ông Sa môn đầu trọc như là thói quen si ám.”

Ông bảo bà:

- Này, tôi cho bà biết, tôi sẽ đánh bại ông Thầy bà bằng một cuộc tranh luận ngay bây giờ.

- Ông cứ tự tiện, tôi chưa thấy ai có thể thắng đức Thế Tôn cả. Ông cứ đi và hỏi Ngài một câu.

Ông Bà la môn đến chỗ Phật, không cần chào, đứng một bên và hỏi Ngài:

Muốn được sống an tịnh,

Phải dẹp bỏ thứ gì,

Ðể không còn ưu bi?

Ðiều gì nên trừ khử?

Xin nói cho nghe thử!

Ông giảng dạy cách nào,

Ðể người nghe được mau,

Thực hiện việc trừ khử?

Ðức Phật đáp:

Sân hận khi không còn,

Sẽ được sống an tịnh,

Sân hận được trừ khử,

Ưu sầu không theo mình.

Gốc rễ sân độc địa,

Ngọn nhánh lại ngọt ngào,

Người trí luôn ca ngợi,

Người dẹp được sân hờn,

Bởi sân khi diệt sạch,

Ưu bi sẽ chẳng còn.

Người Bà la môn nghe Phật nói, tin nhận bèn xuất gia và đắc A la hán. Em trai ông nghe tin ông đã xuất gia theo Phật bèn giận dữ đến mắng chửi Phật. Nhưng đức Phật cũng chinh phục người này bằng thí dụ "vật thực cho khách", rồi y cũng xuất gia theo Phật chứng A la hán. Hai người em út hết, cũng như hai anh, đến rầy rà đức Phật, rốt cuộc cũng bị chinh phục, xuất gia và chứng quả A la hán.

Ngày đó, các Tỳ kheo bàn tán ở Pháp đường:

- Thật là kỳ diệu thay, hạnh nhẫn nhục của chư Phật. Cả bốn anh em đến mắng chửa đức Thế Tôn mà Ngài không đáp lời nào, còn khiến họ quy y.

Lúc ấy, đức Phật đến gần hỏi:

- Các ông tụ họp ở đây bàn tán chuyện gì?

Các Thầy bạch Phật. Ngài giải thích:

- Này các Tỳ kheo, vì Ta có sức từ nhẫn, vì ta là người không gây tội giữa thế gian đầy lỗi lầm, nên Ta là nơi nương tựa chân thật cho chúng sanh.

Ngài nói kệ:

(399) Không ác ý, nhẫn chịu,

Phỉ báng, đánh, phạt hình,

Lấy nhẫn làm quân lực,

Ta gọi Bà la môn.

17. Tôn giả Xá Lợi Phất Bị Mẹ Mắng.

Không hận, hết bổn phận...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Trúc Lâm, liên quan đến Tôn giả Xá Lợi Phất.

Khi Phật ở tại Tinh xá Trúc Lâm, một hôm Ngài Xá Lợi Phất dẫn năm trăm vị Tỳ kheo đi khất thực và đến trước nhà bà mẹ Ngài trong làng Nàlaka. Bà mẹ mời chư Tăng vào nhà, chuẩn bị chỗ ngồi và trong khi dọn thức ăn cho Tôn giả, bà mắng Ngài:

- Hừm! Ðồ ăn mày! Mi lang thang từ nhà này sang nhà nọ để xin cơm thừa canh cặn không được, phải liếm láp cháo dính trên vá, trên muỗng! Vậy mà mi cũng từ bỏ gia tài ức triệu để làm Thầy tu. Thiệt nhục nhã cho mẹ mi! Ăn đi!

Và khi dọn thức ăn cho các Thầy Tỳ kheo, bà cũng rủa:

- Mấy người đã rũ rê con ta để làm đầy tớ cho mấy người đây hả? Ăn đi!

Tôn giả Xá Lợi Phất không nói một tiếng, nhận thức ăn, và đi về Tinh xá. Khi Ngài La Hầu La đem cơm dâng Phật, đức Thế Tôn hỏi:

- Này La Hầu La! Hôm nay ngươi đi tới đâu?

- Dạ, đến nhà của bà cô con, bạch Thế Tôn!

Bà ấy có nói gì với Thầy ngươi không?

- Bạch Thế Tôn, bà ấy mắng chửi dữ dội.

Bà ấy nói những gì?

La Hầu La kể lại cho đức Phật nghe câu chuyện, và Ngài hỏi:

- Rồi Thầy ngươi trả lời ra sao?

- Bạch Thế Tôn, Tôn giả chẳng trả lời gì hết.

Các vị Tỳ kheo nghe chuyện, bàn tán với nhau:

- Này chư huynh! Cao quý thay đức nhẫn của Tôn giả Xá Lợi Phất! Dù cho mẹ Ngài mắng chửi như thế đó, Ngài chẳng hề giận một chút nào.

Ðức Thế Tôn nghe thế bèn dạy:

- Này các Tỳ kheo, người nào thanh trừ được mọi dục vọng xấu, người ấy không còn sân giận.

Ngài nói kệ:

(400) Không hận, hết bổn phận,

Trì giới, không tham ái,

Nhiếp phục, thân cuối cùng,

Ta gọi Bà la môn.

18. A La Hán Có Phàm Thân Hay Không?

Như nước trên lá sen...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tỳ kheo ni Uppalavannà. Chuyện được kể đủ chi tiết trong phần chú giải bài kệ bắt đầu bằng câu: "Người ngu nghĩ là ngọt, khi ác chưa chín mùi.” Truyện kể tiếp rằng:

Sau đó ít lâu các Tỳ kheo bàn tán ở Pháp đường: "Chắc các vị đã trừ hết lậu hoặc vẫn còn phải thỏa mãn nhục dục. Tại sao không? Họ đâu phải cây lá hay đất cục mà cũng mang thân người với máu thịt, do đó thế nào cũng còn ưa khoái lạc.”

Ðức Thế Tôn nghe chuyện bèn giải thích:

- Này các Tỳ kheo, không bao giờ người đã thanh trừ ái dục lại yêu thích khoái lạc hay thỏa mãn nhục dục. Như một giọt nước rơi trên lá sen không bao giờ dính lại, nó lăn tròn và rơi xuống, như hạt cải không bao giờ dính trên đầu cây kim, cũng như tình ái không bao giờ ràng buộc hay còn vương vấn nơi những vị đã tận trừ ái nhiễm.

Ngài nói kệ:

(401) Như nước trên lá sen,

Như hạt cải đầu kim,

Người không nhiễm ái dục,

Ta gọi Bà la môn.

19. Người Nô Lệ Trút Gánh Nặng

Ai tự trên đời này...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến một người Bà la môn.

Khi chưa có điều luật không cho phép nhận nô lệ trốn chủ vào Tăng đoàn, một hôm người nô lệ của một Bà la môn đến xin xuất gia. Y được nhận vào Tăng đoàn và chẳng bao lâu chứng A la hán. Người Bà la môn tìm khắp nơi nhưng không gặp. Một hôm đức Phật dẫn vị A la hán ấy vào thành khất thực, người Bà la môn trông thấy ở cổng thành bèn níu y của Tôn giả nọ. Ðức Phật quay lại hỏi:

- Này Bà la môn, chuyện gì vậy?

- Thưa Ngài Cồ Đàm, đây là kẻ tôi tớ của tôi.

- Này Bà la môn, gánh nặng đã rời khỏi y.

Nghe đức Phật nói, người Bà la môn lập tức hiểu rằng người ấy đã chứng A la hán. Ông hỏi lại:

- Có thật không, thưa Cồ Đàm?

Ðức Phật xác nhận:

- Thật vậy, gánh nặng của người ấy đã buông xuống rồi.

Ngài nói kệ:

(402) Ai tự trên đời này,

Giác khổ, diệt trừ khổ,

Bỏ gánh nặng, giải thoát,

Ta gọi Bà la môn.

20. Khamà Trí Tuệ.

Người Trí tuệ sâu xa...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại núi Linh Thứu, liên quan đến Tỳ kheo ni Khemà.

Ngày nọ, lúc đầu hôm, vua trời Ðế Thích dẫn chư thiên đến nghe Phật thuyết pháp, lúc ấy Tỳ kheo ni Khemà cũng khởi nghĩ: "Ta sẽ đến thăm đức Thế Tôn.”

Bà bay đến chỗ Phật, gặp Ðế Thích và chư thiên, bèn đảnh lễ Phật rồi lui ra, Ðế Thích hỏi Phật:

- Ai vậy, thưa Thế Tôn?

- Này Ðại vương, đó là Tỳ kheo ni Khemà, Trí tuệ đệ nhất, biết rõ đâu là đạo và đâu không phải là đạo.

Ngài nói kệ:

(403) Người Trí tuệ sâu xa,

Khéo biết đạo, phi đạo,

Chứng đạt đích Vô thượng,

Ta gọi Bà la môn.

21. Vị Sa Môn Và Thiên Thần

Không liên hệ cả hai...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Tissa Pabbhàravàsì.

Ðại đức Tissa Pabbhàravàsì khi nhận đề mục Thiền quán từ đức Phật, bèn vào rừng cư trú. Ðại đức tìm được một cái hang kín đáo thích hợp. Khi vừa đến hang, Ngài thấy lòng an tịnh, bèn nghĩ thầm: "Nếu ở đây, ta sẽ đạt được mục tiêu tối thượng, làm xong bổn phận của Sa môn.” Khi ấy vị thần ở hang cũng nghĩ: "Một vị Sa môn đạo hạnh đã đến ở đây, thiệt là khó xử cho ta khi ở chung với người. Có lẽ Ngài chỉ trú đêm, rồi đi nơi khác.” Thần bèn dắt con cái rời hang.

Ngày sau, Tôn giả vào làng khất thực. Một nữ thí chủ trông thấy Ngài đem lòng kính ngưỡng bèn mời vào nhà cúng dường, và phát nguyện sẽ cúng dường đầy đủ những món cần thiết trong ba tháng an cư. Tôn giả nghĩ rằng: "Nhờ Phật tử này ta sẽ đạt được sở nguyện", bèn nhận lời thỉnh. Rồi Ngài trở về động cũ. Trông thấy Ngài về tới, thần hang nghĩ: "Chắc có ai mời Ngài. Ngày mai hay mốt Ngài sẽ đi.” Như thế nửa tháng trôi qua, vị thần thất vọng: "Chắc chắn Tôn giả sẽ ở đây suốt mùa mưa. Thiệt khó cho khi ở chung với vị Sa môn đạo hạnh, mà cũng không thể mời Ngài đi nơi khác. Ta có thể tìm lỗi của Ngài không?" Nữ thần dùng thiên nhãn quan sát cuộc đời của vị Sa môn từ khi xuất gia đến lúc vào rừng, chẳng thấy có tỳ vết. "Ðức hạnh của vị này hoàn toàn tinh khiết. Ta sẽ tìm cách kiếm chuyện và có thể nói lỗi Ngài được.”

Nữ thần đến nhà thí chủ của Tôn giả, nhập vào đứa bé trai nhỏ nhất, và bẻ cổ nó, đứa bé tự dưng trợn mắt và sùi bọt mép. Người mẹ hoảng sợ kêu lên:

- Sao con tôi như thế này?

Nữ thần nói với bà:

- Ta đã bắt con ngươi, nhưng không làm hại gì. Ngươi chỉ cần xin vị Tỳ kheo hằng đến đây khất thực một ít cây thuốc cho con ngươi uống, ta sẽ buông tha.

- Thà con tôi chết, tôi không bao giờ xin Ngài điều ấy.

- Nếu không xin, ngươi hãy yêu cầu Tôn giả đặt thuốc vào mũi con ngươi.

- Tôi cũng không thể làm như vậy.

- Thôi được, hãy rửa chân Tôn giả, và lấy nước rảy lên đầu con ngươi.

Khi Tôn giả đến như thường lệ, bà dọn thức ăn ra cho Ngài và bưng một thau nước đến cho Tôn giả rửa chân. Bà xin Tôn giả nước rửa ấy rảy lên đầu con trai, Tôn giả bằng lòng và đứa bé được buông tha.

Vị thần đứng chờ ở cửa hang. Thọ trai xong, Tôn giả đứng lên và vẫn không rời đề mục Thiền quán, Ngài từ giã nữ thí chủ trở về hang, vừa đi vừa thầm ôn ba mươi hai thứ cấu tạo nên thân. Tôn giả mới đến cửa hang, nữ thần đã nói:

- Xin chào Thầy lang mát tay. Ngài chớ vào đây nữa.

Tôn giả liền dừng lại hỏi:

- Ngươi là ai?

- Tôi là vị thần trú ở đây.

Tôn giả thầm nghĩ: "Ta có từng bao giờ làm Thầy thuốc không?" Ngài quán sát suốt cuộc đời mình từ lúc xuất gia vào Tăng đoàn, thấy chẳng có một tỳ vết gì hoen ố, bèn bảo nữ thần:

- Ta chẳng bao giờ làm Thầy thuốc cả. Tại sao ngươi nói vậy?

- Chẳng bao giờ ư?

- Ðúng thế, chẳng bao giờ.

- Tôi sẽ cho Thầy hay.

- Vâng, xin cứ nói.

- Thầy hãy nhớ lại xem. Ngày hôm nay thôi, Thầy có rảy nước rửa chân lên đầu con bà thí chủ đang hộ trợ Thầy, bị ma bắt không?

- Có, ta có rảy nước như thế.

- Thầy không thấy là đã làm Thầy lang ư?

- Vậy ra ngươi nói ta làm Thầy thuốc là việc ấy?

- Ðúng thế.

Tôn giả tự nghĩ: "Quả thực ta đã có quyết tâm đúng đắn. Ta đã thực sự giữ được giới hạnh tương ứng. Ngay cả vị thần này cũng không tìm được tỳ vết nơi đức hạnh ta, do ta nghiêm trì bốn giới thanh tịnh. Bà chỉ tìm được chuyện ta rảy nước rửa chân lên đầu một cậu bé.”

Với ý nghĩ đã giữ được đạo hạnh trọn vẹn thanh tịnh, Tôn giả cảm thấy vô cùng hoan hỉ. Rồi Tôn giả chế ngự cảm xúc ấy và chẳng rời đi một bước, Ngài đắc quả A la hán.

Ngài dạy nữ thần:

- Ngươi đã vô cớ xúc phạm ta là một Tỳ kheo phạm hạnh thanh tịnh. Hãy đi đi, đừng ở đây nữa.

Ngài nghiêm nghị nói kệ:

Cuộc sống ta trong sạch,

Phạm hạnh không vết tỳ.

Thanh tịnh tăng chớ mắng,

Mau ra khỏi rừng đi.

Tôn giả ở lại hang đến hết mùa an cư rồi trở về chỗ Phật. Các Thầy Tỳ kheo hỏi:

- Này huynh, huynh đã đạt được mục đích tối thượng, làm tròn bổn phận một Sa môn chưa?

Tôn giả kể kinh nghiệm vừa qua cho các Thầy nghe, bắt đầu từ lúc đến hang ở. Các Thầy hỏi:

- Này huynh, khi nữ thần kia nói huynh như thế huynh có nổi giận không?

- Không, tôi không giận.

Các Thầy Tỳ kheo đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, Thầy Tỳ kheo này nói dối. Thầy nói khi nữ thần bảo Thầy nọ kia, Thầy không giận.

Ðức Thế Tôn lắng nghe họ kể hết chuyện. Ngài dạy:

- Này các Tỳ kheo, con ta không sân giận. Thầy ấy chẳng chuyện trò với Cư sĩ hoặc Tu sĩ, sống đời độc cư, thiểu dục và tri túc.

Ngài nói kệ:

(404) Không liên hệ cả hai,

Xuất gia và thế tục,

Sống độc thân, ít dục,

Ta gọi Bà la môn.

22. Vị Sa Môn Và Người Ðàn Bà

Bỏ trượng, đối chúng sanh...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến một Thầy Tỳ kheo.

Một Thầy Tỳ kheo nọ sau khi nhận đề mục Thiền quán liền lui vào rừng sâu, chuyên chú hành Thiền và đắc quả A la hán. Thầy tự nghĩ: "Ta sẽ đến trình lên đức Thế Tôn niềm an lạc vô biên vừa đạt được này.” Và Thầy rời khu rừng, lên đường trở về. Lúc ấy, tại một xóm làng Thầy vừa đi ngang, có người đàn bà cãi nhau với chồng. Khi ông chồng đi khỏi nhà, cô nghĩ: "Ta sẽ về nhà ta.” Cô liền ra đi trên đường, thấy vị Sa môn, cô lại nghĩ: "Ta nên đi gần Tôn giả này", rồi cô đi theo Thầy Tỳ kheo bén gót. Tôn giả chẳng hề nhìn ngó gì đến cô cả.

Ông chồng trở về nhà không thấy cô vợ đâu thì biết ngay: "Chắc cô ả về nhà mẹ", ông liền đi kiếm. Khi trông thấy cô, ông nghĩ: "Cô này không thể nào đi qua rừng một mình được đâu. Cô ả đi với ai?" Bỗng ông thấy vị Sa môn: "Chắc Thầy này dẫn cô ả đi rồi đây.” Ông bèn tiến đến đe dọa Thầy Tỳ kheo, cô vợ kêu lên:

- Vị Sa môn đức hạnh này chẳng hề nhìn ngó hay hỏi han tôi tiếng nào. Xin đừng xúc phạm Thầy.

- Bộ bà muốn nói bà bỏ đi kiểu này đây hả? Ta sẽ cho hắn một trận xứng đáng với tội của riêng bà thôi đấy.

Trong cơn tức giận vì căm ghét người đàn bà, ông đánh Thầy Tỳ kheo nhừ tử rồi dẫn cô vợ về.

Thân thể vị Sa môn đầy những lằn roi khi Thầy về tu viện, các Thầy khác chà xát người cho Thầy để ý thấy các vết roi bèn hỏi. Thầy kể lại đầu đuôi câu chuyện. Các Thầy nói:

- Nhưng này huynh, khi ông kia đánh huynh như vậy, huynh có nói gì không? Huynh có nổi xung không?

- Không, thưa chư huynh. Tôi không giận.

Các Thầy bạch lên đức Phật câu chuyện và thưa:

- Bạch Thế Tôn, chúng con hỏi Thầy Tỳ kheo có giận không, Thầy ấy nói chẳng giận. Thầy ấy nói dối.

Ðức Thế Tông lắng nghe chuyện họ kể và dạy:

- Này các Tỳ kheo, kẻ nào đã trừ được lậu hoặc liền bỏ hết roi gậy. Dù ai đánh họ, họ cũng không sân giận lại.

Ngài nói kệ:

(405) Bỏ trượng, đối chúng sanh.

Yếu kém hay kiên cường,

Không giết, không bảo giết,

Ta gọi Bà la môn.

23. Bốn Vị Sa Di

Thân thiện giữa thù địch...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến bốn vị Sa di.

Bà vợ của người Bà la môn nọ sửa soạn một bữa ăn cho bốn vị Sa môn được đặc biệt chọn mời. Bà bảo ông chồng:

- Ông hãy đến Tinh xá và bảo họ chọn cho bốn vị Bà la môn lão thành, rồi rước về nhé!

Ông Bà la môn đến Tinh xá, thưa:

- Xin chọn cho bốn vị Bà la môn và đưa họ ra gặp tôi.

Những vị được chọn rơi nhằm bốn chú Sa di mới lên bảy tuổi nhưng đã đắc quả A la hán, gồm các Tôn giả Samkicca, Pandita, Sopàka và Revata. Bà vợ người Bà la môn chuẩn bị các chỗ ngồi rất lộng lẫy, sang trọng và đứng chờ. Vừa thấy bóng các Sa di, bà đã giận sôi lên, nổ một tràng dài nghe như muối kêu trên lò lửa:

- Ông đến Tinh xá mà đưa về bốn đứa trẻ nít chẳng lớn bằng cháu chắt ông.

Bà không chịu mời các chú ngồi lên chỗ đã soạn sẳn, lại trải chỗ ngồi khác thấp hơn và kêu họ:

- Ngồi đây này!

Xong bà bảo ông chồng:

- Ông ơi, ông đi mời vài vị Sa môn lão thành về đây.

Ông Bà la môn đến Tinh xá, gặp Tôn giả Xá Lợi Phất, thưa:

- Xin mời Ngài về nhà tôi.

Ông đưa Tôn giả về nhà. Thấy các vị Sa di ngồi đó, Tôn giả hỏi:

- Các Sa môn này đã thọ trai chưa?

- Dạ, chưa.

Khi biết chủ nhà chỉ nấu bốn phần ăn, Tôn giả nói:

- Xin mang trả bát cho tôi.

Rồi Tôn giả ôm bát, rồi nhà ông Bà la môn. Bà vợ hỏi:

- Thầy ấy nói gì thế?

- Thầy nói:"Các vị Sa môn ngồi đây đáng được thọ nhận vật thực. Xin trả bát cho tôi.” Nói xong Thầy ấy cầm bát và đi về.

Bà vợ bảo:

- Chắc ổng không muốn ăn, thôi ông đi mau lên, kiếm một vị Sa môn khác đưa về đây.

Ông Bà la môn trở lại Tinh xá lần nữa, và gặp Tôn giả Mục Kiền Liên, cũng thưa như trước và dẫn Tôn giả về nhà. Ngài Ðại Mục Kiền Liên thấy các chú Sa di, cũng hỏi y như Tôn giả Xá Lợi Phất và cầm bát đi thẳng. Bà vợ nói:

- Các Tôn giả này không muốn thọ trai. Ông hãy đến Tinh xá lần nữa đi, và chỉ mời vị Sa môn lão thành thôi.

Bấy giời các Sa di từ sáng sớm chưa có hột cơm nào vào bụng. ngồi đói run rẩy. Do sức mạnh của phước đức họ, ngai trời Ðế Thích nóng lên. Ngài tìm hiểu nguyên nhân, thấy nhóm Sa di ngồi từ sáng đang đói lả người đến kiệt sức, liền nghĩ: "Ta có nhiệm vụ phải đến đấy.” Ngài cải trang thành một Sa môn già lọm khọm, đến Tinh xá và ngồi vào chỗ dễ thấy nhất giữa các vị Sa môn. Ông Bà la môn trông thấy Ðế Thích, nghĩ: "Mụ vợ ta hẳn sẽ hài lòng.” Ông mời Ðế Thích về nhà. Bà vợ vừa trông thấy Ðế Thích liền tươi cười hớn hở, lấy thảm và chiếu đôi phủ lên một chỗ ngồi, mời chào rối rít:

- Kính bạch Ðại đức tôi quí, xin mời Ngài an tọa.

Ðế Thích vào nhà liền đến đảnh lễ bốn vị Sa di, năm vóc gieo sát đất, rồi Ngài kiếm chỗ ngồi kiết già dưới đất gần mé bộ ván thấp nơi các chú đang ngồi.

Bà vợ ông Bà la môn thấy thế, nói:

- Ðúng là ông rước về nhà một vị Sa môn thiệt đó. Ông đưa về vị này lớn bằng cha ông mà Thầy ấy lại đi chào các chú Sa di tuổi bằng cháu chắt ổng. Ta đâu cần người như ổng. Ðuổi ổng ra đi!

Ông Bà la môn nắm vai Ðế Thích, rồi kéo tay, đẩy lưng,ráng sức lôi Ngài ra ngoài, nhưng Ðế Thích ngồi không nhúc nhích. Bà vợ bảo:

- Ông nắm một tay, tôi sẽ nắm tay kia.

Hai ông bà nắm cả hay tay Ðế Thích, hì hục đẩy sau lưng, ráng lôi được Ngài ra khỏi cửa. Nhưng Ðế Thích hóa phép ngồi yên chỗ cũ, hai tay vẫy lia lịa chào họ.

Hai ông bà trở vào thấy Ngài ngồi y đó thì sợ hãi, ré lên khủng khiếp và đề Ngài tự do. Bấy giờ Ðế Thích cho biết Ngài là ai. Hai ông bà liền mời khách thọ trai. Xong xuôi, năm vị khách từ giã. Một vị Sa di bay xuyên qua nóc nhà. Vị thứ hai xuyên qua mái trước, vị thứ ba tung mái sau, vị thứ bốn chui xuống đất, còn Ðế Thích thì ra bằng một ngõ khác nữa. Cứ thế, năm vị mỗi vị rời ngôi nhà kia một kiểu. Từ đó ngôi nhà được biết đến với tên "Nhà có năm cửa.

Các vị Sa di về Tinh xá, các Thầy Tỳ kheo hỏi:

- Sao? Chư huynh đi thọ trai thế nào?

- Thôi, xin chư huynh chớ hỏi nữa! Vợ ông Bà la môn vừa thấy chúng đệ đã nổi giận đùng đùng. Bà không cho chúng đệ ngồi vào chỗ dọn sẳn, mà bảo ông chồng: "Ông mau mau đi rước cho một vị Sa môn lão thành.” Thầy tế độ của chúng đệ đến, thấy chúng đệ đó liền nói: "Các vị Sa môn đang ngồi đây cần được cúng dường cơm.” Nói xong, Tôn giả yêu cầu trả bát rồi đi. Bà vợ lại nói: "Ông làm ơn đi rước cho một vị Sa môn lão thành khác.” Ông chồng đưa Tôn giả Mục Kiền Liên về nhà. Khi thấy chúng đệ, Tôn giả lại nói y như Tôn giả Xá Lợi Phất và đi luôn. Bà vợ bảo chồng: "Các vị Tôn giả này không muốn thọ trai. Ông Bà la môn ơi, ông hãy đến Tinh xá và rước cho tôi một vị Sa môn lão thành thôi.” Ông chồng lần này rước đúng Ðế Thích cải trang Sa môn dẫn về. Lúc ấy, hai ông bà mới cho chúng đệ ăn.

- Nhưng thế chư huynh không giận sao?

- Không, chúng đệ chẳng giận.

Các Thầy Tỳ kheo nghe họ trả lời, bèn đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, các Sa di này nói "chúng tôi không giận" là nói dối.

Ðức Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, người đã trừ được lậu hoặc chẳng kháng cự kẻ chống đối họ.

Ngài nói kệ:

(406) Thân thiện giữa thù địch,

Ôn hòa giữa hung hăng,

Không nhiễm, giữa nhiễm trước,

Ta gọi Bà la môn.

24. Tôn giả Ðại Bàn Ðặc Có Còn Tham, Sân Không?

Người bỏ rơi tham, sân...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Trúc Lâm, liên quan đến Tôn giả Ðại Bàn Đặc (Big Wayman)

Khi Tôn giả Châu Lợi Bàn Đặc (Little Wayman) ba tháng không thuộc nổi một bài kệ, anh của Ngài là Tôn giả Ðại Bàn Đặc đuổi Ngài ra khỏi Tinh xá, đóng cửa lại rồi bảo:

- Chú thiếu khả năng, không hiểu nổi Phật pháp, còn hạnh phúc thế gian chú cũng rời bỏ rồi. Ðâu còn lý do gì để chú tiếp tục ở lại đây? Chú hãy đi đi.

Các Thầy Tỳ kheo bàn tán về chuyện ấy, nói:

- Này chư huynh, Tôn giả Ðại Bàn Đặc làm thế này thế nọ. Chắc chắn ngay cả những vị đã xa lìa cấu nhiễm thỉnh thoảng vẫn còn sân hận.

Lúc ấy, đức Phật đi đến hỏi:

- Này các Tỳ kheo, các ông tụ hội ở đây bàn tán việc gì?

Các Thầy bạch lên Phật vấn đề. Ngài dạy:

- Này các Tỳ kheo, không phải đâu. Những kẻ đã xa lìa cấu nhiễm trong tâm chẳng còn các hoặc, tham, sân và si. Ông ấy hành động như vậy chỉ vì ông đặt Phật pháp, và tinh thần Phật pháp lên trên tất cả.

Ngài nói kệ:

(407) Người bỏ rơi tham, sân

Không mạn, không ganh tị.

Như hột cải đầu kim

Ta gọi Bà la môn.

25. Sức Mạnh Tập Khí

Nói lên lời ôn hòa...

Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Trúc Lâm, liên quan đến Tôn giả Pilindavaccha.

Thượng tọa Pilindavaccha dường như có thói quen nói năng với Cư sĩ và Sa môn bằng những lời lẽ chỉ dùng để gọi những kẻ lang thang cầu bơ cầu bất.

- Này đến đây, cha nội!

Hoặc:

- Thôi đi đi, lão đê tiện.

Một hôm, nhiều Thầy Tỳ kheo đến phàn nàn với đức Phật về hành vi của Tôn giả. Các Thầy nói:

- Bạch Thế Tôn, Thượng tọa Pilindavaccha gọi các Thầy Tỳ kheo bằng những từ chỉ dùng cho hạng đầu đường xó chợ.

Ðức Phật cho gọi Tôn giả đến, hỏi:

- Có người nói lỗi ông là đã gọi các Tỳ kheo bằng những cử chỉ dùng cho hạng đầu đường xó chợ. Có không, Vaccha?

- Bạch Thế Tôn, có ạ! Con có lỗi ấy.

Ðức Phật nhớ lại xem các kiếp trước vị Thượng tọa đó đã ở đâu, rồi Ngài bảo các Tỳ kheo:

- Này các Tỳ kheo, các ông đừng giận Tỳ kheo Vaccha. Chẳng phải ông Vaccha còn nuôi lòng hận ghét bên trong mà nói năng với Tỳ kheo huynh đệ như thế đâu. Thực tế là ông ấy đã qua năm trăm kiếp tái sanh vào nhà một người Bà la môn, và ông ấy đã sử dụng loại ngôn từ này quen thuộc trong suốt một thời gian lâu dài đến nỗi giờ đây nói với ai cũng thế, chỉ do sức mạnh của tập khí thôi. Người đã trừ được lậu hoặc chẳng bao giờ dùng lời lẽ thô bỉ, độc ác, chẳng bao giờ nói những lời khiến người vừa nghe liền thấy tổn thương. Chi do sức mạnh tập khí mà người đệ tử ấy của Ta nói năng kiểu ấy.

Ngài nói kệ:

(408) Nói lên lời ôn hòa,

Lợi ích và chân thật,

Không mất lòng một ai,

Ta gọi Bà la môn.

26. Thầy Tỳ Kheo Bị Kết Tội Trộm Cắp

Ở đời vật dài, ngắn...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến một Thầy Tỳ kheo.

Tại thành Xá Vệ, có một người Bà la môn mang nặng tà kiến, một hôm vì sợ tấm vải choàng ngoài của mình có mùi mồ hôi, bèn cởi ra để ở ngoài, rồi ngồi quay mặt vào nhà mình. Lúc ấy, có một vị Sa môn đã đắc A la hán, sau khi thọ trai đang đi về Tinh xá, thấy tấm vải và nhìn quanh không có ai, Thầy nghĩ nó vô chủ liền lượm nó như Thầy từng lượm vải rách bị liệng bỏ, và cầm đi. Ông Bà la môn trông thấy liền đi đến mắng chửi Tôn giả:

- Này lão Tỳ kheo đầu trọc kia, ngươi lấy tấm vải của ta đấy.

- Này Bà la môn, tấm vải này của ông ư?

- Ðúng.

- Tôi nhìn quanh không thấy ai, tưởng nó là đồ bỏ đi liền nhặt lấy. Ðây, trả ông.

Nói rồi Tôn giả đưa tấm vải cho ông Bà la môn. Khi về Tinh xá, Thầy kể chuyện cho các Thầy Tỳ kheo nghe. Các Thầy bèn trêu Tôn giả:

- Này huynh, tấm vải huynh nhặt dài hay ngắn, thô hay mịn?

- Thưa chư huynh, tôi chẳng cần biết nó dài hay ngắn, thô hay mịn. Tôi không tham đắm nó. Tôi nhặt chỉ vì nghĩ nó là đồ người ta bỏ, thế thôi.

Các Thầy nghe nói vậy bèn bạch Phật câu chuyện, và thưa:

- Bạch Thế Tôn, Thầy Tỳ kheo này nói dối.

Ðức Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, không phải đâu. Tỳ kheo này đã nói rất thật. Kẻ nào trừ được lậu hoặc không lấy vật người khác.

Ngài nói kệ:

(409) Ở đời, vật dài, ngắn,

Nhỏ, lớn, đẹp hay xấu,

Phàm không cho không lấy,

Ta gọi Bà la môn.

27. Tôn giả Xá Lợi Phất Bị Hiểu Lầm.

Người không có hy cầu...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Xá Lợi Phất.

Một thời nọ, Tôn giả Xá Lợi Phất cùng năm trăm Tỳ kheo đến kiết hạ an cư tại một Tinh xá và ở đấy suốt ba tháng an cư. Dân chúng trông thấy Tôn giả liền đến hứa xin cúng dường tứ sự. Nhưng sau khi Tôn giả cử hành xong lễ Tự tứ rồi, các vật dụng cúng dường vẫn chưa được mang đến hết. Trước lúc lên đường về gặp đức Thế Tôn, Tôn giả dặn dò các Tỳ kheo ở lại:

- Khi nào người ta đem các món cúng dường kia đến cho các Tỳ kheo trẻ và Sa di, xin các Thầy nhận và gởi đi dùm. Còn nếu họ không đem đến, cũng xin các Thầy làm ơn nhắn giúp tôi một tiếng.

Xong, Tôn giả đi về chỗ đức Phật ở.

Các Thầy Tỳ kheo bàn tán:

- Nghe những lời Tôn giả Xá Lợi Phất nói hôm nay, cũng thấy lòng tham còn rơi rớt nơi ông ấy. Tôn giả còn dặn về những món người ta cúng dường cho các Tỳ kheo cùng đoàn mình: "Xin các Thầy gởi đi dùm, hoặc không thì làm ơn nhắn giúp tôi một tiếng!”

Lúc ấy đức Phật đi đến, hỏi:

- Này các Tỳ kheo, các ông tụ hội ở đây bàn tán chuyện gì?

Các Thầy Tỳ kheo thưa câu chuyện. Ðức Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, con Ta không còn tham. Trong tâm ông ấy chỉ nghĩ: "Mong rằng các thí chủ không bị mất phước, mong rằng các Tỳ kheo trẻ và Sa di không bị thất thoát những lợi dưỡng cao quý.” Do vậy ông ấy mới dặn dò như thế.

Ngài nói kệ:

(410) Người không có hy cầu,

Ðời này và đời sau,

Không hy cầu, giải thoát,

Ta gọi Bà la môn.

28. Tôn Giả Mục Kiền Liên Bị Hiểu Lầm

Người không còn tham ái...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Mục Kiền Liên.

Câu chuyện tương tự như chuyện trên. Kết cuộc, biết Tôn giả Mục Kiền Liên đã dứt được tham ái, Phật nói kệ:

(411) Người không còn tham ái,

Có trí, không nghi hoặc,

Thế nhập vào bất tử,

Ta gọi Bà la môn.

29. Bỏ Cả Tốt Lẫn Xấu

Người sống ở đời này...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Pubbàràma, liên quan đến Tôn giả Revata.

Câu chuyện này đã được kể đầy đủ chi tiết trong phần chú giải bài kệ bắt đầu với câu: "Làng mạc hay núi rừng.” Chuyện kể tiếp rằng:

Lại một hôm các Thầy Tỳ kheo bàn tán trong pháp đường:

- Ôi, vị Sa di đó được lợi lạc lớn lao biết mấy! Ôi! Phước đức của chú thật vô lượng vô biên! Tưởng tượng một người mà xây dựng được năm trăm chỗ ở cho năm trăm Thầy Tỳ kheo.

Lúc ấy, đức Phật đi đến, hỏi:

- Này các Tỳ kheo, các ông tụ hội ở đây bàn tán việc gì?

Các Thầy bạch Phật câu chuyện. Ngài dạy:

- Này các Tỳ kheo, Revata chẳng có phước hay vô phước. Người ấy đã buông bỏ cả hai.

Ngài nói kệ:

(412) Người sống ở đời này,

Không nhiễm cả thiện ác,

Không sầu, sạch không bụi,

Ta gọi Bà la môn.

30. Tôn Giả Nguyệt Quang

Như trăng, sạch không uế..

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Nguyệt Quang, Candàbhà.

Chuyện quá khứ:

A. Người Thợ Rừng Cúng Dường Chiếc Ðĩa Mặt Trăng

Thuở lâu xa thời quá khứ, có một thương gia sống ở Ba La Nại, một hôm tự bảo: "Ta sẽ đi về vùng biên giới kiếm gỗ đàn hương.” Ông mua thật nhiều quần áo, đồ trang sức.v.v. dẫn theo năm trăm cỗ xe đi về vùng biên địa, dừng lại nghỉ đêm tại một cổng làng, và hỏi các cậu bé chăn bò trong rừng:

- Trong làng này có ai làm nghề đi rừng không?

- Có

- Ông ta tên gì?

- Tên như vậy, như vậy.

- Vợ và con ổng tên gì?

- Tên như thế, như thế.

- Nhà ổng ở đâu?

- Ở chỗ như vầy, như vầy.

Thương gia ngồi trên cỗ xe thật êm, đi theo lời chỉ dẫn của các chú bé, đến trước cửa nhà người thợ rừng liền xuống xe, vào nhà hỏi thăm bà chủ nhà có phải tên nọ, tên kia không.

Bà chủ thầm nghĩ: "Ðây chắc bà con mình.” Bà nhanh nhẩu đem ghế mời ông ngồi. Thương gia lại nói tên ông chủ nhà, hỏi thăm:

- Ông bạn tôi đâu rồi?

- Thưa Ngài, ông ấy đi rừng.

- Các cháu A, cháu B đâu?

Ông hỏi thăm tỉ mỉ từng người trong nhà, gọi tên đủ cả. Xong, ông biếu tặng các thứ quần áo, đồ trang sức mang theo, và bảo:

- Khi nào ông bạn đi rừng về, xin trao áo quần và những món này cho ông ấy.

Bà chủ nhà hết sức trọng vọng, tôn kính thương gia. Chồng vừa từ rừng về đến, bà nói:

- Ông ơi, thương gia này mới đến thăm nhà mình đã hỏi han đầy đủ từng người, biết hết tên tuổi, rồi tặng quà thứ này thứ kia.

Người thợ đi rừng cũng tiếp đãi thương gia lịch sự. Chiều tối, thương gia nằm chơi trên chiếc chõng tre, hỏi chủ nhà:

- Này bạn, những lúc đi quanh chân núi này, bạn có thấy gì lạ không?

- Không, chỉ thấy thấy có lắm cây màu đỏ.

- Nhiều hả?

- Vâng, nhiều.

- Chúng ta hãy đi xem những cây đó.

Hai người đến chân núi, chặt được vô số cây đàn hương đỏ, chất hết lên năm trăm cỗ xe. Lúc quay về thành, thương gia bảo anh thợ rừng:

- Bạn ạ, nhà tôi ở Ba La Nại, anh cứ đi như thế, như thế sẽ kiếm ra. Thỉnh thoảng xin mời bạn hạ cố đến chơi.

Rồi ông nói thêm:

- Quà cáp tôi không quí gì hơn loại cây có cành màu đỏ này, bạn nhớ mang cho tôi thứ ấy và chi thứ ấy thôi.

- Dạ được.

Và lâu lâu anh thợ rùng đi thăm thương gia, chỉ mang theo gỗ đàn hương. Ðáp lại, thương gia tặng anh tiền bạc hậu hĩ.

Khi đức Phật Ca Diếp nhập Niết bàn, một ngôi tháp vàng được xây để thờ Xá Lợi. Vào dịp ấy, anh thợ rừng mang thật nhiều gỗ đàn hương đến Ba La Nại. Ông bạn thương gia liền lấy một số lớn gỗ ấy đem nghiền thành bột và ông đổ đầy một đĩa bột gỗ đàn hương, bảo anh thợ rừng:

- Ði bạn, trong lúc chờ cơm chín, ta hãy đến chỗ đang xây tháp.

Hai người đến tháp thành kính dâng bột gỗ đàn hương cúng dường Xá Lợi Phật. Anh thợ rừng thì làm một chiếc đĩa mặt trăng cũng bằng gỗ đàn hương và đặt trong tháp.

Chuyện hiện tại:

B. Sa Môn Nguyệt Quang

Khi hết kiếp, anh thợ rừng được sanh lên cõi trời trong khoảng thời gian giữa hai vị Phật Ca Diếp và Thích Ca. Vào thời Phật hiện tại, anh thọ sanh ở Vương Xá, trong nhà một người Bà la môn giàu có. Từ rốn cậu bé phát ra vòng hào quang lớn bằng chiếc đĩa mặt trăng nên cậu được đặt tên Nguyệt Quang, Candàhà. Người ta nói đây là phước báo do anh đã cúng dường chiếc đĩa mặt trăng kia ở trong tháp Phật.

Một số Bà la môn nghĩ thầm: "Nếu chúng ta mang người này đi theo sẽ chinh phục được cả thế giới.” Thế rồi họ cho anh ngồi lên một cỗ xe, mang đi khắp nơi, gặp ai cũng bảo: "Kẻ nào lấy tay sờ vào thân người Bà la môn này sẽ nhận được những quyền lực và những sự vinh hiển như thế, như thế.”

Người ta trả một trăm đồng hoặc một ngàn đồng để được đặc ân sờ vào người Nguyệt Quang. Cứ lang thang như thế, một hôm họ vào thành Xá Vệ và nghỉ tại một nơi gần Tinh xá Kỳ Viên.

Lúc ấy năm chục triệu thiện tín thành Xá Vệ đang cúng dường chư Tăng trước bữa điểm tâm. Sau bữa điểm tâm họ mang hương hoa, áo quần, thuốc men đến nghe Phật thuyết pháp. Các người Bà la môn thấy, hỏi:

- Các bạn đi đâu đó?

- Ðến nghe đức Thế Tôn thuyết pháp.

- Lại đây này! Ðến đằng kia được ích gì? Không có thần thông nào hơn thần thông của Bà la môn Nguyệt Quang của chúng tôi đây. Kẻ nào sờ vào thân vị ấy sẽ có những quyền lực và những sự vinh hiển như thế, như thế. Hãy đến chiêm ngưỡng.

- Thần thông của ông Bà la môn các người thì thấm vào đâu. Chỉ có đức Thế Tôn mới có đại thần thông thôi.

Hai bên tranh cãi kịch liệt một hồi, rốt cuộc chẳng phe nào thắng. Nhóm người Bà la môn đề nghị:

- Chúng ta hãy đến Tinh xá xem Nguyệt Quanh hay đức Thế Tôn của các người, ai có đại thần thông.

Ðức Phật vừa thấy Nguyệt Quang liền khiến cho vòng hào quang biến mất, cho nên trước mặt đức Phật, anh chàng chẳng hơn gì một con quạ nằm trong thúng than. Những người Bà la môn vừa kéo Nguyệt Quang ra xa, vòng hào quang sáng rực trở lại như trước. Họ mang anh đến trước Phật, vòng hào quang biến mất. Cứ thế đến lần thứ ba, Nguyệt Quang thầm nghĩ: "Chắc chắn vị này giở huyễn thuật làm cho vòng hào quang của ta mất đi.” Anh hỏi Phật:

- Có phải Ngài biết chú thuật làm hào quang của tôi mất đi không?

- Ðúng, ta biết chú thuật ấy.

- Xin Ngài hãy truyền chú thuật cho tôi.

- Chú thuật này không truyền cho người thế tục được.

Nguyệt Quang bèn nói với các người Bà la môn:

- Chừng nào ta học được chú thuật sẽ trở thành nhân vật siêu phàm nhất Diêm phù đề này. Các người hãy ở lại chờ ta xuất gia, trong vài ngày thôi sẽ học được chú thuật.

Anh xin Phật xuất gia làm Sa môn.

Ðức Thế Tôn dạy đề mục Thiền quán về ba mươi hai thứ cấu tạo nên thân, Nguyệt Quang hỏi:

- Cái này là sao ạ?

Phật dạy:

- Trước khi học chú thuật kia, phải học qua cái này.

Lâu lâu, những người Bà la môn lại đến hỏi:

- Anh đã học xong chú thuật chưa?

- Chưa, tôi còn đang học.

Chỉ vài ngày sau anh đắc quả A la hán.

Nhóm người Bà la môn đến nữa, anh bảo:

- Thôi, các ông hãy đi đi. Ta đã đến một nơi không bao giờ còn trở lại.

Các vị Tỳ kheo bạch lên Phật câu chuyện:

- Bạch Thế Tôn, Thầy Tỳ kheo này nói dối!

Ðức Phật bảo:

- Này các Tỳ kheo, ông ấy đã nói thật. Tỳ kheo này không còn tham đắm các thú vụi thế gian.

Phật nói kệ:

(413) Như trăng, sạch không uế,

Sáng trong và tịnh lặng,

Hữu ái được đoạn tận,

Ta gọi Bà la môn.

31. Bảy Năm Trong Bụng Mẹ

Vượt đường nguy hiểm này...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang trú tại Kundadhàvana, gần Kundakoli, liên quan đến Tôn giả Sìli.

Thuở ấy, bà Suppavàsà thuộc dòng Câu Lợi, mang thai một đứa bé đến bảy năm. Lúc sanh nở, vì đứa bé nằm lệch, bà bị những cơn đau xé ruột, liền tự bảo: "Ðức Thế Tôn thật là bậc Giác ngộ Tối thượng. Ngài đã giảng dạy cho ta con đường thoát những khổ não như khổ này. Chúng tăng của Tăng đoàn đức Thế Tôn quả thật là những vị rất tinh tấn. Các Ngài đã nỗ lực diệt những khổ não như khổ này. Niết bàn quả thực là an lạc, không còn những khổ não như khổ này.”

Bà nhẫn chịu cơn đau nhờ những quán tưởng ấy. Rồi bà yêu cầu chồng đến hầu Phật, nhân danh bà xin đảnh lễ Ngài. Ðảnh lễ xong, ông bạch Phật nguyện ước của bà. Phật nói:

- Chúc bà Suppavàsà, người phụ nữ trẻ dòng Câu Lợi, dồi dào sức khỏe. Chúc bà sanh con trai, khỏe mạnh, hạnh phúc.

Phật vừa chúc lành xong, bà Suppavàsà liền sanh một cậu bé trông thật hồng hào, vui tươi. Sau đó, bà thỉnh đức Phật cùng chư Tăng đến nhà cúng dường long trọng suốt bảy ngày. Từ khi chào đời, con bà ngày ngày lo việc lọc nước cho chư Tăng. Thời gian sau cậu xuất gia làm Sa môn và đắc A la hán.

Một hôm các Thầy Tỳ kheo bàn tán trong Pháp đường:

- Chư huynh nghĩ coi! Một vị Sa môn cao quí như vậy, đầy đủ khả năng chứng A la hán, phải chịu khổ suốt bảy năm trong bụng mẹ. Thầy ấy quả đã trải qua những thống khổ ghê gớm.

Lúc ấy, đức Phật đi đến hỏi:

- Này các Tỳ kheo, các ông tụ hội ở đây bàn tán chuyện gì?

Các Thầy bạch Phật câu chuyện.

Phật dạy:

Này các Tỳ kheo, đúng thật như vậy. Ông ấy giờ đây đã thoát hết các khổ, đạt đến Niết bàn an lạc.

Ngài nói kệ:

(414) Vượt đường nguy hiểm này,

Nhiếp phục luân hồi, si,

Ðến bờ kia Thiền định,

Không dục ái, không nghi,

Không chấp trước, tịch tịnh,

Ta gọi Bà la môn.

32. Cô Gái Giang Hồ Quyến Rũ Thầy Tỳ Kheo Sundarasamudda

Ai ở đời, đoạn dục...

Ðức Thế Tôn dạy những lời trên khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Mỹ Hải, Sundarasamudda.

Mỹ Hải, Sundarasamudda Kumàra, là một thanh niên người Xá Vệ, địa vị cao sang, sanh trưởng trong một gia đình giàu có, tài sản lên đến ức triệu. Một hôm, sau bữa ăn sáng, trông thấy dân chúng cầm hương hoa đến Tinh xá Kỳ Viên nghe pháp, chàng hỏi:

- Các bạn đi đâu thế?

- Ði nghe đức Thế Tôn thuyết pháp.

- Tôi cũng đi nữa.

Chàng theo họ vào ngồi ở mé ngoài của chúng hội. Ðức Phật biết được tư tưởng chàng nên giảng pháp theo thứ lớp từ thấp đến cao. Mỹ Hải nghĩ: "Thật không thể nào làm chủ một gia đình mà giữ được phạm hạnh trọn vẹn thanh tịnh, bóng ngời như chiếc vỏ sò.”

Bài pháp của Phật khiến chàng nức lòng, muốn xin xuất gia. Ðợi chúng hội giải tán hết, chàng đến xin đức Phật cho gia nhập Tăng đoàn. Phật dạy:

- Như Lai chỉ nhận cho vào Tăng đoàn kẻ nào đã được cha mẹ cho phép.

Về đến nhà, cũng giống như chàng Ratthapàla và những người khác, chàng nỗ lực ráo riết, xoay sở đủ cách xin cho được phép của cha mẹ để xuất gia. Và chàng cũng được làm Sa môn, gia nhập Tăng đoàn đức Phật. Thành Tỳ kheo rồi, Thầy làm tròn mọi bổn phận của một Tăng sĩ. Một hôm, Thầy nghĩ: "Ta ở lại đây phỏng có ích gì?” Thầy rời Kỳ Viên, đến thành Vương Xá, ngày ngày đi khất thực.

Một hôm, thành Xá Vệ mở lễ hội lớn. Cha mẹ Thầy trông thấy bạn bè xưa của Thầy vui chơi thỏa thích giữa các thứ xa hoa của ngày hội huy hoàng thì lòng buồn rười rượi. Hai ông bà khóc lóc, than thở:

- Ôi, con ta ngày nay đâu được hưởng những thứ vui này!

Khi ấy, có một cô gái giang hồ sang trọng đến nhà họ chơi, thấy bà mẹ khóc, liền hỏi:

- Mẹ ơi, sao mẹ khóc?

- Tôi nghĩ đến con trai tôi hoài nên khóc.

- Nhưng thưa mẹ, anh ấy đâu?

- Xuất gia rồi, đang ở với các Thầy Sa môn.

- Chúng ta không thể kêu anh ấy về lại sao mẹ?

- Cũng được đấy. Nhưng nó có chịu đâu. Nó đã rời Xá Vệ đi Vương Xá rồi.

- Giả sử con kêu anh ấy về, mẹ sẽ cho con gì nào?

- Chúng tôi sẽ để cô làm nữ chủ gia sản này.

- Tốt lắm, mẹ hãy cho con tiền lệ phí.

Nhận được món tiền, cô mướn thật nhiều người hầu giúp việc, rồi lên đường đến Vương Xá.

Cô hỏi thăm con đường Tôn giả thường đi khất thực và mua một ngôi nhà nơi đó để ở. Từ sáng sớm, cô lo chuẩn bị những món ăn Thầy thường thích, và khi thấy Thầy đi khất thực, cô đem đến cúng dường. Sau vài ngày, cô thưa:

- Bạch Ðại đức, xin Ngài ngồi đây để dùng bữa.

Cô đưa tay xin bình bát và Tôn giả vui vẻ trao liền. Cô dọn cho Thầy những món thật ngon, rồi thưa tiếp:

- Bạch Ðại đức, hằng ngày đi khất thực, xin Ðại đức cứ ghé lại đây. Ngài sẽ được vui lòng.

Dần dần, cô dẫn dụ được Thầy đến ngồi ở hàng hiên nhà cô, dùng những món ăn thích khẩu.

Ít hôm sau, cô kêu vài cậu bé vào cho ăn bánh để kết thân, rồi bảo:

- Này, mấy cháu! Khi nào thấy Tôn giả đến đây, các cháu kéo nhau tới nhé. Cứ tung bụi lên rõ nhiều. Cô rầy bảo thôi, các cháu cũng đừng thèm để ý.

Ngày mai lại, trong lúc Tôn giả đang dùng bữa, bọn trẻ đến đá bụi bay mù mịt. Cô chủ rầy la, bọn chúng vẫn trơ trơ. Hôm sau nữa, cô thưa:

- Bạch Ðại đức, tụi nhỏ này tung bụi mù mịt thế này. Con rầy tụi nó cũng chẳng nghe. Xin Ðại đức vào trong nhà ngồi.

Từ đó, cô mời Tôn giả vào luôn trong nhà ngồi dùng bữa. Rồi cô lại đút lót bọn trẻ, dặn:

- Khi Tôn giả đang dùng bữa, các cháu chơi đùa thật ồn ào lên nhé. Cô có bảo thôi, các cháu đừng để ý.

Bọn trẻ làm y lời cô.

Hôm sau nữa, cô thưa:

- Bạch Ðại đức, chỗ này ồn ào hết chịu nổi. Con đã làm đủ cách, bọn trẻ vẫn cứ ồn. Xin thỉnh Ðại đức lên tầng trên.

Tôn giả bằng lòng. Cô liền leo lên tầng cao nhất của ngôi biệt thự, thúc hối Thầy vào trước và cô theo sau đóng cửa lại. Từ trước, Tôn giả luôn luôn theo đúng lệ chỉ thọ nhận thực phẩm bằng cách khất thực từ cửa nhà này qua cửa nhà khác. Nhưng bấy giờ, Thầy bị con ma tham ăn quản thúc ghê gớm đến nỗi nghe theo lời cô gái điếm, leo lên tận tầng chót của ngôi nhà bảy tầng ấy. Cô mang ghế đến cho Thầy ngồi.

Cô gái giang hồ trổ hết tài nghệ, giở tất cả thủ thuật làm duyên của các bà để quyến rũ Thầy Tỳ kheo. Sau cùng, cô đứng trước Tôn giả, đọc một đoạn thơ:

Móng chân sơn đỏ chót,

Dép lê kỹ nữ mang,

Xuân xanh chàng đang độ,

Em cũng cùng lứa trang.

Hạnh phúc xin chung hưởng,

Chàng sẽ là của em,

Nô lệ chàng, em hứa,

Cùng nhau sống ấm êm.

Rồi sau ngày xuân mất,

Bỏ cuộc chơi ta về,

Gậy cầm tay cùng chống,

Tuổi già ôi não nề.

Tôn giả bỗng chợt tỉnh: "Hỡi ôi! Ta đã phạm trọng giới! Ta đã hành động thiếu suy nghĩ.” Thầy bàng hoàng lo sợ. Vừa lúc ấy, đức Phật đang ở tại Kỳ Viên cách Tôn giả bốn mươi lăm dặm. Ngài biết hết chuyện và mỉm cười. Tôn giả A Nan hỏi:

- Bạch Thế Tôn, vì sao Ngài cười?

- Này A Nan, tại tầng lầu cao nhất của một tòa biệt thự bảy tầng trong thành Vương Xá, đang xảy ra trận chiến giữa Thầy Tỳ kheo Mỹ Hải và một cô gái giang hồ.

- Bạch Thế Tôn, ai sẽ thắng? Ai sẽ thua?

- A Nan, Thầy Tỳ kheo Mỹ Hải sẽ thắng, cô gái giang hồ thua.

Nói xong, vẫn an nhiên tại chỗ, đức Phật phóng quang ảnh hiện thân đến trước Tỳ kheo Mỹ Hải và nói:

- Này Tỳ kheo, hãy xa lìa các thứ tham ái, hãy cởi bỏ mọi dục vọng.

Rồi Ngài nói kệ:

(415) Ai ở đời đoạn dục,

Bỏ nhà, sống xuất gia,

Dục hữu được đoạn tận,

Ta gọi Bà la môn.

- Chú Giải trong Nguyên Bản: Kẻ nào ngay trong đời này diệt trừ được hai thứ tham ái, xa lìa thế tục, kẻ đã dập tắt lửa tham dục, đoạn dứt sanh tử, ta gọi kẻ ấy là Bà la môn.

Phật nói kệ xong, Tôn giả Mỹ Hải đắc A la hán, dùng thần thông bay lên trời, xuyên qua nóc nhà cô gái điếm, trở lại thành Xá Vệ, đảnh lễ tán thán Phật thân.

Hôm ấy, các Thầy Tỳ kheo tụ họp bàn tán trong Pháp đường:

- Này chư huynh, chỉ vì vị ngon ngọt của lưỡi mà Tôn giả Mỹ Hải suýt nữa tiêu vong, may nhờ đức Thế Tôn giải cứu.

Ðức Phật nghe vậy, bảo:

- Này các Tỳ kheo, đây chẳng phải lần đầu tiên ta giải cứu ông ấy thoát khỏi dây trói buộc của vị trần. Trong một kiếp trước cũng đã xảy ra chuyện tương tự.

Theo lời thỉnh cầu của chúng Tỳ kheo, muốn sáng tỏ vấn đề, Ngài kể chuyện:

Chuyện quá khứ:

Cơn Linh Dương Bị Sa Bẫy Mật, Truyện Tiền Thân Vàtamiga.

(Sanjaya, vị quan coi vườn Thượng uyển của vua xứ Ba La Nại, bôi mặt lên cỏ để nhử một con linh dương hoang vào vườn. Sau đó, ông dùng mật nhử tiếp linh dương vào cung vua và bắt được nó).

Người đời có câu rằng:

Không gì nguy hiểm hơn,

Cuốn lôi của vị giác,

Dù đang ở gia đình,

Hay tại nhà bạn hữu.

Dùng miếng ngon mồi bẫy,

Sanjaya nhử luôn,Linh dương vô cung cấm,

Nhốt chân, chạy hết đường.

Ðức Phật kể xong chuyện tiền thân Vàtamiga liền giải thích:

- Lúc ấy Tỳ kheo Mỹ Hải là con linh dương, vị quan đại thần nói câu kệ khiến linh dương được thả chính là Ta.


33. Jotika Và Jatila

Ai ở đời đoạn ái...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở Trúc Lâm, liên quan đến Tôn giả Jatila.

Chuyện quá khứ:

A. Aparàjita, Tiền Thân Của Jotika

Ngày xưa, ở xứ Ba La Nại có hai anh em điền chủ trồng được một ruộng mía thật lớn. Một hôm người em thăm mía, nghĩ thầm: "Mình sẽ chặt cho anh ấy một cây, còn mình ăn một cây.” Chàng chặt hai cây mía, bịt kín chỗ vừa chặt lại để nước mía khỏi chảy mất rồi cầm về nhà. Ngay khi người em chặt mía đem về nhà, tại Gandhamàdana có một vị Phật Ðộc Giác xuất định, thầm nghĩ: "Hôm nay ta sẽ độ ai đây?" Và Ngài quan sát thấy người điền chủ. Biết rõ chàng có khả năng bố thí, đức Phật Ðộc Giác đắp y mang bát dùng thần thông hiện đến trước mặt. Người em trông thấy Ngài lòng rất hoan hỉ. Chàng trải áo khoác lên chỗ đất cao, thưa:

- Bạch Ngài, thỉnh Ngài an tọa.

Và chàng bạch tiếp:

- Xin Ngài đưa bát cho con.

Chàng mở chỗ bịt cây mía, đưa lên cao và dốc vào bình bát đức Phật, nước mía chảy ra đầy bát. Ngài dùng xong, người em lại nghĩ: "Thật may mắn cho ta, vị Thầy cao quý của ta đã dùng hết bát mía. Nếu anh mình đòi tiền cây mía của ổng, ta sẽ trả. Còn nếu ổng đòi được hưởng phần phước đức cúng dường, ta sẽ hồi hướng cho ổng.” Thế là chàng bạch Phật:

- Bạch Ngài, xin Ngài đưa bình bát cho con lần nữa.

Chàng mở chỗ bịt, dốc cây mía thứ hai, trút nước vào bình bát Phật. Hình như chàng không hề nghĩ: "Anh mình sẽ kiếm chặt cây mía khác để ăn.”

Vì đã dùng xong một bát rồi, vị Phật Ðộc Giác muốn chia xẻ nước mía cây thứ hai cho các vị Phật khác. Ngài ngồi xuống chỗ cũ. Hiểu ý, người em gieo năm vóc sát đát, đảnh lễ Ngài, phát nguyện:

- Bạch Ngài, với công đức cúng dường này con xin được hưởng lạc thú ở cõi trời và cõi người, và sau cùng, xin cho con đạt đến chỗ Ngài đã chứng đắc.

Ðức Phật đáp:

- Sẽ được vậy.

Ðể hồi hướng công đức, Ngài đọc hai bài kệ bắt đầu bằng câu: "Nguyện cho tất cả mong cầu của thí chủ thành tựu viên mãn.”

Xong, Ngài bay lên không trung đến Gandhamàdana và phân chia bát nước mía cho năm trăm vị Phật Ðộc Giác.

Chứng kiến cảnh vi diệu ấy, người em về gặp anh, người anh hỏi:

- Nãy giờ chú đi đâu?

- Em ra thăm ruộng mía.

- Chú ra ruộng mía mà không đem cây nào về ăn?

- Có anh ạ, em mang về hai cây, gặp một vị Phật Ðộc Giác em đã cúng dường cây của em. Rồi em nghĩ sẽ trả tiền cây mía thứ hai của anh cho anh, hoặc sẽ hồi hướng phần phước đức cho anh, nên em cúng luôn Ngài. Nào, anh định lấy tiền hay phước đức?

- Vị Phật ấy đã đáp lại ra sao?

- Ngài dùng bát nước mía cây thứ nhất và bay lên không mang bát nước cây thứ hai về Gandhamàdana chia cho năm trăm vị Phật Ðộc Giác khác.

Nghe xong rồi, người anh vô cùng hoan hỉ. Chàng phát nguyện:

- Với phước đức cúng dường này, con xin được chứng đắc đạo quả như vị Phật Ðộc Giác ấy.

Trong khi người em nguyện ba điều, chàng chỉ nguyện một câu được đắc A la hán.

Lúc mãn kiếp, hai anh em đều sanh lên cõi trời và sống suốt thời gian giữa hai vị Phật. Khi họ ở cõi trời, đức Phật Tỳ Bà Thi xuất hiện ở thế gian. Hết phước cõi trời hai người tái sanh trong một gia đình Trưởng giả ở Bandhumatì, cũng làm anh em. Cha mẹ đặt tên cho người anh là Sena, em là Aparàjita.

Ðến tuổi trưởng thành, cả hai người đều lập gia đình. Một hôm, gia chủ Sena nghe tin truyền khắp thành Bandhumatì.

- Phật bảo đã xuất hiện ở thế gian, Pháp bảo đã xuất hiện ở thế gian. Tăng bảo đã xuất hiện ở thế gian. Hãy bố thí cúng dường và tạo phước. Hãy ăn chay vào các ngày mồng 8, 14 và rằm. Hãy đi nghe thuyết pháp.

Sena thấy dân chúng kéo nhau đi cúng dường vật thực trước bữa điểm tâm, và sau bữa điểm tâm, họ lại lũ lượt đi nghe pháp. Ông hỏi:

- Các vị đi đâu thế?

- Ði nghe đức Thế Tôn thuyết pháp.

- Tôi cũng đi nữa.

Chàng theo chân đám đông đến ngồi vòng ngoài pháp hội. Ðức Phật biết được tư tưởng ông liền giảng pháp từ thấp đến cao. Nghe rồi, Sena muốn xuất gia làm Sa môn nên thỉnh cầu Phật nhận ông vào Tăng đoàn.

Ðức Phật hỏi:

- Này thiện nam tử, ông có bà con quyến thuộc gì cần phải xin phép trước không?

- Bạch Thế Tôn, có ạ.

- Vậy ông hãy đến xin phép rồi trở lại gặp Ta.

Sena về nhà bảo em trai:

- Tất cả gia tài này từ đây thuộc về chú.

- Ủa, còn anh thì sao?

- Ta định xuất gia làm Sa môn đệ tử Phật.

- Thưa huynh trưởng, anh nói gì thế? Khi mẹ mất, anh là mẹ em. Khi cha mất, anh là cha em. Gia sản chúng ta rất lớn. Người ta vẫn có thể sống đời Cư sĩ và làm việc phước thiện chứ. Xin anh đừng xuất gia.

- Ta đã nghe đức Thế Tôn giảng pháp, và ta không thể tu hành đúng pháp nếu còn sống lẫn lộn với người thế tục. Ta đã nhất quyết xuất gia làm Sa môn rồi chú ạ. Thôi, chú về đi.

Sena ra lịnh bảo em về nhà rồi, liền đến Tinh xá xin Phật xuất gia. Chàng được thọ cu túc giới và chẳng bao lâu đắc quả A la hán.

Người em suy nghĩ: "Ta sẽ theo lệ thường cúng dường nhân dịp anh xuất gia.” Suốt bảy ngày chàng cúng dường vật thực cho đức Phật và chư Tăng. Xong, chàng đảnh lễ anh và thưa:

- Bạch Ngài, Ngài đã được ra khỏi sanh tử luân hồi, con thì còn bị ngũ dục ràng buộc, chưa thể xuất gia làm Sa môn. Xin Ngài dạy cho biết, con nên làm việc gì, để được phước đức lớn trong lúc sống đời Cư sĩ như vầy.

- Hay lắm. Chú hãy cất một hương thất cho đức Thế Tôn.

- Dạ được.

Chàng cho mua đủ các loại gỗ, đẽo gọt bào chuốt thành cột, kèo, v.v.. để cất thất. Ván gỗ đều khảm vàng, bạc, châu ngọc, và rồi một hương thất rực rỡ toàn bằng gỗ khảm bảy báu đã hoàn thành. Mái thất cũng lợp ngói khảm bảy báu.

Trong lúc hương thất đang được thi công xây dựng, người cháu mang cùng tên với chàng, Aparàjita đi đến nói:

- Thưa chú, cháu cũng muốn đóng góp chút đỉnh. Chú hãy cho cháu kiếm phước với nhé.

- Cháu thân mến, chú không thể đáp ứng yêu cầu của cháu được. Chú định cúng dường một công trình mà phần phước đức không thể chia sẻ cho ai.

Người cháu cố nài nỉ vẫn không được. Sau đó, nghĩ rằng trước hương thất cần một chuồng voi, anh ta bèn cất một cái toàn bằng bảy báu. Trong kiếp hiện tại, người cháu ấy thọ sanh làm quan Chưởng khố Ram ở Mendaka.

Hương thất có ba cửa sổ thật rộng cũng toàn bằng bảy báu. Bên dưới các cửa sổ, người chú Aparàjita cho xây ba bể trồng hoa sen, bên ngoài bể còn được tô thêm một lớp vữa Stucco. Bể xây rồi, chàng cho đổ đầy bốn loại nước thơm và trồng năm màu hoa sen khác nhau. Chót vót trên đỉnh tháp nhọn hình quả chuông của ngôi hương thất, người ta đặt một chiếc bát bằng vàng trong đựng đầy phấn hoa để khi đức Phật ngồi bên trong, gió sẽ mang phấn hoa rải khắp kim thân Ngài. Ðỉnh tháp bằng san hô, dưới cẩn ngói nạm bảy báu, lộng lẫy uy nghi như một con công đang xòe cánh múa.

Những loại châu ngọc nào trong thất bảo có thể tán thành bột được, Aparàjita cho tán hết ra rải khắp hương thất. Còn những loại không tán được, chàng đổ đầy bên trong và bên ngoài hương thất ngập đến đầu gối.

Hoàn tất mọi việc rồi, chàng đi gặp vị Sa môn anh mình, thưa:

- Bạch Ngài, hương thất đã cất xong. Con muốn thỉnh đức Thế Tôn đến nạp thọ cho con được ân triêm công đức.

Tôn giả vào bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, Cư sĩ này đến trình rằng đã cất xong một hương thất và xin thỉnh Thế Tôn đến nạp thọ.

Ðức Phật đi đến cửa hương thất liền dừng lại nhìn ngắm đám châu ngọc rải đầy trong thất. Aparàjita bạch:

- Bạch Thế Tôn, thỉnh Ngài vào.

Chàng thưa thỉnh ba lần, đức Phật vẫn đứng yên lặng. Không biết tính sao, chàng đưa mắt ngó anh.

Tôn giả hiểu ý, bảo em:

- Này em, hãy đứng trước Ngài và thưa như vầy: "Ðức Thế Tôn là nơi nương tựa duy nhất của con. Xin thỉnh Ngài an trú tại hương thất này.”

Vâng lời, chàng đến gieo năm vóc sát đất, đảnh lễ Phật và bạch:

- Bạch Thế Tôn, như người sau khi ẩn trú qua đêm dưới gốc cây, ra đi không chút bận tâm về cây, như người khi qua sông bỏ lại bè sau lưng không thắc mắc, con thỉnh cầu đức Thế Tôn an trú trong ngôi nhà này, chẳng phải bận lòng với đám châu báu.

Tại sao đức Phật dừng lại ở cổng? Người ta nói rằng Ngài nghĩ: "Dân chúng sẽ kéo đến gặp Như Lai trước và sau bữa điểm tâm. Nếu họ kiếm cách lấy châu ngọc đi, chúng ta không thể ngăn họ. Nhưng thí chủ này biết đâu lại nghĩ: Thính chúng của Ngài lấy hết của báu trong hương thất mà Ngài chẳng có ý cản trở. Ông ta sẽ đem lòng oán hận Ta và phải đọa Địa ngục.” Thế nên, sau lời tác bạch của Aparàjita, đức Phật liền tiến vào thất.

Aparàjita cho người gác quanh hương thất với lịnh:

- Những kẻ nào có ý giấu châu ngọc trong quần áo hoặc lấy thúng, giỏ đựng, các ông phải ngăn lại. Còn ai hốt nắm trong tay, hãy cho họ đi.

Chàng loan truyền khắp thành:

- Ta đã rải đầy bảy báu trong hương thất đức Thế Tôn. Người nào đến nghe pháp có thể lấy một ít. Người nghèo được hốt đầy hai nắm tay. Người khá giả được hốt một nắm.

Sở dĩ như vậy vì chàng tính: "Những kẻ có đức tin chỉ đến để nghe pháp. Người chưa tin sẽ do lòng tham của cải dẫn dụ mà đến, được nghe pháp rồi cũng sẽ thoát khổ.” Từ ý định muốn lợi lạc chúng sanh, chàng cho rao những lời trên.

Người người đi nghe pháp đều lấy châu báu theo đúng qui định của vị thí chủ. Chàng cho đổ thêm châu ngọc đầy như cũ một lần, hai lần, roià ba lần. Dưới chân Phật, chàng để một viên ngọc thật lớn, rất quí giá, với ý nghĩ: "Kẻ nào biết chiêm ngưỡng ánh hào quang chói sáng từ kim thân Phật sẽ chẳng ưa thích gì ánh sáng viên ngọc quý này.” Và quả thật những ai trông thấy đức Phật rồi chẳng màng nhìn nhõ gì đến viên ngọc nữa.

Một hôm, có người Bà la môn tà kiến tự nghĩ: "Người ta nói có viên ngọc quý đặt ở chân Phật. Ta có thể lấy nó.” Hắn đến hương thất trà trộn vào đám đông đảnh lễ đức Phật. Aparàjita chỉ nhìn cung cách hắn đã biết hắn có ý chiếm viên ngọc, liền nghĩ: "Ta hy vọng hắn sẽ không lấy.”

Người Bà la môn sải tay về phía chân đức Phật, làm bộ như đảnh lễ Ngài, nhón lấy viên ngọc cho vào áo và đi ra.

Vị thí chủ không còn giữ được sự bình thản đối với người Bà la môn. Buổi thuyết pháp vừa xong, chàng đến trước Phật, thưa:

- Bạch Thế Tôn, đã ba lần con để châu báu đầy hương thất ngập đến đầu gối. Con chẳng hề có ý tức giận những người lấy châu báu đi, trái lại con rất hoan hỉ. Nhưng hôm nay con lại nghĩ: "Hy vọng người Bà la môn kia không lấy viên ngọc quí khi hắn vào trong.” Ðến lúc thấy hắn lấy viên ngọc đi thật, con không thể giữ nổi bình tĩnh.

Nghe xong, đức Phật bảo:

- Này thiện nam tử, người không thể ngăn cản những người khác lấy của cải của ngươi ư?

Và Ngài dạy chàng một cách. Aparàjita vâng lời, đảnh lễ Phật, phát nguyện:

- Từ nay trở đi, xin cho vua hoặc kẻ trộm dù đông đảo đến mấy cũng không lấy được gia sản con dù một sợi chỉ. Xin cho tài sản con không bao giờ bị lửa đốt, hoặc bị nước cuốn trôi.

Ðức Phật nói:

- Sẽ được vậy.

Và Ngài hồi hướng công đức cho thí chủ.

Ðến ngày khánh thành hương thất, Aparàjita cúng dường vật thực và rất nhiều quà tặng cho sáu triệu tám trăm ngàn vị Tỳ kheo của Tinh xá suốt chín tháng. Hết kỳ cúng dường chàng cúng thêm mỗi vị Tỳ kheo ba y, và cúng nhiều khúc vải may y cho vị Sa di của Tăng đoàn đáng giá đến một ngàn đồng. Làm việc phước thiện như vậy đến mãn kiếp, chàng được tái sanh lên cõi trời. Sau nhiều kiếp ở cõi trời và cõi người, vào thời đức Phật hiện tại, chàng sanh vào nhà một quan Chưởng khố ở Vương Xá, và ở trong thai mẹ chín tháng rưỡi.

Chuyện hiện tại:

B. Quan Chưởng khố Jotika

Vào ngày chàng chào đời, tất cả binh khí trong thành đều xẹt lửa, châu ngọc đeo trên người dân trong thành cũng phát sáng như muốn bốc cháy, cả thành đều sáng rực. Sơm mai ấy, quan Chưởng khố vào cung chầu vua. Ðức vua hỏi:

- Hôm nay tất cả binh khí đều xẹt lửa, cả thành đều phát sáng. Khanh biết lý do vì đâu không?

- Muôn tâu, hạ thần biết lý do.

- Gì vậy, quan Chưởng khố?

- Dạ hôm nay một thần dân của bệ hạ vừa chào đời tại nhà hạ thần. Hiện tượng này xảy ra do phước đức của nó.

- Không biết sau này nó có thành tướng cướp không đây?

- Tâu bệ hạ, không có chuyện ấy. Người vừa chào đời hôm nay phước rất lớn, do một lời phát nguyện.

- Thế thì chú bé phải được nuôi dưỡng chu đáo. Ðây là số tiền trẫm cấp cho khanh mua sữa cho nó.

Vua cấp quan Chưởng khố mỗi ngày một ngàn đồng tiền vàng. Ðến ngày đặt tên, chú được gọi là Jotika, kỷ niệm lúc chú chào đời ánh sáng rực rỡ khắp thành.

Ðến tuổi Jotika lập gia đình, người ta lo dọn đất cất nhà mới, vua Ðế Thích thấy ngai vàng nóng lên: "Chuyện gì đây?" Ngài quan sát biết được họ đang sửa soạn cất nhà cho Jotika, liền nghĩ: "Người thanh niên này sẽ không ở trong ngôi nhà họ cất. Ta có bổn phận phải đến đây.”

Ngài cải trang thành thợ mộc xuống chỗ bọn người đang làm:

- Các ông làm gì thế?

- Chúng tôi sửa sang đất đai để cất nhà cho Jotika.

- Thôi, đi đi. Các ông chẳng xây được nhà cho ông ấy đâu.

Ðế Thích chỉ nhìn mảnh đất rộng đến mười sáu karìsa một lần, lập tức nó trở nên bằng phẳng. Ngài nhìn thêm một lần nữa, nghĩ: "Ðấy hãy nứt ra và mọc lên cho ta một tòa lâu đài bảy tầng toàn bằng bảy báu.”

Một tòa lâu đài như vậy hiện ra. Ðế Thích lại nhìn lần thứ ba, nói thầm: "Hãy mọc cho ta bảy bức tường bao quanh tòa lâu đài.” Các bức tường liền hiện ra. Ðế Thích lại nhìn một lần nữa: "Các cây như ý hãy mọc lên thành vòng bao quanh các tường.” Cây liền hiện ra. Ðế Thích nhìn một lần nữa: "Hãy hiện cho ta bốn vạc đầy châu báu tại bốn góc chân tòa lâu đài.” Bốn vạc châu báu liền có.

Trong số các vạc châu báu, có vạc rộng gần năm cây số, có vạc rộng hơn ba cây số, vạc thì hơn hai cây số, và vạc cuối cùng rộng một cây số. Trường hợp Phật ra đời, các vạc châu báu xuất hiện có đường kính miệng bằng nhau, còn đường kính ở đáy bằng chu vi quả đất. Ðường kính các vạc châu báu xuất hiện tại nhà Jotika không biết rõ được bao nhiêu. Khi chúng hiện ra, châu ngọc đầy ngập giống như hạt thốt nốt căng đầy cơm khi ta cắt bỏ chỗ vỏ đầu hạt vậy. Ngoài ra, tại bốn góc tòa lâu đài còn xuất hiện bốn cây mía bằng vàng, mập mạp như những cây thốt nốt tơ đang độ lớn. Lá mía toàn bằng ngọc quý, thân mía bằng vàng. Người ta cho rằng những cây mía này biểu hiện phước đức của Jotika gieo trồng trong kiếp trước. Bảy lớp cửa tòa lâu đài do bảy dọa xoa canh phòng. Cửa thứ nhất do dạ xoa Jamakolì canh cùng một ngàn quyến thuộc. Cửa thứ hai do dạ xoa Uppala canh với hai ngàn quyến thuộc. Cửa thứ ba do Vajira và ba ngàn quyến thuộc. Cửa thứ tư do Vajirabàhu và bốn ngàn quyến thuộc. Cửa thứ năm do dạ xoa Kasakanda và năm ngàn quyến thuộc. Cửa thứ sáu do dạ xoa Katattha và sáu ngàn quyến thuộc. Cửa thứ bảy do dạ xoa Disàpàmukha và bảy ngàn quyến thuộc. Vậy là tòa lâu đài được canh phòng chặt chẽ cả trong lẫn ngoài. Vua Bình Sa Vương nghe Jokita làm chủ tòa lâu đài bảy tầng bằng bảy báu, có bảy lần tường và cửa bao quanh, và bốn vạc châu báu ở bốn góc, liền ban cho chàng chiếc lọng Chưởng khố. Từ đó, người ta gọi chàng là quan Chưởng khố Jotika.

Thuở ấy, có một phụ nữ từng làm việc phước thiện với quan Chưởng khố Jotika, tái sanh ở Uttarakuru. Chư Thiên mang cô đến ở trong một căn phòng lộng lẫy chẳng kém cung vua, trong tòa lâu đài của Jotika. Cô gái chỉ mang theo làm của hồi môn một nồi gạo chừng nửa lít và ba miếng kính cháy đỏ. Từ đấy, nồi gạo cung cấp đủ cơm cho gia đình Jotika ăn đến hết đời. Người ta kể, nếu họ muốn đổ đầy cơm lên một trăm cỗ xe, nồi gạo vẫn không vơi đi chút nào. Mỗi khi cần nấu, họ chỉ việc lấy gạo cho vào nồi đặt lên ba miếng kính. Chúng cháy đỏ rực lên, khi cơm chín chúng liền tắt. Muốn nấu nước xốt hay món cà- ri, họ cũng làm theo cách ấy. Tất cả thức ăn của gia đình đều chỉ nấu bằng ba tấm kính. Họ sống trong ánh sáng của châu ngọc quí, không biết đến ánh lửa hay đèn.

Tiếng đồn về sự giàu có vinh hiển của quan Chưởng khố Jotika lan khắp xứ Diêm phù đề. Người người lũ lượt kéo nhau di trên những cỗ xe ngựa và đủ thứ xe cộ khác để đến xem. Quan Chưởng khố cho lấy thứ gạo mang từ Uttarakuru nấu cháo yến mạch thết đãi tất cả khách khứa ăn uống thỏa thích. Ông còn loan báo:

- Mọi người được phép tự do lấy quần áo và châu ngọc trên các cây như ý.

Vị thí chủ sai mở vạc châu báu lớn hơn một cây số, phân phát khắp nơi: "Xin mời bà con cứ lấy đủ số châu báu mình cần.”

Dân chúng Diêm phù đề tha hồ hỉ hả khuân vác vàng ngọc đi rồi, vạc châu báu chẳng vơi một ly nào. Người ta cho đây là phước báo do Jotika đã rải đầy châu ngọc trong hương thất Phật. Số người kéo đến lâu đài Jotika để lấy áo quần, châu ngọc, tiền bạc, đông đảo đến nỗi lúc ấy, vua Bình Sa Vương muốn đến xem tòa lâu đài cũng đành chịu. Dần dà, chán chê rồi số người xem từ từ giảm bớt. Vua Bình Sa Vương bèn bảo phụ thân Jotika:

- Trẫm muốn xem lâu đài của con khanh.

- Tâu bệ hạ, xin vâng.

Ông về nhà kêu Jotika:

- Này con, đức vua muốn đến xem lâu đài của con đấy.

- Dạ, tốt thôi, thưa cha. Mời Ngài cứ đến.

Vua ngự giá đến cùng đoàn tùy tùng đông đảo. Ở cổng thứ nhất của tòa lâu đài, một cô nô lệ có nhiệm vụ quét rác. Thấy vua, cô đưa tay ra đỡ. Lầm tưởng là một bà vợ của quan Chưởng khố, vua Bình Sa Vương khiêm tốn từ chối, không chịu đặt tay lên cánh tay cô. Tại các cổng khác cũng có những cô nô lệ giống hệt như thế đưa tay đỡ vua, vua cũng lầm tưởng là vợ quan Chưởng khố nên không chịu vịn tay.

Jotika ra lạy chào vua, đứng sau lưng, thưa:

- Tâu bệ hạ, xin rước bệ hạ vào.

Nhưng vua nhìn xuống mặt đất khảm châu ngọc và thấy như đó là một các hố đầy vàng ngọc sâu thăm thẳm, sâu bằng số một trăm người chồng chất lên nhau. Vua nghĩ: "Người nào đào hầm bẫy ta.” Ngài không dám bước chân tới.

Jotika tiến lên, thưa:

- Tâu bệ hạ, đây chẳng có hầm hố gì cả. Xin bệ hạ bước theo sau hạ thần.

Vua đi lên dấu chân Jotika, rồi từ từ mạnh dạn đi quanh lâu đài, nhìn ngắm từ tầng thấp đến tầng cao nhất.

Lúc ấy, Thái tử A Xà Thế cũng nắm tay cha đi xem. Thái tử nghĩ thầm: "Phụ vương quả thật quá ngốc. Tên Jotika này tuy chỉ là một gia chủ bình thường cũng có được tòa lâu đài bảy báu để ở. Còn phụ vương làm vua lại chỉ có một ngôi nhà gỗ. Ta sẽ lên làm vua ngay, và chẳng để cho gia chủ này ở trong lâu đài một giây nào nữa đâu.”

Vua lên đến tầng chót đã gần đến giờ ăn sáng, liền bảo:

- Này quan đại thần, chúng ta hãy dùng bữa ở đây.

- Tâu vâng, hạ thần cũng sắp xếp như thế. Ðồ ngư thiện đã được chuẩn bị sẵn sàng để dâng bệ hạ.

Vua tắm bằng mười sáu bình nước thơm. Xong, Ngài ngồi trên chiếc sập riêng của Jotika, dưới mái đình cẩn ngọc. Người hầu dâng vua nước rửa tay và dọn món cháo yến mạch đặc trong chiếc đĩa vàng đáng giá đến một ngàn đồng, để trước mặt vua. Tưởng đó là món chính, vua định ăn. Quan Chưởng khố vội tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, đây chưa phải món ăn, chỉ là cháo yến mạch đặc.

Người hầu lúc ấy dâng tiếp món ăn chính đựng trong chiếc đĩa vàng khác, đặt lên đĩa cháo yến mạch. Người ta cho rằng làm như thế, món ăn sau có hương vị tuyệt hảo. Nhà vua dùng rất ngon miệng, đến nỗi đủ rồi mà vẫn cứ ăn.

Quan Chưởng khố sụp lạy, chấp tay cung kính thưa:

- Tậu bệ hạ, chứng ấy là đủ. Cúi xin bệ hạ dừng lại. Nếu không, bệ hạ sẽ không tiêu nổi.

Vua hỏi:

- Này gia chủ, tại sao khanh chê trách thức ăn mình?

- Muôn tâu, hạ thần chẳng dám có ý chê trách. Tất cả đoàn tùy tùng của bệ hạ đều được hạ thần đãi cùng món yến mạch và cà- ri này. Nhưng hạ thần lo cho bệ hạ.

- Sao?

- Nếu lỡ gặp lúc bệ hạ không được khỏe, người ta sẽ nói: "Hôm qua vua ngự thiện ở nhà quan Chưởng khố. Chắc quan cho làm món ăn sao đó mới ra nông nỗi.” Muôn tâu, hạ thần sợ những lời ấy lắm.

- Thôi được. Dẹp thức ăn đi và đem nước cho trẫm.

Nhà vua dùng bữa xong thì đoàn tùy tùng mới được thết đãi, cũng những món ấy.

Trong khi vui vẻ trò chuyện với quan Chưởng khố, vua hỏi:

- Này khanh, không có bà vợ nào của khanh sống tại lâu đài này ư?

- Muôn tâu, có ạ.

- Phu nhân đâu?

- Muôn tâu, bà ấy đang nghỉ trong phòng, không hay có bệ hạ đến.

(Mặc dù vua và đoàn tùy tùng tới chơi từ sáng sớm, phu nhân quan Chưởng khố không hề hay biết)

Quan Chưởng khố nghĩ: "Rõ ràng đức vua muốn gặp phu nhân.”

Ông đến phòng vợ, bảo:

- Ðức vua đã đến Chẳng phải bà có bổn phận đi chào đức vua sao?

Phu nhân vẫn nằm yên không nhúc nhích, chỉ hỏi:

- Ông à, người ông kêu là vua ấy là ai?

- Là quốc vương của chúng ta.

Phu nhân có ý bất mãn:

- Chúng ta còn có vị quốc vương đầy đủ uy quyền đối với chúng ta, nghĩa là việc phước thiện chúng ta đã làm có phần nào lỗi lầm trong ấy. Chắc chúng ta đã thiếu lòng tin, nên vinh hiển như vầy vẫn phải làm thần dân người khác. Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta đã cúng dường thiếu lòng tin, và đây là quả báo.

Trút xong sự bất bình, phu nhân hỏi tiếp:

- Ông à, giờ tôi phải làm gì?

Bà cầm quạt thốt nốt này đến quạt hầu đức vua.

Trong lúc đứng quạt, mùi nước hoa từ long bào vua bay vào mắt làm phu nhân chảy hai dòng lệ. Vua thấy, bảo quan Chưởng khố:

- Này khanh, đàn bà thật kém thông minh. Chắc phu nhân đang nghĩ: "Nhà vua sẽ đoạt hết của cải chồng ta" nên sợ mà khóc đấy. Khanh hãy bảo bà ấy yên tâm. Trẫm chẳng hề khao khát của cải nhà khanh.

- Muôn tâu, không phải bà ấy khóc ạ.

- Vậy thì sao?

- Dạ, chỉ vì mùi nước hoa trên long bào bệ hạ nồng quá làm bà ấy chảy nước mắt thôi. Thật sự, bà ấy chưa bao giờ gần ánh đèn hoặc gần lửa. Khi ăn, khi ngồi, khi nghỉ ngơi cũng chỉ dưới ánh sáng châu ngọc. Muôn tâu, chắc bệ hạ vẫn sử dụng ánh đèn?

- Ðúng vậy.

- Tâu bệ hạ, từ hôm nay xin mời bệ hạ thử sử dụng ánh sáng châu ngọc.

Quan Chưởng khố dâng vua một hòn ngọc cực lớn. Vua ngắm nhìn ngôi nhà hồi lâu, tự nghĩ: "Jotika quả giàu thật.”

Rồi Ngài từ giã.

Chuyện hiện tại:

C. Tôn giả Jatila

Bây giờ nói đến chuyện Jatila.

Thuở ấy, tại xứ Ba La Nại có quan Chưởng khố sinh được cô con gái vô cùng diễm lệ. Khi nàng chừng mười lăm, mười sáu tuổi, cha mẹ buộc phải ở trên tầng cao nhất của tòa lâu đài bảy tầng, trong một căn phòng đẹp không kém cung vua, và chỉ để cô tớ gái ở cùng, canh chừng nàng. Một hôm, mỹ nhân vừa ngước mắt nhìn ra cửa sổ, thần Vijjàdhara bay ngang trông thấy liền say mê nàng. Thần bay qua cửa sổ vào phòng, cùng nàng chung chăn gối. Chẳng bao lâu, nàng thọ thai. Cô tớ gái biết, hỏi:

- Thưa tiểu chủ, thế này là sao?

- Ôi, em đừng nói với ai!

Cô sợ, bèn giữ êm. Mười tháng sau cô chủ sanh một đứa bé trai. Nàng sai mua một chiếc thùng mới đặt đứa nhỏ vào phủ tràng hoa lên trên, biểu cô tớ gái:

- Em hãy đội thùng ra sông Hằng và thả trôi giùm ta.

Nàng dặn thêm:

- Nếu có ai hỏi thùng đựng gì, cứ nói đồ tạ lễ của ta dâng cúng!

Cô tớ gái làm y theo lời chủ.

Dưới hạ lưu sông Hằng, hai phụ nữ đang tắm. Trông thấy chiếc thùng mới bị dòng nước cuốn phăng phăng, một bà kêu lên:

- Cái thùng ấy của tôi đa nghen.

Bà kia la tiếp:

- Trong thùng có cái gì là của tôi đó.

Thùng trôi đến chỗ hai bà. Họ vớt lên và mở ra, thấy chú bé. Bà thứ nhất nói:

- Thằng bé này của tôi. Tôi có nói chiếc thùng ấy của tôi.

Bà kia cãi:

- Nó là của tôi chứ. Tôi đã nói trong thùng có cái gì thì thuộc về tôi mà.

Hai bà tranh cãi mãi, sau bèn kéo nhau ra tòa. Các vị quan tòa cũng bất lực, không dàn xếp nổi nên đưa lên triều đình. Vua lắng nghe hai bà cãi lý rồi phán:

Bà này lấy đứa nhỏ. Bà kia lấy chiếc thùng.

Người phụ nữ được đứa bé lại là một thí chủ của Tôn giả Mahà Kaccàna. Bà nuôi chú bé với ý định: Ta sẽ cho thằng bé gia nhập Tăng đoàn của Tôn giả.

Ngày lễ sinh nhật đến, cậu được đem tắm cho thật sạch những vết do sanh sản, tóc cậu bỗng biến thành bím, do đó cậu được đặt tên Jatila. Khi cậu bé bắt đầu biết đi, Tôn giả đến nhà khất thực. Bà Phật tử đem ghế mời Tôn giả ngồi, cúng dường thức ăn. Thấy chú bé, Tôn giả hỏi:

- Này thiện tín, bà có con trai sao?

- Vâng, bạch Ðại đức. Con nuôi với ý định xin cho nó gia nhập Tăng đoàn Tôn giả. Xin Tôn giả rủ lòng thương nhận nó.

- Ðược.

Và Tôn giả dắt chú bé về.

Vừa đi Tôn giả vừa nghĩ: "Chẳng biết nó đủ phước làm một gia chủ giàu có không đây.” Ngay đó, Tôn giả biết được cậu có phước báo rất lớn, sau sẽ giàu sang tột bực. Nhưng giờ cậu còn bé quá, chưa hiểu biết chín chắn. Tôn giả bèn dẫn cậu đến thành Hoa Thị, vào nhà một thí chủ quen. Gia chủ đảnh lễ Tôn giả, thấy cậu bé, liền hỏi:

- Bạch Ðại đức, cậu bé này theo Ngài?

- Phải, đạo hữu ạ. Cậu bé sẽ vào Tăng đoàn. Mà cậu còn bé quá. Ông hãy cho cậu ở đây ít lâu.

- Thưa vâng.

Vị thí chủ thương yêu chăm sóc cậu như con. Nhà ông tích trữ hàng hóa cả mười hai năm rồi. Một hôm, có việc đi qua làng bên, ông đem hết số hàng hóa tồn trữ chất trong một cửa tiệm, bảo cậu ở đó và dặn dò giá tiền của mỗi món hàng.

- Món này giá chừng ấy chừng ấy, món kia giá như vậy, như vậy. Nếu con nghe người ta trả giá ấy, nhớ bán nhé.

Xong, ông ra đi.

Chư Thiên bảo hộ thành đưa hết khách hàng đến tiệm cậu, cả những người cần mua hạt tiêu hoặc hạt thì là. Kết quả: Chỉ một ngày cậu bán sạch số hàng tích trữ mười hai năm. Gia chủ về thấy cửa tiệm trống trơn, hỏi:

- Con ơi, hàng mất hết rồi sao?

- Dạ, đâu có mất. Ngài để lại món gì con đều bán hết theo lời Ngài dạy. Ðây là tiền bán.

Gia chủ vô cùng hân hoan.

- Cậu bé này đúng là quí nhân. Cậu có thể sống bất cứ đâu cũng no đủ.

Cô con gái ông đã đến tuổi kén chồng. Ông kêu người cất nhà và gả con cho cậu. Nhà xây xong, ông giục con rể:

- Con về nhà riêng ở đi.

Jatila vừa đặt chân lên ngưỡng cửa ngôi nhà chàng, đất sau nhà bỗng nứt ra và một núi vàng cao bốn chục mét vọt lên. Vua nghe tin có núi vàng từ dưới đất hiện lên sau nhà Jatila liền ban cho chàng chiếc lọng quan Chưởng khố. Và chàng được gọi là Chưởng khố Jatila.

Quan Chưởng khố có ba con trai. Khi chúng trưởng thành, ông muốn xuất gia làm Sa môn. Ông thầm tính: "Nếu có vị Chưởng khố nào gia thế giàu có như ta, họ mới cho ta xuất gia. Và ông quyết tìm cho ra. Ông cho đúc một viên gạch, một chiếc roi, một dây thừng bằng vàng, trao cho gia nhân bảo:

- Các ông mang những thứ này đi khắp xứ Diêm phù đề, giả bộ như không có mục đích gì, ngầm kiếm cho ta một quan Chưởng khố cũng giàu có ngang bằng ta. Kiếm được rồi thì về đây.

Ðám gia nhân đi từ vùng này đến xứ nọ, cho đến một hôm họ đặt chân đến thành Bhaddiya.

Quan Chưởng khố Ram, Mendaka đang ở tại thành, trông thấy đám gia nhân của Jatila, hỏi:

- Này các bạn, các bạn đi đây đi đó có mục đích gì không?

- Chúng tôi chẳng có mục đích gì cả.

Quan Chưởng khố thầm nghĩ: "Không thể có chuyện mấy người này đi đây đi đó tay cầm mấy vật kia, lại không có mục đích. Rõ ràng họ đang đi xem xét khắp vùng.” Ông nói thêm với đám gia nhân:

- Mời các bạn vào xem vườn nhà chúng tôi.

Ðám người kéo nhau vào, thấy trên một khu đất thật rộng có những con cừu vàng to bằng con voi, hoặc bằng con ngựa, hoặc bằng bò tót, đang nhảy nhót lung tung, đập lưng vào nhau, cày đất nứt nẻ lên từng đường. Ði quanh nhìn ngắm đám cừu hồi lâu, họ rời sân. Quan Chưởng khố Ram hỏi:

- Sao, các bạn gặp thứ muốn tìm rồi chứ?

- Bẩm vâng, thưa đại quan, chúng con đã tìm được.

- Vậy thì xin chào.

Ông ra dấu từ giã. Bọn gia nhân đi thẳng về nhà chủ mình. Quan Chưởng khố Jatila hỏi:

- Các bạn kiếm được quan Chưởng khố nào giàu bằng nhà ta không?

- Thưa chủ nhân, Ngài giàu chưa thấm tháp vào đâu. Quan Chưởng khố Ram ở thành Bhaddiya giàu tới mức vầy nè.

Họ kể lại chuyện.

Nghe xong, quan Chưởng khố rất hoan hỉ, nghĩ thầm: "Ta kiếm được một người rồi. Chẳng biết còn ai nữa không?”

Ông đưa cho gia nhân một tấm chăn đáng giá một trăm ngàn đồng tiền vàng, bảo:

- Các bạn hãy đi kiếm xem có nhà quan Chưởng khố nào như vậy nữa không.

Chuyến này họ đến thành Vương Xá, chất một đống củi gần nhà quan Chưởng khố Jotika và châm lửa đốt. Người ta hỏi lý do, họ đáp:

- Chúng tôi mang theo một tấm chăn rất quí, định bán mà chưa kiếm được người mua. Sợ mang theo bị cướp, chúng tôi tính đốt mới tiếp tục cuộc hành trình được.

Quan Chưởng khố Jotika thấy họ, hỏi gia nhân:

- Mấy người kia làm gì thế?

Sau khi nghe chuyện, ông cho gọi họ đến, bảo:

- Tấm chăn giá bao nhiêu?

- Thưa, một trăm ngàn đồng.

Jotika kêu đưa cho họ một trăm ngàn đồng, rồi nói:

- Các ông đem giùm tấm chăn này cho cô tớ gái đang quét rác ở cổng lâu đài ta. Cô kia nhận tấm chăn òa lên khóc, vào gặp quan, nói:

- Thưa chủ nhân, nếu con có lỗi lầm gì sao Ngài không đánh đập con? Ngài lại cho con tấm chăn thô xấu thế này. Con làm sao may quần áo, may áo choàng?

- Ta cho cô tấm chăn chẳng phải để cô may đồ. Cô có thể cuộn nó lại để ở chân giường, sau khi rửa chân bằng nước thơm, cô dùng nó lau chân. Ðược chưa?

- Bẩm vâng, thế thì được ạ.

Lúc ấy, cô gái mới chịu ôm tấm chăn đi ra.

Ðám gia nhân Jatila chứng kiến sự việc ấy, về nhà nghe chủ hỏi:

- Các bạn kiếm được ai giàu bằng nhà ta chưa?

Họ vội đáp:

- Thưa chủ nhân, Ngài giàu thực chẳng thấm vào đâu. Quan Chưởng khố Jotika thành Vương Xá giàu tới vậy nè.

Họ miêu tả cảnh giàu sang trong lâu đài Jotika, rồi kể câu chuyện tấm chăn. Nghe xong, ông càng vui vẻ, nói:

- Bây giờ ta có thể xin xuất gia làm Sa môn được rồi.

Ông vào Hoàng cung tâu vua:

- Tâu bệ hạ, thần muốn xuất gia làm Sa môn.

- Ðược thôi, khanh cứ làm theo ý muốn.

Jatila về nhà gọi hết các con đến, trao cho con trai trưởng chiếc xẻng bằng vàng, bảo:

- Con đi ra núi vàng phía sau nhà lấy cho ta một cục vàng.

Người con cầm xẻng xúc vào núi vàng, anh cảm thấy như xúc vào đá cứng. Jatila lấy xẻng trong tay con trai trưởng, trao cho con trai thứ, bảo làm y như trước. Người con này cũng như anh, xúc vào vàng chỉ cảm thấy như xúc vào đá tảng. Jatila trao xẻng cho con út. Anh này cầm xẻng xúc thì vàng rời ra như đất mềm. Quan Chưởng khố bảo:

- Thôi, đủ rồi con.

Ông bảo hai đứa con lớn:

- Núi vàng này không phải của các con. Nó chỉ thuộc về ta và thằng út. Các con hãy cùng nó chung hưởng giàu sang.

Tại sao núi vàng chỉ thuộc về người cha và đứa con út? Tại sao quan Chưởng khố bị bỏ trôi sông từ lúc còn sơ sanh? Ðây là quả báo của những việc làm trong một kiếp trước.

Chuyện quá khứ:

D. Ông Thợ Vàng Và Ba Người Con.

Một kiếp xa xưa, khi ngôi tháp thờ đức Phật Ca Diếp đang được xây cất. Có một vị A la hán đi đến hỏi các thợ xây:

- Các bạn, tại sao mặt tháp phía Bắc xây nửa chừng thế này?

- Dạ, vì không đủ vàng.

- Tôi sẽ vào làng kêu gọi mọi người cúng dường. Các ông hãy gắng hết lòng lo công việc.

Ngài vào thành kêu gọi:

- Hỡi thiện nam, tín nữ. Hiện không có đủ vàng xây mặt tháp phía Bắc. Xin các thí chủ đóng góp.

Sau đó, Ngài đến nhà ông thợ vàng. Gặp đúng lúc ông đang cãi nhau với vợ. Tôn giả nói:

- Vâng không đủ xây mặt Bắc ngôi tháp ông nhận lãnh làm. Việc này ông cần phải biết rõ. Ðang tức giận bà vợ, ông đáp:

- Ông hãy liệng đức Thế Tôn của ông xuống sông rồi đi cho khuất mắt.

Bà vợ trách chồng:

- Ông đã phạm tội đại ác. Ông giận tôi thì cứ đánh mắng tôi, sao lại sân hận với chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai?

Người thợ vàng lúc ấy mới thấy hối tiếc. Ông sụp lạy vị A la hán thưa:

- Xin Ðại đức hỷ xả cho con.

- Ông đâu có nói gì ta. Hãy sám hối đức Thế Tôn.

- Bạch Ðại đức, con phải làm gì để được Phật xá tội?

- Này thiện hữu, ông hãy làm ba bình bông bằng vàng đặt lên hòm đựng Xá Lợi Phật, rồi nhúng ướt tóc và quần áo ông để đến sám hối đức Thế Tôn.

- Thưa vâng, bạch Ðại đức.

Trong lúc làm những bông hoa vàng, ông gọi người con trai trưởng lên bảo:

- Con ạ, cha đã nói lời thô ác về đức Thế Tôn. Sau khi làm xong những hoa này cha sẽ đặt lên hòm Xá Lợi Phật và sám hối. Con đi theo cha nhé.

Người con không muốn đi, đáp:

- Ðâu phải vì con mà cha nói lời thô ác ấy. Cha đi một mình vậy.

Ông kêu người con thứ. Y cũng không muốn đi nên trả lời như anh. Ðến người con út, cậu thưa:

- Bổn phận con cái là phải làm những gì cần làm.

Cậu hứa đi cùng cha đến tháp Phật và phụ giúp ông làm các bông hoa vàng. Xong ba bình bông, ông nhắm bề rộng của cái hòm đựng Xá Lợi Phật, đặt chúng lên, nhúng ướt tóc và quần áo rồi đến sám hối Phật.

Chuyện hiện tại:

E. Phần Kết.

Vì nguyên nhân trên, liên tiếp trong bảy kiếp Jatila vừa chào đời đã bị bỏ xuống sông, kiếp này là kiếp cuối cùng. Cũng do vì không phụ giúp cha nên hai người con lớn chẳng có phần được hưởng núi vàng, chỉ có người cha và con út được.

Quan Chưởng khố sau khi dặn bảo các con liền xuất gia làm Sa môn đệ tử Phật. Chỉ vài ngày sau, ông đắc quả A la hán.

Một hôm đức Phật và năm trăm Thầy Tỳ kheo đi khất thực đến nhà các con của Jatila, họ cúng dường vật thực cho Phật và chư Tăng suốt nửa tháng. Tối lại, các Thầy Tỳ kheo vào Pháp đường bàn tán:

- Này huynh Jatila, bây giờ huynh có tiếc nhớ núi vàng khổng lồ và các con của huynh không?

- Thưa chư huynh, tôi chẳng tiếc nhớ chúng, cũng không hãnh diện vì chúng.

Các Thầy bảo nhau:

- Tôn giả Jatila nói dối, phạm tội vọng ngữ.

Ðức Thế Tôn nghe các Thầy nói, liền dạy:

- Này các Tỳ kheo, đúng là ông ấy chẳng tiếc nhớ hoặc hãnh diện.

Ngài nói kệ:

(416) Ai ở đời đoạn ái,

Bỏ nhà, sống xuất gia,

Ái hữu được đoạn tận,

Ta gọi Bà la môn.

34. Vua A Xà Thế Ðánh Chiếm Lâu Ðài Jotika

Ai ở đời đoạn ái...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Trúc Lâm, liên quan đến Tôn giả Jotika.

Sau khi âm mưu với Ðề Bà Đạt Đa giết cha là vua Bình Sa Vương để lên ngôi, vua A Xà Thế tự nghĩ: "Bây giờ ta sẽ chiếm tòa lâu đài quan Chưởng khố.” Vua nai nịt, chuẩn bị khí giới như lúc ra trận, kéo quân đi. Nhưng vừa thấy bóng mình và đoàn quân phản chiếu trên các bức tường chạm châu ngọc, vua nghĩ: "Chủ nhân đã sẵn sàng khí giới để chiến đấu, đang cùng gia nhân tiến ra" nên không dám tiến lại gần.

Hôm ấy ngẫu nhiên đúng vào ngày quan Chưởng khố quyết định bắt đầu ăn chay. Từ sáng sớm sau bữa điểm tâm, ông đến Tinh xá ngồi nghe Phật giảng pháp. Thần dạ xoa Yamakoli gác cổng thứ nhất tòa lâu đài thấy vua A Xà Thế, bèn la:

- Ngươi đi đâu vậy?

Thần đánh cho đoàn binh vua thua liểng xiểng, tháo chạy tán loạn, và còn rượt theo đánh nữa. Vua A Xà Thế chạy trốn vào chính ngôi Tinh xá quan Chưởng khố đang ngồi nghe pháp. Thấy vua ông đứng dậy:

- Tâu bệ hạ, có việc gì không?

- Này khanh, làm sao mà vừa điều khiển gia nhân đánh với trẫm xong, khanh lại có thể ngồi đây giả vờ nghe pháp?

- Muôn tâu, bệ hạ đã đến đánh chiếm nhà hạ thần sao?

- Ðúng vậy.

- Tâu bệ hạ, một ngàn ông vua cũng không đoạt được nhà hạ thần.

Vua nổi giận:

- Người định chiếm ngôi chăng?

- Tâu không, hạ thần chẳng có ý định làm vua. Nhưng vua hoặc giặc cướp đều không thể cưỡng đoạt của cải nhà hạ thần, dù một sợi chỉ.

- Vậy ngươi có đồng ý để ta lấy tòa lâu đài không?

- Tâu bệ hạ, trên tay hạ thần đây đang đeo hai mươi chiếc nhẫn. Hạ thần không cho bệ hạ. Bệ hạ thử lấy xem.

Vua ngồi thu mình lấy đà, nhảy lên không trung tới chín thước. Sau đó vua đứng dậy, phóng lên cao bốn mươi thước. Dù sức mạnh vô song, vua vặn vẹo cách nào cũng chẳng lôi được một chiếc nhẫn ra khỏi tay quan Chưởng khố. Sau cùng, quan Chưởng khố nói:

- Tâu bệ hạ, xin bệ hạ trải áo choàng ra.

Vua vừa trải áo, quan Chưởng khố duỗi hai bàn tay, hai mươi chiếc nhẫn rơi xuống.

- Muôn tâu, bệ hạ thấy đó. Không ai có thể cưỡng đoạt của cải hạ thần được.

Hành vi của vua làm quan Chưởng khố rất ngao ngán. Ông thưa:

- Tâu bệ hạ, xin cho phép hạ thần được xuất gia làm Sa môn.

Vua nghĩ thầm: "Quan Chưởng khố mà làm Sa môn, ta sẽ chiếm đoạt tòa lâu đài dễ dàng.”

Vua bèn bảo:

- Khanh cứ xuất gia.

Jotika xuất gia làm Sa môn đệ tử Phật, chẳng bao lâu đã đắc quả A la hán, được mọi người biết đến dưới tên Tôn giả Jotika. Ông vừa đắc quả, tất cả của cải châu ngọc, phú quí thế gian của ông đều biến mất hết, và chư thiên đưa cô vợ Satulakàyi của ông về xứ Uttarakuru.

Một hôm, các Thầy Tỳ kheo hỏi Tôn giả Jotika:

- Này huynh Jotika, huynh có nhớ tiếc tòa lâu đài hoặc vợ huynh không?

- Thưa chư huynh, không.

Các Thầy đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, Thầy Tỳ kheo này nói dối, phạm tội vọng ngữ.

Ðức Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, đúng là ông ấy chẳng tiếc nhớ gì những thứ ấy.

Ngài nói kệ:

(416) Ai ở đời đoạn ái,

Bỏ nhà, sống xuất gia,

Ái hữu được đoạn tận,

Ta gọi Bà la môn.

35. Người Diễn Kịch Câm Xuất Gia Làm Sa Môn

Bỏ trói buộc loài người...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Trúc Lâm, liên quan đến một Thầy Tỳ kheo trước khi xuất gia, là diễn viên kịch câm.

Có một diễn viên kịch câm đi trình diễn lang thang đây đó. Một hôm nghe Phật thuyết pháp xong, ông xin xuất gia làm Sa môn và đắc quả A la hán. Khi đến làng kia khất thực, đức Phật và chư Tăng trông thấy một diễn viên kịch câm khác đang biểu diễn. Các Thầy hỏi Thầy Tỳ kheo cựu diễn viên:

- Này huynh, ở đàng kia có một diễn viên kịch câm đang diễn trò như huynh hồi ấy. Huynh có nhớ tiếc cuộc sống cũ không?

- Thưa chư huynh, không.

Các Thầy bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, Thầy Tỳ kheo này nói dối, phạm tội vọng ngữ.

Ðức Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, ông ấy đã thoát được mọi buộc ràng.

Và Ngài nói kệ:

(417) Bỏ trói buộc loài người,

Vượt trói buộc cõi trời,

Giải thoát mọi buộc ràng,

Ta gọi Bà la môn.

36. Người Diễn Kịch Câm Xuất Gia Làm Sa Môn

Bỏ điều ưa, điều ghét...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Trúc Lâm, liên quan đến một Thầy Tỳ kheo trước khi xuất gia là một diễn viên kịch câm.

Câu chuyện cũng giống như chuyện trước, chỉ khác trong trường hợp này, đức Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, ông ấy đã bỏ điều ưa, điều ghét.

Ngài nói kệ:

(418) Bỏ điều ưa, điều ghét,

Mát lạnh, diệt sanh y,

Bậc anh hùng chiến thắng,

Nhiếp phục mọi thế giới,

Ta gọi Bà la môn.

37. Người Gõ Ðầu Lâu

Ai hiểu rõ hoàn toàn...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Vangìsa.

Thuở ấy, tại thành Vương Xá có một người Bà la môn tên Vangìsa, có tài biết được người chết sanh về đâu. Ông cứ việc gõ lên chiếc đầu lâu, rồi nói:

- Người có chiếc đầu lâu này đã bị đọa Địa ngục. Người kia đã hóa kiếp làm súc sanh, người này vào đường Ngạ quỷ, đầu lâu kia là của một người đã sanh trở lại cõi người.

Một nhóm người Bà la môn suy tính: "Chúng ta có thể dùng người này để chinh phục lòng tin mọi người.” Họ khoác lên mình Vangìsa hai chiếc áo rộng màu đỏ, đưa ông đi khắp vùng và loan báo:

- Người Bà la môn Vangìsa này có thể gõ vào đầu lâu người chết và biết người chết đã sanh ở cõi nào. Các bạn mau mau đến hỏi xem người thân của mình chết rồi đi đâu.

Người ta kéo nhau đến, người đưa mười đồng, kẻ hai mươi đồng, hoặc cả trăm đồng tùy túi tiền, rồi hỏi về số phận của những người thân đã chết của họ.

Lang thang khắp nơi, một hôm đến thành Xá Vệ, họ ở lại gần Tinh xá Kỳ Viên. Sau bữa ăn sáng, thấy người người lũ lượt cầm hương hoa các thứ đi nghe giảng pháp, những người Bà la môn liền hỏi:

- Các ông các bà đi đâu vậy?

- Ðến Tinh xá nghe pháp.

- Nghe pháp thì được gì? Không có ai hơn ông bạn Vangìsa của chúng tôi đâu. Ông ấy mà gõ lên đầu lâu người chết là biết được người ấy tái sanh về đâu. Các ông bà đến hỏi thăm về người thân của mình đi.

Nhóm Phật tử đáp:

- Cái ông Vangìsa ấy biết gì? Ðâu có ai bằng được đức Thế Tôn.

Bọn Bà la môn cãi:

- Không ai bằng Vangìsa.

Hai bên tranh luận om sòm. Cuối cùng, nhóm Phật tử bảo:

- Chúng ta hãy cùng nhau đi xem thử ông Vangìsa của các ông hay đức Thế Tôn của chúng tôi ai hơn nhé!

Họ kéo nhau đến Tinh xá.

Ðức Phật biết hết chuyện nên cho lấy năm chiếc sọ đặt thành một hàng, sọ thứ nhất của một người đã bị đọa Địa ngục, sọ thứ hai bị đọa làm súc sanh, sọ thứ ba vào cõi người, sọ thứ tư sanh về cõi trời và sọ thứ năm của một vị đã đắc A la hán. Khi mọi người đến nơi, Phật hỏi Vangìsa:

- Người ta nói ông có thể gõ vào sọ người chết và nói được người đó đã đi về cõi nào phải không?

- Vâng.

- Vậy sọ này của ai?

- Ðây là sọ một người đã bị đọa Địa ngục.

- Hay thay!

Ðức Phật tán thán xong hỏi về ba chiếc sọ kế tiếp. Y đều trả lời đúng. Sau mỗi câu trả lời đúng, đức Phật lại tán thán. Cuối cùng, Ngài hỏi về chiếc sọ thứ năm:

- Sọ này của ai?

Vangìsa gõ lên đầu lâu, rồi thú thật không biết người ấy đã sanh về đâu. Ðức Phật nói:

- Vangìisa, ông không biết ư?

- Thưa không, con không biết.

- Ta biết.

Vangìsa thỉnh cầu:

- Xin Ngài hãy dạy cho con thuật này.

- Ta không thể dạy cho một người không phải Sa môn.

Ông Bà la môn nghĩ: "Giá ta biết được huyễn thuật này, ta sẽ là người số một trên toàn cõi Ấn Ðộ.” Y bảo những người Bà la môn đồng bọn:

- Các bạn hãy tìm chỗ ở lại đâu đó vài ngày. Tôi định xuất gia làm Sa môn.

Y xin xuất gia làm Sa môn đệ tử Phật, và được gia nhập Tăng đoàn. Các Thầy Tỳ kheo gọi là Tôn giả Vangìsa. Ðức Phật trao cho Thầy Tỳ kheo đề mục Thiền quán là ba mươi hai thứ cấu tạo nên thân.

- Ông phải lặp đi lặp lại cho thuộc những thứ này mới học huyễn thuật kia được.

Thầy y theo lời Phật dặn. Các người Bà la môn thỉnh thoảng đến thăm chừng, hỏi:

- Ông học được huyễn thuật chưa?

- Xin các bạn đợi ít lâu. Tôi đang học đây.

Vài ngày sau, Thầy đắc A la hán. Khi những người Bà la môn đến nữa, Thầy nói:

- Này các huynh đệ, bây giờ tôi không thể học nó.

Các Thầy Tỳ kheo nghe vậy, bèn đến bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, Thầy Tỳ kheo này nói dối, phạm tội vọng ngữ.

Ðức Phật bảo:

- Này các Tỳ kheo, chớ nói thế. Ông ấy giờ đây biết hết đường sanh tử của chúng sanh.

Ngài nói kệ:

(419) Ai hiểu rõ hoàn toàn,

Sanh tử các chúng sanh,

Không nhiễm, khéo vượt qua,

Sáng suốt châu giác ngộ,

Ta gọi Bà la môn.

(420) Với ai, loài trời, người,

Cùng với Càn thát bà,

Không biết chỗ thọ sanh,

Lậu tận bậc La hán,

Ta gọi Bà la môn.

38. Ông Bà Visàkha

Người không sở hữu gì...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Trúc Lâm, liên quan đến Tỳ kheo ni Dhammadinnà.

Khi Tỳ kheo ni Dhammadinnà chưa xuất gia, chồng bà tên Visàkha là một Phật tử thuần thành. Một hôm, nghe Phật giảng pháp liền đắc A na hàm. Sau đó ông nghĩ thầm: "Bây giờ, ta nên giao hết tài sản của cải cho Dhammadinnà.” Trước đây, theo lệ thường mỗi khi về nhà, vừa thoáng thấy Dhammadinnà nhìn ra cửa sổ, ông đã mỉm cười với bà. Nhưng hôm ấy, bà đang đứng ngay tại cửa sổ, ông đi ngang chẳng hề ngó ngàng đến. Bà suy nghĩ: "Vậy là sao đây? Thôi được, đến bữa ăn mình sẽ biết chuyện gì.” Tới trưa, bà dọn cơm cho ông như mọi ngày. Thay vì nói câu thường lệ: "Nàng hãy như mọi ngày. Thay vì nói câu thường lệ: "Nàng hãy ngồi xuống cùng ăn với tôi nào.” Hôm nay ông ăn trong yên lặng, chẳng hé môi thốt một lời. Bà nghĩ tiếp: "Chắc ổng giận gì rồi đa.”

Xong bữa cơm, Visàkha kiếm chỗ ngồi thoải mái rồi gọi Dhammadinnà đến bên bảo:

- Dhammadinnà, tất cả của cải trong nhà này từ nay thuộc về nàng. Hãy nhận lấy!

Bà nghĩ: "Nếu giận, chẳng ai lại trao tặng của cải, mời nhận. Không biết chuyện gì nữa đây kìa?" Yên lặng một lúc, bà mời hỏi:

- Nhưng còn chàng thì sao?

- Kể từ hôm nay, tôi không dính dáng gì đến chuyện thế tục nữa.

- Ai mà đi hốt đàm dãi ông nhổ ra? Ông hãy cho phép tôi xuất gia làm Tỳ kheo ni luôn.

- Tốt lắm!

Visàkha chấp nhận ngay. Ông đưa bà đến Tinh xá của các Tỳ kheo ni với nhiều tặng phẩm quí giá, xin cho bà được gia nhập Tăng đoàn chư Ni. Thọ giới cụ túc xong, bà được mọi người kêu Tỳ kheo ni Dhammadinnà.

Bà thích cuộc sống độc cư nên theo các Tỳ kheo ni về miền quê. Sau một thời gian, bà đắc A la hán và cả thần thông. Bà nghĩ: "Bây giờ, những người thân của ta sẽ vì ta mà làm việc phước thiện.” Bà quay về Vương Xá. Cư sĩ Visàkha nghe tin bà về, thầm nghĩ: "Bà ấy trở về vì cớ gì nhỉ?” Ông đến Tinh xá các Tỳ kheo ni, gặp vị Tỳ kheo ni vợ cũ của mình, ông đảnh lễ và cung kính ngồi qua một bên.

Ông lại thầm tính: "Nếu bây giờ mình hỏi: Bạch sư cô, xin hỏi có phải sư cô đã chán việc tu hành không? thì thực chẳng tiện chút nào. Thôi mình sẽ hỏi như thế này.” Ông hỏi bà một câu về quả vị Tu đà hoàn, bà lập tức trả lời rất chính xác. Cư sĩ tiếp tục hỏi về các quả vị cao hơn, và cuối cùng, hỏi đến A la hán. Bà tán thán:

- Lành thay, huynh Visàkha! Nếu huynh muốn biết về quả vị A la hán, xin đến yết kiến đức Thế Tôn và tham vấn Ngài.

Visàkha lại đảnh lễ bà, rồi đến gặp Phật kể Ngài nghe câu chuyện của họ. Ðức Thế Tôn bảo:

- Ðệ tử ta, Dhammadinnà, thật khéo nói. Còn về câu hỏi ông hãy lắng nghe.

Phật giảng pháp xong, nói bài kệ:

(421) Ai quá, hiện, vị lai,

Không một sở hữu gì,

Không sở hữu, không nắm,

Ta gọi Bà la môn.

39. Angulimàla, Vô Não

Bậc trâu chúa, thù thắng...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến Tôn giả Angulimàla.

Câu chuyện này đã được kể trong phần chú giải bài kệ bắt đầu bằng câu: "Keo kiết không sanh thiên... ”

Các Thầy Tỳ kheo hỏi Angulimàla:

- Này huynh Angulimàla, khi huynh thấy con voi độc cầm lọng đứng trước mặt, huynh không sợ sao?

- Không, thưa chư huynh, tôi chẳng sợ.

Các Thầy Tỳ kheo bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, Angulimàla nói dối.

Ðức Phật dạy:

- Này các Tỳ kheo, Angulimàla không còn sợ hãi. Bởi vì, trong số những bậc đại sĩ đã xa lìa tham ái, những Tỳ kheo như Angulimàla là tôn quí nhất, và không sợ hãi nữa.

Ngài nói kệ:

(422) Bậc trâu chúa, thù thắng,

Bậc anh hùng, đại sĩ,

Bậc chiến thắng, không nhiễm,

Bậc tẩy sạch, giác ngộ,

Ta gọi Bà la môn.

40. Phạm Hạnh Của Thí Chủ Quyết Ðịnh Phước Báu Cúng Dường

Ai biết được đời trước...

Ðức Thế Tôn dạy những lời này khi Ngài đang ở tại Kỳ Viên, liên quan đến câu hỏi của ông Bà la môn Devahita.

Một hôm, đức Thế Tôn bị chứng khó chịu trong người, liền bảo Tôn giả Upavàna đến nhà người Bà la môn tên Devahita xin nước nóng. Tôn giả đến, nói rõ chứng bệnh của đức Phật và xin ông Bà la môn nước nóng. Ông nghe vậy vô cùng hoan hỉ:

- Thật may mắn cho tôi quá, được dịp cúng nước nóng cho bậc Giác ngộ Vô thượng.

Ông lấy nước nóng và một bình mật mía đưa Tôn giả, ra lệnh cho một gia nhân mang phụ nước nóng đi.

Tôn giả thỉnh Phật tắm nước nóng, và pha mật bằng nước ấm cho Ngài dùng. Ngay sau đó cơn đau của Ngài dịu xuống.

Ông Bà la môn thầm nghĩ: "Người ta nên cúng dường ai để được phước lớn? Ta sẽ hỏi đức Thế Tôn.”

Ông đến gặp Phật và đọc một bài kệ:

Bố thí ai phước lớn?

Ai nên được cúng dường?

Thí chủ phải thế nào?

Mới được phước vô lượng?

Ðức Phật dạy:

- Một người Bà la môn như sau, cúng dường sẽ được phước báo rất lớn.

Ngài nói kệ:

(423) Ai biết được đời trước,

Thấy thiên giới, đọa xứ,

Ðạt được sanh diệt tận,

Thắng trí, tự viên thành,

Bậc Mâu Ni đạo sĩ,

Viên mãn mọi thành tựu,

Ta gọi Bà la môn.

Phần Kết

Ðấng Pháp Vương Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đã đạt đến Niết bàn tối thượng. Những bài kệ Pháp Cú này được thốt ra từ kim khẩu của bậc Thánh Trí Ðại hùng Ðại lực ấy.

Ngài đã dạy Tứ Ðế bằng 423 bài kệ. Và có đến 299 câu chuyện ra đời.

Ðược sống trong ngôi tu viện do triều đình xây cất tại khuôn viên Hoàng cung đức vua Sirikùta, lòng tôi tràn ngập sự biết ơn.

Tôi biên soạn nên tập chú giải đúng đắn này về các bài kệ ấy, gồm 72 phần, để dễ bề đọc tụng, hoặc kể.

Phù hợp với ý và lời của các bài kệ, đặt cơ sở trên chánh pháp độ sanh của bậc Ðạo sư trời và người.

Với công đức cúng dường này, xin nguyện cho tất cả ước vọng chính đáng của hết thảy chúng sanh được thành tựu, đơm kết thành hoa ngọt trái lành.

Xin chúc chư vị được thịnh vượng, an lạc và thân thể khang kiện!

(Hết tập 3)