Ngày Lễ Hội Truyền Thống

image

Những bài viết trong tập sách này, xin được xem là những lời ca xưng tán ý nghĩa cao cả của ngày Vu Lan, ngày hội lớn của Phật giáo và của tất cả những ai muốn có một hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc sống hiện tại. Nhiều nốt nhạc trong các câu ca ấy có sự trùng lập vì cùng mang một chủ đề; nhưng theo thiển ý, dù lặp lại trăm vạn lần cũng chưa đủ để tôn vinh những nét đẹp của ngày Lễ hội truyền thống này. Và bổn phận của người con Phật chúng ta là cố gắng phát đi những tín hiệu tình thương đến khắp nơi khắp chốn, góp công sức nhỏ nhoi của mình vào việc làm thanh sạch môi sinh và tạo dựng một không gian yêu thương hòa ái.

Ngày Lễ Hội Truyền Thông

Thích Thông Huệ

Xin cảm ơn đạo hữu Bùi Hữu Huy đã gởi những bài viết này cho trang nhà, với sự đồng ý và duyệt qua bởi tác giả. BTTDTKVN

Mục lục

Lời tựa

1. Ngày Lễ hội truyền thống

2. Mùa An cư - Tự tứ

3. Thông điệp Vu Lan

4. Vu Lan và truyền thống Báo Hiếu

5. Ngày Lễ hội tình người

6. Báo Hiếu - Báo Ân

7. Vu Lan - Truyền thống của Ðạo Hiếu

8. Ðạo Hiếu của người con Phật

9. Nhân ngày Vu Lan bàn về Nhân Quả

10. Tình Thầy trò

11. Hạnh phúc dâng Mẹ

12. Cương yếu Kinh Ðịa Tạng

Lời tựa

Chúng ta đang sống trong môi trường ngày càng quen với sự chết chóc thương tật của đồng loại, càng hối hả trong hưởng thụ vật chất, càng bị lôi dẫn bởi những đòi hỏi bản năng. Mỗi người tự tạo cho mình một ốc đảo, tự trang bị những phương tiện bảo vệ, và vô tình hay cố ý làm hại những sinh linh ở ngoài chốn nương thân ấy vì lợi ích của riêng mình. Và từng ngày trôi qua, trái đất nóng dần lên vì khí thải độc hại, vì hiệu ứng nhà kính và vì hận thù tàn bạo lòng người. Con người cứ thế từng bước tiến dần đến chỗ tự hũy diệt mà không hề hay biết.

Tuy nhiên, ở một khoảng trời xanh đâu đó, vẫn còn một dòng suối mát, một vòng tay êm, một lời ru dịu ngọt: đó là thông điệp về tình thương, vang lên từ hơn 2.500 năm trước, do một chiến sĩ dũng cảm đã chiến thắng trong cuộc trường chinh chống lại kẻ thù phiền não ngay trong bản thân mình. Nhận được tín hiệu tình thương ấy, chúng ta giật mình nhìn lại chính ta, nhìn lại người thân, nhìn ra chung quanh... ta chợt hiểu ra rằng, từ lâu nay ta đã là kẻ vô ơn bội bạc. Bởi vì, chỉ biết hưởng thụ những tiện nghi vật chất, những thú vui tạm bợ, ta đã quên đàng sau những thành quả ấy là sức lao động của biết bao người. Ta cũng chợt hiểu rằng, mỗi người đều có liên hệ chặt chẽ với cộng đồng nhân loại, nên khi ta làm tổn hại người vật chung quanh ta, làm ô nhiễm môi trường sống, tức là ta đã tự hại chính bản thân mình!

Những bài viết trong tập sách này, xin được xem là những lời ca xưng tán ý nghĩa cao cả của ngày Vu Lan, ngày hội lớn của Phật giáo và của tất cả những ai muốn có một hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc sống hiện tại. Nhiều nốt nhạc trong các câu ca ấy có sự trùng lập vì cùng mang một chủ đề; nhưng theo thiển ý, dù lặp lại trăm vạn lần cũng chưa đủ để tôn vinh những nét đẹp của ngày Lễ hội truyền thống này. Và bổn phận của người con Phật chúng ta là cố gắng phát đi những tín hiệu tình thương đến khắp nơi khắp chốn, góp công sức nhỏ nhoi của mình vào việc làm thanh sạch môi sinh và tạo dựng một không gian yêu thương hòa ái.

Tất cả chúng ta hãy nắm tay nhau xin sống trọn nghĩa NGƯỜI!

Thiền Thất Viên Giác

Mùa Vu Lan Báo Hiếu - PL. 2548

THÍCH THÔNG HUỆ

1- NGÀY LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG

Hàng năm, vào ngày rằm tháng bảy, các Phật tử đến chùa tụng nghi lễ Vu Lan, nghe quý thầy giảng về đạo Hiếu; đây là một điều rất đáng tán dương. Có thể nói, ngày Vu Lan đã trở thành một lễ hội truyền thống, là ngày đền ơn đáp nghĩa, không chỉ riêng cho những người con Phật, mà chung cho cả dân tộc Việt Nam. Vì vậy, nhân mùa Vu Lan năm nay, chúng ta cũng cần nhắc lại những ý nghĩa sâu xa của lễ hội này, để hiểu rõ do đâu mà ngày rằm tháng bảy được gọi là ngày Vu Lan báo hiếu, ngày xá tội vong nhân, ngày Tự tứ và là ngày Phật hoan hỷ.

- VU LAN VÀ ÐỀN ƠN ÐÁP NGHĨA .

Ðức Khổng Tử đã nói: “Nhơn vi vạn vật tối linh” (Con người là tối linh trong muôn vật). Loài vật chỉ có thiên tính nuôi con, không có ý thức phải sống như thế nào cho phù hợp với đạo đức; còn con người có khối óc, có lý trí, nên ngoài bản năng, con người còn biết nhớ ơn và đền ơn. Chúng ta sinh ra và lớn lên, không ai có thể độc lập tồn tại được, mà phải nhờ cha mẹ và các ân tình khác trong cuộc sống. Ðức Phật dạy, có bốn ơn lớn mà con người cần phải biết để báo đền: Ơn cha mẹ, ơn sư trưởng, ơn chúng sanh và ơn tổ quốc, gọi là Tứ trọng ân.

Trong các hình thức văn hóa, chúng ta thường thấy ca ngợi tình mẹ hơn là tình cha. Không phải vì cha không thương con bằng mẹ, công lao nuôi dạy con không bằng mẹ, mà bởi vì tình cảm của người cha thường ít biểu lộ ra ngoài, nên con cảm thấy gần gũi mẹ hơn cha. Thật ra, đức nghiêm của cha và đức từ của mẹ kết hợp nhau, dung hòa lẫn nhau mới tạo nên sinh khí và sự bình ổn trong gia đình, mới là điều kiện cần và đủ cho sự giáo dục con cái.

“Công cha như núi Thái sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Công của cha cao vời vợi như ngọn núi lớn, nghĩa của mẹ rạt rào bất tận như suối nguồn. Công và Nghĩa là hai phạm trù có thể diễn đạt được ý nghĩa của tình cha mẹ đối với con. Hiểu được điều này, chúng ta thấy cha và mẹ đều có địa vị cao cả ngang nhau trong lòng con cái. Vì vậy, mỗi người chúng ta đều phải tìm mọi cách báo đáp trọng ân này. Nhưng làm cách nào để báo đáp cho tròn chữ hiếu ?

Kinh Tăng Chi Bộ tập I, Phật dạy rằng: “Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng cung phụng cha mẹ bằng của cải vật chất, thì không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỳ kheo ! Ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích hướng dẫn an trú vào thiện giới; đối với cha mẹ san tham, khuyến khích hướng dẫn an trú vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác-trí-huệ, khuyến khích hướng dẫn an trú vào trí huệ. Cho đến như vậy, này các Tỳ kheo! là làm đủ và trả đủ ơn cha và mẹ”. Dựa vào lời Phật dạy, chúng ta đã biết báo hiếu đúng nghĩa phải như thế nào. Trước tiên, chúng ta phải lo cho cha mẹ đầy đủ về vật chất, tùy khả năng của mỗi người. Kế đến, chúng ta phải nghĩ đến đời sống tinh thần và đạo đức cho cha mẹ. Nếu Người có tà kiến, phải giúp đỡ Người có được chánh kiến; nếu Người theo tà giới, phải khuyên Người theo chánh giới; nếu Người làm điều ác, phải khuyên Người làm những hạnh lành; nếu Người chưa có chánh tín, phải khuyến khích Người trở về nương tựa nơi Tam-bảo, sống một cuộc đời hiền thiện.

Chúng ta đọc câu chuyện Ngài Mục Kiền Liên và Ngài Xá Lợi Phất là hai vị đệ tử lớn của Phật, thấy hai Ngài đều có mẹ vì tạo tội nên bị đọa vào khổ xứ. Sau khi được Phật chỉ dạy, các Ngài khẩn thiết xin với chư Tăng tu hành thanh tịnh, vào ngày rằm tháng bảy thành tâm chú nguyện cho mẹ mình. Tâm thành của chư vị Thánh Tăng chuyển được tâm ác của hai bà mẹ nên hai bà thoát kiếp đọa đày. Chuyện này cho thấy, hai vị tôn giả dù xuất gia tu hành đã được giải thóat, vẫn nhớ đến công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Không phải chỉ nhớ đến cha mẹ đời này, mà còn nghĩ tưởng đến cha mẹ và bà con quyến thuộc ở vô số kiếp về trước. Ðức Phật đã từng lạy đống xương khô, nhân đó thuyết bài Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu, một áng văn tuyệt tác, làm rơi lệ biết bao nhiêu người từ thời ấy cho mãi đến ngàn sau. Cho nên, với tầm nhìn của người bình thường, những người xuất gia dường như là bất hiếu. Nhưng thật sự, cung phụng cha mẹ bằng món ngon vật lạ chỉ có giá trị giới hạn, vì thuộc về vật chất hữu hình hữu loại. Còn người xuất gia tu hành đạt đạo, khuyến khích cha mẹ cùng tu hành để thoát khổ sinh tử luân hồi, đó mới là đại hiếu vì có giá trị vĩnh hằng, đó mới thực sự xứng đáng đền ơn cha mẹ.

Kinh Tương Ưng tập I có nói:

“Người nào theo thường pháp,

Nuôi dưỡng mẹ và cha,

Chính do công hạnh này,

Ðối với cha với mẹ,

Nhờ vậy bậc Hiền Thánh,

Trong đời này tán thán,

Sau khi chết được sanh,

Hưởng an lạc chư Thiên”.

Thường pháp là pháp không biến đổi theo thời gian và không gian, là chân lý muôn đời. Do lòng hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ, những người con ấy được các bậc Hiền Thánh tán thán; và sau khi chết được sanh về cõi trời, hưởng nhiều sự an lạc. Thật ra, một người con hiếu thảo sẽ tự cảm nhận trong thân tâm mình có sự tươi mát bình an. Ðó là cảm thọ của chư Thiên ngay trong hiện kiếp. Ngược lại, những người bất hiếu với cha mẹ thì không xứng đáng với danh nghĩa là người. Ðây là điều kiện để những tội ác khác phát sinh, vì đạo hiếu là căn bản của đạo đức con người. Nếu chúng ta không thương cha mẹ, thì chắc chắn không thể nào chúng ta có tình thương thật sự đối với ai. Cho nên, điểm đầu tiên của lòng từ bi phải là lòng hiếu thảo. Phật đã dạy, phụng thờ trời đất quỷ thần không bằng hiếu kính với cha mẹ, vì cha mẹ là thần linh bậc nhất, chính là Phật tại thế. Ðiều này cho thấy, địa vị của cha mẹ đối với con cái rất quan trọng. Nhất là trong xã hội hiện tại, đôi nơi đã đánh mất nền tảng đạo đức, chạy theo xa hoa phù phiếm, thì trong gia đình và học đường, mỗi đứa trẻ đều phải được dạy bảo để thấm nhuần về đạo hiếu.

* Ơn lớn thứ hai cần phải báo đáp là ơn đối với sư trưởng. Ðó là các thầy cô dạy chúng ta những kiến thức thế gian, từ lúc còn thơ chưa biết chữ đến khi thành người hữu dụng. Người tu còn có một ân nghĩa xuất thế, đó là Chư Phật, Bồ tát và Thầy Tổ. Chính các Ngài có đầy đủ năng lực trí huệ, giúp chúng ta có một cái nhìn siêu việt về cuộc sống, giúp chúng ta đẩy lui vô minh, tẩy trừ tập khí phiền não, để trở thành một người tự tại an lạc trong dòng đời. Cho nên, tinh thần tôn sư trọng đạo, từ bao giờ cho đến bây giờ, vẫn cần được nhắc nhở và đề cao.

* Ðối với ơn chúng sanh, ta cần phải quán chiếu mới thấu triệt. Thân chúng ta sinh ra và lớn lên là nhờ công ơn của rất nhiều người, từ người nông phu cho lúa gạo, người thợ dệt cho vải vóc, người thợ nề xây nhà cho ở... đến bạn bè, người láng giềng, những kẻ giúp việc... mỗi mỗi đều giúp đỡ ta trong những công việc hàng ngày. Nhìn rộng hơn, chúng ta sẽ thấy có một sự liên hệ hỗ tương giữa mình và vũ trụ vạn hữu, đây là thuyết trùng trùng duyên khởi Phật đã dạy. Cho nên, không những nhớ ơn chúng sanh hữu tình, ta còn phải mang nặng công ơn của vạn vật vô tình nữa. Vào thời đức Phật, một vị Tỳ kheo ngồi nghĩ dưới gốc cây một lát rồi ra đi, cũng phải nhớ ơn cái cây đã tỏa bóng mát che nắng cho mình. Nói gì đến không khí chúng ta thở, nước chúng ta uống, ánh sáng mặt trời ban sức sống cho muôn loài... Tất cả là ơn chúng sanh mà mỗi người đều thọ nhận, dù khó thể đáp đền. Vì thế, nếu có dịp cứu giúp người hoạn nạn, khốn khổ hơn mình, nếu nơi nào bị thiên tai dịch họa, chúng ta cần đóng góp tài lực, vật lực, tùy theo khả năng. Ðây là tinh thần lá lành đùm lá rách, mà cũng là để đền ơn chúng sanh. Trong nhiều kiếp luân hồi, biết đâu những người bị nạn ấy là thân nhân quyến thuộc của mình ? Với cái nhìn duyên sinh, phóng tầm mắt đến đâu ta cũng thấy toàn là bà con thân quyến. Mà đã là thân nhân với nhau, chẳng lẽ chúng ta nỡ làm hại người, làm người phiền não, chẳng lẽ không cùng gánh vác chia xẻ những nỗi đau thương mất mát của người ? Ðây chính là tiền đề của lòng từ bi, ban vui và cứu khổ.

* Ơn lớn thứ tư là ơn đối với tổ quốc. Nếu không có sự bảo hộ của nhà nước, của pháp luật; nếu không có binh phòng, vệ phòng ngày đêm giữ gìn an ninh trật tự và đề phòng giặc ngoại xâm, liệu chúng ta có yên ổn sinh sống và tu hành được không ? Những người Việt sống xa quê, do hoàn cảnh hay do sinh kế phải bôn ba nơi đất lạ, vẫn mang trong lòng nỗi nhớ quê hương. Tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc luôn luôn vang vọng trong mọi con tim người dân Việt, vì vậy bao nhiêu giặc ngoại xâm - kể cả những kẻ thù hùng mạnh và hung hãn nhất, cũng đành chịu thất bại trước sức quật cường và tinh thần yêu nước của dân tộc Việt-Nam.

Làm người là một hạnh phúc vô cùng to lớn, nên chúng ta phải biết trân quý từng giây phút, để sống thế nào cho có đạo lý, phù hợp với tình cảm giữa người và người. Việc báo ân báo hiếu là điều cần thiết phải làm để đem lại hạnh phúc cho gia đình, tạo nền móng đạo đức căn bản, tạo sự an bình cho xã hội. Ðây là nghĩa vụ thiêng liêng của tất cả mọi người, không phải dành riêng cho những người con Phật. Bởi vì, dù ở địa vị nào, sống trong quốc độ nào, theo tôn giáo nào, tinh thần đền ơn đáp nghĩa vẫn có giá trị muôn đời. Vì thế, có thể nhắc lại mà không sợ lầm, Vu Lan là một ngày lễ hội truyền thống của dân tộc Việt-Nam.

- VU LAN VÀ TỰ TỨ

Một số Phật tử tụng kinh hằng đêm, chắc nhớ hai câu này:

“Thượng báo tứ trọng ân,

Hạ tế tam đồ khổ”.

(Trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ).

Những chúng sanh tạo nghiệp nặng nơi thân khẩu ý, lúc chết phải đọa vào ba đường ác là địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh. Nhà Phật nêu lên hình ảnh của một người bị treo ngược chân lên trời, đầu chúc xuống đất, để tượng trưng cho những nỗi khổ cùng cực. Cái khổ cùng cực này không chỉ người bị đọa tam đồ mới chịu, mà ngay người đang sống, đôi lúc cũng lâm vào những cảnh quẩn bách khiến thân tâm có thể cảm nhận rõ điều này.

Tinh thần từ bi của đạo Phật ban rải khắp muôn loài. Cho nên, ngày Vu Lan còn có ý nghĩa là ngày xá tội vong nhân. Chúng ta đừng hiểu lầm Vu Lan Bồn là cái chậu đựng trăm món ngon, chờ đến ngày rằm tháng bảy đem đến chùa nhờ chư Tăng cầu nguyện cho thân nhân còn sống hay đã chết. Chữ Vu Lan Bồn có nghĩa là Giải đảo huyền hoặc Cứu đảo huyền, tức giải cứu khỏi cái khổ treo ngược.

Trong vòng luân hồi sanh tử, chúng ta đã bao lần là bà con quyến thuộc với nhau. Vì vậy, sự liên hệ giữa chúng ta và tất cả chúng sinh cùng khắp pháp giới là một điều có thể hiểu được. Từ đó, tình thương của chúng ta sẽ chan hòa một cách bình đẳng đến muôn loài muôn vật, không hạn cuộc thời gian và không gian. Và ý nghĩa trọng đại của lễ Vu Lan chính là lòng biết ơn và đền ơn tất cả chúng sinh trong ba cõi sáu đường. Tình thương của chúng ta đối với mọi loài có tính cách xả kỷ, rộng lớn và bình đẳng chứ không còn là tình cảm luyến ái hệ lụy trong gia đình. Nếu hiểu được chân nghĩa này, từ trong vô thường huyễn mộng của cuộc sống, chúng ta sẽ tìm được một hướng đi và lẽ sống tốt đẹp cho mình và cho mọi người. Chính ngày Vu Lan giúp chúng ta hướng tâm mình đến chân trời bao la đó.

Nhưng làm cách nào để có thể cứu giúp chúng sinh đang bị đọa đày nơi khổ xứ ?

Ðức Phật dạy, ngày rằm tháng bảy là ngày Tự tứ. Trong ngày ấy, chư Phật mười phương đều hoan hỷ, vì thấy chư Tăng tu hành thanh tịnh, hòa hợp. Nhờ đức hạnh, đạo lực của chư Tăng mới có thể hướng tâm người quá vãng đến nẻo thiện, chuyển được nghiệp ác cho họ. Như vậy, gốc của lễ Vu Lan là ngày Tự tứ.

Từ thời đức Phật còn tại thế, mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy, chư Tăng phải thực hiện chế độ an cư, nghĩa là yên ở nơi một trú xứ thu nhiếp các căn, nỗ lực tu tập Giới - Ðịnh - Huệ. Nguyên nhân đầu tiên để Phật đặt ra chế độ này, là vì trong ba tháng hạ, ở Ấn Ðộ mưa nhiều, nước ngập cả lối đi, sau đó côn trùng sinh sôi nảy nở, nên trở ngại cho việc đi lại hoằng pháp và vô tình giẫm chết côn trùng. Sau ba tháng cấm túc, Phật nhận thấy nhiều vị Tỳ kheo đắc Thánh quả, nhờ ít bận rộn đi lại, tránh bớt các duyên và quyết liệt tu hành. Do kết quả đó nên sau này, chế độ an cư trong ba tháng hạ được duy trì mãi trong Tăng chúng.

An cư phải đi đôi với kiết giới. Sinh hoạt của chư Tăng trong thời gian này khác hơn so với ngày thường. Những ngày bình thường, do duyên sự bề bộn, các vị có thể du phương làm Phật sự, kỷ luật trong Tăng-đoàn có khi lơi lỏng. Nhưng trong ba tháng hạ, mọi việc đều thu xếp gọn lại, chư Tăng chỉ đi lại giới hạn trong khuôn viên của tự viện; chỉ có những vị có duyên sự đặc biệt, phải xin phóng giới mới được ra ngoài. Mới nhìn, chư Tăng có vẻ rảnh rỗi, không bận tâm về sinh kế vì nhờ Phật tử hỗ trợ cúng dường; nhưng thật ra nội tâm của các vị quả là một trường chiến đấu ! Một mặt, phải khép mình vào một kỷ luật hết sức nghiêm khắc; mặt khác, phải chiến đấu không ngơi nghỉ với bao nhiêu tập khí phiền não. Nhờ vậy, sau thời gian kiết hạ, nếu vị nào giữ giới tinh nghiêm, nỗ lực tu học, có sức tỉnh lực thì sẽ có tiến bộ đáng kể. Nơi nào tổ chức tu hành nghiêm túc sẽ có thể sản sinh những người xuất cách, còn nếu tổ chức lơi lỏng sẽ khó đào tạo được Tăng tài.

Cũng cần nhấn mạnh một điều: Tinh thần an cư là thanh tịnh và hòa hợp. Ðây cũng là ý nghĩa của chư Tăng và cũng là sức mạnh của Tăng đoàn. Một nhóm người chung sống hòa hợp với nhau nhưng tâm không thanh tịnh, sinh hoạt và hành động không theo chánh pháp thì không phải là người tu chân chính. Ngược lại, dù sống thanh tịnh, giữ giới đúng mức nhưng lại bất hòa với nhau, thì sức thanh tịnh cũng vẫn còn hạn chế, chưa đúng với danh nghĩa người tu.

Trong nhà Thiền, tinh thần an cư còn có một ý nghĩa về Lý. Dù ở nơi nào, dù vắng vẻ hay ồn náo, nếu sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà tâm không duyên theo các pháp, đó mới thật sự là “độc xử nhàn cư”. Như vậy, hàng cư sĩ tại gia, nếu sắp xếp được công việc, tránh bớt các duyên, hàng năm có thể tổ chức cho mình một thời gian nhất định nào đó để tĩnh tu. Do chúng ta căn cơ và trình độï tu hành còn kém, nên cần có độc cư về sự để trợ duyên cho việc tu tập.

Cuối cùng của chế độ an cư, và cũng là cốt tủy của lễ Vu Lan, là ngày Tự Tứ vào rằm tháng bảy. Tự là chính mình, Tứ là đưa ra trước mọi người. Nội dung của Tự Tứ là mỗi người tự trình bày những lỗi lầm mình đã phạm, không giấu giếm, gọi là phát lồ sám hối; đồng thời kính thỉnh đại chúng, nếu thấy, nếu nghe, nếu nghi mình có mắc phải lỗi nào mà chính mình không biết, xin từ bi và hoan hỷ nêu ra để mình sửa đổi. Ðối với người thế gian, điều này thật khó thực hiện; nhưng đối với người tu thì đây là điều cần thiết. Người cử lỗi phải hoan hỷ, thật tâm muốn huynh đệ của mình tốt đẹp; người được cử lỗi cũng phải lấy làm sung sướng, vì có đại chúng chỉ dạy, ban bảo cho mình. Người xuất gia, nhất là mới vào đạo, phải được ở gần Thầy và đại chúng, để được chỉ bảo cho mình những điều mà tự mình không hay biết.

Do tất cả Tăng chúng đều an trú trong sự thật, can đảm tự cử lỗi của mình và chỉ lỗi cho người, nên ngày Tự Tứ là ngày chư Phật mười phương đều hoan hỷ. Do tâm các vị thanh tịnh như thế, Phật tử mới quy hướng về nơi kiết hạ, chờ ngày Tự Tứ nhờ chư Tăêng cầu siêu cho thân nhân đã khuất được sanh về các cõi lành, cầu cho người sống được thân tâm an lạc, vững chãi sống trong chánh pháp. Nhờ phước lực của chư Tăng trong ba tháng thanh tịnh tu hành, nên thức tỉnh được tâm người đã khuất và làm người sống cảm thấy bình an. Cho nên, ngày rằm tháng bảy là ngày hết sức quan trọng trong ba tháng an cư. Bản chất của ngày này là An cư và Tự Tứ, từ đó mới có cái ngọn là Vu Lan và Báo Hiếu, hay đền ơn đáp nghĩa.

Vu Lan chính là ngày hội tụ những niềm vui lớn trong tâm hồn những người con hiếu hạnh, những người có đạo đức, biết trở về nguồn cội. Nếu quán triệt được và sống được đúng tinh thần của Vu Lan, thì chính con người của chúng ta cũng là hiện thân của “Ðại hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát”. Chúng ta không tìm một vị Mục Kiền Liên nào trong thời quá khứ, mà phải tìm Mục Kiền Liên ngay trong con người xác thịt của chúng ta.

Nhân mùa Vu Lan năm nay, đảnh lễ trước Phật đài, chúng ta thề nguyền noi gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền Liên, làm tròn bổn phận của một người con hiếu thảo. Chúng ta cũng nhớ đến tất cả chúng sinh đang còn chìm đắm trong vô minh tăm tối, nguyện hồi hướng công đức cho muôn loài đều phát Bồ đề tâm, đồng tu hành và đồng thành chánh giác. Từ chỗ đứng vững chắc của mình bằng hạnh hiếu và bằng tất cả lòng thành, chúng ta đã có vật phẩm dâng lên cúng dường Tam Bảo một cách có ý nghĩa.


2- MÙA AN CƯ TỰ TỨ

Ðối với Phật tử tại gia, nói đến Vu Lan là nói đến sự nhớ ơn và đền ơn. Các vị vân tập về chùa trong những ngày nầy, được nhắc nhở và thấm thía về bốn ơn lớn mà ai cũng phải cưu mang và tìm cách đáp đền; nhờ vậy đạo đức được tôn vinh, tình người càng thắm thiết. Riêng với hàng tu sĩ, ba tháng hạ còn có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều. Ðây là cột mốc đánh dấu từng bước tiến trên lộ trình tu tập, là cơ hội tự quay lại soi sáng chính mình, là điều kiện tốt để rèn luyện ý chí và trau dồi phẩm hạnh, ngày càng đến gần mục đích cuối cùng là Giác ngộ - Giải thoát.

"An cư" theo nguyên nghĩa là ở yên một chỗ. Tiếng Pali, Vassavàsa là sự cư ngụ trong mùa mưa(*). Theo lịch sử Phật giáo, năm 528 trước Tây lịch là năm Ðức Phật Thích Ca thành đạo, cũng là năm đầu tiên thành lập Tăng đoàn. Ðầu mùa hạ, Ðức Phật cùng 61 vị đệ tử yên tu nơi Lộc Uyển, nhưng chưa định chế Luật an cư. Do nhóm Lục quần Tỳ kheo thường xuyên qua lại suốt năm, cả trong mùa mưa nước lớn, bị dân chúng chỉ trích là "Sa môn đi đạp chết cỏ non, đoạn mạng sống côn trùng, có khi trôi mất y bát, tọa cụ", nên Ðức Phật nhân đó quở trách và đặt ra Luật an cư trong ba tháng mùa hạ.

Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật dạy: "Giới là cội gốc của Bồ đề, là cửa ngõ của Niết bàn, là chiếc thuyền đưa chúng sanh qua biển sanh tử". Giới luật nhà Phật không phải là những giáo điều, những quy định pháp lý cứng nhắc, mà là những nguyên tắc sinh hoạt tu hành có tính tự nguyện. Mỗi người có quyền giữ gìn tôn trọng hay không, và tự mình được hưởng kết quả tốt hay gánh chịu hậu quả xấu tùy hành động của mình. một vị Tỳ kheo ít dục, biết đủ, đoạn giảm, viễn ly, cầu thiện hành, được Ðức Phật tán thán là hạng đệ nhất, tối thắng, thượng thủ trong hàng tứ chúng (Kinh Tăng Chi Bộ). Tỳ kheo "ít dục, biết đủ" tức là căn bản đoạn trừ tham lam, là một trong ba độc, là nguồn gốc của ngọn lửa sân có thể thiêu cháy cả rừng công đức. Tỳ kheo biết "đoạn giảm" là biết chế ngự, dần dần đoạn trừ phiền não kiết sử. Tỳ kheo "viễn ly" là biết xa lìa những duyên sự thế gian, những ràng buộc của ái dục. Tỳ kheo "cầu thiện hành" là cầu làm tất cả các điều lành để thiện nghiệp ngày càng tăng trưởng. Tích cực giữ gìn cấm giới là nội dung đầu tiên và căn bản, luôn được nhắc nhở và đề cao trong mùa an cư. Từ bước đầu tiên ấy, các vị Tỳ kheo tịnh tu ba nghiệp thân - miệng - ý, tu tập Tam huệ học (Văn-Tư-Tu) và Tam vô lậu học ( Giới-Ðịnh-Tuệ).

Nói như thế, không có nghĩa là việc tu hành chỉ chú trọng trong ba tháng hạ, bởi vì đó là một tiến trình liên tục và trường diễn. Tuy nhiên, vào những ngày bình thường, do bận rộn học tập giảng dạy ở trường lớp, do làm nhiều Phật sự phải tiếp duyên xúc cảnh, nên sự thúc liễm thân tâm không mạnh mẽ bằng thời gian ở yên trong môi trường thanh tịnh, cùng đại chúng tập trung. Ðặc biệt với các vị Tăng ni trẻ, trường hạ còn là nơi thuận lợi để được gần gũi, học hỏi về giới hạnh và sở tu của các vị tôn túc giáo phẩm, những bậc đạo cao đức trọng đã có quá trình tu chứng.

Trở lại vấn đề giới luật, ngoài việc áp dụng cho từng cá nhân người tu, còn có những nguyên tắc sống chung trong tập thể Tăng đoàn. Tinh thần Lục hòa cộng trụ là động lực thúc đẩy tăng đoàn phát triển và hoàn thiện, trong đó có sự bình đẳng là trọng tâm: Bình đẳng về vật chất (Thân hòa đồng trụ, lợi hòa đồng quân), bình đẳng trong luật chế (Giới hòa đồng tu), hòa hợp trong tư tưởng và lời nói (kiến hòa đồng giải, ý hòa đồng duyệt, khẩu hòa vô tránh). Nhờ sống theo tinh thần này nên đại chúng có sự hòa hợp từ hình thức đến nội dung, như lời Phật dạy: "Ðể Tăng già được ổn thuận, để kềm giữ các Tỳ kheo khó kềm giữ, để các thiện Tỳ kheo được ổn cố tự thân". Thanh tịnh thân tâm từng cá thể và hòa hợp trong đời sống tập thể là ý nghĩa sâu xa và cao quý của hai chữ Tăng già (Sangha).

Mùa an cư không những có tầm quan trọng đặc biệt đối với cộng đồng Tăng lữ và cá nhân từng tu sĩ xuất gia, mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đến môi trường xung quanh và toàn thể xã hội. Vì sao nói như thế? - Ngoài lòng từ bi tránh việc vô tình làm hại côn trùng cây cỏ nếu qua lại thường xuyên trong mùa mưa, các vị tu sĩ còn được nhắc đến bốn ơn nặng phải đền, trong đó có ơn chúng sanh hữu tình và vô tình. Từ đó, ý thức bảo vệ môi trường sống được đề cao, người tu không làm bất cứ điều gì tổn hại đến tất cả chúng sanh, dù là chúng sanh hạ đẳng. Khoa học đã chứng minh, ngay cả cây cỏ cũng cảm nhận được sự thiện ác trong tư tưởng con người. Một tư tưởng tốt khởi lên, có thể tạo một từ lực làm môi trường được thanh lương; một tư tưởng xấu ác cũng làm vạn vật chịu ảnh hưởng theo chiều ngược lại. Ý thức lăng xăng của người bình thường còn có khả năng tác động đến môi sinh như thế, huống gì tâm thanh tịnh của một vị tu hành đắc lực và hơn nữa của cả một tập thể Tăng - già!

Về phương diện xã hội, nếu đạo đức được tôn vinh, nếu có nhiều người tu theo tinh thần "tốt đời đẹp đạo", xã hội ấy sẽ được bình an phúc lạc. Bởi vì mỗi người đều có quan hệ hữu cơ với mọi người mọi vật, nên người tu sĩ với ba nghiệp thanh tịnh sẽ có sức cảm hóa lớn đối với cộng đồng, không những bằng khẩu giáo mà còn bằng thân giáo. Do vậy, Tăng đoàn hòa hợp thanh tịnh sẽ giúp tịnh hóa nhân sinh, từ đó góp phần an định xã hội.

Những vị đệ tử trong thời Ðức Phật, nhờ tập trung toàn lực trau dồi phẩm hạnh, thực hiện thanh quy, tịnh hóa thân-miệng-ý và tu tập Giới-Ðịnh-Tuệ, nhiều vị đã đắc thánh quả sau ba tháng an cư. Kết quả nầy khẳng định sự thành công của Luật hạ, và là một nguyên nhân khiến an cư trở thành truyền thống tu học cho tất cả Tăng ni. Theo Phật giáo Nam tông, có hai khoảng thời gian an cư trong năm: Tiền an cư từ 16/6 đến 15/9 Âl; Hậu an cư từ 16/7 đến 15/10 Âl. Nếu bận việc, không nhập hạ vào thời gian Tiền an cư, hành giả có thể xin Hậu an cư, nhưng không được hưởng quả báu Kathina; nếu cố ý không nhập hạ, vị ấy phạm tội Tác ác (Dukkata). Theo Bắc tông, thời gian an cư từ 15/4 đến 15/7, và ngày Hưu hạ Tự tứ là 14 - 15 hoặc 16/7 Âl. Trong ngày ấy, chư Tăng tụ họp lại tự cử lỗi mình và thỉnh cầu đại chúng, nếu thấy - nghe hay nghi mình phạm lỗi, xin tuyên ra để mình sửa đổi. Tinh thần "phê và tự phê bình" một cách trân trọng, chân thành và hoan hỉ làm toàn thể đại chúng đều được thanh tịnh. Sau một mùa an cư, mỗi vị tu sĩ thực hiện nghiêm túc theo luật nghi sẽ được thêm một tuổi hạ. Hạ lạp là tiêu chuẩn quy định sự trưởng thành của người tu và tôn ti trật tự trong Tăng đoàn. Ðiều nầy nói lên sự trân trọng về đức độ và về quá trình tu học, vì đạo Phật chủ trương rằng, trí tuệ thế gian vay mượn từ bên ngoài (Trí hữu sư) không thể nào sánh nổi Trí tuệ vô sư xuất thế gian do quá trình tu đạo và chứng đạo.

Nhờ tự thân nỗ lực, tinh chuyên hành trì, lại dám tự cử lỗi và thành tâm sám hối, nên vị Tỳ kheo được thanh tịnh ba nghiệp sau ngày Tự tứ. Thân tâm thanh tịnh nên trên tương ưng cùng chư Phật Bồ Tát, dưới có thể chuyển hóa tâm người, kể cả người đã khuất; sức chú nguyện của chư Tăng vì thế thật bất khả tư nghì. Ðiều này giải thích tại sao Ðức Phật dạy Ngài Mục-Liên nên cung thỉnh chư vị Hiền Thánh Tăng làm lễ cầu siêu cho thân mẫu nhân ngày Tự tứ, và kết quả là mẹ Ngài thoát kiếp Ngạ quỷ, sanh về cõi Trời. Trong đời hiện tại, chúng ta khó thể gặp chư Hiền Thánh Tăng, nhưng với lòng chí thành chí kính của gia chủ, sự thanh khiết của tài vật cúng dường, kết hợp với cộng lực chú nguyện của các vị Tăng ni trai giới nghiêm cẩn, cũng có thể hoán cải tâm người đã khuất, buổi lễ cầu siêu cũng có kết quả nhất định.

Riêng với hàng Phật tử, mùa Vu-Lan là cơ hội để chúng ta vừa tu học vừa tạo phước duyên, theo tinh thần Phước huệ song tu luôn được nhắc nhở và đề cao trong đạo Phật. Chúng ta đến chùa nghe pháp, hiểu rõ ý nghĩa báo ân báo hiếu, thực hiện đúng lời chỉ dạy của quý Thầy để trở thành người thật sự có đạo đức. Chúng ta thọ Bát quan trai giới, học làm người xuất gia trong một ngày, gieo chủng tử xuất thế gian để thăng tiến nhanh trên đường đạo. Chúng ta cúng dường Trường hạ, công quả tại chùa, trợ duyên cho chư Tăng ni trong những việc Phật sự và trong sinh hoạt thường nhật, để quý vị có đủ điều kiện tu học. Tất cả việc làm ấy chỉ nhằm mục đích gieo duyên lành cùng Phật pháp, nhờ thiện nghiệp giúp ta vượt qua mọi khó khăn trở ngại trên đường tu. Bằng sự quan tâm đúng mức đến sinh hoạt và tu học của chư Tăng ni, bằng tâm thành thiết tha đến tương lai của Giáo hội và tiền đồ của Ðạo pháp, bằng sự kính ngưỡng Ðức Bổn Sư như một bậc Thầy dẫn đường chứ không như một thần linh ban phước giáng họa, sự cúng dường của chúng ta mới đúng pháp và đầy đủ ý nghĩa.

***

Hiếu là độ được song thân,

Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài.

Trải qua vô lượng kiếp luân hồi, tất cả chúng sanh đều có sự liên hệ gia đình huyết thống với bản thân ta. Người con Hiếu đúng nghĩa không phải chỉ lo phụng dưỡng về vật chất, tinh thần và tâm linh cho cha mẹ đời nầy, mà còn phải độ cha mẹ nhiều đời thoát khỏi trầm luân sanh tử. Chữ Nhân đích thực không chỉ là tình thương đối với đồng loại, mà còn là lòng từ bi bình đẳng đối với muôn loài chúng sanh hữu tình và vô tình. Phát khởi tâm nguyện tự lợi - lợi tha, tự độ - độ tha, tự giác - giác tha là bước đầu trên lộ trình tâm linh của một vị tu Bồ Tát đạo, hành Bồ Tát hạnh. Giữ gìn phẩm hạnh, nỗ lực công phu, thể hiện tốt pháp Lục hòa và tùy duyên hóa độ chúng sanh, là những nội dung tu học để tâm nguyện ấy được thành tựu. Dù trong đời mạt pháp, kết quả an cư không được như khi Ðức Phật còn tại thế, nhưng nếu bản thân quyết chí hành trì và nương sức cộng tu của đại chúng, hành giả cũng có sự tiến bộ vượt bậc.

An cư là điều kiện tối cần thiết và là cơ hội thuận lợi nhất để người xuất gia tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ và tự thân giải thoát. Người tu đắc đạo, với đầy đủ định lực - trí lực và công đức lực, có thể báo đền mọi ân tình ân nghĩa một cách tích cực và trọn vẹn, chính là người thực hiện đầy đủ ý nghĩa cao cả của hai chữ Hiếu và Nhân. Có thể nói, ba tháng an cư là thời gian lý tưởng để tứ chúng đồng tu, để nâng cao sức sống của Tăng đoàn bằng sự thanh tịnh và hòa hợp, để Giáo hội được phát triển và hoàn thiện; từ đó, Phật pháp được xương minh, Tam Bảo được trường tồn.


3- THÔNG ÐIỆP VU LAN

Ðối với các nước Phật giáo Bắc tông, Vu Lan là một lễ hội quan trọng và có nhiều ý nghĩa sâu xa. Những người con Phật đều biết, Kinh Vu Lan là thông điệp kêu gọi tất cả mọi người giữ gìn giềng mối đạo đức; rằm tháng bảy là một ngày trọng đại, để mọi người có dịp tỏ lòng hiếu thảo đối với các đấng sinh thành, đền ơn những người còn sống và đã khuất, ngoài ý nghĩa Tự tứ và giải hạ đới với chư Tăng ni.

Có chủ thuyết cho rằng chết là hết, xác thân khi trở về cát bụi thì không còn gì tồn tại nữa; cho nên làm ác hay hành thiện cũng như nhau. Ngược lại, có thuyết chủ trương linh hồn bất tử, được vĩnh viễn ở trên thiên giới hay muôn kiếp bị đọa đày nơi địa ngục, tùy theo người lúc còn sống có trọn vẹn dâng mình cho đấng tối cao hay không. Ðạo Phật có cái nhìn khác hẳn, không chấp đoạn cũng chẳng chấp thường. Phật dạy, có hằng hà sa số thế giới hữu hình và vô hình đồng thời hiện hữu. Sự sống không bao giờ gián đoạn, chỉ là thay hình đổi dạng mà thôi. Người gọi là “sống” nghĩa là đang tồn tại trên thế giới này; người gọi là “chết” có nghĩa đã bỏ thân này và tiếp tục sống dưới một hình thức khác, quẩn quanh trong ba cõi sáu đường. Chúng sinh mãi trầm luân trong sanh tử vì vô minh tạo nghiệp, dù nghiệp thiện hay ác vẫn không thoát khỏi luân hồi. Muốn giải thoát sinh tử, thân-miệng-ý phải dừng tạo nghiệp, đây là đường lối và ý nghĩa của sự tu hành.

Vì tin có nhiều cõi giới đang hiện hữu ngoài trái đất, nên chúng ta tin rằng, những người thân đã khuất của chúng ta có thể đang sống ở đó. Do đó, trong ngày Vu Lan, chúng ta không chỉ nhớ nghĩ đến người sống, mà còn mở lòng đến những chúng sinh ở khắp pháp giới. Có những vấn đề đượm màu siêu thực, huyền bí, hoang đường, nhưng nếu suy gẫm kỹ, ta thấy chúng cần thiết vô cùng cho con người và cuộc đời. Ví như những chuyện về địa ngục, ngạ quỷ, vốn không thích hợp trong thời đại khoa học, nhưng khiến người bỏ bớt điều ác. Cũng vậy, cảnh giới vô cùng phúc lạc sung sướng của Chư Thiên có thể khuyến khích con người cố gắng tu phước, làm lợi cho bản thân và cho người xung quanh.

Ngài Mục Liên khi đạt quả vị A-La-Hán, nhớ đến người mẹ thân yêu đã mất, nên vận thần thông đi khắp các cõi tìm mẹ. Ngài thấy mẹ mình đang chịu đói khát khổ sở nơi cõi ngạ quỷ vì nghiệp ác bà đã tạo lúc sinh tiền. Mục Liên được tôn xưng là thần thông đệ nhất trong mười đại đệ tử của Ðức Phật, vì sao Ngài không thi triển thần lực để cứu mẹ, ngay cả không thể cho mẹ một bữa cơm no lòng? Bởi vì, tha lực dù kỳ đặc mạnh mẽ đến đâu, cũng không thắng được nghiệp lực. Mẹ của Ngài đã tích lũy nhiều nghiệp ác, ngay cả lúc hấp hối vẫn khởi niệm bất thiện, nên tích lũy nghiệp và cận tử nghiệp đều chiêu cảm bà vào đường dữ. Ðến khi được Ngài Mục Liên dâng chén cơm, bà vẫn còn lòng tham lam bỏn xẻn, sợ kẻ khác cướp mất cơm của mình. Thần thức đã bị đọa lạc vào khổ xứ nhưng vẫn tiếp tục gây nghiệp không tốt, vì vậy đến chén cơm đưa lên miệng vẫn hóa thành than lửa!

Thấy mình bất lực trước hoàn cảnh khốn khổ của mẹ, Ngài Mục Liên vô cùng đau xót, vội trở về cầu Phật chỉ dạy phương pháp cứu mẹ. Lời Phật dạy trong câu chuyện này là một bài học quý giá về ý nghĩa và phương pháp chú nguyện cho người đã khuất. Sau ba tháng an cư kiết hạ, tu hành thanh tịnh, cộng đồng Tăng lữ có một sức mạnh tinh thần rất lớn. Niệm lực của chư Tăng hướng tâm về người đã khuất, tâm người ấy chuyển hóa theo chiều hướng thiện, mới có thể thay đổi nghiệp duyên và được vãng sanh. Sự chú nguyện của chư Tăng là tha lực, tâm người chết chuyển đổi là tự lực, có sự kết hợp đồng bộ của cả hai mới đủ sức xoay chiều nghiệp lực. Trong đó, tự lực là chủ yếu, là quyết định, còn sức chú nguyện là trợ duyên. Ðiều này cho thấy, đạo Phật luôn chủ trương, con người phải tự mình gắng công tu hành chứ không mong cầu ở thần thánh bên ngoài, vì chính Ðức Phật cũng không có quyền ban phước giáng họa cho ai.

Từ ý nghĩa này, chúng ta thấy tinh thần xá tội vong nhân trong ngày Vu Lan không những giúp người đã khuất được siêu độ, mà còn giáo dục cho người sống; nếu chưa thể sạch nghiệp thì chúng ta cũng phải tu hành thế nào để chuyển nghiệp. Lúc sống có tịnh tu ba nghiệp thân-khẩu-ý thì khi nhắm mắt, con người mới mong được siêu thăng. Nếu lúc sống làm nhiều điều xấu ác thì khi mất, dù quyến thuộc tổ chức cầu cúng chu đáo, cũng khó hy vọng vãng sanh về các cõi lành. Vì sao như thế? - Trong thời Ðức Phật, cộng đồng Tăng lữ toàn những bậc Hiền Thánh Tăng, như đã mô tả trong Kinh Vu Lan: Người đặng bốn tòa đạo quả, chứng vô sanh, người tu hành thanh tịnh trong núi sâu rừng thẳm, người đã đắc lục thông như Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát... Các vị ba nghiệp đều thanh tịnh nên khi cùng nhau chú nguyện, niệm lực bất khả tư nghì đã khiến mẹ Ngài Mục Liên chuyển tâm ác thành hiền thiện, nhờ đó mới thoát khỏi khổ xứ. Ngày nay trong thời mạt pháp, chúng ta khó có phước duyên cung thỉnh các bậc Hiền Thánh Tăng cầu siêu cho thân quyến. Trong khi thiết lễ, nếu gia chủ không thành tâm chí kính hướng về Tam Bảo, chỉ xem trọng hình thức để có tiếng khen với người ngoài, thì làm sao có thể ảnh hưởng tốt đến tâm thức người đã mất? Cho nên, về phương diện tâm linh, có ba điều kiện thiết yếu để buổi cầu siêu đạt được kết quả: Chư Tăng tu hành thanh tịnh; gia chủ chí thành chí kính; tâm người chết chuyển đổi từ ác thành hiền.

Ở Việt Nam ta có tập tục thờ cúng tổ tiên và lập đền thờ các bậc tiền hiền, những anh hùng dân tộc. Ðây là nét đẹp văn hóa thể hiện lòng biết ơn đối với những người đã khuất. Ðức Phật dạy: Con người có bốn ơn nặng cần cưu mang và đáp đền, gọi là Tứ trọng ân: ơn Cha Mẹ, ơn Sư trưởng, ơn chúng sanh và ơn Tổ quốc. Theo lý duyên sinh, mọi tồn tại đều có liên hệ khắng khít và hỗ tương với những tồn tại khác. Con người cũng vậy, không ai có thể đơn độc tự sống còn, mà phải nhờ công lao của rất nhiều người khác để thỏa mãn những nhu cầu thể chất và tinh thần. Ngay cả loài vô tình cũng có ơn với chúng ta: cây trái để ăn, nước để uống, không khí để thở... Biết ơn tất cả những ai và những gì đã giúp đỡ mình trong cuộc sống, chúng ta không thể làm hại người, vật và hủy hoại môi trường sinh thái. Ngược lại, chúng ta phải thể hiện lòng biết ơn ấy một cách tích cực trong khả năng của mình. Ðặc biệt là lòng hiếu đạo đối với cha mẹ và những người đã dưỡng nuôi, dạy dỗ chúng ta nên người. Kẻ nào bất hiếu với những bậc sinh thành là những kẻ không có căn bản đạo đức, vì nếu không thương cha mẹ thì không thể thật lòng thương yêu ai. Ngay cả những bậc giác ngộ cũng còn giữ lòng hiếu thảo với cha mẹ, không chỉ ở kiếp này mà cả những kiếp về trước. Các ngài Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất là những tấm gương sáng chói về hiếu đạo mà chúng ta cần noi theo. Từ đó, ta mới có thể mở rộng lòng thương đến những người khác và đến tất cả chúng sinh muôn loài. Có thể nói, lòng hiếu thảo là tiền đề của lòng từ bi. Người con Phật phải thể hiện lòng từ bi vô hạn ấy, không chỉ đối với loài người mà còn đối với mọi loài động thực vật, không chỉ đối với chúng sinh hữu hình mà còn với các cõi giới vô hình.

Lễ hội Vu Lan là lễ hội của những người có lòng từ bi và của những người con hiếu. Nét đẹp của Vu Lan là hướng tâm đến tất cả chúng sinh đang đau khổ, dù còn sống hay đã mất; là nhớ ơn và có dịp đền những ơn nghĩa mình đã cưu mang. Ðối với người con Phật, Vu Lan là một thắng hội, vì đây là một lễ hội thù thắng về nhiều khía cạnh tâm linh, đạo đức và xã hội. Hiểu và áp dụng tinh thần Vu Lan đúng đắn để làm tốt đạo đẹp đời, thì thông điệp Vu Lan mới có giá trị vĩnh cửu, giúp cải thiện đời sống cho cá nhân và cho cộng đồng xã hội.


4- VU LAN VÀ TRUYỀN THỐNG BÁO HIẾU

Hằng năm đến rằm tháng bảy, lễ Vu Lan lại về. Nói đến lễ Vu Lan, chúng ta nghĩ ngay đến truyền thống báo hiếu theo tinh thần Phật giáo Bắc phương, mà điểm khởi đầu là từ kinh Vu-Lan-Bồn.

Nội dung Kinh Vu-Lan-Bồn, chủ yếu Ðức Phật chỉ dạy cho Tôn giả Mục Kiền Liên về phương cách đền ơn cha mẹ. Có thể nói, đạo hiếu là giềng mối đạo đức, là bổn phận căn bản của con người. Bởi vì, nếu bổn phận làm con không tròn thì không thể làm tròn bổn phận nào khác; một người bất hiếu với cha mẹ không thể là người có đạo đức, dù giàu sang quyền thế đến đâu.

“Mộc bổn thủy nguyên” - cây có cội nước có nguồn. Chúng ta ai cũng có cha mẹ; dù là trẻ mồ côi hay bị bỏ rơi cũng mang ơn người dưỡng nuôi chăm sóc. Các bậc sinh thành dưỡng dục ấy đã giới thiệu cho ta bước vào cuộc đời, đã chịu biết bao gian lao khổ nhọc để nuôi dạy ta thành người có ích. Mẹ hiền dịu gần gũi nên gọi là từ mẫu, cha nghiêm trang phép tắc nên gọi là nghiêm phụ. Ðức nghiêm của cha quân bình với đức từ của mẹ giúp con được phát triển về nhân cách đúng mực. Ngày xưa, cha lo sinh kế bên ngoài, mẹ ở nhà đảm đang nội trợ, giáo dục con cái, tạo sự phân công hợp lý trong gia đình. Ngày nay, hoàn cảnh sống thay đổi, nhiều khi cả cha mẹ đều phải đi làm, việc giáo dục gần gũi con không còn như xưa; nhưng suy cho cùng, tình cảm gia đình vẫn là tình cảm thiêng liêng nhất, và công ơn cha mẹ vẫn là công ơn cao tột không gì sánh nổi.

Kinh Tâm Ðịa Quán, Phật dạy:

Mẹ hiền còn sống là mặt trời giữa trưa chói sáng

Mẹ hiền khuất bóng là mặt trời đã lặn.

Mẹ hiền còn sống là mặt trăng sáng tỏ

Mẹ hiền khuất rồi là đêm tối âm u.

Mẹ còn sống, cả trái đất tràn ngập ánh nắng rực rỡ của mặt trời và ánh sáng dịu mát êm ả của mặt trăng. Lúc ta còn nhỏ, gặp chuyện buồn khổ sợ hãi, chỉ cần sà vào lòng mẹ, được vòng tay mẹ ôm ấp chở che, được ngửi hơi ấm quen thuộc của mẹ, tự nhiên ta cảm thấy bình an lạ lùng, tưởng như không có gì trên đời có thể não hại được ta. Khi ta đau ốm, toàn thân rã rời, mắt hoa đầu choáng váng, chỉ cần bàn tay êm mát của mẹ dịu dàng đặt lên trán, chỉ cần nghe một lời âu yếm hỏi han, tự nhiên ta thấy như bệnh tật đã giảm đi phân nửa. Ðến khi ta có gia đình, bằng tình thương vô bờ bến của ta đối với con cái, ta mới thấu hiểu tấm lòng của cha mẹ ta bao la đến dường nào!

“Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”. Người con có tâm hiếu với cha mẹ là phù hợp với tâm chư Phật, có hạnh hiếu là thể hiện được công hạnh của các Ngài. Người có trí không bao giờ dám khinh chê những người con hiếu thảo, dù người ấy đang ở tầng lớp thấp nhất của xã hội. Có thể nói, điều kiện tiên quyết để làm người tốt là phải có hiếu với cha mẹ. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận những giá trị khác ở thế gian, nhưng mọi đức tính của con người đều đứng sau chữ Hiếu. Ngày nay, sống trong thời đại văn minh khoa học mà giá trị vật chất đã lấn át giá trị tinh thần, nhiều người thành danh nhưng chỉ nhớ vun vén cho bản thân, cho gia đình riêng mà không nghĩ gì đến cha mẹ. Nhiều người vì sinh kế phải xa quê hương, thỉnh thoảng gửi tiền quà về, xem như đã làm tròn bổn phận. Họ không biết rằng, đối với cha mẹ, số tiền và món quà vô cảm ấy không thể nào bằng một ly nước lạnh con trực tiếp dâng lên với tất cả tấm lòng! Vì thế, lời dạy về đạo Hiếu của Ðức Phật là lời cảnh tỉnh có giá trị muôn đời; trở về với giáo lý đạo Phật là trở về truyền thống tốt đẹp có nguy cơ bị đẩy lùi hay đánh mất.

Có ba mức độ về hiếu đạo:

1- Tiểu hiếu: Người con bao giờ cũng kính trọng vâng lời cha mẹ, không dám có một lời nói, một cử chỉ nào vô lễ hoặc làm trái ý song thân. Cha mẹ khi mạnh khỏe, lúc ốm đau, nếu có bất cứ nhu cầu gì thì con phải tìm mọi cách thỏa mãn. Mạnh Tông là một gương hiếu thảo, điển hình của người xưa. Mùa đông giá buốt, mẹ Ngài ốm nặng thèm một bát canh măng. Tìm quanh không thấy, Ngài ngồi khóc dưới bụi tre. Nước mắt nhỏ xuống thành dòng làm tan cả tuyết băng. Lòng hiếu thảo của Ngài thấu đến cõi Trời, cảm động cả loài vô tri, từ gốc tre cằn cỗi mọc lên mụt măng non. Mẹ Ngài ăn được bát canh măng khỏi bệnh.

Việc hiếu thảo không phải ai cũng làm được, nhưng đối với đạo Phật, hiếu thảo có đôi khi trở thành bất hiếu. Vì sao lại như thế? Bởi vì, người con chưa hiểu lý Nhân quả, chỉ biết vun bồi hạnh phúc thế gian cho cha mẹ, mà không biết mình có thể tạo ác duyên như sát sanh hại vật, trộm cướp tài sản của người khác, vô tình khiến cha mẹ chịu quả bất thiện ở tương lai. Cho nên, người con có lòng phụng dưỡng cha mẹ là tốt, nhưng không vì thế mà tạo tác nghiệp dữ để ảnh hưởng đến cha mẹ về sau.

2- Trung hiếu: Người con có đạo đức, tin sâu nhân quả, không những chu cấp đầy đủ cho cha mẹ về vật chất và tinh thần, mà còn hướng các Người theo chánh pháp. Trợ duyên cho cha mẹ tạo phước báo tránh điều tội lỗi, khuyên cha mẹ quy y Tam bảo và giữ gìn năm giới. Khi cha mẹ quá vãng, bố thí cúng dường hồi hướng công đức cho hương linh song thân. Nếu có điều kiện thiết lễ trai tăng, nhờ bi nguyện và sức hộ niệm của cộng đồng Tăng lữ giúp song thân chuyển sanh ở cảnh giới mới hoặc vãng sanh về các cõi lành. Như thế, người con Trung hiếu đã góp phần tạo nhân lành cho cha mẹ, trong hiện đời được thỏa mãn an vui và đời sau cũng không sợ đọa vào đường ác.

3- Ðại hiếu: Con người qua vô lượng kiếp trôi lăn trong sanh tử, có biết bao nhiêu đấng sinh thành dưỡng dục chớ đâu phải chỉ cha mẹ đời nầy. Các Người đã dày công nuôi nấng dạy dỗ ta, nhiều khi tạo nghiệp bất thiện để ta có điều kiện thành người, nên có thể vì ta mà bị đọa vào khổ xứ. Kinh Phạm Võng Bồ Tát, Phật dạy: “Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta. Bao nhiêu đời kiếp ta từ đó mà sanh ra, nên chúng sanh trong sáu đường đều là cha mẹ của ta cả”.

Muốn cứu độ cha mẹ nhiều đời, chúng ta phải sống và tu như thế nào? Phải có Ðại hiếu mới tròn ơn vẹn nghĩa. Ðây chính là chí nguyện độ tận chúng sanh của những bậc Trưởng tử Như Lai. Người xuất gia nguyện cắt bỏ tình cảm riêng tư, tích cực công phu tu tập, khi đạt một trình độ tâm chứng rồi ra giáo hóa khuyến tấn người đời. Nhiều người nghe giảng, phát tâm tu hành theo chánh pháp, chuyển tâm xấu ác thành hiền thiện. Như vậy, một người xuất gia đạt đạo, cha mẹ đời nầy được lợi ích mà cha mẹ nhiều đời cũng có cơ hội thấm nhuần giáo nghĩa của Ðức Phật. Người xuất gia ấy là người con Ðại hiếu.

Nhưng tại sao ngày rằm tháng bảy được chọn làm ngày lễ Vu Lan báo hiếu? - Vì lễ Vu Lan gắn liền với ý nghĩa Tự tứ của chư Tăng. Sau ba tháng an cư tu tập Giới-Ðịnh-Tuệ, tịnh hóa ba nghiệp, các vị tụ hội cử hành lễ Tự tứ vào ngày rằm tháng bảy. Mỗi vị tự cử lỗi mình và phát lồ sám hối, đồng thời nhờ đại chúng chỉ cho những lỗi mình đã phạm mà vô tình không biết. Chư Tăng mạnh dạn tự cử lỗi và sám hối nên ngày nầy còn gọi là ngày Phật hoan hỉ. Nhờ quá trình an cư kiết giới, thúc liễm thân tâm và Tự tứ, nên khi cầu siêu sức chú nguyện của chư Tăng trong buổi lễ sẽ lớn lao và mạnh mẽ phi thường. Kết hợp với trai đàn thanh tịnh và lòng chí thành chí kính của những người dự lễ, tâm người đã khuất sẽ cảm nhận và chuyển đổi về hướng thiện lành. Do tâm chuyển nên nghiệp chuyển, người đã khuất có thể vãng sanh. Như thế, một buổi lễ cầu siêu muốn có kết quả tốt đẹp, phải hội đủ bốn điều: Chư Tăng trai giới nghiêm cẩn; Phẩm vật cúng dường thanh tịnh; Gia chủ thành tâm thành ý; Tâm người quá vãng cảm ứng và biến chuyển. Ðạo Phật chú trọng nơi tâm, không cần hình thức phô trương tốn kém. Nhiều khi sát sanh hại vật cúng tế linh đình còn làm người chết thêm tổn phước, và chỉ là hình thức gạt đời không có ý nghĩa đạo lý. Người con hiếu đạo và có chánh kiến phải lo cho cha mẹ vẹn toàn lúc sanh tiền, và lúc các Người khuất bóng, lễ tang chỉ đơn giản và đúng lễ đúng pháp là đủ. Sự cúng dường cầu nguyện trong tang lễ, một mặt nói lên tình cảm của những người sống đối với người đã khuất, mặt khác nhắc nhở người còn sống luôn phải giữ gìn giềng mối đạo đức và nề nếp gia phong, mà trên hết là chữ Hiếu.

Ngày Vu Lan là một ngày lễ trọng đại không chỉ của các Phật tử, mà của tất cả những người con hiếu hạnh. Báo hiếu là trách nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận thiêng liêng của con đối với những bậc sanh thành dưỡng dục. Tùy hoàn cảnh và khả năng, ta có thể báo đáp ơn sâu dày của cha mẹ bằng những hình thức và mức độ khác nhau, nhưng tựu trung, phải làm thế nào cho cha mẹ vui vẻ an ổn trong những ngày còn lại. Ðặc biệt, cần hướng cha mẹ tu theo chánh pháp để khi các người khuất bóng, có thể vãng sanh về cõi an lành. Mong rằng tất cả chúng ta, nhân lễ hội truyền thống nầy, nhớ nghĩ đến ơn nghĩa sanh thành để tìm cách đáp đền trong muôn một.


5- NGÀY LỄ HỘI TÌNH NGƯỜI

Ngày nay, trên thế giới có nhiều tôn giáo, nhưng nhìn chung, tôn giáo nào cũng truyền dạy căn bản đạo đức cho tín đồ. Thánh đường, Tự viện là nơi rao giảng đạo lý; các tu sĩ là những cán bộ tâm linh, những vị thầy dẫn đường cho môn đệ hướng đến mục đích nâng cao đời sống tinh thần. Bởi vì tinh thần là thượng tầng kiến trúc trong khi thể xác chỉ là hạ tầng cơ sở, nên đạo đức là một trong những tiêu chuẩn căn bản để đánh giá con người, khiến con người có thể đứng trên muôn loài muôn vật.

Ðức Phật trước khi dạy môn đệ làm Hiền Thánh, cũng rất xem trọng tư cách làm người. Con người khi sống trong xã hội là "sống cùng, sống với", không ai có thể đơn độc mà tồn tại và phát triển. Nói khác đi, mỗi người chúng ta đều chịu nhiều ơn nặng, từ khi sinh ra đến khi nhắm mắt. Nhà Phật đề cập đến Tứ trọng ân (ơn cha mẹ, ơn Thầy Tổ, ơn chúng sanh và ơn Tổ quốc), và ngày Vu-Lan là dịp tôn vinh những ân tình ân nghĩa ấy.

Trong cuộc sống, không có hạnh phúc nào lớn hơn hạnh phúc còn cha mẹ, và không có bất hạnh nào lớn hơn bất hạnh của kẻ mồ côi. Hình ảnh người cha lao động cần mẫn sớm hôm, người mẹ dịu hiền chăm chút các con từng miếng ăn giấc ngủ, đã từng là - và mãi là - những cung bậc êm đềm của bài hợp xướng gia đình. Căn bản đạo đức cũng bắt đầu từ sự giáo dục của gia đình, vì cha mẹ là chuẩn mực của các con từ lúc còn thơ ấu. Và mãi mãi về sau, dù ở lứa tuổi nào, chúng ta cũng thấy cha mẹ là chỗ dựa tinh thần vững chắc. Có thể lúc ta thành công trong sự nghiệp hay hạnh phúc trong cuộc sống lứa đôi, ta không cảm nhận rõ điều này. Nhưng khi gặp cảnh ngộ không may, khi bị sóng đời dập vùi tơi tả, khi hoàn toàn mất niềm tin đối với người xung quanh, ta mới chợt hiểu rằng, nơi một góc trời xa yêu dấu, cha mẹ vẫn là chiếc nôi ấm cho mình ru giấc ngủ sâu, là vòng tay êm xóa tan hết nơi mình mọi buồn đau hận tủi. Ân sủng thiêng liêng ấy, tình cảm bao la bất tận ấy, ta có thể tìm được nơi đâu, ngoài cha mẹ của mình ?

Ðêm khuya trăng rụng xuống cầu

Cảm thương cha mẹ dãi dầu ruột đau.

Người con xa quê hương, vất vả mưu sinh, có lúc phải tạm quên cha mẹ. Cũng có khi do mãi vui với vợ con bạn bè, nên tình quê bị lui xuống hàng thứ yếu. Nhưng một hôm nào đó, khi cuộc vui đã tàn, còn một mình ta trong đêm khuya vắng lặng, nhìn ánh trăng cô đơn dưới dòng sông, ta chợt nhớ về làng cũ. Ta chợt nhớ về hai đấng sinh thành tuổi cao sức yếu, ngày ngày tựa cửa trông ngóng tin con. Ðau lòng lắm khi thấy mình chưa đền đáp một phần nhỏ công ơn sâu dày của cha mẹ. Vội vã trở về mong chuộc lại lỗi lầm, thì hỡi ôi, cha mẹ đã không còn! Hối hận cách mấy, khóc than cỡ nào cũng không thể kéo lại thời gian đã mất. Nỗi đau nầy, niềm hối tiếc nầy đến bao giờ mới nguôi ngoai ?

Mất cha con cũng u ơ

Mất mẹ con cũng bơ vơ một mình.

Không người nào muốn mình mất cha mẹ, nhưng vô thường nào có tha cho một ai ? Vì thế, ngay khi cha mẹ còn sinh tiền, ta nên biết trân quý từng ngày sum họp, như quý viên ngọc vô giá đang cầm trên tay mà chắc chắn không thể giữ được vĩnh viễn. Sự trân quý ấy, kết hợp với sự biết ơn và thương kính chân thành đối với cha mẹ, là những điểm xuất phát của lòng hiếu thảo. Chúng ta biết ơn cha mẹ vì thân ta do cha mẹ mà có, nhờ cha mẹ mà trưởng thành. Chúng ta thương cha mẹ khi ta còn thơ dại, vì cha mẹ là nơi nương tựa vững chãi bình an nhất. Ta thương cha mẹ khi ta khôn lớn, vì biết mỗi ngày ta sống hạnh phúc ấm no là một ngày ta rút bớt sức lực của các Người. Ta càng thương cha mẹ khi ta có con cái, vì lúc bấy giờ ta mới thấm thía được sự hy sinh của cha mẹ đối với con. Rồi một hôm, nhìn kỹ dung nhan cha mẹ, hốt nhiên thấy các Người đã quá già yếu, thì ngoài tình thương ta còn có sự lo lắng, vì biết thời gian sum họp chỉ còn tính từng tháng từng ngày! Những người con hiếu thảo, thời gian qua đã có phước duyên phụng dưỡng cha mẹ, giờ càng cố tạo nhiều cơ hội làm các Người vui lòng. Còn những người chưa từng nghĩ đến chữ Hiếu, nay có kịp giật mình tỉnh ngộ, hay vẫn còn rong chơi đâu đó nơi hội chợ phù hoa ?

Ngày nay, trong xu thế khôi phục và phát huy truyền thống văn hóa đạo đức, các quan hệ xã hội càng được đề cao. Trong đó, quan hệ thầy-trò được đặt lên hàng đầu. Phần đông gia đình phải bận rộn về sinh kế, nên việc việc dạy dỗ con em đều phó thác cho thầy cô. Vì thế, môi trường giáo dục chủ yếu về chữ nghĩa lẫn đạo đức là nhà trường.

"Nhất tự vi sư, bán tự vi sư". Người dạy ta một chữ là thầy ta, dạy nửa chữ cũng là thầy. Nhờ thầy, ta mới tiếp cận với tri thức loài người, mới hòa nhập với đời sống văn minh, mới có nghề nghiệp ổn định. Ở thời đại hiện nay, khi thế giới ngày càng thu hẹp, con người ngày càng xích lại gần nhau nhờ những phương tiện truyền thông và giao thông tiên tiến, tri thức lại càng cần thiết để bắt kịp và thích nghi với đà tiến hóa của xã hội. Do vậy, vai trò của thầy cô càng trở nên quan trọng không thể thiếu, đối với quan điểm thế gian.

Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì nhờ thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh. Nếu ta biết ơn cha mẹ và thầy cô ngoài đời vì công sanh thành dưỡng nuôi và giáo dục ta trong một đời kiếp, thì ta càng nhớ thầy dạy đạo gấp nhiều lần hơn, vì thầy nuôi lớn thân huệ mạng bất sinh bất diệt của ta, dìu dắt ta trên lộ trình giác ngộ giải thoát.

Kinh Vu-Lan-Bồn Sớ có 4 câu kệ:

Khể thủ Tam giới Chủ

Ðại hiếu Thích Ca Văn

Lụy kiếp báo thâm ân

Tích nhân thành chánh giác.

Chúng ta cúi lạy Bậc Ðại hiếu Thích Ca là Ðấng Giáo chủ trong ba cõi. Ngài đã trải qua nhiều kiếp báo đáp những ân sâu, nhờ tích chứa nhân lành nên ngày nay thành tựu đạo quả vô thượng. Ðức Phật là một tấm gương sáng chói về lòng hiếu thảo và sự trọng nghĩa trọng tình. Với trí vô sư, Ngài biết tất cả chúng sanh đều có liên hệ thân thuộc lẫn nhau, qua vô lượng kiếp luân hồi trong quá khứ. Do vậy, Ngài dạy chúng ta mở lòng thương bình đẳng và rộng khắp đến tất cả mọi loài, không sát sanh hại vật để thỏa mãn nhu cầu ăn mặc, giải trí cho riêng mình.

Trong đời hiện tại, mỗi cá thể cũng có tương quan hữu cơ với cộng đồng xã hội nói riêng và với vạn vật nói chung. Chúng ta chịu ơn tất cả mọi người, từ người nông phu gieo trồng lúa mạ rau trái cho ta ăn, người thợ dệt làm ra y phục cho ta mặc, đến biết bao ngành nghề khác phục vụ ta trong cuộc sống đời thường. Chúng ta cũng chịu ơn cỏ cây hoa lá chim muông tạo cho ta môi trường thanh sạch; và nhờ sự hiện hữu vô vị lợi của chúng, ta có thể học được nhiều bài học quý giá về cách sống trọn tình. Loài hoa nào cũng cố gắng nở hết sức để làm đẹp và tỏa hương cho đời, mà không hề giữ lại một chút gì cho riêng mình; loài chim mỗi sáng cũng cố gắng hót ca hết sức để tặng cho đời những âm thanh trong trẻo. Chúng không hề ganh ghét tị hiềm lẫn nhau, không hề phân biệt kẻ nhận lãnh là thiện hay ác, giàu có hay nghèo hèn. Những bài học ấy lúc nào cũng sẵn sàng trước mắt, nếu ta biết mở lòng ra đón nhận.

Chúng ta cũng mang ơn những vị lãnh đạo quốc gia đã vạch kế hoạch cho toàn dân được cơm no áo ấm, được yên ổn làm việc học hành. Cuộc sống thanh bình hiện tại đã được đánh đổi bởi vô vàn hy sinh mất mát của quá khứ. Cuộc sống ấy được duy trì cũng nhờ sự đóng góp tích cực và thầm lặng của biết bao chiến sĩ, đang chiến đấu trên những trận tuyến tuy vô hình nhưng thật nhiều cạm bẫy gian nan.

Ngày Vu-Lan, với thông điệp nhắc nhở mọi người nhớ lại và tìm cách đáp đền những ân tình ân nghĩa đã cưu mang, đã góp phần trong công tác văn hóa tư tưởng, giúp thúc đẩy xã hội phát triển hòa nhịp giữa vật chất, tri thức và đạo đức. Bởi vì, một xã hội văn minh không phải nhờ sự phồn vinh vật chất, mà từ phong cách sống và lối cư xử giữa con người với nhau sao cho hợp với tình đời lý đạo. Cho nên, có thể nói ngày lễ Vu-Lan là một Lễ hội tình người, không chỉ có ý nghĩa đối với hàng tứ chúng con Phật, mà còn đối với toàn thể nhân loại nói chung - bây giờ và mãi mãi.


6- BÁO HIẾU BÁO ÂN

Những người con Phật chúng ta, có lẽ ít nhất một lần trong đời được nghe kể về câu chuyện cảm động của Ðức Mục-Kiền-Liên cứu mẹ thoát kiếp ngạ quỷ. Từ câu chuyện ấy, Ngài được tôn xưng là Bậc Ðại Hiếu, ngày rằm tháng bảy được gọi là ngày báo hiếu, và lễ Vu Lan trở thành một thắng hội ở các nước Phật giáo Bắc tông.

Ðối với Việt-Nam, một đất nước có hơn bốn ngàn năm văn hiến, đạo Hiếu được xem như thước đo giá trị tinh thần và là chuẩn mực đạo đức con người. Việc đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục là bổn phận của tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, giới tính hay địa vị xã hội. Vì thế, ý nghĩa báo hiếu của ngày Vu-Lan đã biến lễ hội này thành một ngày trọng đại, một truyền thống tốt đẹp của cả dân tộc.

Tuy nhiên, ý nghĩa của lễ Vu-Lan không chỉ dừng lại ở đó. Rằm tháng bảy còn là ngày Tự tứ, ngày chư Phật hoan hỉ, ngày đền ơn đáp nghĩa và ngày xá tội vong nhân. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ xin đi sâu vào hai lĩnh vực quan trọng là báo hiếu và báo ân, mà mỗi người Phật tử chân chính đều cần hiểu đúng và làm đúng.

I- VU-LAN VÀ TINH THẦN BÁO HIẾU.

Quyển “Nhị thập tứ hiếu” mô tả nhiều gương sáng về hiếu đạo của các bậc hiền nhân Trung Quốc. Mỗi vị có một cách bày tỏ lòng biết ơn khác nhau đối với cha mẹ, nhưng tựu trung có một điểm chung nhất: Tất cả đều ý thức được rằng, công ơn của các đấng sinh thành dưỡng dục thật cao vời như non Thái, bao la như trời biển; người con dù làm bất cứ điều gì cũng khó thể đền đáp trọn vẹn. Vì vậy, Lão Lai dù tuổi cổ lai hy vẫn múa hát và làm đủ trò trẻ con cho cha mẹ vui; Mạnh-Tông đang mùa đông giá rét khóc bên bụi tre, nước mắt rơi xuống gốc tre làm mọc lên chồi măng tươi ngọt, mẹ hiền nhờ ăn măng mà hết bệnh. Cũng vì vậy, Mẫn Tử Khiên dù bị mẹ kế ghét bỏ hành hạ, vẫn không để lòng oán trách, lại còn xin cha đừng đuổi mẹ đi, vì “nếu mẹ ở lại thì chỉ mình con đói rét, nếu mẹ ra đi thì cả ba anh em đều chịu khổ”. Hiểu được lòng hiếu thảo của các vị, chúng ta cũng sâu sắc cảm thông với nỗi đau không gì sánh nổi của Thầy Tử Lộ: Khi còn hàn vi, ông phụng dưỡng hai thân bằng những bữa canh rau; đến khi làm quan, vật chất dư thừa thì cha mẹ không còn cho mình báo hiếu!

Ðối với người thế gian, những gương hiếu thảo như thế là tột cùng, làm cảm động lòng Trời, lòng người và cảm động cả loài vô tình như cây cỏ. Chữ HIẾU lại được đánh giá theo ba mức độ từ thấp lên cao: Tiểu, Trung và Ðại hiếu.

Mỗi người sinh ra trong một hoàn cảnh gia đình khác nhau, nhưng ai cũng có các bậc sinh thành và dưỡng dục. Ngay cả những trẻ mồ côi hay bị bỏ rơi, không biết cha mẹ ruột là ai, vẫn phải nhờ những bàn tay từ thiện cưu mang, nuôi dưỡng mình. Cho nên, được trưởng thành, được làm người hữu dụng, chúng ta phải nhớ ơn những người đã sinh ra mình, nuôi dạy mình; và bằng mọi cách, đền đáp công ơn này trong muôn một.

Chữ Hiếu ở đây phát xuất từ tình thương yêu chân thật và sâu đậm, kết hợp với lòng biết ơn của người con. Với tình cảm ấy, chúng ta cố gắng thỏa mãn mọi nhu cầu của cha mẹ, làm thế nào để các Người được vui vẻ ấm cúng trong tuổi xế chiều. Không phải chỉ người giàu có mới báo hiếu được, mà đôi khi cha mẹ chỉ cần một vài lời dịu ngọt, một thái độ ân cần quan tâm, đã cảm thấy an ủi rồi. Có những bà mẹ rất tội nghiệp, được con chu cấp tiền bạc đầy đủ, nhưng điều bà cần là tình thương ấm áp của đứa con, thì lại thiếu thốn. Bởi vì con lo phát triển công danh sự nghiệp nơi xa, thời gian rảnh rỗi còn phải nghĩ đến vợ con bạn bè. Ðứa con đâu biết người già thường cảm thấy cô đơn trống vắng, lại dễ tủi lòng, số tiền vô tri vô cảm gửi về hàng tháng làm sao lấp được khoảng trống trong tâm hồn người mẹ xa con? Ðó là chưa nói đến những kẻ bất hiếu, nỡ để cha mẹ già đói khổ quạnh hiu nơi quê nghèo hay trong nhà dưỡng lão, dù bản thân mình đang dư thừa vật chất. Cha mẹ đã không thương, thì có bao giờ họ thật sự yêu thương ai ngoài chính bản thân mình?

Tuy nhiên, con hết lòng thương kính cha mẹ, đáp ứng đầy đủ nhu cầu vật chất và tinh thần cho cha mẹ, có đủ trả ơn cho các Người chưa? - Nhà Phật cho đó chỉ mới là Tiểu hiếu, tức là lòng hiếu thảo ở bậc thấp nhất. Và tùy hành động báo hiếu của người con, mà Tiểu hiếu có lúc đúng nghĩa chữ Hiếu, nhưng có khi ngược lại, trở thành bất hiếu. Vì sao như thế? - Bởi vì, người con chỉ biết chú trọng phần thể chất và tình cảm của cha mẹ, mà chưa nghĩ đến phần đạo đức và tâm linh cho các Người. Mặt khác, nếu cha mẹ có những ham muốn bất thiện, hoặc vượt quá khả năng đáp ứng của người con; con vì thương cha mẹ, phải tìm đủ cách để thỏa mãn, kể cả những cách không hợp pháp, hợp đạo lý. Việc làm ấy có thể gây hậu quả không tốt, tạo nghiệp ác cho bản thân và cả cho cha mẹ, vô tình thành bất hiếu. Do vậy, song song với lòng thương cha mẹ, người con còn phải biết kết hợp với trí tuệ và đạo đức. Nếu cha mẹ tham lam bỏn xẻn, ta khuyên nên mở rộng lòng bố thí cúng dường. Nếu cha mẹ thường sân hận tật đố, ta khuyên nên buông xả chớ chấp trước, biết thông cảm để hiểu và thương yêu mọi người. Nếu cha mẹ chưa biết gì về Phật pháp, ta dần dần giúp cha mẹ hiểu được giáo lý, thọ trì tam quy ngũ giới. Ðây là tinh thần Trung hiếu, tức đạo hiếu bậc trung, mà người Phật tử chúng ta cần thực hiện để có thể báo hiếu song thân một cách đầy đủ và đúng nghĩa.

Trường hợp cha mẹ đã qua đời, chúng ta phải làm cách nào để báo hiếu? Kinh Vu-Lan, Ðức Phật dạy rõ về phương pháp cầu siêu cho người đã khuất trong ngày rằm tháng bảy, trong đó có những điều rất quan trọng: Một là, thỉnh chư Tăng phải là những vị tu hành thanh tịnh, trong ba tháng an cư kiết giới trang nghiêm, thực hiện tinh thần Tự tứ đúng nghĩa. Hai là, gia chủ sửa soạn phẩm vật cúng dường chay tịnh, chí thành chí kính cầu nguyện Tam Bảo hộ trì cho vong linh người thân. Ba là, trong buổi trai đàn đúng lễ, tâm thanh tịnh của chư Tăng và tâm thành kính của gia chủ tác động vào thần thức của người đã khuất, khiến người ấy hướng về đường lành, nghiệp ác chuyển thành nghiệp thiện. Ðủ ba điều kiện ấy, buổi cầu siêu mới có kết quả, người đã khuất sẽ được vãng sanh.

Thân mẫu hai vị đại đệ tử của Ðức Phật là Xá-Lợi-Phất và Mục-Kiền-Liên, cũng nhờ hai vị làm theo lời dạy trên mà thoát khỏi khổ xứ. Nếu các Ngài không xuất gia, tu hành thành tựu đạo quả, làm sao biết mẹ mình đang bị đọa lạc mà cầu Ðức Phật cứu giúp? Ngay cả các vị tu sĩ chân chính, dù chưa đạt đạo, cũng có thể dễ dàng khuyên cha mẹ tích cực tu hành, gieo chủng tử Phật pháp cho các Người, để những đời sau tiếp tục đi theo chánh đạo, cuối cùng vĩnh thoát luân hồi. Sự báo hiếu này có giá trị đích thực, siêu xuất thế gian nên được gọi là Ðại hiếu.

II- VU-LAN VÀ TINH THẦN BÁO ÂN.

Ngoài công ơn của cha mẹ, con người còn có những ơn nghĩa khác phải đáp đền. Nhà Phật đề cao bốn ơn nghĩa chính, đó là Tứ trọng ân, tức ơn của cha mẹ, của sư trưởng, của chúng sinh và của Tổ quốc. Có thể nói, tinh thần báo hiếu tức đền ơn cha mẹ là nghĩa hẹp của Vu-Lan, còn tinh thần báo ân tức bốn ơn nặng là ý nghĩa rộng rãi và đầy đủ, thuộc phạm trù đạo đức của lễ hội này.

* Thế nào là ân sư trưởng? Chúng ta sinh ra và lớn lên, ngoài cha mẹ dạy dỗ dưỡng nuôi, còn được học hỏi nơi nhiều thầy cô khác. Người được học hành nơi trường lớp, từ mẫu giáo đến lúc tốt nghiệp đã chịu ơn dạy bảo của bao nhiêu vị thầy? Ai đã cầm tay chúng ta nắn nót từng nét chữ; ai dạy những kiến thức phổ cập và chuyên sâu, tạo căn bản cho chúng ta phát triển công danh và sự nghiệp sau này; ai dạy đạo đức làm người, cho chúng ta trở thành người dân hữu ích...? Nếu không có thầy trong trường học, khó lòng đào tạo những nhân tài cho đất nước.

Ở trường đời, những người dạy chúng ta kinh nghiệm sống, các kỹ năng nghề nghiệp, là người thầy giúp chúng ta có sự vững chãi và trưởng thành trong cuộc sống. Phạm vi này rất rộng, từ người cho ta một lời chỉ dẫn, một lời khuyên khi hữu sự, đến người tận tình truyền thụ những yếu lý trong nghề; từ người dạy ta những điều hiền thiện đến người chống đối phỉ báng ta - đây là các thử thách đôi khi cần thiết để chúng ta có dịp nhìn lại bản thân mình.

Ðối với người tu, Sư trưởng còn là ơn Thầy Tổ. Ðây là ân nghĩa xuất thế gian, vì các Ngài dạy chúng ta biết rõ thế nào là cái khổ của chúng sinh, cái gì là nguyên nhân của đau khổ. Nhờ các Ngài, chúng ta mới biết những phương pháp thoát khỏi phiền não khổ đau, được an lạc tự tại trong đời này và nhất là giải thoát nỗi khổ lớn nhất của kiếp phù sinh - nỗi khổ trầm luân sinh tử. Chính được đào luyện trong trường đạo, chúng ta mới có cơ hội tận hưởng hạnh phúc đích thực và tuyệt đối. Vì thế, công ơn của các Ngài đối với chúng ta quả là ơn nghĩa khó đền!

* Ơn nặng đối với chúng sinh, người tu chúng ta cần tĩnh tâm quán chiếu để thấy rõ sự liên hệ giữa mình với tất cả chúng sinh hữu tình và vô tình. Từ những nhu cầu vật chất như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, đường đi... đến nhu cầu tinh thần như thi ca nhạc họa... chúng ta đều nhờ công lao của người khác đưa đến. Không chỉ mang ơn con người, chúng ta cũng phải nhớ ơn những loài hữu tình khác nữa. Ngay cả loài nhỏ nhất như vi khuẩn ký sinh trong cơ thể chúng ta, nếu không có chúng thì một số chức năng cũng khó thể chu toàn (*)!

* Ơn lớn thứ tư trong Tứ trọng ân là ơn đối với Tổ quốc. Lịch sử chống ngoại xâm trong suốt quãng đường giữ nước và dựng nước của dân tộc ta, đã chói lọi biết bao gương anh hùng liệt sĩ, hy sinh quên mình cho nền độc lập và tự do của đất nước. Ngay cả trong thời bình, nếu không có lực lượng quân đội và an ninh quốc phòng, không có sự bảo vệ của hiến pháp và pháp luật, người dân làm sao yên ổn để sinh sống, tu hành? Quốc văn giáo khoa thư có kể câu chuyện một người có dịp đi du lịch khắp chốn. Người ta hỏi ông, ông đã đến nhiều nước trên thế giới, đã tận mắt chiêm ngưỡng những thắng cảnh nổi tiếng, vậy theo ông thì nơi nào đẹp nhất? Ông ta trả lời bằng một câu rất đơn giản nhưng rất thấm thía: “Chốn quê hương đẹp hơn cả”. Ðây là tâm trạng của phần đông - nếu không muốn nói là hầu hết - người dân Việt sống xa quê hương. Dù bất cứ lý do nào, bất cứ hoàn cảnh gì khiến phải bôn ba nơi xứ người, nỗi nhớ về chỗ chôn nhau cắt rốn vẫn là một niềm ray rứt khôn nguôi. Vừa nặng oằn chữ ÂN, vừa thắm thiết chữ TÌNH: công ơn đối với đất nước quê hương, nơi đã cho ta một hình hài, một dòng máu; tình nghĩa đối với gia đình với xóm làng quyến thuộc. Ðây là tình tự dân tộc, là tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, từ đó tạo nên lòng yêu nước sâu đậm và ý chí kiên cường bảo vệ giống nòi. Ðiều này giải thích tại sao đất nước ta từng bị xâm chiếm, dân tộc ta từng bị nô lệ mà vẫn không đồng hóa; tại sao Việt Nam có thể chiến thắng rất nhiều giặc ngoại bang hung hãn để giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, để ngày hôm nay có thể sánh vai cùng bè bạn khắp năm châu.

Con người sống có thể thiếu những loại hình giải trí, thiếu tiện nghi vật chất, nhưng dứt khoát không thể thiếu những nhu cầu thiết yếu cho sự sinh tồn: nhịn ăn được vài mươi ngày, nhịn uống nước được 1-2 ngày, nhịn thở chỉ được 5-10 phút. Hành tinh chúng ta sở dĩ có sự sống là vì có không khí và nước, từ đó cây cối rau quả mọc lên làm lương thực cho động vật. Cho nên, nhớ ơn các loài vô tình cũng là một đạo lý. Nhìn lại thế kỷ XX, thế kỷ chói sáng nhất về những thành tựu khoa học kỹ thuật, nhưng cũng bạo liệt nhất về chiến tranh và hũy hoại môi trường. Chúng ta giật mình thấy rõ, chính con người vừa nâng cao mức sống nhưng cũng vừa gây hại cho bản thân mình. Giông bão, lũ lụt, dịch họa mỗi năm càng tăng về số lượng và về mức độ tàn phá, một phần do cây rừng đầu nguồn bị đốn chặt tràn lan, phần khác do môi trường sinh thái bị ô nhiễm bởi các khí thải, bởi các chất độc hại từ những khu công nghiệp. Tầng Ozon bị thủng, hiệu ứng nhà kính làm trái đất nóng dần lên, khiến bệnh tật phát sinh và thiên tai dồn dập, há chẳng phải là hậu quả của một nền khoa học tiên tiến nhưng mãi chạy theo lợi nhuận nên quên đi sự tương quan giữa mình và người?

III- Ý NGHĨA CỦA BÁO HIẾU VÀ BÁO ÂN

Trong thuyết trùng trùng duyên khởi, Ðức Phật dạy mỗi cá thể đều có sự liên hệ hỗ tương và duyên sinh với toàn thể vũ trụ vạn loài, không phải chỉ trong hiện tại mà cả trong vô lượng kiếp quá khứ và tương lai. Với tinh thần đó, rõ ràng con người không thể độc lập tồn tại, mà phải nương tựa nhau, nhờ vả cùng nhau sinh sống. Ngày nay, với phương tiện giao thông và viễn thông phát triển mạnh mẽ, trái đất trở thành ngôi nhà ấm cúng, các dân tộc xích lại gần nhau hơn, thì sự liên hệ hỗ tương này lại càng chặt chẽ. Nếu con người làm điều gì tổn hại đến kẻ khác hay hũy hoại môi trường, đó chính là trở lại làm hại cho bản thân mình. Vì thế, nhớ ơn và đền ơn vừa có ý nghĩa đạo đức đối với người và vật đã giúp đỡ mình, vừa có ý nghĩa tự hoàn thiện mình và bảo vệ sức khỏe thể chất cùng tinh thần của chính mình nữa.

Ðạo hiếu đối với cha mẹ là tình yêu thương và lòng biết ơn cao nhất. Người con hiếu thảo ngay tự thân đã cảm nhận một niềm an lạc thanh lương, người khác nhìn cũng đem lòng quý kính. Ðức Mục-Kiền-Liên được chúng ta thờ lạy tôn xưng, không phải vì Ngài là bậc thần thông đệ nhất trong mười đại đệ tử của Phật, mà chính vì Ngài là bậc đại hiếu. Có thể nói, đạo hiếu là căn bản đạo đức của con người và là điều kiện quyết định khiến phân biệt loài người với những loài động vật khác. Ðạo hiếu cũng là bước khởi đầu của tình thương nhân loại, bởi vì có thương được cha mẹ mình, chúng ta mới có thể thương bà con quyến thuộc và tất cả những người quen hoặc không quen biết. Ở một số nước phát triển về văn minh vật chất, con người dần dần phai lạt đi tình cảm gia đình. Con lớn lên là muốn tự lập, xa cha mẹ để được tự do sống cuộc sống riêng mình, thỉnh thoảng có về thăm cha mẹ thì cũng chỉ một vài câu chuyện trao đổi rồi lại ra đi. Từ sự lạnh nhạt trong tình cha mẹ - con cái đến sự lãnh đạm trước nỗi khổ của đồng loại, chỉ là một bước thật ngắn, có phải như thế không?

Tinh thần tôn sư trọng đạo là một viên gạch lớn xây dựng nền tảng đạo đức xã hội, và hiện tại cũng là một vấn nạn đối với gia đình và học đường. Học trò của nhà giáo Chu Văn An ngày xưa, dù làm quan lớn trong triều, lúc đến thăm thầy vẫn phải đứng hầu cung kính, làm điều gì sai quấy vẫn phải bị thầy đánh đòn. Học trò ngày nay, có nhiều kẻ đã không nhớ ơn thầy cũ, ngay cả thầy cô đang dạy, cũng không biết kính trọng thương yêu. Chúng ta nghe quá nhiều trường hợp học trò mắng chửi thầy, đánh đập thầy, thậm chí còn sát hại thầy! Có phải do vật chất thừa thải làm băng hoại tinh thần, hay do không có sự phối hợp chặt chẽ giữa cha mẹ và nhà trường, để giáo dục đầy đủ cho con em về cả kiến thức lẫn đạo đức, ngay từ thuở còn thơ ấu? Ðạo Phật chủ trương biết ơn và đền ơn, không những giúp củng cố tình cảm gia đình và học đường, mà còn mang tính giáo dục cao về đạo đức nhân nghĩa; không những có giá trị trong thời Ðức Phật còn tại thế, mà ngày càng chứng tỏ sự cần thiết phải được nhắc lại và đề cao; không những được học hỏi và thực hiện trong tứ chúng con Phật, mà thiết tưởng cần được phổ biến trong toàn xã hội. Ở nước ta, ngày 20/11 hàng năm được gọi là ngày Nhà Giáo Việt Nam, các học sinh và phụ huynh có dịp tỏ lòng trân trọng biết ơn những người đã khai sáng trí tuệ cho mình và con em mình. Còn đối với những vị Thầy chỉ cho mình con đường sáng, nhờ đó mình thoát khỏi khổ đau và thoát ly sinh tử, thì chúng ta phải làm thế nào để báo đáp? - Ðây là điều mà tất cả những người con Phật chân chính cần suy gẫm.

Một mặt khác, bằng cái nhìn duyên sinh, chúng ta thấy rõ sự tương tức và tương nhập của bốn trọng ân. Chúng xoắn xuýt hòa quyện nhau, liên hệ chặt chẽ với nhau để tạo nên một cốt lõi duy nhất: đó là bổn phận làm người. Trong những kiếp luân hồi bất tận, tất cả chúng sinh đều có thể là cha mẹ, là bà con quyến thuộc của nhau. Chúng ta kính trọng và biết ơn cha mẹ ở đời này, cũng nên nhớ nghĩ đến cha mẹ của mình ở vô lượng đời trước. Như vậy, há chẳng phải lòng hiếu thảo cũng là lòng biết ơn chúng sinh đó sao? Và các thầy cô dạy chúng ta những kiến thức thế gian và xuất thế, há chẳng phải có duyên thân tình ruột thịt với chúng ta ở một kiếp nào đó xa rồi? Lại nữa, nói đến lòng biết ơn đối với Tổ quốc là nói đến tình cảm đồng bào, là tình làng nghĩa xóm. Ðức Phật dạy, cùng đi chung một chuyến đò là đã có duyên với nhau 500 kiếp; chúng ta cùng một dân tộc một đất nước, kết quả này được tạo nên từ bao nhiêu kiếp hạnh ngộ? Cho nên, phóng tầm mắt đến đâu, chúng ta cũng thấy toàn là cha mẹ anh em ruột thịt của mình. Có lẽ nào chỉ vì một chút lợi lộc cho bản thân mà nỡ làm tổn hại đến những người thân thiết ấy? Có lẽ nào trông thấy cha mẹ anh em ta đang đau khổ vì chiến tranh, vì thiên tai, vì bệnh tật ở nơi này nơi khác, mà ta không sẵn lòng san sẻ chút ít tài vật công lao? Khi có được tình thương bao la và bình đẳng đối với mọi người mọi vật, tự nhiên ta sẽ biết cách sống thế nào cho có ân tình ân nghĩa. Ta cũng sẽ tự nhiên trở thành một người đạo đức, vì chính tình thương ấy là tâm từ bi - mật hạnh của một Bồ tát.

* * *

Nhân ngày Vu-Lan, nhắc lại ý nghĩa Báo hiếu và Báo ân để chúng ta thấy rõ rằng: Ngoài yếu lý của đạo là giác ngộ và giải thoát sinh tử, Ðức Phật còn ân cần chỉ dạy cho chúng ta cách làm người. Nếu chưa biết cách làm người, chúng ta khoan nghĩ đến chuyện thành Hiền thành Thánh. Nhất là trong thời đại hiên tại, thời đại của toàn cầu hóa, của cuộc cách mạng tin học thâm nhập đến tận mỗi tế bào, thời đại của tiện nghi vật chất tiến theo tỉ lệ nghịch với sự phát triển tinh thần, luân lý và đạo đức; thì mỗi người con Phật chúng ta, phải tự thấy mình có trách nhiệm lớn. Chúng ta phải thắp sáng ý thức của mình bằng ngọn đuốc chánh pháp của Phật; phải tinh tấn tu hành, nỗ lực công phu. Ðồng thời, vì những ơn nghĩa đã mang từ bao kiếp, chúng ta phải thương yêu và giúp đỡ tất cả mọi người mọi vật, bằng khả năng sẵn có của mình; rồi tùy duyên hướng dẫn người xung quanh hiểu và làm theo lời Phật dạy, trong tinh thần Tứ nhiếp pháp. Chúng ta cũng góp một phần công sức nhỏ nhoi của mình vào việc bảo vệ môi trường sinh thái, để hành tinh xanh yêu quí này mãi mãi là viên ngọc tuyệt vời trong vũ trụ bao la. Làm được những việc tốt đạo đẹp đời như vậy, chúng ta mới có thể báo đền bốn ơn nặng này trong muôn một!


7- VU LAN - TRUYỀN THỐNG CỦA ÐẠO HIẾU

Cứ mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, tất cả người con Phật đều nhớ đến trách nhiệm báo ân báo hiếu đối với hai đấng sanh thành. Hàng Phật tử khắp năm châu bốn biển cùng nhau long trọng tổ chức đại lễ Vu Lan, nương vào uy đức ngôi Tam Bảo, cầu nguyện cho cha mẹ còn sống được an lạc trong chánh pháp, cha mẹ đã qua đời siêu sanh về các cõi lành. Thương cha kính mẹ được coi là truyền thống tốt đẹp lâu đời của mỗi người dân Việt. Tình thương đối với cha mẹ luôn luôn là mối ân tình thiêng liêng nhất.

Từ thuở xa xưa đến nay, tấm gương hiếu hạnh của Tôn giả Mục Kiền Liên vẫn mãi mãi soi sáng, làm thắm đượm nhân tình. Sau khi thành đạt đạo quả A La Hán, ngài Mục Kiền Liên dùng thiên nhãn quan sát khắp, thấy Mẹ mình bị đọa đày làm loài quỷ đói. Ngài là hàng đệ tử thần thông đệ nhất, tin rằng sẽ cứu được Mẹ qua cơn đói khát đày đọa tấm thân. Ngài với hai tay cầm bát cơm xuống cõi âm dâng lên cho Mẹ. Mẹ ngài cầm bát cơm vừa đưa ngang miệng, thì than ôi ! Cơm hóa thành than hồng, không thể ăn được. Tôn giả chính mắt chứng kiến cảnh tượng này, lòng đau khổ vô cùng. Tôn giả trở về xin Phật mở lượng từ bi cứu độ Mẹ ngài.

Phật dạy: “Mẹ ông đã nhiều kiếp gieo nhơn xan tham keo kiệt, nên nay phải chịu quả báo làm loài quỷ đói. Một mình ông không thể cứu được. Phải nhân ngày rằm tháng bảy, tổ chức cúng dường Phật và chúng Tăng trong mười phương, nhờ vào uy lực và sức chú nguyện của Phật và chúng Tăng mười phương thì mẹ ông mới có thể siêu thoát được”.

Sau đó, Tôn giả Mục Kiền Liên vâng theo lời Phật dạy, đến ngày rằm tháng bảy đem phẩm vật đến cúng dường chúng Tăng mười phương. Mẹ của Ngài nhờ uy đức phước lực của chúng Tăng và lòng chí thành chí kính của Ngài, sớm được thoát khỏi nỗi thống khổ của loài quỷ đói, siêu sinh về cõi lành.

Từ đó, ngày lễ Vu Lan được tổ chức long trọng để hàng Phật tử câu hội về ngôi Tam Bảo, cúng dường Ðức Phật và chúng Tăng, cầu cho cha mẹ còn sống được thân tâm an lạc, sau khi mạng chung được sanh về các cõi lành.

Về phương diện giáo dục đạo đức của đạo Phật, một điểm đáng ghi nhận là giáo dục về hiếu đạo. Hiếu đạo là nền tảng đạo đức của đạo làm người cho ra người. Chúng ta có thể trang trải tình thương đến tất cả mọi loài mọi vật, nhưng điểm xuất phát làm nền tảng, phải từ sự hiếu kính cha mẹ. Một người có thể thương đủ hạng người, tình thương đó trùm hết muôn loài vạn vật, nhưng nếu không thương kính cha mẹ thì tình thương đó e thành giả dối, vì không có gốc rễ, không được lập cước từ căn bản. Cho nên hiếu đạo xưa nay vẫn thường được đề cao trong phạm vi luân lý đạo đức. Nếu chưa thực hiện hiếu đạo ngay trong đời sống gia đình đối với cha và mẹ thì chưa thể xứng đáng là một con người. Người xưa có câu: “Thiên kinh vạn quyển, hiếu nghĩa vi tiên”. Ngay như người xuất gia học đạo vẫn còn phải cưu mang bốn ân nặng là ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân chúng sanh và ân tổ quốc. Trong bốn ân thì ân cha mẹ vẫn còn là mối ân tình sâu đậm với mỗi người xuất gia tu Phật. Trong “Cư trần lạc đạo” của vua Trần Nhân Tông viết:

“Tụng kinh niệm Bụt

Chúc Thánh khẩn cầu

Tam hữu tứ ân

Ta nguyền được trả”.

Vì công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ quá là cao dày, nên Kinh Thi có câu: “Phụ hề sanh ngã, Mẫu hề cúc ngã. Ai ai phụ mẫu, Sanh ngã cù lao. Dục báo thâm ân, hiều thiên võng cực”. (Cha sanh ra ta, mẹ nuôi nấng ta. Thương cha mẹ lắm, vì sinh ta nhọc nhằn. Ðến khi muốn báo đáp ân sâu, thì than ôi, trời cao không cùng !) .

Công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ quả là lớn lao, như trời cao. Khi người con muốn đền đáp ân sâu thì lúc đó như trời cao với không tới, từ khi cưu mang đến mở mắt chào đời, trưởng thành và lớn khôn, cha mẹ phải chịu biết bao là khổ sở, nhọc nhằn. Thế mà khi sức sống đã truyền hết cho con thì cha mẹ hơi tàn sức tận, rồi trở thành “người thiên cổ”. Ai có lớn lên nếm mùi cay đắng, thấm gót phong trần thì mới thắm thía cái ơn của cha mẹ mình. Một người biết đến điều ân nghĩa, chắc chắn không dám vội quên cái ơn của cha mẹ.

Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, có hai hạng người, ta nói là không thể trả ơn được. Thế nào là hai ? Ðó là mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, làm như vậy suốt một trăm năm, cho đến khi cha mẹ trăm tuổi. Như vậy, này các Tỳ kheo, cũng chưa làm đủ để trả ơn cho mẹ và cha. Nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội và dù tại đấy, mẹ cha có vãi đại tiện, tiểu tiện, dù như vậy, này các Tỳ kheo, cũng chưa làm đủ để trả ơn mẹ và cha...” (Kinh Tăng Chi I-75)

Ca dao Việt Nam có câu :

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Ở người cha, nổi bật là đức nghiêm; có nghiêm mới giáo dục con cái có đạo đức, có văn hóa, sau trở thành người đủ tài đủ đức, nên tính đức người cha sừng sững, vòi vọi như núi Thái Sơn. Còn tính đức của người mẹ thì muốn con có cuộc sống no ấm, đủ đầy; người mẹ lại thường gần gũi, an ủi, vỗ về con cái hơn, nên tình nghĩa của người mẹ, nó đậm đà, da diết như suối nguồn bất tận. Suối nguồn tình thương của người mẹ, nó dịu dàng, đầm ấm, âm thầm tuôn chảy không bao giờ dừng nghỉ.

Phật dạy trong Kinh Nhẫn Nhục: “Cùng tột điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tột điều ác không gì hơn bất hiếu”.

Một kẻ bất hiếu với cha mẹ là kẻ đã vong ân bội nghĩa, kẻ đã vong ân bội nghĩa thì không còn sự xấu ác nào ở trên thế gian mà họ không dám làm, kẻ ấy đã quên cội nguồn.

Có gì sung sướng bằng khi chúng ta còn cha mẹ. Mỗi khi mùa Vu Lan về, chúng ta được cài lên áo chiếc hoa hồng tươi thắm. Sự hiện hữu của cha mẹ trong gia đình khác nào sự hiện hữu của các thiên thần. Còn cha còn mẹ là còn thiên đường của tuổi thơ. Còn cha còn mẹ là còn Phật trong nhà. Muốn đạt được tâm Phật, không gì hơn giữ gìn tâm hiếu; muốn đạt được hạnh Phật, không gì hơn giữ gìn hạnh hiếu. Vì mãi lo kính thờ Phật bên ngoài mà quên kính thờ Phật trong nhà, nên mới có câu: “Phật trong nhà không thờ, thờ Thích Ca ngoài đường”.

Phật dạy: “Những gia đình nào, này các Tỳkheo, trong ấy các con cái kính lễ cha mẹ ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên. Những gia đình nào, này các Tỳ kheo, trong ấy các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận như các Ðạo sư thời xưa. Những gia đình nào, này các Tỳ kheo, trong ấy các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận là đáng được cúng dường”.

“Phạm Thiên, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Các Ðạo sư thời xưa, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Ðáng được cúng dường, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với mẹ cha. Vì cớ sao ? Giúp đỡ rất nhiều, này các Tỳ kheo, là mẹ cha đối với con cái, nuôi chúng lớn, dưỡng dục chúng, giới thiệu chúng vào đời.” (Phật thuyết như vậy, Cat, 7 - 503)

Ân sâu nghĩa nặng của cha mẹ có thể kết thành những vần thơ tuyệt tác nhất. Và tự nhiên hạnh hiếu được coi là đức tính cao đẹp nhất, được đề cao nhiều nhất trong mọi thời đại, từ cổ chí kim, từ Ðông sang Tây. Dùng bút mực để diễn tả trọng ân của cha mẹ vẫn còn mãi với kiếp sống con người. Vậy thì, đã là một Phật tử theo chánh đạo, chúng ta phải báo đáp ân sinh thành dưỡng dục của cha mẹ thế nào mới xứng đáng? Muốn báo hiếu đầy đủ nhất phải gồm hai phần: vật chất và tinh thần.

1- Về đời sống vật chất thì phải lo hầu hạ, phụng dưỡng cha mẹ những nhu cầu cần thiết, để cha mẹ được thảnh thơi an dưỡng trong tuổi xế chiều.

2- Về đời sống tinh thần phải thường xuyên khích lệ trợ duyên cho cha mẹ học hiểu chánh pháp, biết tránh ác làm lành, giữ gìn ba nghiệp lành, tiến đến giải thoát an vui vĩnh viễn.

Có một Thiền sư, tuy bản thân xuất gia, nhưng vẫn giữ tròn hiếu đạo cho đến khi cha mẹ khuất bóng :

“Giang sơn còn nặng gánh tình

Trời chưa cho nghỉ thì mình cứ đi

Khi nào trời bảo thôi đi

Giang sơn cất gánh, ta thì nghỉ ngơi”.

Trong mùa Vu Lan năm nay, hàng Phật tử chúng ta nghiêng mình kính cẩn trước Phật đài, thề nguyền noi gương hiếu hạnh của đức Mục Kiền Liên, làm tròn trách nhiệm một người con chí hiếu chí kính, biết nhớ ơn và đền ơn đối với hai đấng sanh thành, càng nghĩ đến tất cả chúng sanh trong pháp giới đều được thoát khổ, đến bờ an vui giải thoát.


8- ÐẠO HIẾU CỦA NGƯỜI CON PHẬT

Một ngày nọ, Ðức Phật cùng chúng Tỳ-kheo đi qua một vùng đang gặp thiên tai mất mùa, người chết đói nhiều vô kể. Ngày thứ nhất đi khất thực, Ngài về tay không; ngày thứ hai, thứ ba cũng không có ai cúng dường. Trong hàng đệ tử có một vị Tỳ-kheo, thấy Ðức Phật là Ðấng Phước điền vô thượng mà phải nhịn đói suốt ba ngày, không cầm nổi bi thương, nên mang ba lá y của mình vào làng, đổi lấy bát cơm dâng lên Ðức Phật.

Khi nghe vị Tỳ-kheo trình lại sự việc. Ðức Phật bèn quở:

- Lá y là tướng phước điền của thế gian, rất quý trọng đối với một Sa-môn. Vậy mà ông dám đổi lấy bát cơm cúng dường Như-Lai. Như-Lai không thể tiêu nổi cơm này, nên không dám thọ nhận.

Vị Tỳ-kheo vô cùng đau khổ, khóc bạch Phật rằng:

- Bạch Ðức Thế Tôn, Người không thọ nhận bát cơm nầy thì con biết phải làm sao?

Ðức Phật bảo:

- Ông hãy đem cơm về dâng cha mẹ.

Vị Tỳ-kheo thưa:

- Ðức Thế Tôn là bậc tôn quý nhất của Trời người mà không tiêu được cơm này, thì cha mẹ con là người thế tục, làm sao tiêu nổi ?.

Ðức Phật dạy:

- Cha mẹ ông tuy là người thế tục, nhưng nếu biết ông có lòng hiếu thảo, dùng ba lá y đổi lấy cơm cúng dường cha mẹ, các vị sẽ phát tâm kính tín Tam bảo. Khi ấy cơm này tiêu được.

Ðây là một trong những chuyện tiêu biểu dạy về đạo hiếu cho những người con Phật, từ những bậc tu sĩ xuất gia đến những hàng cư sĩ tại gia. Bản thân Ðức Phật đã nêu nhiều gương sáng về lòng hiếu đạo đối với song thân trong nhiều đời kiếp. Khi đã thành đạo, Ngài lên cung trời Ðao-Lợi giáo hóa cho mẫu thân, về hoàng cung hướng dẫn vua cha và di mẫu biết cách tu hành chứng quả. Ngài đã tự mình khiêng quan tài vua cha đến nơi trà tỳ khi vua Tịnh Phạn băng hà. Hình ảnh cảm động và có sức thuyết phục nhất là hình ảnh Ðức Phật quỳ lạy đống xương khô mở đầu bài kinh Báo phụ mẫu trọng ân, đã đánh thức và làm tăng trưởng lòng hiếu thảo của tất cả mọi người con Phật, từ ngàn xưa mãi đến ngàn sau.

Phong tục Việt Nam còn giữ lại nét đẹp truyền thống phương Ðông, cha mẹ sống sum vầy cùng con cháu; có gia đình cả ba bốn đời cùng ở chung một nhà, gọi là Tam Tứ đại đồng đường. Các nước phương Tây lại khác, thường thích sống độc lập; con cái đến tuổi trưởng thành là ra ở riêng, cha mẹ già đưa vào nhà dưỡng lão, tuy vật chất đầy đủ nhưng tình cảm gia đình không được thắm thiết. Nhiều người già được bảo lãnh theo diện đoàn tụ, qua đó một thời gian đã thấy nhớ quê hương da diết, không hòa nhập với cuộc sống xứ người. Nhất là trong những gia đình đã thâm nhập nền văn minh hiện đại, mỗi người là một ốc đảo, sự liên hệ giữa các thành viên không còn khắng khít, tình cảm đối với người trưởng thượng không còn thiêng liêng, thì người già càng mang mặc cảm tủi buồn của một kẻ sống thừa ăn bám. Thật ra, người già thường có rất ít nhu cầu vật chất, nhưng nhu cầu về tinh thần tình cảm lại nhiều. Nếu không hiểu rõ điều này để khéo cư xử, chúng ta có thể vô tình làm các Người buồn giận, khiến tuổi xế chiều càng ảm đạm hơn.

Kinh Tạp Bảo Tạng có đoạn: “Nếu có người muốn được vua Phạm Thiên ở trong nhà, hãy hiếu dưỡng cha mẹ, vua Phạm Thiên đã có ở trong nhà. Muốn có Ðế Thích ở trong nhà, hãy hiếu dưỡng cha mẹ, Ðế Thích đã sẵn ở trong nhà. Muốn tất cả Thiên thần ở trong nhà, hãy hiếu dưỡng cha mẹ, tất cả Thiên thần đã sẵn có ở trong nhà. Cho đến muốn cúng dường Thánh Hiền và Phật, chỉ cúng dường cha mẹ, các vị Thánh Hiền và Phật đều ở trong nhà”. Ðức Phật đã ví cha mẹ với những bậc cao cả như Trời Phạm Thiên, Ðế Thích là những cõi Trời cao nhất của ngoại đạo thời bấy giờ; với các vị Thánh Hiền và ngay cả với Phật là ngôi tôn quý nhất của tất cả chúng sanh. Thế mà có người muốn cầu phước báo, thường đến chùa cúng dường Tam bảo, tụng kinh niệm Phật chí thành, nhưng lại đối xử tệ bạc với cha mẹ. Người ấy thật sự không có căn bản đạo đức; cha mẹ là người ơn cao cả nhất mà không thương kính, thì họ không thể thương kính ai thật lòng. Việc đi chùa như thế không có ý nghĩa và cũng không mang lại kết quả gì.

Ðối với người cư sĩ tại gia, nếu cha mẹ còn sinh tiền là một phước duyên rất lớn, vì cha mẹ chính là Phước điền thế gian. Chúng ta cố gắng làm các người hài lòng thỏa mãn, vui sống trong những ngày còn lại của cuộc đời, về cả ba phương diện: vật chất, tinh thần và tâm linh. Về vật chất, chúng ta chăm lo cho cha mẹ theo khả năng của mình, thuốc thang chu đáo khi các Người đau ốm. Về tinh thần, chúng ta cần khéo léo hòa hợp, dạy dỗ con cái biết kính trọng thương yêu ông bà. Vì người già thường cảm thấy cô độc, hay giận hờn, hay tủi thân, đôi khi có những quan điểm hơi bảo thủ lạc hậu, chúng ta nên biết cảm thông, trân trọng và thường xuyên gần gũi. Về tâm linh, chúng ta hướng cha mẹ vào con đường hiền thiện, quy y Tam bảo, giữ gìn giới cấm. Nếu cha mẹ đã là Phật tử, chúng ta tạo điều kiện cho các Người được gần gũi các bậc tôn túc để trưởng dưỡng đạo tâm, thường xuyên cho các Người nghe các băng giảng về pháp tu chuyển nghiệp và dừng nghiệp, sách tấn các Người hành trì theo pháp môn đã chọn tùy trình độ và căn cơ. Nếu cha mẹ chưa hiểu gì về đạo pháp, lại thường tạo ác nghiệp hay theo đạo tà, chúng ta cần hết sức kiên nhẫn và khéo léo. Một mặt, chúng ta dần dần khuyên giải; mặt khác, chúng ta phải nỗ lực tu hành và làm nhiều Phật sự, hồi hướng công đức ấy cho cha mẹ và tất cả chúng sanh cùng khắp pháp giới. Khi tâm ta thanh tịnh, tự nhiên sẽ chuyển được hoàn cảnh xung quanh và ảnh hưởng tốt đẹp đến tâm các Người. Ðây là một điều kỳ diệu khó thể nghĩ bàn, nhưng rất gần với thực tế.

Một vị Bà-La-môn niên thiếu hỏi Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn, con thường đi khất thực đem về cúng dường cha mẹ, khiến lìa khổ được vui. Thế Tôn, con làm như thế được phước gì chăng?”. Ðức Phật bảo: “Thật được phước nhiều. Tại sao? Nếu có người y như pháp khất thực để cúng dường cha mẹ khiến Người lìa khổ được vui, thật có đại phước”. Sau đó Ngài đọc bài kệ:

Như pháp đối cha mẹ

Cung kính nên cúng dường

Hiện đời được tiếng tốt

Mạng chung sanh cõi trời.

Ðoạn kinh trên trích trong tập 4 Tạp A-Hàm, cho thấy Ðức Phật không những dạy về đạo hiếu cho hàng cư sĩ tại gia, mà còn chú trọng về lòng hiếu thảo cho những bậc tu sĩ xuất gia. Không phải cát ái từ thân là tuyệt đối lìa bỏ gia đình, mà là chuyển sự ái luyến có tính vị kỷ chiếm hữu thành tình thương bình đẳng vị tha đối với tất cả người thân, trong đó có cha mẹ. Trước khi làm lễ xuất gia, người Phật tử lạy cha mẹ ba lạy để tỏ lòng biết ơn sanh thành dưỡng dục của các Người. Sau khi thọ giới, người xuất gia do công đức tu hành lớn hơn cha mẹ, không dám lễ lạy cha mẹ nữa, e các Người tổn phước. Tiếng nói của người con đi tu thường có trọng lượng hơn những đứa con khác trong gia đình, nên đôi lúc có thể hòa giải những mâu thuẫn nội bộ, góp ý trong việc hướng nghiệp, mưu sinh, có thể bảo ban về cách đối nhân xử thế và hướng dẫn phương pháp tu hành cho cha mẹ và các thành viên trong gia đình. Ðiều này cho thấy, làm tròn chữ hiếu thế gian là chăm lo về vật chất và tình cảm cho cha mẹ thì người cư sĩ có điều kiện hơn; còn làm tròn chữ hiếu xuất thế gian là hướng dẫn sách tấn cha mẹ tu hành theo chánh pháp, thì người tu sĩ lại dễ thực hiện có kết quả. Người con tu sĩ lại cũng có khả năng cùng với tăng đoàn, chú nguyện cho cha mẹ đã khuất, sớm được vãng sanh về các cõi lành, theo tinh thần “Một người hành đạo, cửu huyền thất tổ siêu thăng”. Như vậy, quan niệm người xuất gia “cát ái từ sở thân” là bất hiếu, quan niệm ấy không đúng lẽ thật; mà phải nói rằng, chính người xuất gia mới là người con đại hiếu đối với cha mẹ, không chỉ cha mẹ trong đời này mà còn trong nhiều kiếp về trước.

Ngày rằm tháng bảy là dịp để chúng ta thể hiện lòng tôn kính biết ơn của mình đối với các bậc sinh thành, trong hiện tại và cả trong quá khứ. Nhưng không phải chỉ đợi đến ngày này chúng ta mới thể hiện lòng hiếu thảo, mà phải từng giây phút luôn ghi nhớ công ơn của các Người, phải từng phút giây thương yêu các Người bằng một tình cảm chân thành và thiêng liêng nhất. Một nét đẹp trong ngày Vu Lan là chương trình Bông hồng cài áo. Người cài hoa hồng vui mừng khi mình còn cha mẹ hiện diện trên cõi đời, còn được hưởng tình thương bao la trời biển của các Người, còn có dịp báo đáp ân nghĩa nầy trong muôn một. Người cài hoa trắng tủi buồn vì song thân đã khuất bóng, nhưng cũng nhớ đến đạo Hiếu mà làm nhiều Phật sự như cất chùa hộ tăng, bố thí cúng dường để hồi hướng công đức cho cha mẹ, đồng thời dạy bảo con cháu biết giữ gìn giềng mối gia phong. Như thế, dù cha mẹ còn sống hay đã khuất, chúng ta cũng có nhiều cơ hội báo hiếu tùy hoàn cảnh và khả năng của mình. Là Phật tử, chúng ta không những phải lo tròn chữ Hiếu thế gian, mà còn nên cố gắng thực hiện tốt chữ hiếu xuất thế. Bởi vì, nếu Ðức Phật và các bậc Thánh chúng là phước điền bậc nhất xuất thế gian, thì cha mẹ là phước điền bậc nhất trong thế gian sinh diệt nầy.


9- NHÂN NGÀY VU LAN BÀN VỀ NHÂN QUẢ

Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất. Thấy mẹ đang chịu đói khát khổ sở trong kiếp ngạ quỷ, Ngài đau lòng vô cùng, vội dâng lên mẹ bát cơm. Lòng bỏn xẻn tham lam chưa dứt, bà sợ chúng ma cướp giật nên đưa tay che bát cơm. Nhưng cơm đã hóa thành lửa đỏ!.

Vị đại đệ tử thần thông đệ nhất của Ðức Phật không thể cứu mẹ thoát kiếp ngạ quỷ, cũng không giúp mẹ được một bữa no lòng. Ngài vừa khóc vừa quay về cầu cứu Bổn Sư. Pháp cứu tế nhân đây được Phật thuyết giảng, trở thành một phương pháp cầu siêu cho những người đã khuất; và ngày rằm tháng bảy trở thành ngày hội cho những người con hiếu thảo.

Nhưng ở đây, chúng ta có thể đặt nghi vấn: Nếu nhờ chư Tăng chú nguyện mà bà mẹ Ngài Mục Kiền Liên thoát khỏi cảnh đọa lạc, thì hóa ra lý Nhân quả cũng có trường hợp ngoại lệ? Và Phật tử chúng ta chỉ cần nương nhờ thần lực của chư Phật cùng Thánh chúng, dù có tạo nghiệp ác cũng không sợ sa vào khổ xứ? Quả thật như thế, thì tinh thần “ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng” còn có ý nghĩa gì? Thật ra, tuy lý Nhân quả có tính phổ thông, nhưng muốn quán triệt đạo lý này, chúng ta phải nghiền ngẫm tư duy thật sâu sắc; và sau đó, nhờ công phu chuyển hóa tự thân, tịnh tu ba nghiệp, ta mới có thể thẩm thấu ý nghĩa uyên áo của nó.

I- Khái niệm về nhân quả

Nhân là nguyên nhân, nguồn gốc, mầm mống; Quả là kết quả, thành tựu, báo ứng. Tất cả mọi sự vật hiện tượng trên đời, không vật gì do ngẫu nhiên tạo ra, mà phải có nguyên nhân từ trước. Ngược lại, một nguyên nhân muốn có kết quả, cũng phải có sự hỗ trợ của nhiều yếu tố gọi là Duyên. Lý Nhân quả, hay nói đầy đủ là Nhân - Duyên - Quả, chi phối toàn thể vũ trụ vạn loại, là nguyên lý tuyệt đối. Ðức Phật không phải là người khai sinh ra đạo lý nầy, nhưng Ngài đã thấu hiểu nó đến tột cùng và trao truyền cho các môn đệ.

Ðối với khoa học, Nhân quả là sự chuyển biến tự nhiên của nhân sinh và vũ trụ. Các nhà nghiên cứu đã áp dụng Nhân quả, phối hợp những Duyên thích ứng để có nhiều thành tựu đáng kể phục vụ đời sống con người. Ngay cả phát minh được xem như “đoạt quyền tạo hóa” là tạo ra một động vật hay một phôi người bằng phương pháp sinh sản vô tính, cũng phải theo tiến trình Nhân - Duyên - Quả. “Nhân” ở đây là nhiễm sắc thể của tế bào một sinh vật giống cái kết hợp với noãn bào của một sinh vật cái khác; “Duyên” là môi trường cấy, nhiệt độ thích hợp, trí tuệ của nhà bác học... Nhân và Duyên đầy đủ mới có kết quả là những con cừu, bê, heo và thai nhi, đã được báo cáo và cả tranh cãi gay gắt trong giới khoa học và đạo đức học trong những năm gần đây.

Chủ trương của đạo Phật có khác, không chỉ chú trọng đến sự hòa hợp giữa con người và môi trưòng sống, giữa cá nhân và tập thể, giữa nhân sinh và vũ trụ, mà còn áp dụng lý Nhân quả để nâng cao đời sống tinh thần, để suy tiến đạo đức. Nhà Phật thường đề cập đến nguyên nhân hơn là kết quả, đến bản chất hơn là hiện tượng. Giáo dục của đạo Phật là giáo dục ngay từ nguồn cội, từ trước lúc tội lỗi xảy ra, nên có tính cách phòng ngừa hơn là chữa trị. Những người con Phật có chánh kiến Nhân quả không làm điều gì tổn hại đến mình và người; và mỗi ngôi chùa là trường học dạy đạo lý làm người, dạy cách đối nhân xử thế trước khi dạy cách tu làm Phật.

Tổ Bá Trượng một hôm thuyết pháp xong, đại chúng giải tán hết, chỉ còn một ông già ở lại. Tổ hỏi thì ông thưa:

- Thời Ðức Phật Ca Diếp, con là Tăng sĩ ở núi nầy. Do học trò hỏi “Người đại tu hành có rơi vào nhân quả không? Con đáp “Bất đọa nhân quả” (không rơi vào nhân quả). Vì câu đáp ấy, con bị đọa làm thân chồn đến nay đã năm trăm kiếp. Cúi xin Hòa thượng từ bi dạy cho con một câu để con được hóa kiếp.

Tổ bảo:

- Ông cứ hỏi đi.

Ông già hỏi:

- Người tu hành có rơi vào nhân quả không?

Tổ đáp:

- Bất muội nhân quả (không lầm nhân quả).

Ngay đây ông già đại ngộ, làm lễ và thưa:

- Con đã thoát thân chồn, hiện con ở sau núi, dám xin Hòa thượng lấy theo lễ Tăng tống táng giúp con.

Tổ cùng đại chúng ra hang núi phía sau, quả nhiên thấy xác một con chồn, bèn làm lễ thiêu như một vị Tăng.

Ông già chỉ sai một chữ mà bị đọa làm chồn 500 kiếp. Người đại tu hành mở sáng mắt trí tuệ, thấy tột cùng và không lầm lẫn nhân quả chứ không thể tránh nhân quả. Do nghiệp nhân từ trước, các Ngài dù đã đạt đạo nhưng vẫn thọ quả báo. Có điều, tuy thọ quả nhưng các Ngài vẫn an nhiên tự tại, vì biết tự tánh của nghiệp chướng vốn là không. Thiền sư Huyền Giác viết:

Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không

Vị liễu ưng tu hoàn túc trái.

Khi đã liễu ngộ, rõ ràng nghiệp chướng xưa nay vốn không; nhưng nếu chưa liễu, thì mọi oan trái đã gây đều phải đền trả. Chúng ta không thể dùng tài biện luận để cãi chối, không thể dùng phương tiện khéo léo nào để trốn tránh nhân quả, như vẫn thường làm ở thế gian. Ngoài đời có luật pháp, có tòa án, nhưng nhiều khi xử lầm hoặc kết oan người vô tội; còn tòa án lương tâm và luật Nhân quả - Nghiệp báo thì không hề bỏ sót một ai.

II- Những khía cạnh và mức độ nhân quả

1/ Nhân sanh diệt - Quả sanh diệt

Nhà Phật có bài kệ nổi tiếng về nhân quả ba đời:

Dục tri tiền thế nhân

Kim sanh thọ giả thị.

Dục tri lai thế quả

Kim sanh tác giả thị.

Muốn biết nhân đời trước, phải nhìn sự lãnh thọ ở đời này. Hoàn cảnh chánh báo và y báo đời này tốt đẹp là do đời trước tạo nghiệp nhân thiện lành; nếu đời này ta gặp nhiều chuyện không như ý, đó là vì đời trước đã gây nhân xấu ác. Lại nữa, muốn biết đời sau cuộc sống mình thế nào, cứ nhìn sự tạo tác đời này sẽ rõ. Khổng tử nói “Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định”, một miếng nước uống hay một miếng cơm ăn đều đã được định trước. Sự định đọat nầy không phải do Thượng Ðế hay một đấng quyền năng nào, mà do nghiệp tạo ra từ thân - miệng - ý của chính mỗi người.

Trong thực tế, có nhiều người xấu ác nhưng vẫn sống hạnh phúc giàu sang, lại có người chuyên làm việc thiện mà vẫn khó khăn bất hạnh mọi bề. Ðó là quả của việc làm kiếp này chưa trổ ra, còn đời sống hiện tại là do nhân duyên kiếp trước. Ðức Phật dạy, quả báo có ba loại: Hiện báo là khi nhân gây ra, quả đến ngay trong hiện kiếp; Sanh báo là nhân gây trong kiếp này, quả đến kiếp sau mới trổ; Hậu báo là quả đến rất muộn sau nhiều kiếp. Hiểu tường tận điều này, chúng ta không chút nghi ngờ về tính bình đẳng và tuyệt đối của lý Nhân Quả. Chính mình là Thượng Ðế tự vẽ ra chánh báo và y báo cho mình, chính mình phải chịu trách nhiệm về mọi tạo tác do mình gây ra, dù vô tình hay cố ý .

Một điều cần nhấn mạnh, sự tương tác giữa nhân và quả không phải đơn giản theo tinh thần “Nhân nào quả nấy”. Một nhân muốn trổ thành quả phải có sự tác động của nhiều yếu tố trung gian gọi là Duyên. Một hạt xoài (nhân) cần có nhiều duyên như đất, nước, ánh sáng mặt trời, công người trồng..., sau một thời gian mới thành cây xoài, kết quả. Trường hợp của con người lại càng phức tạp, không những tiến trình Nhân - Duyên - Quả chịu sự ảnh hưởng của Duyên, mà còn có thể thay đổi Nghiệp nhân để cho một kết quả hoàn toàn khác. Nhà Phật gọi đó là Sự chuyển nghiệp, cũng chính là ý nghĩa của sự tu hành.

Chúng ta đã biết, Nghiệp phát sinh từ thân, miệng và ý, trong đó tâm ý dẫn đầu. Ý suy nghĩ mới phát ra lời nói và hành động, nên ý là chủ tạo nghiệp. Vì tâm ý là chủ tạo nghiệp nhân, nên muốn chuyển đổi nghiệp ác thành hiền thiện, con người phải tu ngay tâm, sám hối ngay tại tâm mình. Trường hợp của mẹ Ngài Mục Kiền Liên được lý giải theo tinh thần này. Do tâm bỏn xẻn trong tiền kiếp, bà phải chịu quả báo làm thân ngạ quỷ, khổ sở đói khát, đến nổi bát cơm của con dâng lên cũng không có cơ hội được ăn. Nhờ chư Hiền Thánh Tăng chú nguyện, kết hợp lòng thành của Ngài Mục Kiền Liên cũng là một vị A-La-Hán, nên chuyển đổi được tâm bà từ xấu ác thành thiện lành. Tâm chuyển nên nghiệp nhân chuyển, đưa đến quả tốt, bà vãng sanh lên cõi Trời. Như thế, lý Nhân quả luôn luôn đúng trong mọi trường hợp, nhưng nhờ tu hành chuyển hóa tâm ý trở nên tốt đẹp, có thể thay đổi được kết quả xấu vốn phải thọ lãnh trong tương lai.

Tuy nhiên, vì sao ở đây nói Nhân sanh diệt đưa đến quả sanh diệt? Bởi vì thông thường, làm bất cứ việc gì chúng ta đều có ngã tướng. Khi làm là thấy có ta làm, có việc làm và có đối tượng của việc làm ấy. Chúng ta tu năm giới hay thập thiện là mong hưởng phước báo nhân thiên, hoặc làm người đầy đủ phước đức, hoặc sanh lên cõi Trời với mọi điều sung sướng. Do ý thức chấp ngã nên còn lẩn quẩn trong luân hồi, vì thế gọi là nhân và quả sanh diệt. Ngày xưa, các vị tu tiên cầu thần thông và sống lâu, vẫn có tâm bám chặt vào ngã tướng. Nhiều khi thần thông càng cao, cái ngã càng lớn nên không dứt được phiền não. Kinh Kim Cang nói: Dù bố thí bảy báu nhiều vô lượng trong suốt bao nhiêu kiếp, cũng không bằng trì bốn câu kệ trong kinh Kim Cang. Bố thí càng nhiều thì càng phải qua nhiều lần sanh tử để hưởng phước, còn trì 4 câu kệ là sống với bản tâm chân thật, đoạn dứt sanh tử. Lại nữa, trong dòng luân hồi, nhiều khi có quyền thế lại dễ hại người, tạo thêm điều ác, cứ thế mà lên xuống mãi trong ba cõi sáu đường.

2/ Nhân vô sanh - Quả vô sanh:

Trong kinh Viên Giác, Ngài Văn Thù thưa hỏi Ðức Phật dùng nhân ban đầu là gì để tu mà ngày nay thành Phật. Ðức Phật trả lời, phải y nơi Tánh Viên Giác thanh tịnh, nghĩa là thể tánh chân thật bất sanh bất diệt làm nhân tu hành, mới đắc quả Phật thường trụ.

Vì sao thể tánh chân thật là bất sanh bất diệt? - Mọi sự vật trên thế gian hễ có hình ắt có hoại, có sanh ắt có diệt. Thông thường khi ta nhìn phải có đối tượng cho cái nhìn của ta (sắc); lúc nghe phải có đối tượng của sự nghe (tiếng). Tương tự cho các căn khác, khi hoạt động đều cần đối tượng là các trần cảnh bên ngoài, từ đó khởi lên ý thức phân biệt hay dở đẹp xấu... Những niệm phân biệt ấy nương theo hình tướng của trần cảnh, lúc sinh lúc diệt, lúc đến lúc đi, vì thế Ðức Phật bảo, đó là cái biết theo duyên, cái biết lệ thuộc vào đối tượng. Ngược lại, khi tiếp xúc với trần cảnh nhưng không dính mắc chạy đuổi theo chúng, cũng không khởi niệm phân tích chia chẻ - kể cả niệm “ta đang biết”, thì lúc ấy, ta vẫn thấy nghe hay biết rõ ràng, Cái biết ấy không lệ thuộc vào đối tượng, cái biết không duyên nên không có hình tướng, không có sanh diệt, chẳng đến chẳng đi, không bao giờ vắng thiếu. Ðó là cái biết chân thật hay bản tánh bất sanh, nhà Thiền gọi tên “Bản lai diện mục” - bộ mặt thật xưa nay. Nhận ra bản tánh ấy làm chánh nhân tu hành, chắc chắn nên quả Phật thường trụ.

Nhưng làm thế nào tìm được bản tánh?

Nhiều người nghe nói, nhà Thiền chủ trương “Kiến tánh thành Phật”, hoặc “chưa nhận ra bản tâm chân thật thì chưa bước vào cửa nhà Thiền”, nên rất mong muốn tìm thấy tánh. Tuy nhiên, ngay từ ý niệm “tìm kiếm”, chúng ta đã xa tánh nghìn trùng. Lại nữa, có người đọc lịch sử Ðức Phật và Chư Tổ tu hành và thành đạo trong rừng núi, nên tưởng phải ở ẩn một mình nơi thâm sơn cùng cốc mới có thể ngộ đạo. Thật ra, bản tánh thanh tịnh hằng tri ấy chính là mình. Không phải tìm cầu bên ngoài, cũng không cần xa lánh thế gian. Lục Tổ Huệ Năng dạy:

Phật pháp tại thế gian

Bất ly thế gian giác.

Lý thế mích Bồ - đề

Kháp như tầm thố giác.

Phật pháp ở ngay tại thế gian, không phải xa lánh thế gian mà giác ngộ. Nếu lìa bỏ thế gian tìm cầu Bồ - đề, thì chẳng khác nào đi tìm sừng thỏ. Ngay sóng đã là nước, ngay thân sinh diệt đã có bản tánh bất sanh, ngay dòng sông vô thường động chuyển đã có cái chân thường bất biến. Khi tâm ta hoàn toàn thanh tịnh, rỗng rang, bặt mọi vọng tưởng điên đảo phân biệt mà vẫn rõ ràng thường biết, ta mới hay Ðạo tại nhãn tiền, hoa sen nở trong lò lửa mà sắc vẫn thường tươi nhuận.

Nhận ra bản tâm thanh tịnh hằng hữu, ta đã có chánh nhân tu hành. Ðây mới là bước đầu khởi tu, cần phải mất bao nhiêu công phu bào mòn tập khí, phải miên mật từng phút giây hằng sống với bản tâm và thể nhập trọn vẹn vào đó. Ðường tu rất dài và rất gian nan chứ không dễ dàng như một số người lầm tưởng. Hiểu là một chuyện, thực hành và thể nhập tự tánh lại là chuyện khác, xa nhau như trời vực. Nhưng khi đã nhận ra tự tánh tức gieo nhân vô sanh, ắt có ngày ta sẽ viên thành Phật quả.

III- Áp dụng vào đời sống:

Ðức Phật dạy, con người có bốn hạng:

1- Từ tối đến tối: Người sanh trong gia đình nghèo khổ, không có văn hóa đạo đức, kiếp này lại không biết tu hành, mãi tạo nghiệp bất thiện. Kiếp sau chắc chắn bị đọa lạc.

2- Từ tối đến sáng: Người có hoàn cảnh xấu về nhân thân và gia đình, nhưng kiếp này có duyên gặp chánh pháp, tinh tấn tu hành, tịnh tu ba nghiệp. Kiếp sau tái sanh vào các cõi lành, tiếp tục đi trên con đường đạo, chuyển được nghiệp xấu ác thành hiền thiện.

3- Từ sáng đến tối: Do nghiệp lành đời trước, kiếp này được sanh vào gia đình giàu sang, có văn hóa đạo đức. Nhưng người nầy không biết tu hành, vô tình tạo nhiều nghiệp bất thiện, kiếp sau sẽ bị đọa vào các đường dữ.

4- Từ sáng đến sáng: Ðây là trường hợp tối ưu. Người có duyên nhiều đời với chánh pháp, kiếp trước gieo nhân lành nên trong kiếp này, hoàn cảnh chánh báo và y báo đều tốt đẹp. Người ấy lại tinh tấn tu hành, vun bồi phước đức. Ðời sau chắc chắn sanh vào các cõi lành, tiếp tục đi theo chánh pháp, ngày càng thăng tiến đời sống tâm linh.

Như vậy, hoàn cảnh sống của ta là do ta tạo ra, không ai làm thay cho mình, và mình cũng không thể tu thay cho người khác. Vì tâm chuyển biến từ trạng thái này sang trạng thái khác, và nghiệp cũng theo tâm mà thay đổi nên chúng ta cần y cứ nơi tâm mà sám hối và tu hành. Nghèo không bi quan oán trời trách người, giàu không cống cao ngã mạn. Chúng ta luôn tránh nghĩ điều xằng bậy xấu ác mà suy tiến những ý tưởng thiện lành. Từ suy nghĩ lành dẫn đến lời nói và việc làm tốt đẹp, chúng ta dần dần chuyển hóa nhân cách mình theo chiều hướng thượng. Cá nhân có đạo đức ảnh hưởng tốt đến gia đình và xã hội được êm ấm an vui. Ðây là bước đầu tiên áp dụng lý Nhân quả vào đời sống.

Tiến thêm bước nữa, người hiểu kỹ lý Nhân quả để công phu đoạn trừ phiền não. Vì vô minh chấp thân tâm này là mình nên sinh lòng tham, muốn gom góp mọi thứ vật chất và tinh thần cho bản thân. Ta thương yêu người khác cũng vì mình, nên tình thương luôn có tính chiếm hữu, đây là một biến chất của lòng tham. Chiếm được, lòng tham càng tăng trưởng; chiếm không được, sanh tâm sân hận. Chính ba độc Tham-Sân-Si là ngục tù giam hãm con người, không có ngày thoát khỏi. Người hiểu lý Nhân quả biết tránh những điều bất lợi cho người, không khởi lòng tham cầu ngũ dục mà tranh đoạt của người khác, biết tỉnh giác nhận diện những ý niệm sân hận mới manh nha để hóa giải kịp thời. Khi gặp nghịch cảnh chướng duyên, chúng ta không buồn khổ vì biết là hậu quả của nhân bất thiện đời trước, vững bước vượt qua trở ngại và càng tinh tấn tu hành để chuyển nghiệp. Lúc được hoàn cảnh thuận lợi, mọi người quý kính, chúng ta biết mình đã tạo nhân tốt, càng cố gắng vun bồi phước đức, gây nhiều nghiệp lành. Nhờ vậy, cuộc đời ta ngày càng đẹp đẽ hạnh phúc, không mong cầu mà phước báo vẫn đến. Nhưng hiểu lý Nhân quả cho thấu đáo, chúng ta thấy nhân quả ngay trong một niệm. Vừa động niệm là đã tạo nghiệp, từ đó mầm mống của quả có cơ hội phát sinh. Dù nghiệp thiện hay ác, con người vẫn còn chịu trầm luân trong sanh tử.

Toàn thể vũ trụ luôn vận hành không dừng nghỉ theo tiến trình nhân quả. Bản thân mỗi người cũng biến đổi trong từng sát-na. Không một hoạt động vật lý, sinh lý hay tâm lý nào không chịu sự chi phối âm thầm mà chặt chẽ của lý Nhân quả. Bằng trí tuệ siêu xuất, Ðức Phật đã triển khai lý Nhân quả thật tường tận từ cạn đến sâu để dạy chúng ta hướng về đời sống đạo đức, thăng tiến tâm linh, bỏ ác về thiện và cuối cùng siêu vượt cả thiện ác.

Nền văn minh thế giới ngày càng tiến triển, con người càng được thụ hưởng những thành tựu kỳ diệu của khoa học. Tuy vậy, giá trị tinh thần không nâng cao theo tỷ lệ thuận với sự sung mãn về vật chất. Con người đang phải đối mặt với những vấn nạn đạo đức, lối sống và cách cư xử với nhau; vì càng quay cuồng theo vật chất, phiền não tham sân si càng lẫy lừng. “Khoa học không có lương tâm chỉ là sự hũy hoại linh hồn”, nhân loại đang cần - và phải cần có nền văn minh tâm linh, từ đó mới có thể tạo dựng hạnh phúc đích thực trên trái đất này.

Lý Nhân quả thật sự không phải đơn giản và chỉ cần cho người sơ cơ, mà tất cả chúng ta đều phải hiểu tường tận để có chánh kiến và lòng tin sâu sắc về đạo lý nầy. Có Chánh kiến nhân quả, chúng ta luôn thận trọng trong từng ý nghĩ, lời nói và việc làm để không tổn hại cho mình và cho người; chúng ta có đời sống xả kỷ, hòa điệu với vũ trụ vạn loại. Có thể nói, điều kiện đầu tiên của người tu là phải tin sâu nhân quả; nếu không, buông lung phóng dật mà cho là sự tự tại phóng khoáng của người đạt đạo, thì không những công phu không kết quả mà khó tránh đọa tam đồ.


10- TÌNH THẦY TRÒ

Ngày xưa, chịu ảnh hưởng Nho giáo, người Việt Nam ta rất kính trọng thầy, tôn thầy lên địa vị thứ hai sau nhà vua, trên cả cha và mẹ, theo tinh thần Quân - Sư - Phụ. Ngày lễ tết, học trò thường đến nhà thầy chúc mừng, thể hiện tấm lòng biết ơn của mình đối với người đã giúp cho mình hành trang cần thiết để bước vào đời một cách tự tin và vững chãi.

Không những học trò tôn kính thầy, các bậc phụ huynh cũng xem thầy là người ơn của gia đình dòng họ. Học trò thi đậu, lúc vinh quy bái tổ cũng đến tạ ơn thầy, vì nhờ thầy mà mình được hiển đạt như ngày nay. Ông Chu Văn An, một nhà giáo lẫy lừng về kiến thức, về đạo đức và về phong cách sống, đã được môn sinh vô cùng tôn trọng. Học trò cũ của ông đã làm quan lớn trong triều đình, khi phạm sai lầm vẫn bị ông gọi về nghiêm khắc dạy bảo; người học trò một mực cúi đầu nhận lỗi, không dám cãi lại một lời.

Có câu chuyện kể về một người đã thành đạt, một hôm cùng đứa con trai về làng thăm thầy cũ. Ðến một căn nhà tranh đơn sơ, hai cha con gặp một ông lão mắt đã lòa, chống gậy dò từng bước quanh sân. Người cha vội tiến đến cầm tay ông lão, thưa rằng:

- Thưa thầy, thầy còn nhớ con không ?

Ông lão bỡ ngỡ:

- Xin lỗi ngài, ngài là ai ?

Người cha ứa nước mắt, ôm chầm ông lão:

- Thưa thầy, con chính là X, đứa học trò ngỗ nghịch của thầy. Ngày xưa, thầy nhiều lần phạt con về tội trốn học rong chơi, quậy phá làng xóm. Nhờ thầy nghiêm khắc dạy dỗ, nay con đã thành danh. Con không dám quên ơn thầy, nên tìm dịp về đây thăm viếng thầy.

Nói xong, người cha quay lại bảo con trai:

- Nếu không có thầy, cha không thể nào được như ngày nay. Công ơn thầy như trời biển, không những cha phải nhớ suốt đời, mà con cũng phải khắc ghi mãi mãi.

Những câu chuyện cảm động như trên, chúng ta đọc thấy rất nhiều trong văn học Việt Nam và thế giới. Chỉ đáng buồn là trong thời đại bây giờ, tình thầy trò không còn sâu đậm thiêng liêng như thế nữa. Báo chí đã đăng tải nhiều trường hợp học trò đánh thầy cô giáo, thậm chí có nhiều phụ huynh bênh con cháu mình, đón đường hành hung thầy. Tại một lớp học bên Mỹ, một học sinh mới 12 tuổi đã dùng súng bắn thầy thiệt mạng, chỉ vì một nguyên nhân rất nhỏ: thầy đã phê bình em trước cả lớp, vì trong giờ thầy giảng bài, em lại đem truyện ra đọc!

Hai mặt trái và phải của tình thầy trò, thật ra trong thời nào và ở đâu cũng có, tùy trình độ đạo đức của xã hội, sự giáo dục của gia đình và sự tự kỷ của bản thân. Việt Nam ta có Ngày Nhà Giáo 20/11, một ngày để các bậc phụ huynh và học sinh nhớ nghĩ đến công ơn thầy cô, để thể hiện lòng biết ơn ấy bằng nhiều hình thức. Tuy nhiên, không phải đợi đến ngày nầy ta mới nghĩ đến thầy, cũng không phải tượng trưng tình cảm thầy trò bằng vài món quà nhiều khi chỉ mang tính hình thức, mà sự biết ơn ấy phải được biểu hiện trong suốt cuộc đời, bằng tất cả tấm lòng chân thật của ta. Nếu cha mẹ có ơn sinh thành dưỡng dục, thì thầy cô có công dạy dỗ ta trở thành người có ích cho xã hội. Từ khi ta còn là đứa trẻ trong trắng như tờ giấy mới, chính thầy đã cầm tay ta, uốn nắn từng nét chữ đầu đời; chính thầy đã dạy cho ta những bài học vỡ lòng, giúp ta tiếp cận với tri thức thế gian. Dù sau này ta trở thành một nhà bác học, một thương gia giàu có, hay một chính trị gia lỗi lạc, ta cũng nên nhớ về người thầy đầu tiên với lòng kính trọng và biết ơn tha thiết. Có dịp gặp lại thầy ta vẫn là đứa học trò nhỏ ngày nào; và đồng thời phải dạy cho con cháu ta hiểu rằng, nếu không có những ông giáo già mộc mạc ở mái trường tiểu học đơn sơ cũ kỹ, ta đã không trở thành nhân vật có địa vị trong xã hội hôm nay.

Ðối với người Phật tử, bên cạnh tình thầy trò ngoài đời, chúng ta còn cảm nhận sâu sắc ân nghĩa của thầy dạy đạo. Cha mẹ và thầy giáo thế học có công nuôi dưỡng thân xác, đào luyện tâm hồn và nâng cao trình độ kiến thức cho ta; nhưng đó chỉ là thân ngũ uẩn sinh diệt nay còn mai mất, chỉ là kiến thức vay mượn khi đúng khi sai. Còn người chỉ cho ta phương pháp tu hành thoát khổ và vĩnh thoát sinh tử, nuôi lớn thân huệ mạng bất sinh bất diệt, chính là vị thầy đạo học. Công ơn ấy gẫm ra còn nặng gấp bao lần những ân tình ân nghĩa nói trên.

Thông thường, chúng ta hay xem trọng ngày sinh, xem lễ sinh nhật là một trong những ngày lễ lớn của gia đình. Ít có ai nhớ kỹ ngày mình quy y Tam Bảo, thời điểm đầu tiên sinh ra thân huệ mạng của mình. Lẽ ra, ngày chúng ta trở về nương tựa ba ngôi báu Phật – Pháp – Tăng phải là ngày quan trọng nhất của một người Phật tử, vì đó là ngày chúng ta thật sự sinh ra một cách có ý nghĩa. Và cũng vì thế, vị Bổn sư truyền giới đại diện Tăng Bảo khai sinh cho ta, phải được tôn kính, biết ơn trong suốt cuộc đời.

Có người thích quy y một vị tu sĩ đạo cao đức trọng, có danh tiếng, và lấy đó làm điều hãnh diện. Có người trước đã từng quy y, sau thấy thầy khác nổi tiếng hơn, lại tìm đến xin quy y lần nữa. Có người trong quá trình theo Bổn sư tu học, thấy thầy mình có biểu hiện nào đó làm mình không hài lòng, quay ra chê bai phỉ báng. Ðây là hành vi không nên có đối với người Phật tử. Chúng ta quy y Tam Bảo vì không muốn làm kẻ cùng tử lang thang, nguyện từ nay trở về nương theo Phật, theo giáo pháp của Phật tu hành. Ðức Phật đã nhập diệt, giáo pháp của Ngài được truyền trao qua trung gian những vị tu sĩ là những Trưởng tử Như Lai. Khi đối trước một vị thầy phát nguyện thọ tam quy ngũ giới, chúng ta không chỉ quy y với cá nhân vị ấy, mà là quy y với cả ba ngôi báu Phật-Pháp-Tăng. Cho nên, một mặt ta có quyền lựa chọn Bổn sư là người tài đức có thể hướng dẫn ta tu hành theo chánh pháp; nhưng mặt khác, ta không nên so sánh thầy mình với các thầy khác theo ý nghĩa hơn thua. Thật ra, duyên thầy trò không phải chỉ một vài đời mà được thiết lập. Phật dạy, người cùng đi chung một chuyến đò là đã có duyên với nhau 500 kiếp, huống gì duyên sư đệ, phải sâu đậm thế nào để thầy trò hạnh ngộ ở kiếp này.

Vì sao chư Tăng ni được tôn xưng là Tăng Bảo, chỉ sau hai ngôi báu Phật và Pháp, trong khi các vị ấy cũng là những người bình thường với đầy đủ hai thuộc tính hướng thượng và hướng hạ của một con người ? – Bởi vì các vị là những nhân vật cụ thể mà ta có thể tiếp xúc được, học hỏi được; và thông qua các vị, ta tiếp cận với giáo lý nhà Phật, theo gương Ðức Phật tu hành, một ngày nào đó nhận ra Phật tâm sẵn đủ. Các vị là những sứ giả trao truyền chánh pháp của Ðức Phật, nên là đại diện cho cả ba ngôi báu. Bằng thân giáo và khẩu giáo, các vị có thể tác động trực tiếp vào tâm thức chúng ta, dắt dẫn chúng ta đi theo con đường sáng Ðức Phật đã đi và đã đến đích.

Hiểu theo sự tướng, Tăng-già (Sangha) là tập thể những vị tu sĩ xuất gia, sống trong tinh thần thanh tịnh và hòa hợp. Hiểu theo lý, tăng chúng gồm những vị đã thành tựu chánh tri kiến, tức có cái thấy biết như thật về tất cả pháp thế gian và xuất thế. Nói khác đi, Tăng-già được hình thành từ nội dung tâm chứng của từng cá thể trong đời sống tập thể. Hiểu sâu thêm một mức, Tăng-già chính là biểu tượng tôn quý nhất trong chiều sâu thẳm vô ngôn của bản thân chúng ta, nghĩa là tự tánh thanh tịnh vốn đủ của muôn loài. Cho nên, chúng ta quý kính Tăng Bảo không chỉ là tôn trọng một cá nhân nào đó trong tập thể Tăng-già, mà còn là nhớ lại và sống với bản tâm hằng hữu của chính mình. Ðảnh lễ một vị tu sĩ với tất cả lòng thành, chúng ta đã đảnh lễ cả Tam Bảo và đảnh lễ chính ngay bản tâm hằng hữu ấy. Ngược lại, buông lời chê bai phỉ báng chư vị Tăng ni, chúng ta đã tự phỉ báng chính bản tâm mình, và vô tình đóng kín cánh cửa dẫn đến giác ngộ giải thoát.

Ðức Phật có bài kệ:

Nói nhiều lời hư vọng

Thêm huyễn hoặc cuồng si

Học ít nhưng tâm đắc

Mới là bậc hộ trì.

Nhiều vị cư sĩ tại gia có trình độ kiến thức thế gian, có địa vị cao trong xã hội, lại nghiên cứu nhiều về Phật pháp và phát tâm hộ trì Tam Bảo. Ðây là điều rất đáng quý, vì các vị ấy có đủ điều kiện hơn ai hết để hỗ trợ quý thầy trong công cuộc hoằng truyền chánh pháp. Tuy nhiên, càng đi chùa nhiều năm, càng làm nhiều Phật sự và càng là hộ pháp đắc lực, chúng ta càng nên cẩn trọng, luôn tự phản tỉnh và cảnh giác với tư tưởng công thần. Bởi vì, khi làm được nhiều việc lợi ích cho đạo, được mọi người kính nể, được quý thầy trân trọng, chúng ta đôi khi tự cho mình có phước duyên hơn người khác. Từ đó, ngã chấp ngày càng lớn, thấy mình hơn các bạn đồng tu, thậm chí tài giỏi hơn cả quý thầy. Từ ý nghĩ đưa đến lời nói cống cao ngã mạn, tạo khẩu nghiệp cuồng si huyễn hoặc như khoe mình chứng đắc, vô tình đường tu ngày càng đi xuống mà không hay. Ðây là điều rất đáng tiếc. Cho nên, thà rằng học ít, biết mình kém cỏi, luôn khiêm cung gắng tu gắng học, gắng làm tất cả công việc được giao một cách chu toàn; những người ấy mới đúng là bậc hộ trì chánh pháp.

Tăng sĩ được phân ra ba hạng: Thánh tăng, Hiền tăng và Phàm phu tăng. Chúng ta không thể dùng nhục nhãn và sự hiểu biết giới hạn của mình mà nhận định và phân biệt được hành trạng và nhân cách của các vị. Nhìn chung, trong thời mạt pháp này, các vị tu sĩ vẫn chỉ là những chúng sanh vẫn còn tập khí của phàm phu; chỉ khác ở chỗ các vị đang từng bước đẩy lùi phiền não ma chướng, từng bước đi trên lộ trình hướng đến lý tưởng Giác ngộ – Giải thoát mà các vị đã từng thệ nguyện lúc mới xuất gia. Chúng ta không nên đòi hỏi thầy mình phải hoàn hảo như Hiền như Thánh, vì liệu chúng ta có đủ phước duyên làm đệ tử của các bậc Hiền Thánh Tăng chăng? Chúng ta cũng không nên nhìn vào một số biểu hiện tập khí nơi thầy mà đánh giá phê bình, vì quá trình tu tập của thầy vẫn còn đang tiếp diễn; miễn thầy dạy ta đúng chánh pháp, ta theo lời dạy ấy tu hành được nhiều kết quả tốt. Thầy trò cùng tu, cùng sống trong đạo tình đạo vị dưới hào quang của chư Phật Bồ-tát, có phải hay hơn là cứ mãi soi mói lỗi lầm của người mà quên mất những khuyết điểm của chính mình. Phật đã dạy: “Trạng thái xấu xa mà ta nhìn thấy nơi người khác chỉ phản ảnh bản chất của chính ta”. Nếu tâm ta thanh tịnh trong sáng, vạn pháp dưới mắt ta đều toát ra vẻ an bình, mọi người chung quanh ta đều tốt đẹp dễ thương. Nếu tâm ta nhiều phiền não cấu uế, ta sẽ thấy trên đời nầy không có gì đẹp cả, không một ai tốt cả - ngoài ta. Mặt khác, người cư sĩ tại gia dù giữ giới nghiêm cẩn bao nhiêu, dù kiến thức bác lãm cỡ nào, dù tinh tấn công phu đến mấy, cũng không thể có môi trường sống thanh tịnh như trong các tự viện, không thể cởi bỏ những ràng buộc lo toan cho sinh kế, không thể vượt thoát những hệ lụy tình cảm gia đình quyến thuộc; và nhất là không thể giữ hạnh tu như người xuất gia. Vì thế, bằng thái độ hiểu biết, khiêm cung và quí kính chư Tăng ni, bằng sự phản tỉnh thường xuyên để nhận diện và chuyển hóa những ý niệm lệch lạc xấu ác, chúng ta sẽ có một sức mạnh tự nội để giải thoát khỏi những định kiến phân biệt hẹp hòi, ngã chấp dần dần giảm thiểu, và chúng ta có thể sống hòa hợp thanh tịnh trong bất cứ tập thể nào.

Thiền sư Ajahn Chah, Cố Viện chủ Thiền viện Wat Pah Pong Thái Lan và một số Thiền viện khác ở Âu Mỹ, có lối dạy môn sinh rất kỳ đặc. Nhất là đối với những đệ tử xuất cách, Ngài thường chê bai thậm tệ trước mặt mọi người. Một lần, trước đông đảo Phật tử Tây phương và bản xứ, Ngài phê bình Ðại đức Thitappo – đệ tử thân cận của Ngài - là “Người đần độn nhất”. Vài hôm sau, Ngài hỏi Ðại đức:

- Hôm trước tôi nói vậy, ông có giận tôi không ?

Ðại đức cung kính đáp:

- Làm sao con có thể giận Ngài ? Giận Ngài thì có khác chi nổi giận với một ngọn núi ?(*)

Ðây là một bài học lớn dành cho người xuất gia trong quan hệ giữa thầy và trò. Nếu người cư sĩ chỉ mang ơn dạy bảo của thầy, thì những tu sĩ còn mang thêm trọng ân nuôi nấng. Công ơn giáo dưỡng của Bổn sư - vừa dưỡng dục thân ngũ uẩn sinh diệt, vừa nuôi lớn thân huệ mạng cho ta, quả là nghĩa ân cao trọng khó đền. Chúng ta khi bái sư làm lễ thí phát là đã trao trọn đời mình cho Bổn sư, một lòng hiếu kính quy thuận Người, nguyện luôn tinh tấn tu hành theo lời Người chỉ dạy; khi có kết quả lại nối nghiệp Bổn sư mà tiếp tục truyền trao cho người kế tiếp, để mạng mạch Phật pháp mãi mãi trường tồn.

Ngày xưa, mỗi vị thầy có một cách dạy đệ tử khác nhau, nhất là những vị Thiền sư xuất cách. Nhưng dù thầy nghiêm khắc quở phạt bao nhiêu, các đệ tử cũng vẫn một lòng thờ kính thầy, không dám khởi niệm oán trách. Nhờ vậy, các vị ngộ đạo nhanh chóng, và lúc ấy càng thấy công ơn thầy quả bao la như trời biển. Môn sinh của Thiền sư Lâm Tế thường bị thầy cho ăn gậy và nghe hét điếc tai, thế mà hội chúng luôn đông đảo, tinh cần tu học, nên trãi qua hơn 40 đời, dòng Thiền Lâm tế vẫn còn tươi nhuận luân lưu cho đến bây giờ. Quý thầy ngày nay do khế thời khế cơ, không thể giáo dục đồ chúng bằng những phương tiện kỳ đặc như thế; nhưng nhiều khi muốn đệ tử mau tiến bộ nên cũng phải la rầy quở phạt, có lúc phải trấn áp bằng khẩu lệnh. Nếu người đệ tử khiêm cung quy thuận, sẽ mau tăng tiến trên đường đạo vì đã biết dẹp bỏ ngã chấp. Ngược lại, nếu người đệ tử còn thấy tự ái bị tổn thương, còn khởi niệm trách hờn bội bạc, ấy là đã gieo nhơn xấu. Chưa nói đến những người, vì giận thầy không thoả mãn một điều ước muốn của mình nên rời chùa bỏ chúng đi nơi khác, lại còn đặt chuyện bôi nhọ chống đối thầy. Người đệ tử ấy, dù ôm ấp điều ước muốn hợp lý, cũng vì tạo nghiệp bất thiện mà đóng bít cánh cửa giải thoát. Trọng thầy mới được làm thầy; chúng ta muốn làm thầy nhưng đối với Bổn sư không trọn tình trọn nghĩa, làm sao ta có thể nhận được quả tốt về sau?

Khoa học ngày nay tiến bộ vượt bậc, con người cần có kiến thức và tri thức để hòa nhập với xã hội, với cộng đồng. Người xuất gia cũng cần có số vốn thế học và đạo học khả dĩ mới có thể hướng dẫn Phật tử - vốn có nhiều người trí thức - tu hành theo chánh pháp, mới có thể thăng tòa thuyết giảng. Chúng ta cần phân biệt hai hạng người: Học giả và hành giả. Học giả là người có sự nghiên cứu sưu tầm công phu trên sách vở, có kiến thức uyên bác về một lĩnh vực thuộc phạm vi chuyên môn của mình. Nhà Phật gọi kiến thức ấy là Trí hữu sư, trí tuệ nhờ thầy mà có, vay mượn góp nhặt từ bên ngoài. Nó có tính chất sinh diệt và hạn cuộc, vì có thể đúng trong thời điểm này, ở địa phương này, nhưng lại sai trong thời điểm khác, địa phương khác, nên gọi là Chân lý tương đối. Người tu Phật có thể không phải là học giả nhưng luôn luôn phải là Hành giả - người thực hành công phu tu tập. Khi vị ấy công phu đắc lực theo tiến trình Tam vô lậu học sẽ phát sinh trí tuệ - Ấy là Trí vô sư, trí tuệ không nhờ thầy mà nhờ tự thân dụng công, nhờ giữ Giới mà có Ðịnh, nhờ Ðịnh mà phát Tuệ. Chính Trí Vô Sư mới là sự nghiệp cao cả và đích thực của đời tu, vì nhờ đó ta mới nhận rõ chân lý tuyệt đối, mới có cái nhìn thấu thể về bản chất thật sự của muôn pháp. Ðiều này giải thích tại sao Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền trao y bát cho cư sĩ Huệ Năng, một người không biết chữ nhưng ngộ đạo làm Lục Tổ; mà không truyền cho Thượng toạ Thần Tú, một bậc có kiến thức thế học và đạo học cao siêu, Giáo thọ sư của 500 đồ chúng. Hiểu rõ sự quan trọng và thiết yếu của sự thực hành công phu, chúng ta nên thầm hội ý Bổn sư nếu Người không cho phép ta theo đuổi việc học bên ngoài. Các vị Thầy thường xét khả năng và căn tánh của môn đồ để hướng dẫn việc tu học và hướng đi đúng đắn cho từng người, nhưng không ai không muốn cho học trò mình đạt nhiều kết quả tốt. Không hiểu thâm ý thầy, tình thương của thầy, lại đâm ra giận trách, vô ơn; tội lỗi như thế thì bao nhiêu học vị, bao nhiêu bằng cấp có thể nào hoá giải được chăng?

Ngày Vu Lan được xem như một lễ hội văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam, vì nhắc nhở tinh thần báo hiếu báo ân, những tình nghĩa không thể thiếu trong cuộc sống mỗi người. Trong đó, có những ân nghĩa của những người thầy dạy ta từ lúc nhỏ đến khi trưởng thành, từ những kiến thức thế gian đến lộ trình tu tập xuất thế gian. Có thể nói, tuy mỗi người chúng ta chỉ có cha và mẹ, nhưng thực ra ta có đến 4 vị thầy: Một là những bậc sinh thành, hai là những người nuôi dưỡng ta khôn lớn, ba là những vị thầy dạy ta từ việc đời đến việc đạo, và bốn là tất cả những người đã từng tiếp xúc với ta, hơn một lần vô tình hay hữu ý đã dạy ta cách đối nhân xử thế. Làm người có đạo đức, chúng ta không thể quên ơn của bốn vị thầy ấy; và bằng mọi cách trong khả năng của mình, phải báo đền ân nghĩa của các Người, dù chỉ trong muôn một.


11- HẠNH PHÚC DÂNG MẸ

Căn nhà lá xiêu vẹo mục nát bên bờ ao, ra vào chỉ có hai mẹ con. Mẹ buôn gánh bán bưng, tảo tần hôm sớm; đứa con trai còn nhỏ dại, đỡ đần mẹ những việc lặt vặt hàng ngày.

Một hôm mẹ bảo con:

- Sáng nay mẹ bắt được mấy con cua, còn để trong giỏ ở góc bếp. Trưa con hái rau đay nấu bát canh cua, mẹ đi bán về hai mẹ con ăn nhé.

Cậu bé vâng dạ, người mẹ quảy gánh hàng rong ra đi, cậu nhìn theo bóng mẹ, muốn nói, mẹ về mua cho con tấm bánh đúc, nhưng lại không dám. Tuổi thơ nhà nghèo đã sớm biết cảnh ngộ, cha mất từ khi cậu còn ẳm ngửa, mẹ bươn chải suốt ngày chỉ đủ cho hai mẹ con rau cháo đỡ lòng. Dám mơ gì đến áo quần quà bánh, càng không dám nghĩ đến chuyện học hành. Nhiều lần cậu bé đứng đàng xa nhìn về ngôi trường làng, thấy đám học trò đang gò lưng tập viết, hoặc đồng thanh đọc theo thầy “Nhân chi sơ tính bản thiện...” cậu thích mê, tuy chẳng hiểu một chữ nào nhưng cậu cảm thấy bao điều huyền diệu trong những âm thanh trầm bổng ấy.

Thích thì thật thích, nhưng tuyệt đối cậu không dám hé ra một lời với mẹ. Bởi vì cậu biết mẹ cậu đã khổ quá nhiều. Ðôi lần cậu cảm nhận những giọt nước mắt thầm rơi trên tóc cậu, khi mẹ ôm cậu vào lòng. Nhưng khi cậu nhìn lên, mẹ lại vội mỉm cười, bảo là có hạt bụi rơi vào mắt. Sau đó mẹ ôm cậu chặt hơn, và hai mẹ con cùng ngồi yên lặng, tận hưởng những giây phút sum vầy hạnh phúc bên nhau. Hiển nhiên là cậu không thể sống thiếu mẹ và ngược lại, mẹ cũng không thể nào sống mà không có cậu.

Mãi nghĩ vẫn vơ, nhìn lại đã thấy trời gần đứng bóng, cậu bé nhớ lời mẹ dặn, ra sau nhà hái một đám rau đay, rửa sạch rồi để vào rổ cho khô. Rau đay nấu với nước cua giã, mùa hè nóng nực có bát canh nầy thì ăn đến đâu mát ruột đến đấy. Hôm nay mình phải nấu thật ngon, mẹ đi bán về mệt, ăn vào chắc chắn khỏe ra ngay. Mẹ sẽ khen con mẹ giỏi ghê, và mẹ sẽ thưởng cho mấy cái hôn vào má.

Chiếc giỏ tre nằm nơi xó bếp. Mấy con cua bò lổm ngổm. Cậu bé đến gần, định trút cua ra cối giã. Chợt thấy những đám bọt sùi trên thân cua, cậu ngẩn ra nhìn. Thì ra cua cũng biết khóc ư? Chúng sợ mình giết chúng đây mà. Tội thế thì thôi. Làm sao mình nỡ hại chúng được nhỉ?

Cậu mang giỏ cua ra bờ ao, trút hết cua xuống đất. Lũ cua được hồi sinh, vội vã bò đi tản mát. Cậu bé nhìn theo, mỉm cười...

Buổi trưa nắng gắt. Người mẹ trẻ quẩy gánh hàng rong còn nặng trĩu trở về. Từng vệt mồ hôi trắng loang lổ trên lưng áo, chảy ròng ròng trên mặt. Nghèo nàn cơ cực và đau khổ đã tàn phá nhan sắc người thiếu phụ quá sớm. Mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, ở nhờ nhà dì chú lại bị hành hạ đuổi xua, cô phải làm thuê ở mướn nuôi thân qua ngày. Tuy cô hiền hậu dễ thương, nhưng gia cảnh quá bần hàn nên không ai muốn kết thân. Mãi về sau, gặp được người tử tế, tưởng số phận đã mỉm cười, vợ chồng suốt đời nương tựa bên nhau. Nào ngờ chồng mắc cơn bạo bệnh, không tiền thuốc thang nên qua đời, để lại đứa con trai mới vài tháng tuổi. Cũng an ủi cho cô, đứa con càng lớn càng thông minh, lại rất ngoan, rất có hiếu. Mẹ đi bán về, bé biết rót nước mẹ uống, quạt mát cho mẹ; thấy mẹ buồn, bé biết rúc đầu vào lòng mẹ, thỏ thẻ với mẹ đôi câu. Nếu không có đứa con, chưa chắc cô có thể gắng sống đến bây giờ.

Nghĩ đến con, người mẹ thấy lòng dịu mát. Ở nhà chắc thằng bé đã nấu cơm xong. Sáng giờ chưa có gì vào bụng, người mẹ nghe đói cồn cào. Gắng sức về đến nhà, rửa mặt qua loa, cô mỉm cười nghe con vừa dọn cơm vừa tíu tít.

Nhìn bát cà muối nằm chỏng chơ trên chiếc mâm tre, người mẹ ngạc nhiên hỏi:

- Con quên nấu canh cua chăng?

Thằng bé ngập ngừng:

- Con không quên đâu, mẹ ạ. Nhưng... lúc bắt cua định cho vào cối, con thấy chúng khóc tội quá nên... đã thả hết rồi.

Người mẹ tức nghẹn, trố mắt nhìn con, lát sau mới thốt lên:

- Cái gì? Mầy nói cái gì?

Nhìn đôi mắt long lên của mẹ, thằng bé co rúm người lại, líu ríu không ra tiếng:

- Dạ... con thả cua đi hết rồi.

Vừa mệt vừa đói lại vừa tủi cực, người mẹ òa lên khóc:

- Giời ơi là giời! Sao đời tôi khổ thế này? Người ta có con nhờ con có của nhờ của, tôi chỉ có một đứa con mà chẳng biết thương mẹ. Ðồ bất hiếu, xéo ngay khỏi nhà nầy! Từ nay chẳng mẹ con gì sất!

Thuận tay, người mẹ cầm ngay đòn gánh phan vào chân con. Thằng bé trúng đòn vào chân đau điếng, vội chạy ù ra khỏi cửa. Người mẹ gục mặt vào cạnh bàn, đôi vai gầy guộc rung lên từng hồi trong cơn đau khổ xé lòng. Nỗi giận Trời già bất công, nỗi thương thân phận hẩm hiu chưa hề có một ngày vui trọn vẹn, chưa một giờ nào thật sự thảnh thơi. Bên cạnh, vẫn âm ỉ nỗi ân hận đã nặng tay nặng lời với đứa con thân yêu duy nhất. Từ trước đến nay, có bao giờ thằng bé bị bà la mắng, nói gì đến đánh đập đuổi xua? Chỉ tại hôm nay trời nóng quá, hàng họ ế ẩm, chủ nợ lại chận đường chửi bới đủ điều. Cực nhục quá đỗi, thân cò đơn chiếc làm sao giữ nổi bình tỉnh khi chút hy vọng cỏn con là một bữa ăn cải thiện mà cũng không thành hiện thực?

Chìm vào tột cùng đau khổ, người mẹ cứ gục đầu, không biết thời gian trôi qua, không biết bên ngoài trời đã xế chiều. Khi chợt tỉnh, nhìn quanh thấy im ắng lạ thường, người mẹ nhớ lại chuyện lúc trưa. Hốt hoảng gọi con, không nghe tiếng thưa, cô vội nháo nhác đi tìm...

.. . Cuộc tìm kiếm kéo dài gần 40 năm.

Người mẹ trẻ ngày nào đã trở thành một bà cụ cô đơn, còm cõi, sống hiu quạnh nơi quán nước bên đường. Hai mắt đã mờ, hai tai đã lãng, nhưng nỗi nhớ thương ân hận vẫn còn tươi nguyên, vẫn còn da diết. Bao nhiêu năm trời lang thang tìm con khắp nẻo, không kể nắng mưa gió bụi, không kể lạnh lùng đói khổ, bà sống nhờ hạt cơm bố thí. Chỉ có một chút lửa hy vọng nhìn lại mặt con, ôm con trong vòng tay, nói lên lời xin lỗi, mới giữ được bà còn sống đến ngày nay. Chút hy vọng ấy như sợi dây tơ giữ bà liên hệ với cuộc đời. Những năm gần đây, sức đã mòn chân đã yếu, bà đành về làng cũ, dựng tạm quán nước bên đường làm nơi trú thân và để tiện việc hỏi han tin tức đứa con lưu lạc.

Sáng nay, tự nhiên bà cụ thấy nôn nao lạ lùng. Từ sớm, bà đã lui cui dọn dẹp bàn ghế, quét sạch nhà cửa, quét luôn đám lá ngoài sân. Ly tách trên bàn đã sạch sẽ ngay ngắn, nhà cửa đã ngăn nắp gọn gàng mà bà vẫn luôn tay làm việc. Dường như có một luồng sinh khí tràn vào thân tâm khiến bà mạnh lên, trẻ lại, nhưng bà không hiểu nguyên do, không biết có chuyện gì sẽ xảy ra cho mình.

Mãi làm, bà không biết có một người khách vừa đến. Khi nghe tiếng gọi, bà mới giật mình ngẩng lên chào hỏi. Khách là một vị tu sĩ, trạc tuổi 50, giọng nói từ hòa trầm ấm:

- Bà cụ mở quán nầy lâu chưa?

Bà bưng tách trà đặt ngay ngắn trước mặt nhà Sư, chấp tay cung kính:

- Bạch cụ, con mới mở vài năm nay thôi ạ. Trước đây con cũng ở làng nầy, nhưng tận sâu trong kia.

Nhìn theo ngón tay chỉ của bà cụ. Sư như nhận ra điều gì, vội hỏi tiếp:

- Thế... bà cụ ở đây cùng với con cháu chứ?

Bà cụ đưa tay áo lên lau giọt nước mắt vừa ứa ra, buồn bã trả lời:

- Bạch cụ, trước kia con có một đứa con trai. Năm nó 12 tuổi, chỉ vì một chút bất hòa, nó đành đoạn bỏ con đi biệt tích. Con tìm nó suốt 40 năm nay, sức mỏn hơi tàn nhưng cũng gắng sống chờ gặp lại nó, nói với nó một câu xin lỗi rồi mới yên tâm nhắm mắt. Nếu không thế thì con không có mặt mũi nào nhìn nhà con dưới suối vàng được ạ.

Rồi như mạch nước được khai thông, bà cụ run run ngồi xuống bên Sư, kể hết mọi sự tình. Bà kể về những tháng năm mẹ con đầm ấm bên nhau, đến chuyện một bát canh cua làm đoạn lìa tình mẫu tử. Bà kể về khoảng thời gian lang thang khắp nẻo, vừa xin ăn vừa lặn lội tìm con, cho đến tuổi già còn đau đáu ngóng vời đứa con biệt dạng. Bà không thấy rõ mặt Sư, vì giòng lệ nhiều năm đã làm mờ ánh sáng của đôi mắt trong, nhưng bà cảm nhận một sự thân thuộc và tin cậy không tả nổi với người khách lạ nầy. Cho nên, tâm sự chất chứa bao năm đầy ắp, giờ có dịp được trút cạn nỗi niềm.

Sư sửng sờ, ngồi lặng thinh. Trước mắt Ngài hiện rõ hình ảnh một đứa bé gầy guộc đen đủi, mặc chiếc quần cộc đen, ngồi nhìn đám cua đang khóc trong giỏ, rồi lui cui thả chúng xuống ao. Ðứa bé ra cửa đón mẹ, hai mẹ con đang nói cười vui vẻ, bỗng đâu mẹ quắc mắt nhìn mâm cơm, và một chiếc đòn gánh phang đến. Vết đau nơi chân không sâu bằng vết đau trong tâm hồn non trẻ và sự hoảng sợ khi cậu bất chợt nhận ra một người khác nơi mẹ mình, một con người sân hận hung dữ mà cậu chưa hề gặp. Cậu không biết mẹ đã biến đi đâu. Người mẹ hiền từ dịu dàng vẫn vuốt ve ôm ấp cậu. Cậu ôm đầu chạy trốn con người hung dữ kia, tai vẫn văng vẳng nghe tiếng gào thét của hắn. Cậu nhắm mắt chạy mãi, chạy mãi để trốn tránh những hình ảnh, những âm thanh ma quái ấy. Cho đến khi mệt đuối, cậu ngã xuống một bờ đê, bất tỉnh.

Bà cụ vẫn thủ thỉ kể chuyện đời mình bằng một giọng đều đều, nhỏ nhẻ. Sư vẫn ngồi đó yên lặng, tiềm thức tiếp tục trổi dậy những hình ảnh ngày xưa. Bốn mươi năm dài chỉ như một chớp mắt. Cậu bé được một vị sư già đưa về chùa săn sóc, dở tỉnh dở mê. Cơn chấn động tinh thần dữ dội, thêm sự nhọc mệt quá độ của thể xác làm mất hẳn trí nhớ. Cậu không biết mình con ai, ở đâu, tên gì, vì sao nằm gục trên đám ruộng xa lạ. Khi tỉnh dậy nhìn quanh, thấy mình đang ở trong chùa, bên cạnh là vị sư già đang nhìn cậu bằng đôi mắt bao dung, từ ái. Kể từ hôm ấy, cậu như mới được sinh ra, sống nương cửa Phật, nhờ ơn giáo dưỡng của sư phụ trụ trì. Tu hành tinh tấn, giới hạnh trang nghiêm, cậu dần trưởng thành, trở nên một vị chân tu thạc đức, được sư phụ cho kế thừa trụ trì ngôi tu viện. Trong một đêm thiền định sâu xa, khi mọi vọng niệm bặt dứt, trở về với bản tâm thanh tịnh rỗng lặng sáng ngời, ngài đột nhiên nhớ lại chuyện xưa. Thời thơ ấu bên người mẹ hiền sớm hôn tần tảo vụt hiện ra, rõ ràng như chuyện xảy ra hôm qua. Mẹ giờ chắc đã già yếu, quạnh quẽ cô đơn, từng ngày mong ngóng đứa con duy nhất. Người tu cát ái từ sở thân, nhưng không vì thế mà lãng quên công sinh thành dưỡng dục. Phải trở về quê cũ, tìm gặp mẹ hiền, nghĩ cách bù đắp cho Người những gì mình thiếu sót, báo đền ơn sâu của Người dù đã muộn màng.

Sáng sớm hôm sau, Ngài sắp xếp công việc trong tự viện, giao phó cho những đệ tử thân tín, bảo là ra đi có việc cần, khi nào xong việc sẽ trở về. Một mình Ngài tìm về làng xưa, nhận không ra quang cảnh cũ. Bốn mươi năm, bao nhiêu nước chảy qua cầu. Mái nhà tranh thân thương cạnh bờ ao rau muống, nay chỉ là mảnh đất cỏ dại. Ði quanh xóm, không còn một gương mặt thân quen. Mẹ già đã phiêu bạt nơi đâu, hay đã ra người thiên cổ? Bốn mươi năm, hình ảnh mẹ bị phủ che bởi lớp bụi dày vô ký, con không hề biết trên đời nầy có mẹ, thảnh thơi sống trong thiền môn vui với câu kinh tiếng kệ. Chao ôi! Tu hành mà làm gì khi một chữ hiếu chưa trả xong, khi không biết mẹ hiền đang ở đâu để lo bề phụng dưỡng?

Nhiều năm trôi qua như thế. Ngài quảy gói làm du Tăng đi khắp hang cùng ngõ hẹp hỏi thăm tin tức về một người mẹ mất con. Trả lại câu hỏi của Ngài, mọi người đều lắc đầu không rõ. Rất thông cảm và rất thương cho vị tu sĩ có hiếu, nhưng không ai có thể giúp Ngài được gì. Nhiều người góp ý, có lẽ thời gian qua lâu thế, mẹ Ngài đã khuất bóng rồi chăng, biết bà cụ ở đâu mà tìm? Chỉ một mình Ngài vẫn giữ trọn lòng tin, Phật Trời không phụ người thành tâm, sẽ có ngày mẹ con đoàn tụ.

Và bây giờ, sự thật mà cứ ngỡ trong mơ! Mẹ đang ngồi trước mặt, đang kể về những năm tháng đau khổ trong đời. Mẹ kể chuyện cho người mới gặp lần đầu, sao có vẻ tin cậy đến thế? Phải chăng vì từ lâu không có ai lắng nghe bằng tất cả tấm lòng, hay vì sợi dây tình cảm thiêng liêng đã rung lên thành điệu nhạc vô thanh? Nhìn mẹ say sưa nói mà nội tâm Sư đang bị đấu tranh bởi hai tư tưởng trái ngược: Bên nầy là tình cảm thông thường, Sư muốn ôm chầm lấy mẹ, khát khao hít đầy lồng ngực mùi mồ hôi quen thuộc của mẹ. Bên kia là trí tuệ và lòng từ của một bậc chân tu, muốn độ mẹ hiền qua biển khổ sinh tử. Nếu hôm nay Sư nhận mẹ, đưa mẹ về chùa phụng dưỡng, thì tình cảm mẹ con sẽ khiến bà sinh tâm chiếm hữu, ỷ lại và khinh mạn đối với chư Tăng. Mẹ vẫn còn tâm chúng sinh với đủ tật tham, sân, si sao khỏi tổn phước; như thế thương mẹ mà vô tình làm hại mẹ. Còn nếu không nhận mẹ con, để mẹ cứ mãi cô đơn nơi quán nước hiu quạnh, thì chẳng hóa ra bạc bẽo tàn nhẫn lắm sao? Làm thế nào trọn vẹn cả đôi đường, Sư có thể gần gũi chăm sóc mẹ, hướng dẫn mẹ tu hành theo chánh pháp, mà mẹ không tổn phước khi sử dụng của tín thí đàn na.

Sư trầm tư suy tính. Chợt một ý nghĩ lóe lên. Ngài mỉm cười tự nhủ: “Phải, cần phải làm như thế”. Nắm bàn tay nhăn nheo gầy guộc của mẹ, Ngài dịu dàng hỏi:

- Này cụ, cụ có muốn theo tôi về nương cửa Phật chăng?

Bà cụ không tin vào tai mình:

- Bạch cụ, cụ dạy gì con không rõ?

Sư thương cảm nhắc lại từng tiếng:

- Bà cụ muốn theo tôi về chùa chăng?

Bà cụ mừng rỡ thốt lên:

- Ðược thế thì còn gì bằng? Nhưng... bạch cụ, con già yếu thế nầy, đâu thể làm công quả cho nhà chùa được ạ?

Sư vỗ nhẹ vào tay mẹ:

- Bà cụ đừng lo. Người khỏe có việc của người khỏe, người già yếu khắc có việc cho người già. Bà cụ ở chùa, sớm hôm niệm Phật, biết đâu nhờ Phật độ trì mà sớm tìm gặp con mình. Ðể tôi về chùa bạch cùng chúng Tăng, nếu được chấp thuận, tôi sẽ đến đây đón cụ.

Từ đó, bà cụ về ở am tranh nhỏ sau chùa. Không ai biết bà là mẹ của Hòa thượng trụ trì, ngay cả bà cũng không ngờ mình đang sống cạnh người con yêu quý. Sáng nào Sư cũng đến thăm bà, hỏi han sức khỏe, nhắc bà niệm Phật. Việc công quả hàng ngày, Sư phân công bà nhặt hoa lá rụng trước am, khỏe làm mệt nghỉ. Công việc bà thích nhất là nhặt hoa sứ. Cây sứ lâu năm trồng phía trước am tranh của bà, hoa nở trắng cây thơm ngát. Bà nâng niu từng đóa, chọn những hoa còn tươi rửa sạch, đặt vào hai bát sứ. Một bát bà dâng cúng Phật - bức tượng Ðức Phật Di-Ðà mà Sư đã đưa đến tặng bà. Bát hoa thứ hai, bà để trên bàn dành biếu Sư. Mỗi lần đến, Sư đều ngồi trên chiếc ghế trên bàn, nâng bát hoa sứ bằng hai tay, nhìn thật lâu vào những cánh hoa, sau đó mỉm cười cảm ơn bà cụ. Không nói ra nhưng bà cũng biết Ngài trân trọng tấm lòng của bà đối với Ngài. Chỉ có thế cũng đủ làm bà cụ vui suốt ngày. Bà ôm ấp niềm vui ấy khi làm việc, khi ăn cơm, khi nghỉ ngơi và cả trong khi ngủ. Theo lời dặn của Sư, lúc nào bà cũng cầm trên tay chuỗi hạt bồ đề do Sư tặng, tay lần chuỗi miệng niệm thầm Lục tự Di-Ðà. Khi làm việc, bà mang chuỗi vào cổ tay. Như thế, xâu chuỗi hạt theo bà như hình với bóng. Ðối với bà, đó là vật quý báu nhất đời vì tiếp xúc với nó, bà luôn luôn gần gũi với Ðức Phật và với Hòa thượng trụ trì - người vừa có tình thầy trò vừa có một tình cảm nào đó thật lạ mà bà không dám phân tích. Bà chỉ muốn cố gắng làm vui lòng Hòa thượng bằng cách vâng theo thật đúng, thật siêng năng những lời chỉ bảo của Ngài. Mà Ngài có nói gì nhiều đâu, chỉ dặn dò luôn nhớ niệm Phật, ăn ngủ điều độ, chớ lo nghĩ buồn phiền. Cũng thật lạ, từ khi về nương dưới mái chùa, mỗi ngày được Sư đến thăm dù chỉ giây lát, bà tự nhiên thấy mình vô cùng hạnh phúc. Nỗi nhớ mong đứa con lưu lạc từ lâu nặng trĩu, bây giờ bỗng tiêu tan đâu mất. Trước đây, mỗi khi trời chập choạng tối là bà cảm nhận sự cô đơn quạnh quẽ hơn bao giờ hết. Bây giờ cảm giác ấy không còn, thay vào đó là sự bình ổn của thân tâm. Ðêm đến, bà rửa mặt sạch sẽ, đến bàn thờ Phật thắp một nén hương. Bà không biết khấn vái gì nhiều, chỉ dâng lên Ðức Phật lời cảm tạ chân thành vì đã ban cho mình niềm vui được sống và tu dưới sự dẫn dắt của Hòa thượng. Bà cầu nguyện Ðức Phật phò hộ độ trì cho Hòa thượng mạnh khỏe sống lâu để làm lợi ích cho nhiều người. Sau đó, bà ngồi xếp chân trên chiếc giường tre, lần chuỗi niệm danh hiệu Ðức Phật A-Di-Ðà. Khi đã mỏi, bà nằm xuống nhẹ nhàng thảnh thơi đi vào giấc ngủ.

Ngày tháng êm đềm trôi qua. Nhờ Hòa thượng cùng chư Tăng bổn tự, bà cụ đã được an vui trong tuổi xế chiều, được đầy đủ về vật chất trong giới hạn của người tu, được thấm nhuần Phật pháp và tu hành theo giáo lý nhà Phật. Bà cụ đã biết gạt bỏ phiền não, rửa sạch tập khí, tịnh tu ba nghiệp, một lòng niệm Phật cầu được vãng sanh. Có thể nói, đây là giai đoạn hạnh phúc sung mãn nhất trong đời bà.

Một buổi sáng, bà cụ bỗng lên cơn sốt, đầu nhức mắt hoa, tay chân rũ liệt. Sư đến thăm như thường lệ, thấy thế vội lấy nước bà uống, xoa bóp tay chân bà rồi tự mình xuống bếp, nấu cho bà bát cháo giải cảm. Bà cụ, tuy lòng áy náy vì sự chăm lo ấy của Sư, nhưng tận sâu xa của cõi lòng người mẹ vẫn thấy vô cùng sung sướng. Bà nhớ ngày xưa, có lần bà bị mệt, đứa con nhỏ thân yêu của bà cũng quấn quýt săn sóc bà như thế. Có cái gì nửa lạ nửa quen nơi vị Hòa thượng khả kính nầy, bà đã cảm nhận từ lâu nhưng không dám lộ ra. Vả lại, mọi người đều rất tốt đối với bà. Họ ân cần đối xử thăm nom bà như một bà cụ làm công quả, một bà cụ cô đơn được chùa cưu mang. Và bà thì có mong điều gì hơn thế, luôn tỏ lòng cung kính biết ơn đối với chư Tăng, đặc biệt sâu sắc biết ơn Hòa thượng trụ trì đã từ bi ban cho mình những ngày tháng cuối đời thật bình an đầy đủ.

Người già như ngọn đèn cạn dầu, chỉ cần một cơn gió nhẹ là lịm tắt. Bà cụ từ trẻ đến giờ, nhờ Trời tuy lam lũ nhưng ít đau ốm nặng. Lần này, chỉ một trận cảm xoàng nhưng sao bao nhiêu sức lực trong người hầu như cạn kiệt. Toàn thân bà ê ẩm, rét run từng cơn, môi khô miệng đắng. Mọi việc thuốc thang chăm sóc, Sư đều tự tay làm một cách chu đáo tận tình. Nhiều lần bà cụ vừa khóc vừa thưa cùng Sư:

- Bạch cụ, xin cụ hãy để mặc con, con khắc tự mình làm được. Cụ chăm con thế nầy, con e tổn phước lắm ạ.

Sư dịu dàng nói:

- Phụng sự chúng sinh là cúng dường chư Phật. Bà cụ chỉ có một mình, không con không cháu, tôi thay con bà lo cho bà cũng được, có sao đâu?

Ðại chúng biết chuyện, vừa thương bà cụ vừa xót cho Sư, nên đưa một nữ Phật tử đến, bạch rằng:

- Kính bạch Thầy, vị nữ thí chủ nầy có hoàn cảnh rất tội nghiệp, chồng con đều mất, không nơi nương tựa, xin đến chùa ta làm công quả. Chúng con kính trình Thầy, xem có thể nhờ nữ thí chủ đây chăm sóc bệnh tình bà cụ được chăng?

Bằng đôi mắt u ẩn, Sư nhìn người đệ tử, nhìn sang người phụ nữ đang chấp tay cúi đầu. Ngài trầm ngâm giây lâu, sau mới bảo:

- Thôi được, cứ để nữ thí chủ đây ở chung với bà cụ, hôm sớm có nhau. Hai ngày nữa, Thầy có việc đi xa vài hôm. Bệnh tình bà cụ không biết sẽ như thế nào, tuổi già... thật khó lường trước được. Mọi việc ở nhà, Thầy nhờ các chú lo liệu cho. Có điều... nếu bà cụ qua đời, các chú hãy thay Thầy làm đủ lễ cho chu tất, nhưng đừng đậy nắp áo quan. Ðợi Thầy về sẽ tính. Thầy sẽ cố thu xếp công việc sớm, xong lúc nào Thầy về ngay lúc ấy.

Trước khi ra đi, Sư đến am tranh ngồi với bà cụ rất lâu. Không biết Sư nói với bà những gì, trấn an bà thế nào, nhưng khi Ngài đứng lên từ giã, bà cụ đã để rơi những giọt nước mắt hạnh phúc tột cùng. Bà đã trải qua những giây phút an lạc. Ðã được sống trong hào quang của chư Phật, đã trọn vẹn tin tưởng rằng khi trút hơi thở cuối cùng, bà sẽ được vãng sanh. Cái chết đối với bà giờ đây như chuyến đi xa hứa hẹn nhiều điều kỳ thú, và bà bình thản chờ đợi nó. Có điều, bà hơi băn khoan, không biết Hòa thượng có trở về kịp để tiễn đưa mình không. Thật là lạ trong những giờ phút sau cùng của cuộc đời, bà lại ít nhớ đến đứa con lưu lạc của mình, mà chỉ nghĩ về Hòa thượng như một nơi nương tựa vững chắc, một dây liên kết giữa mình và Tam Bảo. Bà nhớ câu chuyện cổ tích kể về cô gái nghèo nhờ Bụt hóa phép trở thành người đẹp nhất và hạnh phúc nhất trần gian. Hòa thượng có thể là hiện thân của Bụt, Ngài thương xót hoàn cảnh nghèo khó neo đơn của bà nên đến với bà bằng tấm lòng từ bi - ban vui và cứu khổ.

Hòa thượng đi rồi, đại chúng phân công nhau hàng ngày trợ niệm cho bà cụ. Bà không mở mắt nổi, thở yếu dần nhưng tai vẫn nghe, ý vẫn duyên theo từng tiếng niệm Phật. Những hình ảnh dĩ vãng lần lượt hiện về, từ thuở nhỏ mồ côi đến khi lấy chồng sinh con, nhất là thời gian bốn mươi năm đằng đẳng lang thang tìm kiếm đứa con mất tích. Bà thấy rõ đời mình quá nhiều đau khổ mà chẳng có mấy niềm vui. Chỉ từ lúc gặp Hòa thượng, được nương nhờ cửa Phật, bà mới biết thế nào là hạnh phúc. Nhờ Hòa thượng chỉ dạy, bà hiểu rằng do bao đời trước bà đã tạo nhân xấu, nên kiếp nầy bà phải nhận quả khổ. Bà không còn oán trách người, một lòng niệm Lục tự Di-Ðà nguyện khi chết được vãng sinh về Tây phương Cực-Lạc, nơi có Ðức Phật A-Di-Ðà và Bồ-tát Quán Thế Âm. Làng xưa của bà có một ngôi chùa nhỏ, trước sân chùa là bức tượng Mẹ hiền Quán Thế Âm cầm tịnh bình và nhành dương liễu. Gương mặt mẹ thật dịu hiền, đôi mắt từ ái nhìn bà mỗi khi bà đến chấp tay cung kính lễ. Chỉ cần nhìn gương mặt ấy, đôi mắt ấy, bà đã thấy trong lòng ấm áp, bao nhiêu buồn đau hận tủi tự nhiên vơi nhẹ đi nhiều.

Nghĩ đến Mẹ hiền Quán Thế Âm, đến Ðức Phật A-Di-Ðà, tâm bà cụ chợt lắng xuống, chỉ còn hiển hiện sáu chữ Nam mô A-Di-Ðà Phật tràn đầy khắp không gian, lồng lộng đất trời. Bà đột nhiên thấy mình rơi vào một đường hầm sâu hun hút, và cuối đường hầm ấy là một vùng ánh sáng chan hòa rực rỡ. Và kìa! Ðức Phật A-Di-Ðà và chư Thánh chúng hiện ra rõ ràng trước mắt bà, lung linh trong vòng hào quang chói lọi. Vị Bồ-tát đứng bên phải Ðức Phật cầm một hoa sen hé nở, tỏa hương thơm ngát. Bồ-tát Quán Thế Âm đứng bên trái, hình dáng quen thuộc với tịnh bình và nhành dương liễu. Ngài mỉm cười với bà, phẩy nhẹ cành dương về phía bà. Lập tức, bà cảm nhận những giọt nước mát thấm đượm vào từng lỗ chân lông, người thấy nhẹ nhàng thanh thản lạ lùng. Bao nhiêu đau đớn của thể xác tự nhiên biến mất, bà như ngợp đi, như hòa tan vào trong vùng ánh sáng huyền diệu của chư Phật Bồ-tát.

Một mùi hương nhẹ nhàng ở đâu tỏa ra khắp phòng. Mọi người nhìn nhau thầm hỏi. Bà cụ vẫn nằm đó, gương mặt rạng rỡ bình an như đang trong giấc ngủ say không mộng mị. Một âm thanh nào trên cao khi gần khi xa, thoạt có thoạt không, thánh thoát du dương chưa từng có trong đời. Bà cụ ra đi an lành thanh thản quá đỗi, như đã rũ sạch mọi trần lao phiền não, mọi gánh phiền não của suốt mấy mươi năm trả nợ trần gian.

Những việc hậu sự cho bà cụ được chư Tăng và Phật tử bổn tự thực hiện chu đáo, theo lời dặn của Hòa thượng trước đây. Bà cụ được tẩm liệm, được đặt vào chiếc áo quan chưa đậy nắp, luôn có người bên cạnh hương khói tụng niệm suốt ngày đêm. Tất cả mọi người, kể cả bà cụ trong quan, đều như mong ngóng Hòa thượng trở về.

Và Ngài đã về, hai ngày sau khi bà cụ mất. Vừa đến chùa, chưa kịp rửa mặt, Sư đã vội đi qua am tranh. Từng bước chân chánh niệm theo công phu từ lâu hành trì, nay gấp gáp hơn. Biết tâm hơi xao động, Sư vội hít vào sâu thở ra dài vài lần. Trở về với tâm an nhiên, Ngài bước vào ngưỡng cửa. Mẹ Ngài như trong giấc ngủ, gương mặt vẫn tươi, nụ cười như đang phảng phất trên môi. Tưởng chừng chỉ cần Sư lên tiếng gọi, bà sẽ mở mắt ra, cười với Ngài một nụ cười móm mém và hồn nhiên như trẻ nhỏ.

Thắp nén hương trầm cắm vào bát hương còn nghi ngút khói, Sư chậm rãi từng bước đi quanh quan tài bà cụ ba vòng. Ðại chúng đang tụ tập trước am, ngạc nhiên từng cử chỉ lạ lùng của Hòa thượng. Chẳng ai hiểu vì sao một vị Hòa thượng đạo cao đức trọng mà lại có thái độ thành kính khác thường đối với bà cụ không họ hàng thân thích. Từ khi bà cụ về đây, Ngài không chỉ ban cho bà sự thông cảm, bao dung, mà còn có cái gì ân cần, quan tâm đặc biệt. Cho đến hôm nay, thấy Ngài đi nhiễu quanh bà cụ ba vòng bằng những bước chân tuy nhẹ nhàng nhưng có vẻ trầm tư, câu hỏi “Phải chăng có mối liên hệ nào giữa Hòa thượng và bà cụ?” từ lâu âm ỉ chợt dấy lên trong tâm đại chúng. Có lý nào...

Tiếng Sư vang lên làm mọi người giật mình lắng nghe:

- Ðức Phật từng dạy: “Một người tu đắc đạo, cửu huyền thất tổ sinh thiên”. Nếu quả thật lời nầy không hư dối, xin Tam Bảo chứng minh cho lời nguyền của đệ tử: Chiếc quan tài nầy sẽ bay lên hư không!

Hòa thượng vừa dứt tiếng, chiếc quan tài bỗng như có một lực đẩy, từ từ nâng lên cao, sát mái am tranh, lơ lửng. Mọi người đồng loạt quỳ xuống, chắp tay, ngẩng mặt nhìn lên trong một niềm kính ngưỡng tột cùng. Mắt Hòa thượng sáng ngời, an trú trong giây phút hiện tại tuyệt vời, một giây mà đằng đẵng thiên thu. Tâm hiếu của người con hòa lẫn trong tâm từ của một bậc chân tu đắc đạo, nở tung như đóa sen tỏa hương tinh khiết, tuy vô hình mà bất diệt, tuy vô thanh mà tràn ngập âm hưởng diệu kỳ, tuy vô tướng mà chan hòa khắp cùng cõi giới.

Khi chiếc áo quan nhẹ nhàng trở về chỗ cũ, người ta thấy gương mặt bà cụ - bây giờ đã rõ là thân mẫu của Hòa thượng trụ trì - tươi nhuận rạng rỡ. Mùi hương lạ lại tỏa ra phảng phất quanh nhà. Mọi người đứng bất động, đắm mình trong niềm phúc lạc ngàn năm chưa dễ có.

Nơi quán nước ngày xưa của mẹ, Sư lập một ngôi chùa đặt tên là Mại trà lai Tự. Am tranh mẹ từng ở có tên là Dưỡng mẫu Ðường, sớm chiều khói hương nghi ngút.

Hòa thượng để lại cho đời một tấm gương đại hiếu sáng ngời muôn thuở. Ngài là Thiền sư Tông Diễn, hiệu Chơn Dung (1640-1711), đời vua Lê Hy Tông, thuộc tông Tào Ðộng, quê ở thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang. Chính Ngài, bằng phương tiện thiện xảo, đã giúp nhà vua cải ác tùng thiện, quay về với Phật pháp. Ðối với triều đình và môn đồ, Ngài là Thiền sư Tông Diễn; nhưng đối với dân chúng, Ngài là Hòa Thượng Cua - cái tên dân dã mộc mạc nhưng thật gần gũi thân thương. Hình ảnh Ngài trong lòng mọi người, đẹp đẽ chói ngời muôn thuở, không phải là hình ảnh của vị Thiền sư, càng không phải của một tu sĩ được vua ban chức Ngự Tiền Chi Quân và áo gấm. Ðó là hình ảnh của một bậc chân tu tốt đời sáng đạo, vừa tu hành có kết quả vừa lo tròn chữ hiếu đối với mẹ già một cách vượt thường đầy trí tuệ.

Chúng ta ôn chuyện người xưa để tự nhắc mình một tấm gương đại hiếu sáng ngời. Không chỉ Ấn Ðộ mới có chuyện Ðức Mục-Kiền-Liên, Xá-Lợi-Phất; không chỉ Trung Hoa mới có chuyện 24 người con hiếu thảo, mà ở Việt Nam ta cũng có những câu chuyện thật đã làm cảm động lòng Trời. Hòa thượng Cua đã lo cho mẹ những ngày cuối đời hạnh phúc, lại độ mẹ được vãng sanh về cõi lành. Còn chúng ta, đã báo hiếu cho cha mẹ những gì khi các Người còn sinh tiền và khi đã khuất bóng? - Ðó là câu hỏi mà mỗi người chúng ta, không phân biệt tôn giáo, tuổi tác, không kể xuất gia hay tại gia, đều tự mình suy gẫm và tìm cách trả lời.


12- CƯƠNG YẾU KINH ÐỊA TẠNG

Như tất cả chúng ta đều biết, Kinh Ðịa Tạng là một bản Kinh thuộc hệ Phật giáo Bắc phương, tức Phật giáo Ðại thừa, được rất nhiều người tụng niệm. Bản Kinh này có nhiều điểm đặc biệt, và cũng có nhiều chỗ thường bị hiểu lầm, nên đánh mất tinh thần nội dung của Kinh. Vì là một bản Kinh Ðại thừa, nên chúng ta phải hiểu như thế nào, để biết rằng trong văn Kinh chứa đựng nghĩa lý Ðại thừa thật sự, một nghĩa lý rất sâu xa, huyền diệu. Muốn thế, khi đọc Kinh văn, chúng ta không nên chấp vào văn tự, mà phải quán triệt ý nghĩa sâu mầu của Kinh. Như vậy, Kinh mới đem đến lợi lạc cho sự tu hành của chúng ta; bằng không, rất dễ rơi vào “mê tín đại thừa”. Ở đây, trong phạm vi hạn hẹp của bài viết, chúng tôi sẽ cố gắng hết sức, xin được toát yếu lại những điểm quan trọng cần được chú ý của Kinh.

Tựa đề của Kinh Ðịa Tạng cần được giải thích trước tiên là “U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”. Có nghĩa đấng Giáo chủ cõi U minh là Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Thông thường, chúng ta tin có một vị Bồ Tát tên Ðịa Tạng, Ngài cầm trong tay phải một cây tích trượng và tay trái một hạt minh châu. Ngài xuống địa ngục làm Giáo chủ, dùng tích trượng đập phá cửa địa ngục để cứu vớt chúng sanh, nếu chúng sanh chí thành niệm danh hiệu của Ngài. Nhưng liệu chúng ta tin một cách thật thà như vậy có đúng không? Ðó là điều đáng nói.

Chúng ta nên biết, sự sử dụng từ ngữ trong Kinh điển thật hết sức sát nghĩa và rõ ràng: “Bổn” là Bổn tâm. “Tôn” là tôn quý, “Ðịa” là tâm địa, “Tạng” là Như Lai tạng. Như vậy, chỉ có bổn tâm mới làm chủ được cõi u minh, tức làm chủ cõi địa ngục tham-sân-si của chính mình. Ðịa ngục chính là địa ngục tham-sân-si, vì chúng sanh khổ là do tham-sân-si mà khổ. Và khi có tham-sân-si đầy dẫy trong tâm, phiền não dấy khởi, thì cái gì mới phá được cửa địa ngục này? - Dĩ nhiên phải là Bổn Tôn Ðịa Tạng của chính mình vậy. Quan trọng là mình phải nhận ra được Bổn Tôn Ðịa Tạng - nghĩa là Tự tánh Như Lai tàng Tâm địa, cái cực tôn cực quý; hoặc nói gọn như trong Kinh Niết Bàn, nhận lại cái Phật tánh của mình, thì mình mới có thể đập phá được địa ngục tham-sân-si, và cứu giúp chúng sanh muôn loài.

Nếu đọc các Kinh điển Ðại thừa, chúng ta sẽ thấy trong Kinh dùng rất nhiều ngụ ngôn ngụ ý, ám chỉ nghĩa lý sâu xa huyền diệu. Cho nên, khi chúng ta quá chấp nê vào chữ nghĩa, hiểu những hình ảnh lung linh được diễn tả trong đó một cách quá thật thà, thì chúng ta sẽ khó lãnh hội được ý Kinh. Mà không lãnh hội được ý Kinh thì không thể nào hiểu được bản ý của Ðức Phật. Kinh Ðịa Tạng không phải là thật giáo - nghĩa là chỉ thẳng, mà thuộc quyền giáo - nghĩa là quyền biến phương tiện, tức là tạm dùng cái sự tướng lung linh huyền diệu đó để hiển bày cái lý tánh tuyệt đối kia. Khi muốn chỉ một cái thật, nếu dùng lý lẽ diễn đạt một cách chi li, thì dễ làm phát sinh những khái niệm từ thức tâm phân biệt, sẽ khó đi thẳng vào chân lý cứu cánh. Chẳng hạn như Kinh Pháp Hoa, các dụ về Cùng tử, về Tháp Ða Bảo, về Như Lai thọ lượng... Muốn nói lên điều gì? Rõ ràng, các hình ảnh ấy đều nhằm kích thích trực giác hết. Kinh Ðịa Tạng ở đây cũng vậy, mẫu Bồ Tát Ðịa Tạng và cõi U minh được diễn tả cũng chỉ là dùng sự để hiển lý.

Ðức Phật thường được các hàng đệ tử xưng tán là “Như Lai biết nghĩa, biết pháp, biết trình độ, biết thời cơ và biết chúng hội”. Sự thuyết pháp của Phật căn cứ vào ba yếu tố: Thời, xứ và vị - nghĩa là thời gian nói pháp, nơi chốn nói pháp và đối tượng nghe pháp. Vì vậy, Phật không nói pháp nào chỉ có ý nghĩa một chiều. Có khi Ngài nói pháp thấp cho hàng căn cơ kém; có lúc Ngài nói pháp vừa cho hàng trung căn; cũng có khi lại nói pháp cao, rốt ráo cho hàng căn cơ bậc thượng. Cho nên, nhiều khi trong Kinh điển chúng ta thấy có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng kỳ thực, đó là tùy duyên hóa độ. “Nhất thiết tu đa la giáo như tiêu nguyệt chỉ”, tất cả Kinh điển như ngón tay chỉ mặt trăng, chúng ta phải nương ngón tay để thấy mặt trăng, nghĩa là phải nương vào văn tự trong Kinh để hội được chân lý.

Ðối với Kinh Ðịa Tạng, nếu chúng ta hiểu một cách thật thà và mê tín rằng, Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát có hình tướng rõ ràng, và có một cõi địa ngục thật sự, thì chúng ta đã chấp ngón tay là mặt trăng, chúng ta sẽ ỷ lại vào tha lực, tin tưởng vào thần quyền, rồi vô tình bài bác lý nhân quả. Nếu thật sự có một Bồ Tát Ðịa tạng đủ khả năng đập phá cửa địa ngục, thì chúng ta khỏi cần tụng kinh, tọa thiền hay tu bát quan trai, chỉ cần một lòng cầu Bồ Tát Ðịa Tạng, chờ đến lúc chết sẽ có Ngài đến cứu. Như vậy thì, tinh thần ai ăn nấy no - ai uống nấy hết khát có còn gì đâu? Nhân nào quả nấy cũng không có ý nghĩa. Ðức Phật ra đời cũng vô nghĩa luôn. Nhưng thật ra vì sao chúng ta phải nỗ lực tu hành? Nếu chúng ta không cải ác phục thiện, không dứt trừ các nghiệp ác nơi thân - khẩu - ý, thì có vị Bồ Tát nào cứu vớt mình được? Ví dụ trong một lớp học, ông thầy đem hết khả năng để dạy một cách công bằng, nhưng có thể nào thầy làm toàn bộ học trò đều giỏi đồng đều như nhau không? Chủ ý của thầy là dạy hoàn toàn bình đẳng, nhưng kết quả học tập lại tùy thuộc trí thông minh, sự siêng năng cần mẫn, hoàn cảnh gia đình của mỗi học trò. Cũng như thế, chư Phật và chư Bồ Tát không phải hoàn toàn không có tha lực đối với chúng sanh, nhưng tha lực của các Ngài chỉ là sức trợ duyên mà thôi. Ðức Phật ra đời, khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến, nhưng khai thị mà chúng sanh có ngộ nhập được hay không là do ở mỗi chúng sanh. Nếu Phật có thể ban cho chúng sanh cái tri kiến Phật ấy, thì chúng sanh đâu cần tu, và tinh thần “Tự thắp đuốc lên mà đi” hóa ra vô nghĩa. Cho nên, nếu có suy nghĩ một chút, ta sẽ thấy, mọi Kinh điển đều nhằm kích thích trực giác để nhận ra cái Bổn tôn Ðịa Tạng, rồi tự nỗ lực để cứu chính mình ra khỏi sinh tử luân hồi.

Trước khi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt ở rừng Ta La Song Thọ, Ngài đã tuyên bố rất rõ: “ Các ông hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp”. Nếu chúng ta không tự thắp đuốc lên mà đi, cứ trông cầu nơi Phật - Bồ Tát, thì chúng ta đã rơi vào thần quyền mất rồi! Ðức Phật đã trở thành một vị thần linh rồi! Và nếu chúng ta thần thánh hóa các Ngài, các Ngài sẽ bị giảm giá trị; giáo lý của Ðức Phật cũng bị đánh mất tính thực tiễn, tính khoa học và tính nhân bản, là nền tảng giá trị và đạo đức muôn đời của đạo Phật. Cho nên, sự học Phật của chúng ta, mỗi mỗi phải y cứ vào tinh thần “tự mình thắp đuốc”, vốn là kim chỉ nam cho mỗi người con Phật, dù là xuất gia hay tại gia. Chúng ta cần biết rằng, khi luận đến nghĩa lý sâu xa của Kinh điển Ðại Thừa, thì khi nói đến chúng sanh, là phải hiểu là chúng sanh tâm, bởi vì ngoài tâm không có chúng sanh. Kinh Hoa Nghiêm có nói, tâm như người thợ vẽ, vẽ ra mỗi ngũ uẩn của chúng ta. Mỗi thân ngũ uẩn được tác tạo do vọng tâm, nói cách khác là do nghiệp lực. Như vậy, nói đến chúng sanh chánh báo, đó là chúng sanh tâm, còn hoàn cảnh y báo cũng không ngoài tâm mà có. Ở đây cũng vậy, chúng ta phải luôn luôn quay trở về bản tâm của chính mình thì mới hiểu được ý Kinh. Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham - sân - si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Ðịa Tạng của chính mình. Nếu chúng sanh là chúng sanh tâm, thì Phật cũng là Phật tâm, ngoài tâm không có Phật; nếu địa ngục là địa ngục tự tâm, thì Ðịa Tạng tất nhiên cũng là Ðịa Tạng tự tâm vậy. Cho nên, có thể nói, không thể nào lìa tâm để tu hành, không thể nào lìa tâm mà giải thoát. Ðây là điều chúng ta phải hết sức lưu ý. Chúng ta tu là tu tâm của chúng ta, nếu thanh tịnh cũng là thanh tịnh cái tâm; khi giác ngộ là giác ngộ tự tâm, cho đến lúc thành đạo cũng là thành tựu lại cái bản tâm ấy. Ngoài tâm sẽ không có cái gì cả. Ðó là chỗ y cứ của tất cả Kinh điển Ðại Thừa.

Sau đây, chúng ta hãy đọc nguyên văn chữ Hán bài tựa xưng tán Bổn Tôn Ðịa Tạng:

“Chí tâm quy mạng lễ:

U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn,

Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.

Khể thủ từ bi Ðại Giáo Chủ,

Ðịa ngôn: Kiên, hậu, quảng, hàm tàng.

Nam phương thế giới dõng hương vân,

Hương vũ, hoa vân, cập hoa vũ,

Bảo vũ, bảo vân, vô số chủng,

Vi tường, vi thụy, biến trang nghiêm,

Thiên nhân vấn Phật: thị hà nhân?

Phật ngôn: Ðịa Tạng Bồ Tát chí!

Tam thế Như Lai đồng tán ngưỡng,

Thập phương Bồ Tát cộng quy y.

Ngã kim túc thực thiện nhân duyên,

Tán dương Ðịa Tạng chân công đức:

Từ nhơn tích thiện, thệ cứu chúng sinh.

Thủ trung kim tích chấn khai địa ngục chi môn,

Chưởng thượng minh châu quang nhiếp đại thiên chi giới.

Diêm Vương điện thượng, nghiệp kính đài tiền.

Vị Nam Diêm Phù Ðề chúng sinh,

Tác đại chứng minh công đức chủ.

Ðại bi, Ðại nguyện, Ðại thánh, Ðại từ

Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”.

Tạm dịch:

“Dốc lòng cung kính lễ:

Giáo chủ cõi U minh,

Là Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.

Cúi đầu kính lễ Ðấng Giáo Chủ đại từ bi,

Giống như đất bền chắc, sâu dày, rộng chứa khắp.

Thế giới phương Nam bủa mây hương,

Mưa hương, mây hoa và mưa hoa,

Mưa báu, mây báu nhiều vô số,

Ứng hiện điềm lành khắp trang nghiêm.

Trời người hỏi Phật: là nhân gì?

Phật bảo: Ðịa Tạng Bồ Tát đến!

Ba đời Như Lai đều kính ngưỡng,

Mười phương Bồ Tát trọn quy y.

Nay con đầy đủ nhân duyên lành,

Tán dương công đức chân thật của Ðịa Tạng:

Ngài là hiện thân của từ bi, của mọi điều lành,

Ngài thệ cứu độ tất cả chúng sanh.

Tích trượng cầm trong tay mở toang cửa địa ngục,

Trên tay có hạt minh châu lóng lánh ánh sáng soi khắp đại thiên thế giới.

Ngài chính là Diêm Vương trên điện,

Ngài chính là gương nghiệp trước đài.

Vì chúng sinh cõi Nam Diêm Phù Ðề,

Bậc Giáo Chủ chứng minh mọi công đức.

Nay thành tâm kính lễ,

Ðại bi, Ðại nguyện, Ðại thánh, Ðại từ

Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”.

Nếu khéo hiểu, chúng ta sẽ thấy đây là một bài tự quy y, vì là trở về với tự tánh Ðịa Tạng của chính mình. Thông thường, nếu hiểu theo sự tướng, thì quy y Phật là trở về nương tựa nơi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, quy y Pháp tức quy y giáo pháp của Ngài, và quy y Tăng nghĩa là quy y những Tăng sĩ tu hành thanh tịnh. Nhưng nếu hiểu theo tinh thần Lục Tổ Huệ Năng, hoặc các Kinh điển Ðại Thừa, thì quy y Tam Bảo tức là Tam Bảo tự tâm: Phật là tánh giác của chính mình, Pháp là chánh kiến sẵn đủ nơi tự tâm, Tăng chính là bản tâm thanh tịnh (Phật là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh). Hiểu như thế mới trọn vẹn cả sự và lý, chứ nếu chỗ quy hướng lại ở bên ngoài, đó chính là ngoài tâm cầu Phật - tức là ngoại đạo. Bởi Phật là Phật tâm, mà trở về với tự tánh Ðịa Tạng là một sự quy y lớn. Chính vì sự quy y này mà cả ba đời Như Lai đồng kính ngưỡng, và mười phương Bồ Tát mới trọn về nương tựa. Chúng ta sẽ khảo sát điều này kỹ hơn khi đọc đến đó.

Trở lại từ đầu: Chúng ta nên biết, bài tựa xưng tán Bổn Tôn Ðịa Tạng chính là cương lĩnh, là kim chỉ nam, là tổng quan của toàn bộ bản Kinh. Cho nên, nếu hiểu rõ được bài tựa này, ta sẽ hiểu được toàn bộ bản Kinh không khó.

“Dốc lòng cung kính lễ

Giáo Chủ cõi U minh

Là Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ Tát Ma ha Tát”.

Cung kính lễ mà dốc lòng, có nghĩa là toàn tâm toàn trí cung kính lễ. Giáo chủ cõi U minh tức là bản tâm thanh tịnh của chính mình. Như vậy, đây là một sự quy y trở về Bổn Tôn Ðịa Tạng của chính mình.

“Cúi đầu kính lễ Ðấng Giáo Chủ đại từ bi,

Giống như đất bền chắc, sâu dày, rộng chứa khắp”.

Ðất ở đây có nghĩa là đất tâm. Ðất tâm rất kiên cố, không có gì công phá được, hũy diệt được. Tâm địa kiên cố là đức tính thứ nhất của Bổn Tôn Ðịa Tạng. Ðức tính thứ hai là sâu dày. Chúng ta thấy, biển sâu cách mấy cũng có thể dò được, nhưng làm sao dò được tâm? Tâm không có hình tướng, kích thước, rút lại thì trên đầu mũi kim, bủa ra thì trùm khắp pháp giới; cho nên gọi là sâu dày. Ðức tính thứ ba là rộng chứa khắp. Phật dạy: Bổn tâm của mỗi chúng sanh thật bao la không ngằn mé, nếu đem hư không so với bổn tâm, cũng như hòn bọt ví cùng biển cả.

Chúng ta dám nhận mình có Bổn Tôn Ðịa Tạng không? Nếu chúng ta không dám nhận, thì như Kinh Pháp Hoa nói, chúng ta là những cùng tử xin ăn đầu đường góc chợ, con của trưởng giả mà cứ chịu lang thang. Lẽ ra, biết rõ cha mình rất giàu có, vàng bạc kho lẫm dẫy đầy, chúng ta phải trở về thọ hưởng gia tài của cha. Cũng như thế, chúng ta có cái Bổn Tôn Ðịa Tạng kiên cố, sâu dày, rộng chứa khắp, mà lại cô phụ cái tánh linh của chính mình, rồi trôi giạt trong sáu đường ba cõi. Ðó là cái bi kịch của kiếp người.

Tiếp theo, khi tán dương đúng mức công đức của Bổn Tôn Ðịa Tạng rồi, thì bắt đầu những hình ảnh lung linh huyền diệu:

“Thế giới phương Nam bủa mây hương,

Mưa hương, mây hoa và mưa hoa,

Mưa báu, mây báu nhiều vô số,

Ứng hiện điềm lành khắp trang nghiêm”.

Phương Nam là cõi Nam Thiệm Bộ Châu, tức cõi Diêm Phù Ðề này. Thế giới lúc này không những có mây hương mà còn có mưa hương, mây hoa, mưa hoa và cả mưa báu, mây báu nhiều vô số nữa. Chúng ta có tin rằng, trong cõi ta bà này mà có mây hương mây hoa không? Nếu chúng ta tin rằng trong đãy da hôi thối này có hòn ngọc như ý, trong lò lửa vô thường này có hoa sen nở, thì sẽ tin có những điềm lành ấy ứng hiện. Nói theo tinh thần Kinh Hoa Nghiêm, khi nhận được bổn tâm, liền tức khắc tất cả các pháp đều trở thành những phẩm vật trang nghiêm. Có nghĩa là, khi một người nhận ra bổn tâm của chính mình, tức khắc tất cả pháp đều trở thành thị giả cho vị ấy. Bởi vì “Tất cả pháp đều từ tâm sanh”. Mê thì tất cả toàn mê, khi giác thì “Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp”, tất cả pháp đều là pháp Phật, cõi Ta bà liền tức khắc trở thành Tịnh độ.

“Trời người hỏi Phật: Là nhân gì?

Phật bảo: Ðịa Tạng Bồ Tát đến”.

Khi thấy ứng hiện những điềm lành, trời người trong chúng hội đã hỏi Phật, đó là nhân duyên gì? Phật trả lời, Bồ Tát Ðịa Tạng đến. Nếu hiểu theo sự, chúng ta tưởng có một vị Bồ Tát Ðịa Tạng, tay cầm tích trượng và ngọc minh châu đi đến. Nhưng nếu theo lý, phải hiểu rằng Bổn Tôn Ðịa Tạng xuất hiện nguyên hình, cái nguyên hình mà từ vô thủy đến vô chung chúng ta đều có mà lại quên đi. Ðó là cái tâm thanh tịnh, cái tâm giác ngộ ứng hiện ra bên ngoài thành cái thấy-nghe-hay-biết của chúng ta. Nếu nhìn các pháp mà chúng ta không có một chút vọng tưởng điên đảo nào hết, thì Bồ Tát Ðịa Tạng hiện tiền, các pháp đều trở thành vi diệu. Nếu nói theo tinh thần Kinh Pháp Hoa, là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến; còn theo Kinh Ðịa Tạng, đó là khai thị cho chúng sanh nhận ra cái Bổn Tôn Ðịa Tạng của chính mình. Ðây là mục đích duy nhất của chư Phật khi xuất hiện ở đời.

Nều hiểu được nghĩa lý thâm sâu của sự kiện Bồ Tát Ðịa Tạng xuất hiện, chúng ta sẽ sáng tỏ được hai câu kế tiếp:

“Ba đời Như Lai đều kính ngưỡng,

Mười phương Bồ Tát trọn quy y”.

Hiểu theo sự, chúng ta sẽ thấy vô lý. Phật làm sao kính ngưỡng Bồ Tát là có trình độ giác ngộ, trình độ tâm linh kém hơn? Cho nên, chúng ta phải hiểu theo nghĩa lý thâm sâu của nó. Kinh Bát Nhã đã nói: Bát Nhã là mẹ chư Phật mười phương ba đời, Bát Nhã là chánh nhơn tu hành của Bồ Tát, là nguồn cội của tất cả mọi sinh linh hữu tình. Nếu hiểu Bát Nhã như vậy, mới hiểu được vì sao Ðịa Tạng lại được ba đời Như Lai kính ngưỡng. Ðịa Tạng Bồ Tát ở đây là bản tâm của chính mình mà bản tâm thì ở chư Phật, Bồ Tát đều bình đẳng như nhau. Phật-Phật đồng đẳng ở bản tâm, Phật ngộ là ngộ tâm, chứng là chứng tâm. Ðã ngộ tâm chứng tâm, thì chư Phật kính ngưỡng bản tâm là điều hợp lý.

“Nay con đầy đủ nhân duyên lành,

Tán dương công đức chân thật của Ðịa Tạng”.

Tán dương mà hiểu được Ðịa Tạng là bản tâm thanh tịnh của chính mình, thì mới là tán dương chân thật, mới gọi là đầy đủ nhân duyên lành.

“Ngài là hiện thân của Từ bi, của mọi điều lành,

Ngài thệ cứu độ tất cả chúng sanh”.

Từ bi có ở ngoài tâm không? - Từ bi là ở nơi tâm, là dụng của tâm, nên nói Ngài là hiện thân của từ bi. Làm tất cả mọi điều lành, tạo bao nhiêu công đức cũng không ngoài tâm để tạo, nên nói Ngài là hiện thân của mọi điều lành. Và theo lời nguyện của Ngài, “Ðịa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề”. Khi độ sạch hết chúng sanh tâm vào vô dư Niết bàn, theo tinh thần Kinh Kim Cang, thì mới triệt chứng Bồ đề. Nếu còn một chúng sanh tâm, nghĩa là địa ngục chưa hoàn toàn trống, thì chưa thành Phật được.

Bây giờ nói đến biểu tướng của Ngài Ðịa Tạng:

“Tích trượng cầm trong tay mở toang cửa địa ngục,

Trên tay có hạt minh châu lóng lánh ánh sáng soi khắp đại thiên thế giới”.

Ðây lại là một hình ảnh lung linh huyền diệu nữa. Chúng ta thấy, tích trượng của Ngài có bốn cái vòng, đó là tượng trưng cho Tứ đế; có mười hai khuy, tượng trưng cho mười hai nhân duyên. Ngài cầm tích trượng trong tay có nghĩa là quán triệt được Tứ đế và Thập nhị nhân duyên. Tích trượng cũng tượng trưng cho ý chí kiên cường, khi có đủ ý chí đại hùng đại lực, mới mở toang được cánh cửa địa ngục tham-sân-si của tự tâm. Hạt minh châu lóng lánh tức là hòn ngọc như ý, tượng trưng bản tâm thanh tịnh; có ánh sáng soi khắp đại thiên thế giới, nghĩa là tính thường chiếu của tâm, soi sáng cùng khắp. Do đó, khi tỏ được lý Tứ đế và Thập nhị nhân duyên, rồi nhận ra bản tâm thanh tịnh, thì đủ sức phá tan địa ngục tham-sân-si trong tự tâm, đạt đến cứu cánh giải thoát.

“Ngài chính là Diêm Vương trên điện”.

Diêm Vương là vị vua xử tội chúng sanh ở âm phủ,tại sao Bồ Tát Ðịa Tạng lại là Diêm Vương? Nếu ai làm việc phạm pháp hay tạo tội ác, dù đôi khi giấu được mọi người, trốn tránh được pháp luật, nhưng không thể giấu được tòa án lương tâm của mình. Như vậy, chính lương tâm, lương tri tức Bồ Tát Ðịa Tạng là Diêm Vương xử tội cho chính mình. Mình vừa khởi một niệm ác, niệm ấy liền in vào A-lại-da thức, thành nghiệp ác.

“Ngài chính là gương nghiệp trước đài”

Nghiệp giống như gương soi, Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán. Khi bản tâm thanh tịnh, các pháp hiện bày thể tánh; khi còn vô minh nghiệp in vào A-lại-da thức như vật hiện trong gương, lưu ảnh trước đài. Như vậy, tạo tội là do mình, tạo phước cũng do mình, chúng ta từ đây trở đi có dám tạo tội nữa không? Bởi chính mình vừa là gương nghiệp, vừa là Diêm vương, thì trốn đâu cho khỏi? Sự tu hành rất là sòng phẳng, có phải vậy không?

“Vì chúng sinh cõi Nam Diêm Phù Ðề,

Bậc Giáo Chủ chứng minh mọi công đức”.

Tự tâm của mình sẽ chứng minh mọi công đức cho mình. Chúng ta thấy, chính tâm là nguồn cội của mọi công đức, mà cũng là gốc rễ của tội lỗi; chính tâm là căn bản của giải thoát sinh tử, mà cũng là gốc của luân hồi. “Công vi thủ, tội vi khôi” là như thế.

“Nay thành tâm kính lễ

Ðại bi, Ðại nguyện, Ðại thánh, Ðại từ.

Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”.

Xin nhắc lại, Bồ tát Ðịa Tạng nếu nói về lý, là một nhân vật tượng trưng, ngầm chỉ cái cực tôn quý sẵn có nơi mỗi chúng ta. Cho nên, khi đến chùa đảnh lễ Bồ Tát Ðịa Tạng, nên nhớ đến Ðịa Tạng tự tánh của chính mình. Chỉ có Ðịa Tạng này mới đủ năng lực phá đổ tường thành vô minh và cứu vớt mình khỏi địa ngục tham-sân-si tối tăm. Cái gọi là thiên đường không có ở ngoài tâm, địa ngục cũng không ngoài tâm mà có. Tâm như người thợ vẽ, tạo hoàn cảnh chánh báo và y báo của mỗi chúng sinh, tạo nên tất cả sự vật trên thế gian, tạo cả sáu đường ba cõi. Cho nên, người ngộ được tâm và sống viên mãn với tâm, người đó được gọi là Phật. Phật là giác, nghĩa là giác cái tâm sẵn đủ ở mình; chúng sanh si mê nên thọ khổ, cũng là thọ khổ nơi tự tâm; Bồ Tát Ðịa Tạng cứu độ chúng sanh cũng phải là chúng sanh tâm. Ðức Phật thuyết Kinh lúc nào cũng có sự và lý, sự dùng những hình ảnh để làm phương tiện, lý nhằm hiển bày cái chân lý cứu cánh kia. Có nhiều người đọc Kinh điển Ðại Thừa, lại chấp vào sự mà không hiểu lý, nên dễ rơi vào “mê tín Ðại Thừa”. Vì vậy, chúng ta phải khéo tư duy, khéo thâm nhập, mới thấy cái thú vị của Kinh. Nếu không, sẽ thấy Kinh có vẻ lạc lõng, không hợp với thời đại khoa học hiện giờ. Thực ra, cảnh giới của một người đã giác ngộ rất khác với người thường: tất cả sự vật tầm thường đều đứng lên diễn bày Phật pháp - như Kinh Di Ðà đã nói, tiếng suối reo, tiếng chim hót đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Tất cả pháp luôn luôn mời gọi, nhưng vì chúng ta không lắng tâm lại để nghe, mãi chạy theo những vọng tưởng lăng xăng điên đảo, nên không biết rằng tất cả tiếng đều là tiếng Phật. Trên mặt đất hiện thực của cuộc đời này, nếu tâm ta thanh tịnh, ta sẽ thấy nơi nào cũng có bảy báu, nước nào cũng là nước tám công đức, ở đâu cũng là cõi cực lạc.

Tất cả pháp đều hướng từ nơi tâm, tất cả cảnh giới đều do tâm lượng mà biến hiện. Ví dụ, chỉ là một dòng sông, nhưng đối với loài người thì đó là nước để sử dụng; đối với loài cá, là thế giới cho chúng bơi lội sinh sống, là không khí cho chúng thở; đối với loài ngạ quỷ, lại thấy đó toàn là máu; còn đối với Chư Thiên, thì do phước nghiệp nên các vị thấy là lưu ly pha lê trong suốt. Như vậy, dòng sông đã lên tiếng tùy tâm lượng của mỗi chúng sanh. Cho nên, cõi Tịnh độ hay thế giới Ta bà cũng ở tại đây, thiên đường hay địa ngục cũng tại đây hết.

Trong sự học Phật, nếu hiểu được Kinh điển theo tinh thần lý sự viên dung như thế, ta sẽ cảm thấy rất tự tin, không sống theo sự mong cầu và ỷ lại vào tha lực. Tự nhiên sẽ hợp với lý nhân quả, với lời Phật dạy: “Tự thắp đuốc lên mà đi!”. Không ai có thể ăn uống giùm, sống giùm cho ai. Nếu tự do tạo nghiệp ác rồi cầu nguyện Bồ Tát Ðịa Tạng, tin rằng Bồ Tát có thể cứu mình, thì ý nghĩ đó hết sức sai lầm và tai hại, đó hoàn toàn không có chánh kiến và chánh tín.

Ở đây, chúng ta cũng cần nhận định cho rõ: Ðịa ngục không phải hoàn toàn không có. Ðịa ngục là địa ngục tự tâm, nhưng đó cũng là cảnh giới do nghiệp cảm đồng phận của chúng sanh. Nghiệp ác giống nhau sẽ chiêu cảm một cảnh giới như nhau. Ví dụ, Phật - Bồ Tát thấy cõi người là cảnh huyễn mộng, không thật; nhưng chúng ta vẫn thấy đây là thật, do nghiệp người của tất cả chúng ta, chưa giải thoát được sinh tử. Tương tự, cảnh giới địa ngục không có thật đối với các bậc giác ngộ, nhưng vẫn là thật đối với những chúng sanh tạo tội. Ở thế gian cũng thế, những người cùng một nghiệp thường có khuynh hướng cùng tụ tập với nhau ở một môi trường, một cảnh quan tương ứng. Kẻ trộm cướp vào tù, những người ham tu cùng nhau đến chùa tụng Kinh, nghe pháp.

Tóm lại, địa ngục nghĩa là tham-sân-si phiền não của chúng sanh. Ðịa ngục cũng chính là cảnh giới của ba nghiệp ác từ thân-khẩu-ý phát sinh ra. Ðịa ngục là sự tối tăm ám chướng, là sự mê muội trong tâm thức của mỗi người. Ðó chính là địa ngục tự tâm. Phật nói Kinh Ðịa Tạng là cốt cảnh tỉnh tất cả chúng ta dẹp bỏ tham - sân - si nơi tự tâm, tu tập ba nghiệp lành nơi tự tâm, rồi dứt nghiệp cũng nơi tự tâm và giải trừ vô minh tối tăm cũng nơi tự tâm. Cuối cùng trở về với tự tánh Bổn Tôn Ðịa Tạng của chính mình. Ðó là cương lĩnh toàn bộ Kinh Ðịa Tạng.

Về phần chính văn trong bản Kinh, đề nghị chúng ta đọc kỹ và hiểu theo nghĩa lý sâu mầu của Kinh. Rồi sẽ thấy Kinh nói chuyện với mình nhiều điều hết sức mới mẻ, mầu nhiệm. Khi hiểu rõ ý Kinh, sự trì tụng mới có đầy đủ ý nghĩa, đời tu của chúng ta mới đúng theo quỹ đạo tu hành; nếu không, chúng ta có thể rơi vào đường tà, vào mê tín, thì uổng một đời làm đệ tử của Phật. Chúng ta là đệ tử Phật, tắm mình trong ánh hào quang của Phật, hào quang ấy là trí tuệ Phật tâm sẵn đủ của chính mình. Chúng ta phải nương theo hào quang ấy, khai phát ra, để trí huệ ngày càng sáng suốt, tham - sân - si ngày càng thưa mỏng, nghiệp chướng ngày càng tiêu trừ, những vọng tưởng điên đảo ngày càng giảm thiểu. Lúc ấy, Bồ Tát Ðịa Tạng sẽ xuất hiện, cửa địa ngục tham - sân - si sẽ bị phá đổ. Mong rằng tất cả những người hữu duyên đều được lợi ích, và hãy y cứ vào đó tu hành, từ đây cho đến ngày viên mãn.

(*) Vassa: mưa, mùa mưa; Vàsa: sự cư ngụ

(*) Vi khuẩn ký sinh ở miệng, họng giúp chống sự xâm nhập của các vi trùng gây bệnh. Vi khuẩn trong ruột giúp cho sự tiêu hóa và bài tiết.

(*) Trích quyển “Họ đã nghĩ như thế”. Dịch giả Giác-Nguyên. 1997:344