Kinh Đại Thừa Nhập Lăng Già

Kinh Lăng Già là bộ kinh có tầm quan trọng của Phật Giáo Đại Thừa, vì chứa đựng những học thuyết về Duy Tâm, Như Lai Tạng, A Lại Da Thức, và cả văn học Phật Giáo Thiền. Nghĩa lý kinh văn rất thâm sâu vi diệu, khó hiểu. Khó ở chổ có nhiều cách để hiểu hoàn toàn về ý nghĩa, và cả hoàn cảnh lịch sử của nó.

Yếu chỉ kinh Lăng Già là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của các tôn giáo khác, và chỉ rõ cảnh giới chứng ngộ của người tu Phật.

KINH ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG GIÀ

THÍCH NỮ TRÍ HẢI DỊCH

Phụng dich theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy , Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki . THÍCH NỮ TRÍ HẢI 1969. TÁI HIỆU CHÍNH 1997

(Chánh Tân Tu Đại Tạng, tập 16, Kinh Tập Bộ, số hiệu 0672, 7 quyển, Đại Thừa Nhập Lăng Già Kính, Đường Thật-xoa-nan-đà dịch. Xin chân thành tri ân Phật tử Phật Học Viện Quốc Tế đã gởi tặng phiên bản điện tử. Chúng tôi không có bản tiếng Việt vì vậy chưa dò với nguyên bản. Theo lời của những người gởi tặng bản điện tử này đã được dò với bản gốc. bttdtkvn)

Trung tâm nhập thất  Chùa Tịnh Luật Ấn Hành PL. 2546

31155 Bunting Rd. Waller TX 77484

MỤC LỤC

LỜI TỰA

QUYỂN MỘT

       CHƯƠNG I -   VUA LĂNG GIÀ THƯA HỎI

       CHƯƠNG II-   THỰC HÀNH TẤT CẢ PHÁP

QUYỂN HAI

       THỰC HÀNH TẤT CẢ PHÁP

QUYỂN BA

       TU TẬP HẾT THẢY PHÁP

QUYỂN BỐN

       VÔ THƯỜNG

       (ANITYATÌPARIVATRO MÀMATTRÌYAH)

QUYỂN NĂM

       VÔ THƯỜNG

HIỆN CHỨNG

NHƯ LAI THƯỜNG HAY VÔ THƯỜNG

SÁT NA PHẨM

QUYỂN SÁU

       PHẨM BIẾN HÓA

       CẤM ĂN THỊT

       ĐÀ LA NI

       KỆ TỤNG I

QUYỂN BẢY

       KỆ TỤNG II

LỜI TỰA

Kinh Lăng Già là bộ kinh có tầm quan trọng của Phật Giáo Đại Thừa, vì chứa đựng những học thuyết về Duy Tâm, Như Lai Tạng, A Lại Da Thức, và cả văn học Phật Giáo Thiền. Nghĩa lý kinh văn rất thâm sâu vi diệu, khó hiểu. Khó ở chổ có nhiều cách để hiểu hoàn toàn về ý nghĩa, và cả hoàn cảnh lịch sử của nó.

Yếu chỉ kinh Lăng Già là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của các tôn giáo khác, và chỉ rõ cảnh giới chứng ngộ của người tu Phật.

Kinh Lăng Già có ba bản dịch từ phạn văn (Sanskrit) sang Hán văn: Tống dịch, Ngụy dịch, và Đường dịch. Bản đang phổ biến và thịnh hành nhất hiện nay là Tống dịch do ngài Tam Tạng Sa Môn Cầu Na Bạt Đà La (người Thiên Trúc) dịch.

Phần Việt dịch hiện có những bản :

Sư Bà Diệu Không dịch bản sớ giải của ngài Hàm Thị (1970).

H.T. Thích Thanh Từ dịch bản sớ giải của ngài Hàm Thị (1975).

Đ.Đ. Thích Chơn Thiện dịch từ nguyên tác Anh ngữ của ngài Daisetz Teitaro Suzuki (1992).

H.T. Thích Duy Lực dịch bản của ngài Tam Tạng Sa Môn Cầu Bạt Đà La (1994).

Nay chúng tôi có thiện duyên nhận được bản Kinh Lăng Già của Ni Sư Trí Hải phụng dịch theo bản Đường dịch của ngài Thật Xoa Nan Đà, cùng tham khảo các bản Ngụy, Tống dịch và bản Anh ngữ của ngài Suzuki (1969).

Dịch giả Ni Sư Trí Hải với nhiều kinh nghiệm dịch thuật, và nhiều năm nghiên cứu kinh tạng. Riêng tôi đọc những bản dịch, nhận thấy bản của Ni Sư Trí Hải dễ hiểu nhất trong những bản kể trên. Lời văn giản dị, trong sáng, ít dùng hán văn. Hy vọng đọc giả khai thông khi đọc dịch phẩm giá trị này.

Tôi xin nhất tâm và tha thiết giới thiệu cùng quí thiện tín. Mong rằng quí vị y kinh này ngộ được thật tướng của các pháp, và thẳng đến quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Cuối cùng xin hồi hướng công đức ấn tống kinh này đến tất cả quí phật tử đã phát tâm cúng dường. Nguyện hồng ân Tam Bảo gia hộ cho kẻ còn người mất, tất cả pháp giới chúng sanh sớm thành phật đạo.

Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát.

Xuân Mậu Dần 1998.

Tỳ Kheo Thích Tịnh Trí.

QUYỂN MỘT

 CHƯƠNG I

VUA LĂNG GIÀ THƯA HỎI

Như  vậy tôi nghe, vào thời gian Phật cùng chúng đại tỳ kheo và đại Bồ Tát ở trong thành Lăng Già trên đỉnh núi Ma La Dà bên biển lớn. Các vị này đều đã thông đạt năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã, hiểu rõ nghĩa cảnh giới do tự tâm hiện, dạo chơi trong vô số tam muội, tự tại, mười lực và sáu thần thông. Tuy hiện đủ loại hình và phương tiện để điều phục chúng sanh, kỳ thực các Ngài xuất thân từ các cõi Phật, được chư Phật lấy nước cam lộ rưới đầu. Bồ Tát Đại Huệ là bậc thượng thủ.

Bấy giờ đức Thế Tôn thuyết pháp trong cung vua rồng biển đã quá bảy ngày. Ngài từ trong biển lớn đi ra, có vô lượng trời rồng, Phạm Vương, Đế Thích – những vị hộ trì thế gian cung đón. Đức Như Lai đưa mắt nhìn thành Lăng Già trên đỉnh Ma La Dà sơn, mỉm cười nói : “ Các bậc Ứng chính  đẳng giác ngày xưa cũng đều ở trong thành này diển nói pháp mà thánh trí đã chứng. Đó không phải cảnh giới ngoại đạo có thể suy lường, không phải cảnh giới của Thanh Văn Duyên Giác. Nay Như Lai cũng khai thị pháp này cho La Bà Vương (Ràvana).”  Khi ấy La Bà Na, vua loài Dạ Xoa, nhờ thần lực Phật, nghe được âm thanh lời ngài, từ xa biết Như Lai đã ra khỏi cung vua Rồng biển, có các vị hộ thế trời, rồng, Phạm Vương, Đế Thích vây quanh. Nhìn sóng biển, Như Lai quán sát A Lại Gia thức của chúng sanh không khác gì biển lớn bị gió hoàn cảnh thổi động, làm cho sóng thức nổi dậy. La Bà Na lòng vui mừng nói : “ Ta hãy đến thỉnh đức Như Lai vào thành Lăng Già, để ta cùng các loài trời, người trong đêm tối dài được lợi ích lớn.”  Nói xong cùng quyến thuộc đi xe hoa đến chổ Phật, đến nơi xuống xe nhiễu quanh Phật ba vòng, trỗi các thứ âm nhạc để cúng dường Như Lai. Các nhạc khí đều nạm ngọc nhân đà la màu xanh, ngọc lưu ly ..., được bọc trong các thượng y vô giá. Âm thanh vi diệu mỹ lệ, tiết điệu hòa nhịp theo lời kệ ca ngợi Phật :

Tâm Phật là kho tàng chân lý

Vô ngã, lìa kiến chấp nhiễm ô

Nguyện Phật vì chúng con diễn nói

Chỗ sở tri thánh trí đã tường

Báo thân do thiện pháp tích thành

Trí giác ngộ nên thường an lạc

Ngưỡng mong đấng Biến Hóa Tự Tại

Vào thành Lăng Già diễn pháp sâu

Chư Phật cùng Bồ Tát xưa lâu

Cũng từng ở thành này nói pháp

Chúng con loài dạ xoa hết thảy

Nguyện một lòng nghe Pháp cao sâu.

 

La Bà Na, chúa tể thành Lăng Già, sau khi đã ca bài tán Phật theo âm điệu Đô Ta Ka (Totaka), còn hát bài tụng như sau :

 

Thế Tôn trong bảy ngày

Ở trong biển Ma Kiệt

Sau ra khỏi Long cung

Ung dung lên bờ này

Con và các thể nữ

Cùng quyến thuộc dạ xoa

Thân dà, Xa Thích Na

Cùng các vị thông tuệ

Đều sẽ dùng thần lực

Mà đến chỗ Như Lai

Lần lượt xuống xe báu

Lễ kính đức Thế Tôn

Lại nhờ uy thần Phật

Trước Phật xưng tên mình:

Con là vua La Sát

La Bà Na mười đầu

Nay đi đến chỗ Phật

Xin Phật thâu nhận con

Và tất cả chúng sanh

Ở trong thành Lăng Già

Vô lượng Phật quá khứ

Đều lên đỉnh núi báu

Trong thành Lăng Già này

Mà nói pháp sở chứng

Thế Tôn cũng nên vậy

Ở núi báu trang nghiêm

Chúng Bồ Tát vây quanh

Xin nói pháp thanh tịnh

Chúng con nhân ngày nay

Cùng chúng ở Lăng Già

Một lòng cung kính nghe

Pháp tự chứng ly ngôn

Con nhớ đời quá khứ

Vô Lượng các đức Phật

Có Bồ Tát nhiễu quanh

Cũng nói kinh Lăng Già

Kinh nhập Lăng Già này

Phật xưa đều khen ngợi

Nguyện Phật nay cũng thế

Vì chúng sinh khai diễn

Xin Phật vì xót thương

Vô lượng chúng Dạ Xoa

Hãy vào thành nghiêm báu

Nói pháp môn vi diệu

Thành Lăng Già đẹp này

Trang hoàng bằng châu báu

Vách không bằng đất, đá

Lưới giăng bằng trân bảo

Các chúng Dạ Xoa đây

Xưa từng cúng dường Phật

Tu hành lìa các lỗi

Thường rõ chỗ chứng tri

Các dạ xoa nam nữ

Khao khát pháp đại thừa

Tự tin theo Pháp ấy

Và thích khiến người tin

Nguyện xin đấng Vô Thượng

Vì các chúng La Sát

Và quyến thuộc Lung Nhĩ

Mà đến nơi thành này

Con từ xưa đến nay

Siêng cúng dường chư Phật

Nguyện nghe pháp tự chứng

Đạo đại thừa cứu cánh

Xin Phật thương xót con

Và các chúng Dạ Xoa

Cùng các hàng con Phật

Mà vào trong thành này

Đây cung điện thể nữ

Và các chuỗi anh lạc

Vườn vô ưu khả ái

Xin Phật thương nạp thọ

Để phụng Phật, Bồ Tát

Không gì con không xả

Ngay cả đến thân này

Xin Phật thương nạp thọ.

 

Đức Thế Tôn nghe lời trên, liền dạy : “ Này Dạ Xoa vương, các đấng đại đạo sư đời quá khứ đều thương xót ngươi, nhận lời thỉnh cầu của ngươi mà đến núi báu này, nói pháp tự chứng. Chư Phật đời vị lai cũng thế. Đây là chỗ ở của những bậc tu thiền quán sâu xa đã biến hiện ra pháp lạc. Ta và các Bồ Tát vì thương xót sẽ nhận lời cầu thỉnh của ngươi.” Nói xong, Phật ngồi im lặng. Vua La Bà Na liền đem xe kết hoa đẹp của mình để cúng Phật. Phật ngồi lên xe, vua và các Bồ Tát tuần tự theo sau. Có vô lượng thể nữ ca hát tán thán để đón mừng Phật vào thành. Sau khi vào thành, vua La Bà Na cùng quyến thuộc lại dùng các thứ vi diệu để cúng dường. Đồng nam đồng nữ trong chúng Dạ Xoa lấy lưới báu cúng dường Phật, vua La Bà Na cúng Phật và Bồ Tát các chuỗi anh lạc đeo cổ. Sau khi nhận các phẩm vật cúng dường, chư vị Bồ Tát lần lượt nói cảnh giới cao thâm mà các ngài đã thân chứng. La Bà Na vương và quyến thuộc lại cúng dường Bồ Tát Đại Huệ và khuyến thỉnh như sau :

Tôi và các đại sĩ

Muốn hỏi đức Thế Tôn

Các cảnh giới tự chứng

Của tất cả Như Lai

Tôi cùng chúng Dạ Xoa

Và các Bồ Tát này

Một lòng nguyện xin nghe

Nên đồng thanh khuyến thỉnh

Ngài là bậc tối thắng

Trong các bậc tu hành

Và thuyết pháp lợi sinh

Tôi một lòng cung kỉnh

Xin ngài vì chúng tôi

Mà thỉnh vấn Như Lai

Pháp tự chứng thanh tịnh

Cứu cánh vào Phật địa

Lìa tất cả lầm lỗi

Của ngoại đạo, nhị thừa.

 

Bấy giờ trong núi ấy, đức Thế Tôn dùng thần lực hóa ra muôn ngàn núi báu, lại dùng trăm ngàn vạn ức báu vật của chư thiên mà trang hoàng. Trên đỉnh mỗi ngọn núi đều có thân Phật hiện, trước mỗi thân Phật đều có vua La Bà Na và hội chúng. Tất cả cõi nước trong mười phương đều xuất hiện, trong mỗi cõi nước đều có đức Như Lai, trước mỗi đức Phật đều có vua La Bà Na cùng quyến thuộc, vườn A Du Già, thành Lăng Già trang nghiêm... Mỗi nơi đều có Bồ Tát Đại Huệ thưa hỏi Phật. Phật khai thị cảnh giới tự chứng cho chúng hội. Sau khi dùng muôn ngàn âm thanh vi diệu đễ diễn nói kinh này, Phật cùng chúng Bồ Tát tan biến vào hư không. Khi chỉ thấy còn lại một mình mình trong cung điện, vua La Bà Na nghĩ: “vậy, người đang nhìn mọi sự đây là ai? Ai đã nghe thuyết pháp? Ai thấy? Thấy gì? Phật và rừng núi báu trong thành biến đi đâu? Đấy là mộng chăng? Hay là ảo giác? Hay cảnh biến hóa của loài càn thát bà? Hay vì ta nhặm mắt? Hay là nắng quán đèn lòa? Đây là ảo mộng, như con của thạch nữ? Như ảo giác vòng lửa quay?” Lại nghĩ: “Bản tính của vạn pháp đều như vậy, chỉ là cảnh giới do tự tâm phân biệt. Kẻ phàm phu mê hoặc không thể hiểu thấu. Kỳ thực, không có thấy và bị thấy, không người năng thuyết cũng không pháp sở thuyết. Thấy Phật nghe Pháp đều là phân biệt. Những người thấy các pháp như trên không thể thấy được Phật, không sinh phân biệt mới gọi là thấy Phật.” Khi ấy chúa tể thành Lăng Già bỗng nhiên khai ngộ, lìa ô nhiễm của tự tâm, chứng được vạn pháp chỉ do tâm biến hiện; an trú cảnh giới vô phân biệt. Nhờ những thiện căn đã trồng lâu xa về trước, ông được cái thấy “như thật” đối với hết thảy pháp. Ông không còn lệ thuộc người khác để giác ngộ, có thể dùng trí quán sát các pháp một cách sáng suốt, xa lìa hết thảy ức đoán, tà giải, trở thành một bậc thầy trong các bậc đại tu hành. Có năng lực một thân hiện ra nhiều thân, thấy suốt các phương tiện, biết rõ đặc điểm từng giai đoạn tu hành (địa), thường ưa xa lìa tâm, ý, ý thức, cắt đức bakiến “tương tục”, lìa chấp trước của ngoại đạo. Tự tâm ông biết mình đã vào kho tàng Như Lai, hướng đến Phật địa. La Bà Na bỗng nghe giữa hư không trong cung điện có tiếng nói: “Hay thay, đại vương ! Như chỗ ông đã học, các bậc tu hành cũng học như thế, thấy như thế. Tất cả các đức Như Lai cũng thấy như thế. Nếu thấy (các pháp) khác thế, là đoạn kiến. Ông phải xa lìa tâm, ý, ý thức, nên siêng quán sát hết thảy các pháp, nên tu nội hạnh, chớ đắm trước ngoại cảnh, chớ sa vào những pháp tu, những lối giải thích, những cảnh giới, những phép định của nhị thừa ngoại đạo. Chớ ham thích bàn chơi, đàm tiếu, chớ khởi các kiến chấp của phái Vi Đà (chấp tự ngã), chớ say đắm an nhàn của vương vị, chớ ở trong những định thuộc về lục định v.v.. Làm như thế là thực hành hạnh của bậc chân tu, có thể phá biện luận của người khác, có thể diệt trừ ác kiến, có thể xả bỏ hết thảy ngã kiến chấp trước, có thể dùng diệu tuệ để chuyển thức sở y, có thể tu đạo đại thừa của Bồ Tát, có thể thâm nhập cảnh giới tự chứng của Như Lai. Ông nên siêng tu học thêm như vậy, để các pháp sở đắc càng thêm thanh tịnh. Hãy khéo tu Tam Muội và Tam Ma Bát Để  (samàpatti), chớ tham đắm cảnh giới mà nhị thừa, ngoại đạo cho là vui thù thắng, vì phân biệt theo phàm phu. Ngoại đạo chấp ngã kiến, có ngã tướng, vướng mắc Thật (dravya), Đức, (Cầu Na, Guna). Nhị thừa thấy thật có “vô minh duyên hành” nên từ “tính không” sinh loạn tưởng phân biệt. Lăng Già Vương, Pháp này là đạo đại thừa rất thù thắng, có thể khiến ông thành tựu “Thánh Trí Tự Chứng”, được thọ đời tốt đẹp trong ba cõi. Lăng Già Vương, các ngoại đạo chấp trước ngã, lập các dị luận, không thể diễn nói xa lìa chấp trước, chỉ thấy nghĩa “hai” của thức tính. Hay thay, Lăng Già Vương, hãy tư duy nghĩa này như ông tư duy, tư duy như thế chính là thấy Phật.”

Bấy giờ Lăng Già Vương lại nghĩ: “Xin cho con lại được chiêm ngưỡng Như Lai. Như Lai Thế Tôn vốn tự tại trong các phép quán, lìa pháp ngoại đạo, có thể diễn nói cảnh giới của Thánh trí tự chứng, vượt ngoài ứng thân hóa thân, an trú trong chính định của Như Lai, chứng nhập được pháp lạc tam muội. Ngài là đấng “Đại Quán Hạnh Sư”, là đấng Đại Ai Mẫn, đã đốt hết lửa phiền não và phân biệt, được các chúng Phật tư vây quanh, đấng hiểu thấu tâm chúng sinh, đấng Biến khắp các cõi, đấng Nhất Thiết Trí, xa lìa hết thảy sự tướng phân biệt. Con nay xin được thấy lại năng lực đại thần thông của Như Lai. Khi được thấy Như Lai, nguyện cho con đạt được pháp chưa đạt, không thối chuyển pháp đã đạt, lìa các phân biệt, an trú trong pháp lạc tam muội, tăng trưởng đầy đủ Như Lai trí.” Đức Phật biết Lăng Già Vương sẽ chứng Vô Sinh Pháp Nhẫn, vì thương xót nên lại thị hiện sắc thân, biến mọi vật trở lại như trước. Vua mười đầu thấy lại những gì đã từng thấy: rất nhiều sơn thành trang hoàng bằng đủ thứ châu báu, trong mỗi thành đều có đức Phật 32 tướng nghiêm thân, lại tự thấy thân mình và Đại Huệ ở trước mỗi đức Phật, có chúng Dạ Xoa vây quanh, đang nói các pháp sở hành của bậc Tự Chứng Trí, lại thấy cõi nước của mười phương Phật. Tất cả các sự vật đều hiện như trước không sai khác.

Bấy giờ đức Thế Tôn từ xa dùng tuệ nhãn quan sát khắp hội chúng rồi bỗng vui mừng cười lớn như sư tử vương. Từ giữa đôi lông mày, đùi vế, hông, lưng, cổ cho đến từ vai, cánh tay, dấu chữ vạn, từ mỗi lỗ lông trên thân ngài, đều phóng muôn vàn hào quang đẹp, như ráng cầu vồng, như tia mặt trời, lại như ngọn lửa mạnh nổi lên vào thời kiếp tận. Lúc ấy trong hư không, Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương từ xa cũng thấy Như Lai ngồi như núi Tu Di trên đỉnh Lăng Già sơn vui mừng cười lớn. Chư Bồ Tát và các chúng loài trời đều nghĩ: “Như Lai Thế Tôn vốn tự tại trước mọi pháp, nay bởi nhân duyên gì bỗng lại vui mừng cười lớn, thân tỏa hào quang, lặng im không động, an trú trong cảnh tự chứng, nhập pháp lạc tam muội, như sư tử vương nhìn quanh bốn hướng, nhìn La Bà Na, nghĩ đến các pháp như thật?” Khi ấy Bồ Tát Đại Huệ trước vì lời thỉnh của La Bà Na, sau vì biết rõ tâm các Bồ Tát trong hội chúng, lại biết chúng sinh đời sau những kẻ bám vào ngữ ngôn văn tự, ôm giữ hạnh nhị thừa ngoại đạo sẽ mê lầm nghĩ: “Thế Tôn đã xa lìa cảnh giới của thức phân biệt, thế thì vì cớ gì mà vui mừng cười lớn?” Chính vì muốn trừ nghi hoặc cho hạng này, nên Bồ Tát hỏi Phật. Phật đáp:

“Hay thay, Đại Huệ! Hay thay, Đại Huệ ! Ông quán sát thế gian, vì thương xót chúng sinh bị trói buộc trong các quan niệm sai lầm về ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, muốn cho chúng sinh được khai ngộ mà hỏi ta. Những người trí thường đặt câu hỏi vì lợi mình lợi người như vậy. Này Đại Huệ, Lăng Già Vương đây đã từng hỏi tất cả các đức Như Lai trong quá khứ hai nghĩa Ứng Cúng và Chính Đẳng Giác (A La Hán và Phật), nay cũng muốn hỏi, và trong đời vị lai cũng thế. Các chỗ khác nhau giữa hai nghĩa ấy, hết thảy nhị thừa, ngoại đạo đều không thể suy lường.” Đức Như Lai biết Lăng Già Vương muốn hỏi nghĩa này nên dạy:

Này Lăng Già Vương, ông muốn hỏi gì cứ hỏi. Ta sẽ phân biệt giải thích cho ông, thỏa mãn mong cầu của ông, khiến ông hoan hỷ, có thể dùng trí tuệ tư duy quán sát để lìa phân biệt, biết rõ các giai đoạn tu hành. Ông sẽ tu tập đối trị các pháp, chứng nghĩa chân thật, nhập pháp lạc tam muội, được chư Phật nhiếp thọ, an trú trong pháp lạc xa ma địa (samapatthi), xa lìa lỗi lầm của định nhị thừa, an trú các cấp bực Bồ Tát: Bất Động, Thiện Huệ, Pháp Vân. Ông sẽ như thật rõ biết các pháp vô ngã, sẽ được ngồi trong hoa sen báu, được chư Phật lấy nước tam muội rưới đầu, được vô số Bồ Tát ở trong sen báu vây quanh, cùng chúng hội đều hướng nhìn ông. Các cảnh giới như thế không thể nghĩ bàn. Ông sẽ sinh khởi các hạnh Nhất hạnh và Nhất phương tiện. Ông quyết định sẽ đạt những điều bất tư nghì như thế trong quả vị Như Lai, sẽ tùy cơ cảm chúng sinh mà ứng hiện thân tướng. Những gì ông sẽ đạt, hàng nhị thừa, ngoại đạo, Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương đều chưa từng thấy.

Được Phật cho phép, Lăng Già Vương rời chỗ ngồi trên đỉnh núi báu thanh tịnh trang nghiêm như hoa sen lớn đứng dậy, với chúng thể nữ vây quanh, hóa ra vô lượng hoa đủ màu, các loại hương như hương bột, hương thoa, tràng phan, dù lọng, quang bôi (?), anh lạc cùng các đồ trang sức thắng diệu khác thế gian chưa từng nghe. Lại biến hóa ra rất nhiều nhạc khí mà dục giới có, các nhạc khí vượt hơn nhạc khí cõi trời, rồng, nhạc thần, cùng hết thảy thế gian, các nhạc khí mà chư Phật mười phương đều thấy. Lại hóa các lưới báu che khắp chư Phật, Bồ Tát. Lại hiện các thứ y phục mỹ lệ, dựng tràng phan để cúng dường Như Lai. Xong La Bà Na liền bay lên hư không cách bảy cây đa la, rưới xuống các lễ vật cúng dường, trỗi nhạc, rồi từ trên không xuống, ngồi ở đỉnh núi sen báu tỏa ánh sáng như mặt trời, vui mừng cung kính bạch: “Con nay muốn hỏi Như Lai hai nghĩa. Hai nghĩa này con đã từng hỏi các đức Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác trong quá khứ. Chư Phật xưa cũng đã nhận lời cầu thỉnh của con mà trình bày. Nay con muốn hỏi lại nghĩa ấy, Xin đức Như Lai nói rõ cho con. Bạch Thế Tôn, hai nghĩa ấy được các đức Như Lai biến hóa chứ không phải Phật căn bản (Phật Pháp Thân) tuyên thuyết. Phật căn bản thì chỉ nói cảnh giới của pháp lạc tam muội chứ không nói những cảnh giới do hư vọng phân biệt. Hay thay đức Thế Tôn tự tại đối với các pháp, xin ngài rũ lòng thương xót nói hai nghĩa này, hết thảy hàng con Phật đều có lòng muốn nghe.” Khi ấy đức Thế Tôn bảo vua:

Ông cứ hỏi, ta sẽ nói cho.

Vua Dạ Xoa liền mang thêm các thứ mũ báu và anh lạc, các đồ trang sức để trang nghiêm thân rồi nói:

Như Lai thường dạy: “Pháp còn phải xả, huống hồ phi pháp.” Bạch Thế Tôn, làm sao xả hai thứ pháp ấy? Pháp là gì, phi pháp là gì? Làm sao có hai pháp để xả? Có hai pháp tức đã sa vào tướng phân biệt giữa hữu thể và vô thể (svabhà và bhàva), giữa thị và phi (abhautibhautika). Tất cả đấy đều là phân biệt, không thể biết được tướng vô sai biệt của A Lại Da thức. Như khi thấy vòng lông (mao luân) trong hư không mà cho có thật, (sự phân biệt) đó không phải là cảnh giới của tịnh trí. Pháp tính vốn như vậy, làm sao có thể xả (pháp hay phi pháp) ?

Phật dạy:

Lăng Già Vương, ông không thấy sự tán hoại vô thường của các vật như bình, v.v.. hay sao ? Phàm phu thấy những pháp ấy liền sinh phân biệt. Ông không biết sự khác nhau giữa pháp và phi pháp sao ? Đấy là do phàm phu phân biệt, không phải là cái thấy của bậc chứng trí. Phàm phu sa vào sự phân biệt tướng, các bậc đã chứng thì không thế. Này Lăng Già Vương, như khi thiêu đốt cung điện, vườn rừng, thấy các ngọn lửa, tính lửa vẫn là một, nhưng do sức cháy của các nơi phát ra ngọn lửa mà lửa có dài ngắn to nhỏ khác nhau. Sao ông không biết tướng sai biệt giữa pháp và phi pháp ? Này Lăng Già Vương, như một hạt giống sinh mộng, thân nhỏ, cành lá cho đến hoa quả, sai biệt vô cùng; ngoại pháp như thế, nội pháp cũng vậy. Do vô minh làm duyên sinh uẩn, giới, xứ cùng hết thảy pháp trong ba cõi, thọ sinh vào các đường, có khổ, lạc, tốt, xấu, nói, im, đi, nghỉ đều khác nhau. Lại như tướng của các thứ chỉ là một, song theo cảnh giới mà có trên, giữa, dưới, uế, sạch, thiện, ác v.v.. không đồng. Này Lăng Già Vương, không những các pháp như trên có sai biệt, mà các bậc tu hành khi tu quán hạnh cũng thấy trong các hạnh nội chứng của mình có các tướng sai biệt, huống chi pháp với phi pháp mà không phân biệt hay sao ? Này Lăng Già Vương, pháp cùng phi pháp khác nhau, nên biết đấy là do phân biệt các tướng mà ra. Lăng Già Vương ! Pháp là gì ? Ấy là những pháp mà nhị thừa ngoại đạo do hư vọng phân biệt cho là có, thật, làm nhân cho các pháp. Những pháp như vậy cần phải xa lìa, chớ nắm giữ tướng để sinh phân biệt, thấy các pháp do tự tâm biến mà cho là thật. Thấy được pháp tính của tự tâm, ấy gọi là không chấp trước. Các vật như cái bình v.v.. mà phàm phu chấp vốn không tự tính, những người tu quán hạnh lấy tỳ bát xá na (vipassana – quán) như thật quán sát, gọi là xả các pháp. Này Lăng Già Vương, phi pháp là sao ? Ấy là các pháp không có tự tính, không tướng, lìa phân biệt; người thấy như thật thì cảnh giới dù có dù không đều không khởi quan niệm, ấy gọi là xả phi pháp. Lại nữa, phi pháp ấy là như sừng thỏ, con của thạch nữ v.v.. đều không tính không tướng, không thể phân biệt, cần phải xa lìa. Phi pháp này tuy không tính không tướng, mà thế gian vẫn có danh từ, không phải như cái bình v.v.. có thể cầm nắm. Các pháp có tướng phân biệt như bình, và không tướng như lông rùa, đều phải xả bỏ, ấy gọi là xả pháp cùng xả phi pháp. Lăng Già Vương, những chỗ ông hỏi trước ta đã nói xong. Này Lăng Già Vương, cái quá khứ ông nói đó chỉ là phân biệt, vị lai cũng là phân biệt, vì Ta (hiện tại) cũng như các đức Như Lai kia. Lăng Già Vương, pháp của chư Phật nói đều xa lìa phân biệt, đã ra khỏi hết thảy hí luận, không như sắc tướng có thể phân biệt, chỉ có trí mới chứng nhập được mà thôi. Chính vì muốn cho chúng sinh an vui mà chư Như Lai mới diễn nói pháp, dùng trí vô tướng mà nói, gọi là Như Lai. Bởi đức Như Lai lấy trí làm thể, lấy trí làm thân, nên Như Lai không phân biệt cũng không thể bị phân biệt. Không thể lấy tướng ngã, nhân, chúng sinh... mà phân biệt Như Lai. Vì sao ? Bởi vì ý thức do cảnh mà khởi rồi bám lấy sắc, hình, tướng. Cho nên (Như Lai) xa lìa năng phân biệt cũng như sở phân biệt. Này Lăng Già Vương, thí như chúng sinh trong bức tranh màu trên vách không có giác tri, chúng sinh ở thế gian cũng vậy, không có nghiệp, báo. Pháp Phật cũng thế, không có nghe, không có nói. Này Lăng Già Vương, chúng sinh ở thế gian cũng như cảnh biến hóa, phàm phu ngoại đạo không thấu đạt nghĩa này. Lăng Già Vương, thấy được như thế gọi là chính kiến, thấy khác gọi là phân biệt kiến, vì phân biệt nên bám giữ nhị nghĩa. Lăng Già Vương này, ví như có người tự thấybóng mình trong gương nước, dưới ánh trăng, nghe tiếng mình âm hưởng trong hang núi, bèn sinh phân biệt mà khởi sự bám víu. Đây cũng vậy, pháp, phi pháp chỉ là phân biệt, vì phân biệt nên không thể xa lìa; chỉ tăng trưởng hư vọng, không được an tĩnh. An tĩnh ấy nghĩa là nhất duyên (ekàgra), nhất duyên ấy là tam muội tối thắng, từ đó có thể phát sinh Thánh Trí Tự Chứng, lấy Như Lai tạng làm cảnh giới.


CHƯƠNG II

THỰC HÀNH TẤT CẢ PHÁP

TIẾT I

Đại Huệ Bồ Tát cùng Ma Đế Bồ Tát những vị đã viếng các cõi Phật, bấy giờ nương uy thần Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo bên phải, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay hướng Phật cung kính nói bài tụng:

Thế gian lìa sinh diệt

Như hoa đốm hư không

Trí không chấp có, không

Hưng khởi tâm đại bi

 

Vạn pháp đều như huyễn

Xa lìa tâm và thức

Trí không chấp có, không

Hưng khởi tâm đại bi

 

Thế gian thường như mộng

Xa lìa cả đoạn, thường

Trí không chấp hữu, vô

Hưng khởi tâm đại bi

 

Không có Phật niết bàn

Không niết bàn cho Phật

Lìa biết và bị biết

Lìa hữu cùng phi hữu

 

Pháp thân như huyễn mộng

Có gì để ngợi khen

Biết vô tính vô sinh

Ấy mới là khen Phật

 

Phật không căn, cảnh, tướng

Không thấy là thấy Phật

Làm sao trước Mâu Ni

Mà khởi sự khen chê

 

Ai ở trước Mâu Ni

Sinh thanh tịnh, xa lìa

Kẻ ấy đời này, sau

Lìa chấp, không chỗ thấy

 

Nói kệ tán Phật xong, Đại Huệ Bồ Tát tự xưng tên:

Con tên là Đại Huệ

Thông đạt pháp đại thừa

Xin đem trăm tám nghĩa

Kính hỏi đấng Vô Thượng

Nghe lời ấy, đấng Thế Gian Giải nhìn khắp hội chúng rồi dạy rằng:

Các ngươi hàng con Phật

Nay cứ tự do hỏi

Ta sẽ nói cho ngươi

Cảnh giới đã tự chứng

Được Phật chấp thuận, Đại Huệ Bồ Tát đảnh lễ dưới chân ngài xong, thưa hỏi bằng kệ tụng như sau:

Do đâu suy lường sinh ?

Làm sao sạch suy lường ?

Do đâu mê hoặc sinh ?

Làm sao hết mê hoặc ?

Sao gọi là Phật tử

Cùng thứ lớp vô ảnh (niràbhàsa) ?

Do đâu hóa cõi nước

Các tướng và ngoại đạo ?

Giải thoát đến nơi nào ?

Ai bị trói, ai mở ?

Cảnh giới thiền ra sao ?

Tại sao có ba thừa ?

Nhân duyên gì sinh pháp ?

Cái gì nhân gì quả ?

Ai nói lìa bốn nghĩa ?

Do đâu các cõi sinh ?

Sao gọi định vô sắc ?

Sao gọi Diệt Tận Định ?

Thế nào là tưởng diệt ?

Làm sao từ định giác ?

Vì sao sinh hoạt động ?

Thân đi, đứng nắm giữ ?

Làm sao thấy sự vật ?

Làm sao vào các “địa”?

Làm sao có Phật tử ?

Ai phá được ba cõi ?

Ở đâu, thân ra sao ?

Sinh và trú nơi nào ?

Làm sao đặng thần thông

Tự tại và chính định ?

Tâm tam muội ra sao ?

Nguyện Phật vì con nói

Sao gọi là tàng thức ?

Sao gọi là ý thức ?

Làm sao các kiến khởi ?

Làm sao các kiến diệt ?

Tính, phi tính là gì ?

Vì sao nói duy tâm ?

Vì sao kiến lập tướng ?

Sao gọi là Vô ngã ?

Sao là không chúng sinh ?

Sao là tùy tục nói ?

Làm sao để khỏi khởi

Thường kiến và đoạn kiến ?

Sao Phật cùng ngoại đạo

Tướng vốn không khác nhau ?

Làm sao đời vị lai

Có các bộ phái sinh ?

Sao gọi là Tính không ?

Sao gọi sát na diệt ?

Thai tạng từ đâu sinh ?

Sao thế gian bất động ?

Vì sao bảo cuộc đời

Như huyễn, lại như mộng

Như thành Càn Thát Bà

Như ánh nước sa mạc

Như vừng trăng đáy nước ?

“Bồ đề phần” là sao ?

“Giác phần” từ đâu khởi ?

Vì sao cõi nước loạn ?

Vì sao hữu kiến sinh ?

Làm sao biết thế pháp ?

Làm sao lìa văn tự ?

Sao là “như không hoa”?

Không sinh cũng không diệt ?

Chân như có mấy loại ?

“Độ tâm” có mấy loại ?

Sao là như hư không ?

Sao là lìa phân biệt ?

Và thứ tự các “địa”?

Sao là được vô ảnh ?

Sao là hai vô ngã ?

Sao là hết sở tri ?

Thánh trí có mấy loại ?

Có mấy loại giới pháp

Phật chế cho chúng sinh ?

Ngọc báu dòng tôn quý

Từ đâu mà xuất hiện ?

Ai sinh ra ngôn ngữ

Chúng sinh và các vật ?

Năm minh và kỹ thuật

Ai làm cho sáng tỏ ?

Kệ tụng (gàthà) có mấy loại ?

Trường hàng có mấy thứ ?

Đạo lý mấy bất đồng ?

Giải thích bao sai biệt ?

Ăn uống ấy ai làm ?

Ái dục vì sao khởi ?

Sao gọi Chuyển Luân Vương

Cho đến các tiểu vương ?

Làm sao vua giữ nước ?

Chúng trời có mấy loại ?

Đất, mặt trời, trăng, sao

Các thứ ấy thế nào ?

Giải thoát có mấy loại ?

Mấy loại thầy tu hành ?

Sao gọi A Xà Lê ?

Đệ tử bao nhiêu hạng ?

Như Lai có mấy loại ?

Chuyện tiền thân ra sao ?

Chúng ma và dị giáo

Mỗi thứ có bao nhiêu ?

Tự tính bao sai biệt ?

Tâm có bao nhiêu loại ?

Giả lập nghĩa là gì ?

Xin Phật giải thích cho

Từ đâu sinh mây gió ?

Niệm, trí vì sao có ?

Bụi, bờ, cây hàng lớp

Các thứ ấy ai làm ?

Những thú vật voi ngựa

Nhân gì bị bắt giữ ?

Sao có người hèn xấu ?

Xin Phật giải cho con

Sao gọi là sáu thời ?

Nhất xiển đề do đâu ?

Gái, trai và bất nam

Do đâu mà sinh khởi ?

Sao là tu tiến bộ ?

Sao là tu thụt lùi ?

Thầy du già mấy hạng

Dạy người tu pháp ấy ?

Chúng sinh sinh các đường

Hình sắc, tướng ra sao ?

Giàu có, rất an ổn

Ấy là do nhân gì ?

Sao có dòng Thích Ca ?

Sao có dòng Cam Giá ?

Tiên nhân khổ hạnh lâu

Ấy do ai chỉ giáo ?

Làm sao Phật Thế Tôn

Hiện thân khắp các cõi

Chúng Phật tử vây quanh

Đủ các loài sai biệt ?

Vì sao không ăn thịt ?

Nhân gì dạy bỏ thịt ?

Các chúng sinh ăn thịt

Do nhân gì mà ăn ?

Sao có các cõi nước

Trông như hình trời trăng

Tu Di và hoa sen

Chữ vạn, tượng sư tử ?

Sao có các cõi nước

Như lưới trời Đế Thích

Lật úp hoặc nằm nghiêng

Mà thành các món báu ?

Sao có các cõi nước

Như nhật nguyệt không dơ

Hoặc như hình hoa quả,

Ống sáo, trống eo nhỏ

Phật biến hóa là gì (Nirmànikabubdha)?

Và Phật Dị thục sinh ? (Vipàkajabuđha)

Cùng Phật Chân như trí (Tathàtàjnànabuđdha) ?

Xin giải thích cho con.

Vì sao ở Dục giới

Không thành Đẳng Chính Giác ?

Sao ở Sắc Cứu Cánh (Akanistha)?

Lìa nhiễm được trí tuệ ?

Ai sẽ giữ chính pháp ?

Phật trụ thế bao lâu ?

Chính pháp trụ dài, ngắn ?

Tất đàn có mấy loại ?

Kiến chấp có bao nhiêu ?

Vì sao lập luận tạng ?

Cho đến các Tỳ Kheo

Hết thảy các Phật tử

Độc Giác và Thanh Văn

Làm sao chuyển các thức ?

Làm sao được vô tướng ?

Làm sao được Thế thông ?

Làm sao được xuất thế ?

Lại vì nhân duyên gì

Tâm ở trong bảy địa ?

Tăng già có mấy loại ?

Sao gọi là phá tăng ?

Làm sao vì chúng sinh

Rộng nói phương cứu liệu ?

Cớ gì Đại Mâu Ni

Nói lên lời như vầy:

“Ca Diếp, Câu Lưu Tôn

Câu Na Hàm là Ta ?”

Cớ gì nói đoạn thường ?

Và nói ngã, vô ngã ?

Sao không thường nói thật:

“Hết thảy do tâm tạo”?

Sao có rừng nam nữ

Ha Lê (Harìtaki), Am Ma La (Àmalìvana)?

Kê La Bà (Kailàsa), Luân Viên (Cakravàda)?

Cho đến núi kim cương (vajrà)

Trong các chỗ ấy có

Vô lượng báu trang nghiêm

Tiên nhân, Càn thát bà

Tất cả đều sung mãn

Đấy do nhân duyên gì ?

Xin Phật vì con nói

 

Nghe những lời hỏi về pháp môn tối thượng, pháp môn đại thừa “tâm Phật” vi diệu ấy, đức Thế Tôn liền bảo: “Hay thay, Đại Huệ ! Hãy lắng nghe. Như chỗ ông hỏi, ta sẽ lần lượt nói.” Và ngài nói kệ tụng:

 

Sinh cùng với không sinh

Niết bàn và vô tướng

Lưu chuyển, vô tự tính

Ba La Mật, Phật tử

Thanh Văn, Bích Chi Phật

Ngoại đạo, hạnh vô sắc

Tu Di cùng biển núi

Cù lao, các cõi đất

Tinh tú và nhật nguyệt

Chúng trời, A tu la

Giải thoát và thần thông

Thiền định và tam muội

Diệt và các thần túc

Bồ đề phần, Bát chính

Thiền cùng vô lượng tâm

Các uẩn cùng đến, đi

Cho đến diệt tận định

Tâm sinh khởi nói năng

Tâm, ý, thức, vô ngã

Năm pháp, ba tự tính

Phân biệt, bị phân biệt

Hai loại kiến năng sở

Cội nguồn của các thức

Vàng, ma ni, trân châu

Dòng họ lớn, xiển đề

Nước hỗn loạn, một Phật

Trí, trí chướng, đắc hướng

Chúng sinh, có cùng không

Voi, ngựa, thú, nhân gì

Vì sao bị bắt giữ

Vì sao nhân, thí dụ

Tương ưng thành tất đàn ?

Sở tác và năng tác

Núi rừng và mê hoặc ?

Lý chân thật “như thị”

Duy tâm, không cảnh giới ?

Các địa không thứ lớp

Không tướng, chuyển sở y ?

Y phương, các nghệ thuật

Kỹ thuật, cùng năm minh ?

Tu Di và núi, đất

Biển, trời trăng bao lớn ?

Chúng sinh thượng, trung, hạ

Mỗi thân bao vi trần ?

Mỗi cung có mấy trữu ?

Câu lô xá mấy cung ?

Nửa do tuần ? Do tuần ?

Lông thỏ và bụi cửa ?

Mỗi thân bao vi trần ?

Rận, lông dê, bột mạch ?

Nửa đấu và một đấu

Gồm bao nhiêu hạt lúa ?

Một hộc và mười hộc

Mười vạn và thiên ức

Cho đến tầm bà la (Vimvara: 10 triệu)

Mỗi món số bao nhiêu ?

Mấy trần (anu) thành giới tử (sarsapa) ?

Mấy giới tử thành thảo tử ?

Lại có mấy thảo tử

Mới thành một hạt đậu (màsa)?

Mấy hạt đậu thành thù (Dharana)?

Mấy thù là một lượng (Karsa)?

Mấy lượng thành một cân (pala)?

Mấy cân thành tu di (meru)?

Đấy những điều nên hỏi

Vì sao hỏi chuyện khác ?

Thanh Văn, Bích Chi Phật

Các Phật và Bồ Tát

Số lượng thân bao nhiêu ?

Mỗi thân mấy vi trần ?

Lửa, gió có mấy trần ?

Mỗi căn có mấy trần ?

Lông mày, lỗ chân lông

Mấy trần thành mỗi thứ ?

Các sự việc như thế

Sao không đem hỏi ta.

Vì sao được giàu có ?

Sao là chuyển luân vương ?

Làm sao vua giữ nước ?

Làm sao được giải thoát ?

Thế nào là Trường Hàng ?

Dâm dục và ăn uống ?

Thế nào rừng nam nữ ?

Các núi, kim cương sơn ?

Như huyễn, mộng, ảo ảnh ?

Mây do từ đâu sinh ?

Thời tiết làm sao có ?

Nhân gì có mùi vị ?

Nam, nữ và bất nam

Phật, Bồ Tát trang nghiêm ?

Sao có các núi đẹp

Tiên càn thát trang hoàng ?

Giải thoát đến chỗ nào ?

Ai bị trói ? Ai mở ?

Sao là cảnh giới thiền ?

Biến hóa và ngoại đạo ?

Sao là vô nhân tác ?

Sao là hữu nhân tác ?

Sao là chuyển các kiến ?

Sao là khởi suy lường ?

Làm sao sạch suy lường ?

Hoạt động từ đâu sinh ?

Sao gọi là chuyển khứ ?

Sao là dứt các tưởng ?

Sao là sinh tam muội ?

Phá ba cõi là ai ?

Chỗ nào, thân ra sao ?

Sao gọi là không ngã ?

Sao là theo tục nói ?

Ông hỏi tướng ra sao ?

Sao gọi là phi ngã ?

Sao gọi là thai tạng

Cùng các chi phần khác ?

Sao là thấy đoạn thường ?

Sao là tâm một cảnh ?

Sao là trí ngôn thuyết ?

Giới, dòng họ, Phật tử ?

Lý luận và giải thích ?

Sao là thầy, đệ tử ?

Tính chúng sinh sai khác ?

Ăn uống và hư không ?

Thông minh, ma, giả lập ?

Vì sao hàng cây bày ?

Các câu hỏi như thế

Nhân gì hết thảy nước

Các loại tướng không đồng ?

Có cõi hình ống tiêu

Trống eo cùng hoa quả

Có chỗ không ánh sáng

Tiên nhân khổ hạnh lâu

Hoặc có giòng họ quý

Khiến chúng sinh tôn trọng

Hoặc có kẻ hạ tiện

Bị người khác khinh khi ?

Vì sao trong cõi dục

Tu hành khó thành Phật ?

Ở cõi sắc cứu cánh

Mới thành đẳng chính giác ?

Vì sao người thế gian

Lại có được thần thông ?

Sao gọi là tỳ kheo ?

Sao gọi là Tăng già ?

Sao là Hóa, Báo thân ?

Phật trí tuệ chân như ?

Làm sao khiến tâm mình

An trú trong bảy “địa”?

Nghĩa này và các nghĩa

Ông nay đều hỏi Ta

Như Phật trước đã nói

Đủ một trăm tám câu

Mỗi mỗi tướng tương ưng

Xa lìa các lỗi chấp

Lại lìa pháp thế tục

Do ngôn ngữ mà thành

Ta nay vì ông nói

Phật tử khá lắng nghe.

 

Khi ấy Bồ Tát Đại Huệ bạch Phật :

Bạch Thế Tôn ! Sao là 108 câu ?

Phật dạy :

Này Đại Huệ ! Cái gọi là sinh cú (mệnh đề về sinh) phi sinh, thường phi thường, trú dị phi trú dị, sát na phi sát na, tự tính phi tự tính, không phi không, đoạn phi đoạn, tâm phi tâm, trung phi trung, duyên phi duyên, nhân phi nhân, phiền não phi phiền não, ái phi ái, phương tiện phi phương tiện, thiện xảo phi thiện xảo, thanh tịnh phi thanh tịnh, tương ưng phi tương ưng, thí dụ phi thí dụ, đệ tử phi đệ tử, sư phi sư, chủng tính phi chủng tính, tam thừa phi tam thừa, vô ảnh tượng phi vô ảnh tượng, nguyện phi nguyện, tam luận phi tam luận, tiêu tướng phi tiêu tướng, hữu phi hữu, vô phi vô, câu phi câu, tự chứng thánh trí phi tự chứng thánh trí, hiện pháp lạc phi hiện pháp lạc, sát phi sát, trần phi trần, nước phi nước, cung phi cung, dòng giống lớn phi dòng giống lớn, xú lậu phi xú lậu, thần thông phi thần thông, hư không phi hư không, mây phi mây, mỹ thuật phi mỹ thuật, kỹ thuật phi kỹ thuật, gió phi gió, đất phi đất, tâm phi tâm, giả lập phi giả lập, thể tính phi thể tính, uẩn phi uẩn, chúng sinh phi chúng sinh, giác phi giác, Niết Bàn phi Niết Bàn, hiểu biết phi hiểu biết, ngoại đạo phi ngoại đạo, hỗn loạn phi hỗn loạn, huyễn phi huyễn, mộng phi mộng, lửa phi lửa, ảnh tượng phi ảnh tượng, vòng lửa phi vòng lửa, Càn thành phi Càn thành, trời phi trời, ăn uống phi ăn uống, dâm dục phi dâm dục, thấy phi thấy, đáo bỉ ngạn phi đáo bỉ ngạn, thành phi thành, nhật nguyệt tinh tú phi nhật nguyệt tinh tú, đế phi đế, quả phi quả, diệt phi diệt, diệt khởi phi diệt khởi, y phương phi y phương, tướng phi tướng, chi phần phi chi phần, thiền phi thiền, mê phi mê, hiện phi hiện, hộ phi hộ, dòng họ phi dòng họ, tiên phi tiên, vua phi vua, nhiếp thọ phi nhiếp thọ, quý phi quý, ký ức phi ký ức, nhất xiển đề phi nhất xiển đề, nữ nam bất nam phi nữ nam bất nam, mùi vị phi mùi vị, tác phi tác, thân phi thân, suy lường phi suy lường, động phi động, căn phi căn, hữu vi phi hữu vi, nhân quả phi nhân quả, sắc cứu cánh phi sắc cứu cánh, thời tiết phi thời tiết, cây dây phi cây dây, sự vật phi sự vật, diễn thuyết phi diễn thuyết, quyết định phi quyết định, luật tạng phi luật tạng, tỳ kheo phi tỳ kheo, trụ trì phi trụ trì, văn tự phi văn tự. Này Đại Huệ ! 108 nghĩa này đều là những gì Phật quá khứ đã nói.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật :

Bạch Thế Tôn ! Các thức có mấy thứ sinh trú diệt ?

Phật dạy :

-  Đại Huệ, các thức có hai thứ sinh trú diệt, không phải dùng suy lường đo tính mà biết được. Ấy là tương tục sinh và tướng sinh, tương tục trú và tướng trú, tương tục diệt và tướng diệt. Các thức có ba tướng : chuyển tướng, nghiệp tướng, chân tướng. Đại Huệ ! Thức nói rộng có 8 thức, lược nói thì có hai : hiện thức và phân biệt sự thức. Đại Huệ ! Như trong gương sáng các hình sắc đều hiện rõ, hiện thức cũng thế. Đại Huệ ! Hiện thức và phân biệt sự thức, hai thức này không khác nhau, chúng làm nhân cho nhau. Hiện thức lấy sự biến hóa “bất tư nghì huân” làm nhân, phân biệt sự thức lấy sự phân biệt cảnh giới và tập khí hý luận từ vô thỉ làm nhân. Đại Huệ ! Những tập khí hư vọng phân biệt của thức A Lại Da diệt thì hết thảy căn thức diệt, ấy gọi là tướng diệt. Đại Huệ ! Tương tục diệt ấy là nhân sở y diệt cùng sở duyên diệt thì tương tục cũng diệt. Nhân sở y là tập khí hý luận hư vọng, sở duyên là cảnh giới do tự tâm thấy và phân biệt thành. Đại Huệ ! Thí như nắm bùn và vi trần không khác nhau, cũng không phải là một. Vàng và đồ trang sức cũng thế. Đại Huệ, nếu bùn và vi trần khác nhau thì đáng lẽ bùn không do vi trần hợp thành, nên nói không khác. Nếu nắm bùn và vi trần không khác, thì đáng ra không thể phân biệt nắm bùn với vi trần. Đại Huệ ! Chuyển thức và tạng thức nếu khác nhau, thì tạng thức không thể làm nhân cho các chuyển thức. Nếu không khác thì khi chuyển thức diệt, lẽ ra tạng thức cũng diệt luôn, song kỳ thật chân tướng của tạng thức không diệt. Đại Huệ ! Chân tướng của tạng thức không diệt, chỉ có nghiệp tướng của nó diệt. Nếu chân tướng diệt thì tạng thức cũng diệt hay sao ? Nếu tạng thức diệt, thì không khác gì thuyết đoạn diệt của ngoại đạo. Đaị Huệ ! Ngoại đạo lập thuyết thế này : cái thức tương tục nắm giữ cảnh giới diệt thì thức tương tục từ vô thỉ cũng diệt. Đại Huệ ! những người ngoại đạo bảo thức tương tục do một tác giả tạo ra chứ không nói nhãn thức do sắc, hình, ánh sáng hòa hợp mà sinh; chỉ nói tác giả làm nhân sinh ra. Tác giả ấy là gì ? Họ kể ra Thắng Tính (Pradhàna), trượng phu (purusa), Tự tại (Ìs’vara), Thời (kàla) và vi trần (anu) là những pháp năng tác. Lại nữa, này Đại Huệ ! có bảy món tự tính, ấy là Tập (Samudaya), Tính (Bhàva), Tướng (Laksana), Đại Chủng (Mahàbhàta), nhân (hetu), duyên (pratyaya), Thành (nispatti). Và nữa, này Đại Huệ, có bảy thứ đệ nhất nghĩa, là: Tâm sở hành (cittagocara), Trí sở hành (Jnànagocara), nhị kiến sở hành (Drstidvayagocara), siêu nhị kiến sở hành (Drstidvayàtikràntagocara), siêu tử địa sở hành, Như Lai sở hành, Như Lai tự chứng thánh trí sở hành (Tathàgatasyapratyàtma-gatigiocarah). Này Đại Huệ, ấy là pháp tự tại, tâm đệ nhất nghĩa của tất cả Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, dùng tâm này mà thành tựu các pháp tối thượng của Như Lai ở thế gian và xuất thế gian, dùng tuệ nhãn của bậc thánh mà thể nhập các tự tướng và cọng tướng, thảy đều an lập. Những gì các bậc ấy an lập không đồng với chỗ lập thuyết của ngoại đạo ác kiến. Đại Huệ ! Sao gọi là ác kiến ngoại đạo ? Ấy là không biết rằng cảnh giới vốn do tự tâm phân biệt mà hiện, đối tự tính đệ nhất nghĩa mà chấp có, không, khởi ra ngôn thuyết. Đại Huệ ! Ta nay sẽ nói, nếu biết rõ cảnh giới là như huyễn, do tự tâm hiện, thì sẽ diệt khổ vì vọng tưởng ba cõi, diệt các vô tri, ái, nghiệp, duyên. Đại Huệ, có những bà la môn và sa môn vọng chấp cái vốn không và cho rằng những pháp hiện ở ngoài y theo nhân quả, thời gian mà trú, hoặc cho rằng uẩn giới xứ theo duyên mà sinh, trú, sau khi hiện hữu thì hoại diệt. Đại Huệ ! Quan niệm của những người kia đối với các pháp như tương tục, tác dụng, sinh diệt, hiện hữu, Niết Bàn, đạo, nghiệp, quả, đế ... đều là lý luận phá hoại, đoạn diệt. Vì sao ? Bởi vì họ không đạt được hiện pháp (pratyaksa), không thấy căn bản. Đại Huệ ! Thí như chiếc bình vỡ không thể làm được việc của nó, lại như hạt giống cháy không thể sinh mầm, đây cũng thế. Nếu các pháp uẩn giới xứ đã hiện sẽ diệt, nên biết đấy tất không phải tương tục sinh, vì chúng không có nhân, chỉ có tự tâm hư vọng thấy thành. Lại nữa, Đại Huệ ! Nếu thức vốn không, do ba duyên hợp mà sinh, thì đáng lẽ rùa cũng sinh lông, cát sẽ sinh dầu; như vậy Tôn (pratijnà) của ngươi hỏng, vì trái với nghĩa quyết định (niyama); những gì lập ra tất sẽ thành vô dụng. Đại Huệ ! Ba pháp hợp làm duyên là do tính nhân quả mà nói, và như vậy có (những pháp như) hiện tại quá khứ vị lai, hữu và vô. Nếu họ cứ ở trên lập trường lý giáo (yuktyàgama) ấy, thì những gì họ chứng minh sẽ là do luận lý, lý giáo của họ, vì ký ức những quan niệm sai lầm sẽ mãi mãi huân tập họ (theo bản Suzuki). Đại Huệ ! Kẻ phàm phu ngu dốt bị ác kiến cắn rỉa, tà kiến mê hoặc, vô trí mà vọng nói là Nhất Thiết Trí. Đại Huệ ! Lại có các sa môn, bà la môn, quán hết thảy pháp không tự tính, như mây giữa hư không, như vòng lửa quay, như thành biến hóa của loài Càn Thát Bà, như huyễn hóa, như ảo ảnh, như trăng dưới nước, như cảnh chiêm bao, tất cả đều không ngoài tâm, chỉ vì cái thấy hư vọng từ vô thỉ mà chấp thật có cảnh giới bên ngoài. Quán như thế rồi, họ bặt dứt các duyên phân biệt, xa lìa danh nghĩa mà vọng tâm ôm giữ, biết rằng thân, tài sản và nhà cửa, tất cả đều là cảnh giới tạng thức, không có năng sở, không có sinh, trụ, diệt, họ thường tư duy như thế không rời. Đại Huệ ! Những đại Bồ Tát ấy không lâu sẽ xem bình đẳng giữa sinh tử và Niết Bàn (samsàranirvàna), được hạnh đại bi phương tiện không cần dụng công, quán sát chúng sinh như huyễn như hóa, như hình ảnh theo duyên mà sinh, biết ngoài tâm không có các cảnh giới. Các vị ấy sẽ thực hành đạo vô tướng, dần tiến lên các “địa”, an trú trong chính định, hiểu rõ ba cõi do tâm, chứng được định Như Huyễn (Màyopamasamà dhi), tuyệt dứt các ảnh tượng, thành tựu trí tuệ, chứng pháp vô sinh, nhập định kim cương dụ (vajravimbopama), sẽ được Phật thân (Tathàgatakàya). Nhưng vị ấy sẽ thường trú trong Như Như (Tathàta) mà khởi các thần thông biến hóa, trang sức bằng tự tại, trí tuệ, phương tiện để dạo chơi các cõi Phật, xa lìa các ngoại đạo. Tâm, ý, thức, lần lượt chuyển y mà thành tựu thân Như Lai. Đại Huệ ! Các vị đại Bồ Tát muốn được thân Phật, phải xa lìa uẩn giới xứ, vì đấy là các pháp do nhân duyên sinh, xa lìa các pháp sinh, trú, diệt, phân biệt, hí luận. Chỉ nên chú tâm quán sát ba cõi là do tập khí hư vọng từ vô thỉ khởi lên, tư duy Phật địa vốn vô tướng, vô sinh, là thánh pháp tự chứng. Như thế sẽ được tâm tự tại, hạnh không cần dụng công, như ngọc ma ni hiện đủ thứ hình sắc, đạt lý duy tâm, tuần tự nhập vào các địa. Bởi thế, này Đại Huệ, các bậc đại Bồ Tát nên siêng tu học chân lý tự chứng này.

QUYỂN HAI

TIẾT II – THỰC HÀNH TẤT CẢ PHÁP

 

Bấy giờ Bồ Tát Đại Huệ lại bạch Phật rằng:

Bạch Thế Tôn ! Xin Thế Tôn vì con nói về các pháp môn vi diệu: Tâm, ý, ý thức (cittamanomanovijnàna), 5 pháp, ba tự tính (Svabhàvas), tướng (Laksanas). Đấy là những gì mà chư Phật, Bồ Tát – những vị đã thâm nhập cảnh giới tự tâm, lìa các hành tướng – xem là nghĩa chân thật, là nòng cốt của Phật giáo. Xin Thế Tôn thuận theo chư Phật quá khứ, vì chúng Bồ Tát trong núi này mà diễn nói cảnh giới của pháp thân, như những làn sóng của biển tạng thức.

Phật bảo Bồ Tát Đại Huệ :

Có bốn loại nhân duyên chuyển nhãn thức. Bốn nhân duyên ấy là gì ? Ấy bởi không biết sự vật do tự tâm hiện nên khởi sự nắm giữ; bởi tập khí hư vọng từ vô thỉ chấp trước sắc tướng, bởi bản tính của thức vốn như vậy, bởi ưa nhìn sắc tướng. Đại Huệ! Vì bốn duyên ấy nên thức A lại da giống như nước lũ sinh những luồng sóng thức. Về các thức khác cũng vậy. Ở nơi tất cả căn, vi trần, lỗ chân lông v.v.. chuyển thức hoặc sinh liền, như gương sáng hiện sắc hình, hoặc sinh từ từ, như gió mạnh thổi trên biển lớn. Biển Tâm cũng vậy, bị gió cảnh giới thổi làm nổi dậy những làn sóng thức, nối nhau không cùng. Đại Huệ ! Nhân, sở tác và tướng không phải một cũng không phải khác; nghiệp tướng cùng sinh tướng tương quan ràng buộc chặt chẽ. Vì không biết tự tính của sắc (thanh hương vị xúc) nên năm chuyển thức hoạt động. Đại Huệ ! Cùng với năm thức này, do nhận thức các cảnh tướng khác nhau mà ý thức sinh khởi. Nhưng các thức ấy không nghĩ  “Chúng ta đồng thời làm nhân cho nhau” mà lại khởi các cảnh giới do tự tâm hiện, rồi phân biệt chấp trước đồng thời phát sinh, chứ thật ra không có những tướng riêng biệt tự rõ biết đối tượng của mình. Đại Huệ ! Các bậc tu hành nhập chính định, vì sức mạnh tập quán nổi lên một cách vi tế khó biết, nên nghĩ là “Ta đã nhập tam muội diệt các thức.” Song kỳ thực họ nhập tam muội chưa diệt các thức, vì chưa diệt các tập khí; chỉ vì họ không chấp lấy các cảnh nên họ gọi là thức diệt. Đại Huệ, hành tướng của tạng thức rất vi tế, trừ chư Phật và Bồ Tát đã an trụ trong các địa, ngoài ra năng lực định, tuệ của nhị thừa ngoại đạo không thể biết. Chỉ có những bậc tu hành như thật, dùng trí tuệ biết rõ tướng các giai đoạn tu hành, thông đạt nghĩa  lý, rộng tu các thiện căn ở vô lượng cõi Phật, không lầm phân biệt những cảnh do tự tâm thấy... mới có thể biết được. Đại Huệ ! Các bậc tu hành ưa ở chỗ núi rừng, tu các bực cao, vừa, hay thấp, có thể thấy hành tướng của tự tâm, được chư Phật với Tam Muội tự tại thần thông lấy nước cam lộ rưới đầu, Bồ Tát vây quanh, biết rõ các cảnh giới do tâm, ý, ý thức làm nên, vượt được biển lớn vô trí (ajnàna), sinh tử, ái nghiệp. Bởi thế các ông nên gần gũi chư Phật Bồ Tát, các vị thiện trí thức tu hành như thật. Thế Tôn lại nói bài kệ:

Như ba đào biển lớn

Đều do gió mạnh thổi

Sóng lớn khua biển, ngòi

Không lúc nào dừng nghỉ

Biển tạng thức thường bị

Gió cảnh giới lay động

Khiến những luồng sóng thức

Múa nhảy mà chuyển sinh

Các màu xanh cùng đỏ

Muối, mật và thạch nhũ

Hoa, trái, ánh trời, trăng

Không khác, không không khác

Nên biết cũng như thế

Ý và bảy loại thức

Như biển cùng ba đào

Do tâm hòa hiệp sinh

Thí như nước biển động

Chuyển các luồng sóng lớn

Tạng thức cũng như thế

Sinh ra các loại thức

Tâm ý cùng ý thức

Là nói về mặt tướng

Tướng tám thức không khác

Không năng tướng sở tướng

Như biển cùng ba đào

Hai thứ không khác nhau

Các thức tâm cũng thế

Cũng không thể khác được

Tâm hay chứa các nghiệp

Ý tập họp đủ thứ

Liễu biệt gọi ý thức

Đối hiện cảnh có năm.

 

khi ấy Bồ Tát Đại Huệ hỏi Phật bằng bài tụng:

Các sắc tượng xanh đỏ

Hiện nơi thức chúng sinh

Vì sao như sóng biển ?

Xin Phật thương nói rõ.

Đức Thế Tôn đáp:

Các sắc tượng xanh đỏ

Trong sóng vốn không có

Nói tâm khởi các tướng

Để khai ngộ phàm phu

Chứ thật vốn không khởi

Tâm vốn lìa “nắm giữ”

Năng thủ và sở thủ

Cũng như sóng nước kia

Thân, nhà cửa, tư tài

Hiện nơi thức chúng sinh

Nên thấy có sinh khởi

Cùng sóng không sai khác.

Đại Huệ lại nói bài tụng:

“Tính sóng” của biển cả

Cuồn cuộn dễ phân biệt

Tạng thức khởi như thế

Vì sao không hay biết ?

Thế Tôn đáp:

A lại da như biển

Chuyển thức như sóng lớn

Là ví dụ khai diễn

Cho phàm phu vô trí.

Đại Huệ lại nói bài tụng:

Thí như mặt trời hiện

Trên dưới đều soi chiếu

Phật ngọn đèn của đời

Cũng nên vì bọn ngu

Nói nghĩa lý chân thật

Đã hay mở bày pháp

Vì sao không nói thẳng ?

Thế Tôn đáp:

Nếu nói nghĩa chân thật

Tâm kia không chân thật

Ví như sóng đại dương

Bóng trong gương, cảnh mộng

Đồng thời mà hiền hiện

Cảnh giới tâm cũng thế

Vì điều kiện không đủ

Nên tuần tự chỉ ra

Mạt na chấp hiện thức

Ý thức nhận thức ý

Năm thức rõ hiện cảnh

Không thứ lớp nhất định

Thí như người họa sư

Và học trò họa sư

Hòa màu vẽ các hình

Ta dạy cũng như thế

Họa không có trong màu

Trong bút hay trong vải

Vì làm vui chúng sinh

Tạo các hình tươi đẹp

Nói ra tất biến đổi

Chân lý lìa văn tự

Thật pháp ta an trú

Để nói cho bậc tu

Chỗ tự chứng chân thật

Lìa phân biệt năng sở

Đấy vì Bồ Tát nói

Người ngu khởi phân biệt

Các pháp đều như huyễn

Đối tượng không thể có

Nói những thứ như vậy

Tùy việc mà biến đổi

Giáo lý cho phù hợp

Không phải là giáo lý

Ví như đối bệnh nhân

Lương y tùy cho thuốc

Như Lai vì chúng sinh

Tùy căn cơ nói pháp

Chỗ chứng trí sở hành

Của đấng đời nương tựa

Không phải cảnh ngoại đạo

Hay của hàng Thanh Văn.

Lại nữa, Đại Huệ ! Nếu Bồ Tát đại hữu tình muốn biết rõ cảnh giới phân biệt năng thủ sở thủ đều do tư tâm hiện, thì hãy xa lìa sự huyên náo, hôn trầm, ngủ gật; đầu đêm giữa đêm và cuối đêm nên siêng gia công tu tập, xa lìa tụ hội, nghe tà luận ngoại đạo và các pháp nhị thừa, phân biệt các tướng do tự tâm bày đặt. Lại nữa, này Đại Huệ ! Khi bậc đại Bồ Tát đã an trú trong tâm trí tuệ, hãy siêng tu học ba tướng của thánh trí cao cả. Ba tướng ấy là gì ? Ấy là tướng “vô ảnh tượng” (Niràbhàsalaksana), tướng “nhất thiết chư Phật nguyện trì” (Sarvabuđdha-svapranidhàradhisthànalak- sana), tướng “Tự chứng Thánh trí sở thú” (pratyàtmàryajnàna- gatilaksana) (chỗ thú hướng của bậc tự chứng thánh trí). Những vị tu hành khi đạt được các tướng ấy rồi, liền xả bỏ tướng “lừa què” của trí tuệ (khanjagardabha), vào địa thứ 8 của Bồ Tát, đối với ba tướng ấy tu hành không gián đoạn. Đại Huệ ! Tướng vô ảnh tượng là sao ? Là kết quả đạt được do tu tập các pháp nhị thừa ngoại đạo. Tướng “Hết thảy chư Phật nguyện trì” là sao ? Là do bổn nguyện gia trì của chư Phật mà sinh. Tướng “Chỗ hướng đến của bậc tự chứng thánh trí” là sao ? Là do không giữ hết thảy pháp tướng mà thành tựu các thân tam muội như huyễn, đạt đến Phật địa. Đại huệ ! Ấy là ba tướng của Thánh trí cao thượng. Nếu được tướng ấy tức là đạt đến cảnh giới của Thánh trí tự chứng. Ông và các Bồ Tát nên siêng tu học. Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát nhờ uy thần của Phật, biết được ý nghĩ của các Bồ Tát trong hội chúng, liền bạch Phật:

Xin Thế Tôn vì chúng con nói rõ thánh trí đối với việc phân biệt 108 câu như thế nào ? Hết thảy chư Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Giác đều vì các Bồ Tát rơi vào tự tướng cọng tướng mà phân tích bản chất và sự sai biệt của những vọng chấp. Biết được nghĩa ấy rồi, tất sẽ thanh tịnh được hai pháp quán vô ngã, sáng tỏ các giai đoạn tu hành, vượt trên pháp lạc của định nhị thừa ngoại đạo, thấy được cảnh giới không thể nghĩ bàn của chư Như Lai. Khi ấy Bồ Tát sẽ rốt ráo xa lìa ba tự tính, năm pháp, dùng trí tuệ của pháp thân Phật mà tự trang nghiêm, thâm nhập cảnh giới như huyễn. Các vị ấy sẽ thành tựu thân Như Lai ở các cõi Đâu Suất Đà (Tusitabhavana), Sắc Cứu Cánh (Akanis-thàlaya).

Phật dạy:

Này Đại Huệ ! Có một hạng ngoại đạo thấy vạn pháp theo nhân mà diệt, liền sinh phân biệt rằng thỏ không sừng, khởi “chấp không”. Ví như sừng thỏ vốn không có, hết thảy pháp cũng thế. Lại có hạng ngoại đạo chấp “đại chủng” (bhùta), cầu na (guna) vi trần (anu) v.v.. hình lượng phân vị đều khác nhau, nên đã chấp thỏ không sừng, lại theo đó mà tưởng trâu có sừng. Đại Huệ ! Những kẻ ấy lạc vào nhị kiến, không rõ duy tâm, chỉ làm tăng trưởng sự phân biệt nơi tự tâm. Đại Huệ ! Thân, tài sản,khí thế gian v.v..tất cả đều do phân biệt mà hiện. Đại Huệ ! Nên biết sừng thỏ vốn lìa có và không, các pháp khác cũng thế, chớ sinh phân biệt. Vì sao sừng thỏ lìa hữu vô ? Vì các nhân đối đãi nhau vậy. Phân chẻ sừng trâu cho đến thành vi trần để tìm thể tính của nó rốt cuộc vẫn không nắm được. Tư duy của Thánh trí xa lìa kiến chấp ấy, bởi thế không nên phân biệt.

Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Phải chăng vì vọng kiến khởi ra tướng, rồi những người (phàm phu) kia mới so sánh phỏng đoán, vọng chấp không ?

Phật dạy:

Không phải vì đối với tướng do phân biệt khởi mà nói là không. Vì sao ? Những người kia lấy phân biệt làm sinh nhân, lấy sự phân biệt sừng làm chỗ nương của nhân ấy. Chỗ nương cho nhân ấy vốn lìa khác và không khác. Không phải do đối đãi mà chứng minh rằng sừng thỏ không có. Đại Huệ ! Nếu sự phân biệt kia khác với sừng thỏ, thì tất không phải do sừng làm nhân. Nếu nó không khác, tất phải do sừng khởi. Đại Huệ ! Chia tách sừng trâu cho đến thành cực vi mà tìm sừng cũng không có, còn khác với sừng nói không sừng thì sự phân biệt ấy tất phi lý. Cả hai (sừng trâu và sừng thỏ) đều không, thì cái gì đối đãi với cái gì ? Nếu sự đối đãi đã bất thành, chỉ đối với có mà nói sừng thỏ là không thì không nên phân biệt, vì không phải chính nhân vậy. Những người luận hữu, luận vô, chấp có chấp không, cả hai đều không thành. Đại Huệ ! Lại có những người ngoại đạo thấy sắc, hình trạng, hư không phân định rõ ràng nên sinh chấp rằng sắc khác hư không, khởi phân biệt. Đại Huệ ! Hư không chính là sắc, thuộc vào sắc. Đại Huệ ! Sắc là hư không, vì nương sắc mà có hư không, nương hư không mà có sắc. Để lập ranh giới giữa sắc, không, nên biết như thế. Đại Huệ ! Khi các đại khởi sinh vũ trụ, tự tướng của chúng khác nhau, không ở trong hư không, không phải chúng không có hư không. Đại Huệ ! Sừng thỏ cũng vậy, chính vì đối đãi với sừng trâu mà nói thỏ không sừng. Đại Huệ ! Phân tích sừng trâu cho đến vi trần, lại tách chẻ vi trần kia ra thì tướng của vi trần cũng không hiện. Vậy đối đãi với cái gì mà nói vi trần là không ? Với các vật khác cũng thế. Này Đại Huệ ! Hãy xa lìa những phân biệt về sừng thỏ sừng trâu, hư không cùng sắc... Ông và các đại Bồ Tát nên thường quán sát các tướng phân biệt do tự tâm thấy, ở các cõi hãy vì Phật tử mà nói pháp tu quán sát tự tâm.

Bấy giờ Thế Tôn nói bài tụng:

Vật tâm thấy vốn không

Chỉ do tâm mà khởi

Thân, tài vật, chỗ ở

Là bóng Tạng thức hiện

Tâm, ý, thức, tự tính

Năm pháp, hai vô ngã

Đều rốt ráo thanh tịnh

Đấy điều chư Phật nói

Dài ngắn cùng nương nhau

Xoay vần sinh lẫn nhau

Do có mà nói không

Nhân không mà nói có

Phân tích đến vi trần

Không khởi phân biệt sắc

Chỉ do tâm vọng lập

Kẻ ác kiến không tin

Đây không phải ngoại đạo

Hay Thanh Văn đã nói

Mà chính đấng cứu đời

Nói cảnh đã thân chứng

Bấy giờ Bồ Tát Đại Huệ, vì muốn thanh tịnh tâm hiện lưu nên bạch Phật:

Làm sao thanh tịnh tự tâm hiện lưu (dòng tư tưởng tuôn chảy không ngừng) của chúng sinh ? Sự thanh tịnh ấy có thứ lớp hay ngay tức thì ?

Phật dạy:

Này Đại Huệ ! thanh tịnh dần dần, không phải tức khắc. Như trái am la (àmraphala, xoài) chín lần, không chín ngay. Chư Như Lai làm cho dòng tâm thức chúng sinh thanh tịnh cũng thế, dần dần chứ không tức khắc. Như người thợ gốm làm các vật dần thành hình, không phải tức khắc. Chư Như Lai tịnh dòng tâm thức chúng sinh cũng thế, tuần tự không tức thì. Như đất lớn sinh thảo mộc cũng sinh từ từ, không sinh lập tức, chư Phật thanh tịnh dòng tâm thức tuôn chảy nơi chúng sinh cũng thế, tuần tự không phải tức thì. Đaị Huệ ! Thí như người học âm nhạc, đọc sách, vẽ, hoặc các thứ kỹ thuật, dần dần mà thành tài chứ không tức khắc, chư Phật thanh tịnh dòng tâm thức chảy xiết của chúng sinh cũng thế, không phải ngay tức thì. Ví như gương lớn hiện ngay các vật không phân biệt, chư Như Lai làm thanh tịnh dòng tâm thức của chúng sinh cũng vậy, làm hiện tức khắc hết thảy cảnh giới vô tướng không phân biệt. Như vừng nhật nguyệt soi chiếu tất cả sắc hình tượng cùng một lúc, chư Phật làm thanh tịnh tập quán lỗi lầm nơi tự tâm chúng sinh cũng thế, lập tức vì chúng sinh thị hiện cảnh giới trí tuệ bất khả tư nghì của chư Như Lai. Như tạng thức hiện ngay một lúc hết thảy cảnh giới: quốc độ, thân, tài sản; Báo Phật cũng thế (nisyandabuddha) ở cõi Sắc cứu cánh, thường tức khắc thành tựu chúng sinh, khiến chúng tu các hạnh. Như Pháp Tính Phật (Dharmatàbuddha) tức khắc hiện Báo Phật và ánh sáng quang minh của Hóa Phật (Nirmànabuddha); Thánh trí tự chứng cũng vậy, hiện ngay các pháp tướng làm ánh sáng chiếu soi, khiến lìa hết tà kiến về có và không. Lại nữa, Đại Huệ, đức Phật từ pháp tính lưu xuất (dharmatànisyandabuddha) nói tự tướng cộng tướng của hết thảy pháp, các tướng do tập khí làm nhân (vàsanàhetu) do tự tâm hiện, các tướng do vọng chấp sinh... đều là các tướng huyễn hóa lệ thuộc lẫn nhau, không có tự tính. Những gì chúng sinh chấp thật có đều không thể nắm giữ (bất khả đắc). Lại nữa, Đại Huệ ! Tính vọng kế (parikatantrasvabhàva) là do chấp trước vào tính duyên khởi mà sinh. Đại Huệ ! Thí như thầy phù thủy dùng huyễn thuật lấy cỏ cây ngói gạch tạo ra bao nhiêu hình tượng chúng sinh, khiến cho người thấy liền phân biệt các sự vật, mà kỳ thật không có gì. Đại Huệ ! Đây cũng vậy. Do  thói quen cố chấp cảnh giới là thật, nên trong các pháp do duyên khởi lại có ra các tướng vì vọng chấp mà hiện, ấy gọi là phát sinh vọng kế. Đại Huệ ! Đấy là pháp tướng mà chư Phật pháp tính đã nói. Đại Huệ, Phật Pháp Tính kiến lập các cảnh giới của tự chứng trí, lìa tướng do tự tâm hiện. Đại Huệ ! Hóa Phật nói các pháp: Bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ, uẩn, giới, xứ, cùng các phương pháp giải thoát các hành tướng của thức, kiến lập sai biệt, vượt trên kiến chấp của ngoại đạo, siêu việt hạnh vô sắc. Lại nữa, Đại Huệ ! Phật Pháp tính không vịn vào đâu cả, xa lìa hết thảy các tướng: sở duyên, sở tác, căn, lượng... không phải cảnh giới mà phàm phu, nhị thừa và ngoại đạo ưa chấp ngã thường quan niệm. Bởi thế, Đại Huệ, ông nên siêng tu học cảnh giới thù thắng của bậc Tự Chứng Thánh Trí, nên mau xa lìa các tướng do tự tâm hiện, do kiến chấp phân biệt. Lại nữa, Đại Huệ ! Thanh văn thừa có hai tướng sai biệt, ấy là tướng Tự Chứng Thánh Trí thù thắng, và tướng phân biệt chấp trước tự tính. Sao gọi là tướng “Tự chứng Thánh trí thù thắng” (pratyàtmàdhi-gamavisesalaksana)? Ấy là nhân thấy rõ cảnh giới các đế khổ, không, vô thường, vô ngã, mà lìa ham muốn, trở nên vắng lặng; biết rõ một cách chân thật các tướng bất hoại ở ngoài uẩn, giới, xứ hoặc tự hoặc cọng, nên tâm trụ vào một chỗ. Khi tâm đã an trú vào một cảnh thì sẽ được các đạo quả thiền định, giải thoát, tam muội... mà được hạnh viễn ly. Họ an trú trong pháp lạc của cảnh giới do Thánh trí tự chứng, song vẫn chưa lìa được tập khí và những hình thái “biến dị sinh tử” khó nghĩ bàn, nên gọi là tướng Tự chứng thánh trí của Thanh Văn thừa. Các bậc đại Bồ Tát tuy cũng được cảnh giới Thánh trí tự chứng ấy, nhưng vì thương xót chúng sinh, giữ tròn bản nguyện nên không thể chứng pháp môn tịch diệt cùng pháp lạc tam muội. Các đại Bồ Tát không tu học pháp lạc tự chứng thánh trí ấy. Đại Huệ ! Sao gọi là tướng “phân biệt chấp trước tự tính”? Ấy là biết các pháp như cứng, ẩm, động, xanh, vàng, đỏ, trắng v.v.. đều không do một tác giả sinh, nhưng lại y cứ vào sự giảng dạy, lý luận mà có tự tướng cọng tướng và khởi phân biệt chấp trước, ấy gọi là tướng phân biệt của Thanh Văn. Các vị đại Bồ Tát đối với các pháp ấy nên biết, nên xa lìa kiến chấp nhân vô ngã, nhập vào tướng “pháp vô ngã” dần dần an trú trong các địa vị tu hành.

Bồ Tát Đại Huệ bạch Phật :

Bạch Thế Tôn ! Như Lai nói cảnh giới đệ nhất nghĩa của Thánh trí tự chứng là “Thường còn, không thể nghĩ bàn”, há không giống với ngoại đạo bảo đấng Tạo hóa của họ cũng thường còn, không thể nghĩ bàn đấy hay sao ?

Đại Huệ ! Đấy không phải là tướng thường bất tư nghì mà đấng tạo hóa ngoại đạo có. Vì sao ? Bởi vì, Đại Huệ, tướng thường bất tư nghì của ngoại đạo là do tự tướng, không do nhân thành. Đã do tự tướng, thì lấy gì chứng minh cái thường bất tư nghì ? Đại Huệ ! Cái thường bất tư nghì của ngoại đạo nói nếu do tự tướng thì tất nó hữu thường, song vì lấy đấng tạo hóa làm nhân nên không thành thường bất tư nghì. Đại Huệ ! Đệ nhất nghĩa thường bất tư nghì của ta, xa lìa có, không. Nó có đặc tính riêng của nó vì là cảnh giới do thánh trí tự chứng. Nó do đệ nhất nghĩa làm nhân nên có nhân. Nó lìa có, không, nên không phải là tác giả. Vì nó như hư không, tịch diệt của Niết Bàn, nên thường bất tư nghì của ta nói không giống với chỗ tranh luận của ngoại đạo. Đại Huệ này, cái thường bất từ nghì của ta là chân lý do thánh trí chư Như Lai tự chứng, nên Bồ Tát hãy siêng tu học. Lại nữa, Đại Huệ, nghĩa thường bất từ nghì của ngoại đạo là nhân trái với vô thường mà nói thường, không phải do tự tướng. Đại Huệ ! Nghĩa thường bất tư nghì của ngoại đạo là do thấy các pháp sinh ra có rồi hoàn không, bởi đó vô thường, so đấy mà nói thường. Ta cũng thấy các pháp sinh ra có rồi lại không, bởi đó vô thường, nhưng không vì thế mà nói nghĩa thường. Đại Huệ ! Nếu ngoại đạo lấy tướng nguyên nhân mà thành thường bất từ nghì, thì tướng nguyên nhân ấy vốn không có, cũng như sừng thỏ; cái thường bất từ nghì chỉ là phân biệt, chỉ có trên danh từ. Vì sao? Vì cái nhân ấy cũng như sừng thỏ, không có đặc tính của tự nhân vậy. Đại Huệ ! Thường bất từ nghì của ta lấy tự chứng làm nhân, không lấy pháp bên ngoài có rồi hoàn không – vô thường – mà làm nhân. Ngoại đạo, trái lại, chưa từng biết tướng của tự nhân thường bất từ nghì, mà thường ở bên ngoài cảnh giới của Thánh Trí Tự Chứng.

Lại nữa, Đại Huệ ! Các hàng Thanh Văn vì sợ sinh tử, vọng tưởng, khổ (samsàravikalpadukkha) mà cầu Niết Bàn, không biết tất cả tướng sai biệt giữa Niết Bàn Sinh Tử đều do hư vọng phân biệt mà có, chứ thật vốn không. Thanh Văn vọng chấp rằng trong tương lai các căn, cảnh đều diệt, cho đó là Niết Bàn, mà không biết cảnh giới của trí tự chứng, là chuyển tạng thức bị hạn cuộc thành Đại Niết Bàn. Những người ngu kia nói có 3 thừa, không nói ngoài tâm không cảnh. Những người ấy không biết cảnh giới tự tâm mà chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều nói, lại chấp trước cảnh ngoài tâm, nên thường trôi lăn không cùng trong sinh tử. Lại nữa, Đại Huệ ! Chư Như Lai vì sao nói hết thảy pháp quá khứ hiện tại vị lai không sinh (anutpanna) ? Vì cảnh do tự tâm thấy đều không có tự tính, lìa có không, nên nói vô sinh, như sừng thỏ, sừng ngựa v.v.. mà phàm phu vọng chấp. Cảnh giới vô sinh này là cảnh của bậc Tự chứng trí, không phải của hạng ngu phu phân biệt nhị nguyên. Đại Huệ ! Thân, tài sản, khí thế gian, v.v.. tất cả đều là bóng dáng của tạng thức, năng thủ sở thủ (gràhyagràha- ka) đồng hiện khởi. Hàng ngu phu theo hai kiến chấp về sinh, trú, diệt, mà vọng khởi phân biệt hữu, vô. Đại Huệ ! Ông nên siêng năng tu học nghĩa này.

Lại nữa, này Đại Huệ ! Có năm loại chủng tính là: Chủng tính Thanh Văn, chủng tính Duyên Giác, chủng tính Như Lai, chủng tính bất định và vô chủng tính. Đại Huệ ! Sao biết được là chủng tính Thanh Văn thừa? Những người khi nghe nói tự tướng, cọng tướng, uẩn, giới, xứ, hoặc biết hoặc chứng, thì lông tóc dựng ngược, khao khát tu tập; nhưng đối với lý duyên khởi thì không thích quán sát, nên biết đấy là chủng tính Thanh Văn thừa. Những người ấy khi đã thấy chỗ mình chứng được, ở vào địa thứ năm thứ sáu, thì dứt được trói buộc của phiền não song chưa đoạn được tập khí phiền não. Họ vẫn vướng vào “bất tư nghì tử” – cái chết không thể nghĩ bàn. Tiếng rống như sư tử của họ là: “Sinh đã tận, phạm hạnh đã hoàn thành, việc nên làm đã xong, không còn thọ thân sau.” Họ tu tập “nhân vô ngã” sinh tâm cho mình đã đạt Niết Bàn.

Đại Huệ ! Lại có chúng sinh cầu chứng Niết Bàn, tự nói đã biết tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, cho đấy là Niết Bàn. Lại có những người nói: Thấy các pháp thảy đều do nguyên nhân sinh ra, đó là Niết Bàn. Đại Huệ ! Những kẻ ấy không giải thoát, vì chưa thể thấy pháp vô ngã vậy. Đó là chủng tính Thanh Văn thừa, ngoại đạo, chưa giải thoát mà cho mình đã giải thoát. Ông hãy siêng tu tập xả bỏ ác kiến này. Đại Huệ ! Sao biết được chủng tính duyên giác thừa? Ấy là những người khi nghe nói 12 nhân duyên thì lông tóc dựng đứng, động lòng rơi lụy, xa lìa huyên náo, không đam mê gì nữa. Khi nghe nói hiện các thứ thân hoặc tụ hoặc tán, các việc thần thông biến hóa, thì tâm họ tin chịu, không phản đối. Nên biết đấy là chủng tính Duyên Giác; hãy nói pháp Duyên Giác thừa cho họ. Đại Huệ ! Các pháp mà chủng tính Như Lai thừa chứng được thuộc ba loại: Ấy là pháp “tự tính vô tự tính”, pháp “nội thân tự chứng Thánh Trí” và pháp “thấy hết thảy các cõi Phật ở ngoài.” Đại Huệ ! Nếu có người nghe nói mỗi mỗi pháp này cho đến pháp “thân, nhà cửa, tài sản đều do tự tâm hiện,” nghe nói cảnh giới không thể nghĩ bàn của thức A-lại-gia mà không sợ, không kinh khiếp hãi hùng, nên biết người ấy thuộc chủng tính Như Lai. Đại Huệ ! Bất định chủng tính là gì? Ấy là khi nghe nói về ba thừa trên đây đều có thể khởi phát lòng tin, muốn tu học. Đại Huệ ! Ta vì các hạng người mà so sánh các giai đoạn tu tập, nói các chủng tính, vì muốn khiến họ an trú trong cảnh giới vô ảnh tượng nên kiến lập như thế. Đại Huệ ! Những người Thanh Văn an trú trong pháp lạc tam muội, nếu chứng được thức bị duyên của mình, thấy được pháp vô ngã, sạch tập khí phiền não, thì rốt cuộc cũng sẽ được thân Như Lai. “Thế Tôn liền nói bài tụng:

Quả Dự Lưu, Nhất lai

Bất hoàn, A la hán

Những thánh nhân như thế

Tâm họ đều mê hoặc

Ba thừa ta lập ra

Một thừa đến không thừa

Vì kẻ ngu trí nhỏ

Vì bậc Thánh ưa tịch

Pháp môn đệ nhất nghĩa

Xa lìa cả hai chấp

Trong chỗ vô cảnh giới

Làm sao lập ba thừa?

Các thiền cùng vô lượng

Vô sắc tam ma đề (àrùpya samadhi)

Cho đến diệt thọ tưởng

Đều không ở ngoài tâm

Lại nữa Đại Huệ, tại sao hạng Nhất xiển đề (Icchantika) đối với pháp giải thoát không sinh vui thích? Đại Huệ ! Vì họ đã bỏ mất hết căn lành, hoặc vì từ vô thủy đã khởi nguyện độ chúng sinh. Sao gọi là bỏ mất hết căn lành? Ấy là những người chê bai các tạng kinh của Bồ Tát, cho rằng không hợp với Khế kinh, với sự điều phục và giải thoát. Như vậy là đoạn hết căn lành, không nhập niết bàn được. Sao gọi là từ vô thỉ vì chúng sinh khởi nguyện ? Ấy là những Bồ Tát dùng phương tiện bản nguyện, nguyện cho hết thảy chúng sinh đều vào Niết Bàn, nếu còn một chúng sinh chưa vào thì Bồ Tát cũng không vào. Hạng này cũng ở trong đường của Nhất xiển đề, không có tướng của chủng tính Niết Bàn.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Trong hai hạng đó rốt cùng ai không vào Niết Bàn?

Phật dạy:

Những Bồ Tát Nhất xiển đề kia vì biết rõ hết thảy pháp xưa nay vốn là Niết Bàn, nên rốt cuộc không nhập. Song hạng Nhất xiển đề đã bỏ các thiện căn thì hoặc sẽ nhờ uy lực Phật, hoặc có khi phát sinh thiện căn. Vì sao? Vì Phật không bao giờ bỏ rơi một chúng sinh nào. Cho nên chỉ có Bồ Tát Nhất xiển đề là không nhập Niết Bàn. Lại nữa Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình nên biết rõ tướng của 3 tự tính (svabhàva). Ba tự tính ấy là gì? Ấy là vọng kế, duyên khởi và viên thành. Đại Huệ, vọng kế tự tính là do tướng sinh. Sao là do tướng sinh? Ấy là nương theo các sự tướng duyên khởi hiện ra các chủng loại mà sinh chấp trước, so đo. Đại Huệ ! Sự kế trước ấy sinh hai thứ vọng kế tính, ấy là những gì chư Như Lai diễn nói: danh tướng kế trước và sự tướng kế trước. Sự tướng kế trước là chấp các pháp trong và ngoài cho là thật có, danh tướng kế trước là đối các pháp trong và ngoài ấy, chấp có tự tướng cọng tướng. Ấy là hai thứ vọng kế. Đại Huệ ! Do duyên sở y mà khởi lên, ấy gọi là tính duyên khởi. Sao gọi là viên thành tự tính? (Parnispannasvabhàva) Ấy là chân như mà đấng tự chứng Thánh trí đạt được, lìa hết thảy danh tướng, sự tướng. Đại Huệ ! đấy là tự tánh viên thành, Như Lai tạng tâm.

Đức Thế Tôn bèn nói bài tụng:

Phân biệt danh tướng

Là tướng tự tính

Chính trí chân như

Là tính viên thành

Đại Huệ ! đấy là pháp môn quán sát 5 pháp, hai tự tính, là cảnh giới của bậc Tự Chứng Thánh Trí. Ông cùng các Bồ Tát đại hữu tình nên siêng tu học. Lại nữa, này Đại Huệ, Bồ Tát nên quán sát hai tướng vô ngã. Hai tướng ấy là gì? Là tướng nhân vô ngã, tướng pháp vô ngã. Đại Huệ, sao gọi là tướng nhân vô ngã? Ấy là uẩn, xứ, giới, lìa ngã, ngã sở, vì ngu si và ái nghiệp mà sinh các thức như nhãn v.v.. Do sắc, thanh... mà sinh chấp trước. Lại thân và khí thế gian mà tự tâm thấy đều do tạng tâm biến hiện, từng giây phút tiếp nhau biến hoại không ngừng. Như dòng sông, như hạt giống, như ánh đèn, như gió qua mau, như mây nổi. Nó động chuyển không an như vượn khỉ, ưa chỗ dơ uế như ruồi nhặng, không biết chán đủ như lửa mạnh. Nó lấy tập quán tà ác từ vô thỉ làm nhân, nên trôi lăn các cõi không ngừng như bánh xe kéo nước, cuốn theo các loại thân hình, như thây chết do mãnh lực bùa chú mà cử động, lại như người gỗ do máy mà chuyển động. Nếu biết rõ tướng của tự thân là như vậy, thì gọi là trí “nhân vô ngã” (Putgalarairàtnyajnàra). Đại Huệ ! Sao gọi là trí pháp vô ngã? Ấy là biết uẩn, giới, xứ là tính vọng chấp. Nguyên uẩn, giới, xứ vốn lìa ngã, ngã sở, chỉ vì sợi dây trói buộc của ái và nghiệp tích tụ làm duyên cho nhau mà sinh khởi, không có tác giả. Uẩn giới xứ cũng thế, lìa tự tướng cọng tướng. Những hiện tượng giả dối đủ loại hiện ra chỉ có phàm phu mới phân biệt, thánh giả thì không. Quan sát các pháp như vậy nên lìa tâm, ý, ý thức, 5 pháp, 3 tự tính, ấy gọi là trí pháp vô ngã của Bồ Tát đại hữu tình. Khi được trí ấy thì biết không có cảnh giới, hiểu rõ tướng các giai đoạn tu hành. Bồ Tát liền nhập sơ địa, tâm sinh vui mừng, tuần tự tiến dần lên đến bực Thiện Huệ và Pháp Vân. Các việc phải làm đều thành tựu, ở địa vị ấy có hoa sen báu lớn cùng các báu trang nghiêm, trên hoa có cung điện báu hình hoa sen, do Bồ Tát tu pháp môn như huyễn mà thành tựu. Bồ Tát ngồi trên hoa sen được các Bồ Tát đồng hàng vây quanh, được chư Phật từ các cõi Phật đưa tay rưới đầu bằng nước cam lồ như rưới cho con vua chuyển luân. Khi vượt qua giai đoạn cuối cùng của Bồ Tát địa, Bồ Tát thành tựu pháp thân tự tại của Như Lai. Đại Huệ ! ấy gọi là tướng “thấy pháp vô ngã”. Ông và các Bồ Tát nên siêng tu học.

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:

Bạch đức Thế Tôn, xin vì con giảng nói tướng lập và phá (samàropàpavà- da- laksana) khiến con cùng các Bồ Tát lìa các kiến chấp ấy, mau được Vô Thượng Bồ Đề. Khi ấy, con sẽ phá được sự chấp thường (lập) và chấp đoạn (phá), đối với chính pháp không sinh hủy báng.

Phật nhân lời thưa thỉnh của Đại Huệ Bồ Tát mà nói bài kệ tụng như sau:

Thân, tài vật, chỗ ở

Đều là bóng của tâm

Phàm phu không biết được

Khởi kiến lập, bác bỏ

Mọi pháp do tâm khởi

Lìa tâm không có được

Đức Thế Tôn muốn nói rõ lại nghĩa ấy, bảo Bồ Tát Đại Huệ : Có 4 kiến lập (cho là có, những cái vốn là không), đó là không tướng lập có tướng, không kiến lập có kiến, không nhân lập có nhân, không tính lập có tính. Đại Huệ ! Còn hủy báng (phá) là sao? Ấy là các pháp do tà kiến lập ra đều không tự tính, vì không khéo quán sát nên sinh hủy báng (chối bỏ). Đấy là tướng kiến lập và hủy báng (xác định cùng phủ định). Này Đại Huệ ! Sao gọi là không tướng lập có tướng? Ấy là tự tướng, cọng tướng của uẩn, giới, xứ vốn không, mà lại sinh ra kế chấp cho nó như thế này, không thế khác. Những phân biệt ấy đều do ác tập từ vô thỉ sinh ra. Đấy gọi là không tướng lập có tướng. Sao gọi là không kiến lập có kiến? Ấy là từ uẩn giới xứ, đặt ra các quan niệm ngã, nhân, chúng sinh v.v.. Sao gọi là không nhân lập có nhân? Ấy gọi là sơ thức (pràgvijnàna) trước kia vốn vô nhân, bất sinh, sơ thức ấy vốn không, mà sau vì mắt, sắc, ánh sáng, niệm v.v.. làm nhân như huyễn sinh, sinh rồi có, có rồi hoàn diệt. Ấy là không nhân lập có nhân. Sao gọi là không tính lập có tính? Ấy là chấp trước các pháp vốn vô tác như hư không, Niết Bàn không phải thường diệt. Đại Huệ ! Những pháp này lìa tính phi tính, hết thảy pháp đối với có và không chỉ như bụi lông, sừng thỏ, ngựa... Ấy là không tính lập có tính. Đại Huệ ! Kiến lập và bác bỏ đều do kẻ phàm phu không hiểu duy tâm tạo, nên sinh phân biệt. Bậc thánh không làm thế. Các ông nên quán sát để xa lìa kiến chấp ấy. Này Đại Huệ, Bồ Tát khi đã biết tâm, ý, ý thức, 5 pháp, 3 tự tính, 2 vô ngã, thì sẽ vì chúng sinh, hiện các loại thân hình, như ngọc ma ni hiện các màu tùy tâm. Các Bồ Tát ấy đi vào các Phật hội, nghe Phật dạy các pháp như huyễn, như mộng, như bóng, như hình trong gương, như trăng đáy nước, xa lìa sinh diệt, đoạn thường. Không ở trong đường Thanh Văn và Bích Chi Phật, nghe xong chư Bồ Tát ấy thành tựu vô lượng trăm ngàn ức na do tha định. Được các định ấy rồi, họ du hành khắp các cõi Phật, cúng dường chư Phật, sinh lên các cõi trời để làm sáng tỏ ngôi Tam Bảo. Họ hiện thân Phật vì đại chúng Thanh Văn Bồ Tát mà nói pháp duy tâm khiến xa lìa các chấp hữu, vô. Bấy giờ Thế Tôn nói bài tụng:

Phật tử hay quán thấy

Thế gian không ngoài tâm

Hiện ra đủ loại thân

Việc làm không ngăn ngại

Sức thần thông tự tại

Tất cả đều viên thành

Bồ Tát Đại Huệ lại thỉnh Phật:

Xin Thế Tôn vì con nói tướng không, vô sinh, vô nhị, vô tự tính của vạn pháp. Con và các Bồ Tát ngộ được tướng ấy, sẽ lìa phân biệt hữu vô, mau thành Vô Thượng Bồ Đề.

Phật dạy:

Hãy nghe kỹ, ta sẽ nói cho ông. Đại Huệ ! “Không” ấy là tính vọng chấp. Đại Huệ ! Vì chấp trước, vọng kế nơi tự tính nên nói không, vô sinh, vô nhị, vô tự tính. Đại Huệ ! Lược nói tính không có bảy: tướng không, tự tính không, vô hành không, hành không, nhất thiết pháp bất khả thuyết không, đệ nhất nghĩa thánh đế không, bỉ bỉ không. Tướng không là tự tướng cọng tướng của tất cả pháp đều không, chỉ xoay vần tích tụ đối đãi lẫn nhau mà hiện ra, nếu phân tích đến cùng thì không có gì. Không tự sinh, không tha sinh không vừa tự vừa tha, rốt ráo bất sinh. Tự tướng cọng tướng không sinh cũng không trú, nên gọi hết thảy pháp tự tướng vốn không. Sao gọi là tự tính không? Ấy là hết thảy pháp tự tính vốn không sinh, nên gọi là tự tính không. Sao gọi là vô hành không? Là các uẩn bản lai vắng lặng, không hành động tạo tác, nên gọi là vô hành không. Sao là hành không? Là các uẩn do nghiệp và nhân hòa hợp mà sinh, lìa ngã, ngã sở, nên gọi là hành không. Sao là nhất thiết pháp bất khả thuyết không? Là tự tính của hết thảy các vọng chấp không thể nói hết, nên gọi là bất khả thuyết không. Sao là đệ nhất nghĩa thánh trí đại không? Là khi được tự chứng thánh trí, thì lìa được tất cả tập khí lầm lạc, kiến chấp. Ấy gọi là đệ nhất nghĩa thánh trí đại không. Sao là bỉ bỉ không? Là cái này không cái kia (emptiness of mutual nonexistence – Suzuki). Thí như trong giảng đường không có quạ, ngựa, trâu, dê, v.v.. ta nói giảng đường kia không, không phải là không có chúng tỳ kheo. Đại Huệ, không phải là phòng không có tự tính của phòng, không phải tỳ kheo không có tự tính của tỳ kheo, không phải các nơi khác không có quạ, ngựa, trâu, dê. Này Đại Huệ, Tự tướng cọng tướng của các pháp đều nương nhau mà có, nhưng thực chất là không nên gọi là bỉ bỉ không.

Lại nữa Đại Huệ, vô sinh là trí thể không sinh, chứ không phải là bất sinh, trừ khi ở trong định. Vì vô sinh nên theo ý nghĩa sâu xa chính là vô tự tính. Đại Huệ, hết thảy pháp không tự tính, vì không sát na nào ở yên, vừa trông thấy, nó đã đổi khác, nên gọi là vô tự tính. Sao là không hai tướng? Đại Huệ ! Như sáng tối, ngắn dài, đen trắng, đều đối đãi nhau mà lập, một mình thì không thành. Đại Huệ ! Không phải ngoài sinh tử có Niết Bàn, không phải ngoài Niết Bàn có sinh tử, sinh tử và Niết Bàn không phải là hai tướng đối nghịch. Như sinh tử và Niết Bàn, hết thảy pháp đều như vậy, Ấy gọi là không hai tướng. Đại Huệ này, các tướng không, vô sinh, không hai, vô tự tính, ông nên siêng tu học. Khi ấy Thế Tôn lại nói bài tụng:

Ta thường nói pháp “không”

Xa lìa hẳn đoạn, thường

Sinh tử như huyễn mộng

Mà nghiệp cũng không tan

Hư không và Niết Bàn

Hai diệt cũng như thế

Phàm phu vọng phân biệt

Thánh giả lìa hữu, vô

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Đại Huệ Bồ Tát:

Đại Huệ ! Tướng không, vô sinh, không hai, vô tự tính ấy, có thể tìm thấy trong kinh của chư Phật nói. Đại Huệ ! Kinh tùy thuận tâm chúng sinh mà nói, nhưng chân lý không nằm trong lời. Thí như những con thú bị quáng nắng tưởng thấy nước mà thật không có nước, những gì các kinh nói cũng thế, chỉ thuận theo phân biệt của ngu phu, khiến chúng sinh hoan hỷ, đều không phải là các pháp hiển bày chỗ chứng chân thật của Thánh Trí. Đại Huệ, hãy theo nghĩa, không nên bám vào lời.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật:

Bạch đức Thế Tôn ! Trong kinh nói bản tính Như Lai tạng vốn thanh tịnh, hằng tồn không dứt, không biến dịch, đủ 32 tướng, ở trong tất cả thân chúng sinh, bị quấn trong lớp áo dơ uế của uẩn giới xứ, bị ô nhiễm vì tham, nhuế, si... và sự phân biệt hư vọng, như ngọc vô giá bọc trong áo dơ. Ngoại đạo thì nói ngã là tác giả thường trú, lìa câu na (guna, đức), tự tại, bất diệt. Như Lai tạng mà Thế Tôn dạy không phải giống như Ngã của ngoại đạo sao?

Phật dạy:

Này Đại Huệ ! Như Lai tạng do ta nói không giống Ngã ngoại đạo nói. Đại Huệ ! Như Lai dùng các nghĩa tính không, thật tế, Niết Bàn, bất sinh, vô tướng, vô nguyện v.v.. mà diễn tả Như Lai tạng. Vì muốn ngu phu lìa sợ hãi đối với vô ngã mà nói pháp môn Như Lai tạng, vô phân biệt, vô ảnh tượng. Các Bồ Tát vị lai, hiện tại không nên do đó mà chấp ngã. Đại Huệ ! Thí như thợ gốm do đất sét, nhân công, nước gỗ, mà làm ra các vật dụng, Như Lai cũng thế, vì để giảng dạy pháp môn viễn ly hết thảy tướng phân biệt, vô ngã, mà phải dùng trí tuệ phương tiện khéo, sử dụng các danh từ khác nhau như khi thì nói Như Lai tạng, khi thì nói vô ngã v.v... Đại Huệ ! Ta nói Như Lai tạng là để nhiếp phục ngoại đạo chấp ngã, khiến lìa tà kiến, thâm nhập 3 giải thoát, mau chứng Vô Thượng Bồ Đề. Vì thế Như Lai tạng mà chư Phật nói không giống với Ngã của ngoại đạo. Muốn xa lìa tà kiến ngoại đạo, ông nên biết nghĩa Như Lai tạng là vô ngã. Khi ấy Thế Tôn nói bài tụng:

Uẩn tương tục và người

Các duyên và vi trần

Thắng, tự tại, tác giả

Đều do tâm phân biệt

Bồ Tát Đại Huệ quán chúng sinh đời vị lai mà hỏi Phật rằng:

Bạch Thế Tôn, xin vì con nói pháp tu đầy đủ để thành tựu bậc đại tu hành như các Bồ Tát đại hữu tình.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình đủ 4 điều kiện thì thành bậc đại tu hành, ấy là:

Quán sát cảnh tự tâm hiện.

Xa lìa kiến chấp sinh, trú, diệt.

Biết rõ các pháp do tâm sinh vốn không có tự tính.

Chuyên cầu tự chứng Thánh Trí.

Nếu các Bồ Tát thành tựu bốn pháp ấy thì gọi là bậc đại tu hành. Đại Huệ! Sao là quán sát cảnh tự tâm hiện? Là quán 3 cõi không ngoài tâm, lìa ngã, ngã sở, không có hành động tạo tác, không đến đi, chỉ do tập khí chấp trước từ vô thỉ huân thành. Bồ Tát quán sát cảnh tự tâm hiện như thế. Đại Huệ ! Sao gọi là lìa cái thấy sinh trú diệt? Ấy là quán sát hết thảy pháp như huyễn mộng sinh, không tự sinh, không cọng sinh, không tự tha cùng sinh, chỉ do tự tâm hiện. Thấy ngoại vật không thực có, thấy các thức không sinh, các duyên không tích tụ, thấy do phân biệt mà có ra ba cõi. Quán sát như thế, hoặc ở trong hoặc ở ngoài, các pháp đều bất khả đắc, biết rõ không có thể tính chân thật, nên xa lìa kiến chấp về sinh, chứng tính như huyễn. Khi ấy Bồ Tát liền được vô sinh pháp nhẫn, an trú địa thứ 8, hiểu rõ tâm, ý, thức, 5 pháp, 3 tự tính, 2 vô ngã, chuyển thức sở y, được thân ý sinh.

Đại Huệ nói:

Bạch Thế Tôn ! Sao gọi là thân ý sinh?

Đại Huệ ! Thân ý sinh nghĩa là, như ý đi rất mau, không bị chướng ngại, gọi là thân ý sinh. Này Đại Huệ ! Thí như tâm ý nhớ đến các sự vật đã thấy được trước kia ở cách ngoài vô lượng trăm ngàn do tuần, niệm niệm nối tiếp không dứt liền đi đến chỗ ấy, không bị thân và sông núi đá tường ngăn ngại. Thân ý sinh cũng thế, được năng lực “như huyễn tam muội” thần thông tự tại, các tướng trang nghiêm, nhớ đến lời nguyện thành tựu chúng sinh nên liền đi nhanh như ý mà sinh vào tất cả Thánh chúng. Ấy gọi là Bồ Tát được xa lìa sinh, trú, diệt. Đại Huệ ! Sao là quán sát các pháp bên ngoài đều không tính? Ấy là quán hết thảy pháp như ảo tượng, như chiêm bao, như mao luân. Do hí luận, chấp trước, tập khí hư vọng từ vô thỉ làm nhân. Quán sát tất cả pháp đều thế, rồi chuyên cầu Thánh Trí Tự Chứng. Đại Huệ ! Ấy gọi là Bồ Tát đủ 4 pháp thành bực đại tu hành. Ông nên theo đó siêng năng tu học.

Đai Huệ Bồ Tát lại bạch:

Nguyện xin Thế Tôn vì con nói nhân duyên của hết thảy các pháp, khiến con và các Bồ Tát liễu đạt nghĩa ấy, sẽ xa biên chấp hữu, vô, không vọng chấp các pháp sinh từ từ hay sinh lập tức.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Hết thảy các pháp do duyên sinh khởi. Có hai thứ duyên, trong và ngoài. Ngoài là các duyên như đất sét, nước, gậy, dây, nhân công v.v.. làm thành cái bình. Như bình làm bằng đất sét, hay vải làm bằng sợi tơ, hay tấm thảm làm bằng cỏ, hay mầm sinh từ hạt giống, “gia ua” sinh từ sữa... tất cả đều như vậy, gọi là duyên bên ngoài. Trong là vô minh, ái, nghiệp v.v.. sinh các pháp uẩn, giới, xứ ấy là duyên bên trong. Đây là do ngu phu phân biệt mà thành có. Đại Huệ, nhân có 6 thứ : 1. Đương hữu, 2. Tương thuộc, 3. Tướng, 4. Năng tác, 5. Hiển liễu, 6. Quán đãi. “Đương hữu” là các pháp trong ngoài làm nhân sinh ra quả. “Tương thuộc” là các pháp trong ngoài làm duyên sinh ra quả, các chủng tử uẩn v.v.. “Tướng” là làm cho các tướng không gián đoạn, sinh ra quả tương tục. “Năng tác” là nhân tối thắng để sinh quả như chuyển luân vương. “Hiển liễu” là khi phân biệt sinh, làm cho cảnh tượng hiện rõ như đèn soi các vật. “Quán đãi” là khi hoại diệt thì tương tục cũng dứt, không còn sinh vọng tưởng. Đại Huệ ! Đây là do ngu phu tự phân biệt, không phải sinh từ từ cũng không phải sinh tức khắc. Tại sao, nếu như sinh tức khắc thì thành ra năng tác và sở tác không khác nhau, không thể tìm tướng “nhân” của nó. Còn nếu sinh từ từ thì tìm cái thể của nó không được, như chưa sinh con sao gọi là cha? Người lý luận cho rằng vì các nhân duyên (hetipratyaya), sở duyên duyên (àram- banapratyaya), vô gián duyên (nirantarapratyaya), tăng thượng duyên (ad- hipatipratyaya) v.v.. sở sinh, năng sinh lệ thuộc lẫn nhau, nên theo thứ tự sinh dần. Lý ấy không vững, đều là vọng tình chấp trước. Đại Huệ ! Dần dần hay tức khắc đều không sinh, chỉ có tâm hiện ra thân, tài sản v.v.. Ngoài tự tướng cọng tướng ra không có tính, chỉ vì các thức khởi, các kiến tự phân biệt mà thôi. Đại Huệ, do đấy ông nên xa lìa các kiến chấp tiệm sinh hay đốn sinh, đối với các tướng do nhân duyên hòa hợp thành.

Khi ấy đức Thế Tôn nói bài tụng:

Hết thảy pháp không sinh

Lại cũng không có diệt

Trong các thứ duyên kia

Phân biệt tướng sinh diệt

Không ngăn các duyên hội

Diệt cùng sinh như thế

Mà phải dứt vọng tình

Của phàm phu chấp trước

Hữu, vô của duyên sinh

Đều rốt ráo không sinh

Tập khí mê chuyển tâm

Do đó ba cõi hiện

Bản lai không vật sinh

Lại cũng không có diệt

Quán các pháp hữu vi

Đều như hoa đốm sinh

Lìa năng thủ sở thủ

Và kiến chấp sai lầm

Không năng sinh sở sinh

Lại cũng không nhân duyên

Chỉ thuận theo thế tục

Mà nói có sinh diệt


QUYỂN BA

CHƯƠNG II

TIẾT III – TU TẬP HẾT THẢY PHÁP

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Xin Thế Tôn vì con nói pháp môn tinh yếu của sự phân biệt ngôn thuyết, để con và chư Bồ Tát đại hữu tình biết rõ điều ấy, thông đạt hai nghĩa năng thuyết sở thuyết, mau thành Vô Thượng Bồ Đề, khiến các chúng sinh được thanh tịnh đối với hai nghĩa ấy.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Có 4 thứ ngôn thuyết, ấy là:  1. Lời do tướng,      2. Lời do mộng,

3. Lời do chấp trước lỗi lầm,   4. Lời do vô thỉ vọng tưởng. Đại Huệ ! Lời do tướng là lời nói do chấp văn tự và do phân biệt sắc tướng. Lời nói mộng là lời nói do mộng thấy các cảnh, khi tỉnh nhớ lại, không theo cảnh thật có. Lời do chấp trước lỗi lầm là nhớ lại oán thù và những việc đã làm, rồi nói. Lời do vô thỉ vọng tưởng là lời nói do tập khí vọng chấp từ vô thỉ ưa hí luận. Đó là 4 thứ ngôn thuyết.

Đại Huệ bạch:

Bạch Thế Tôn ! Xin vì con nói các hành tướng của ngôn ngữ ở nơi nào, vì duyên cớ gì, tại sao khởi phân biệt?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Do đầu, ngực, yết hầu, lỗ mũi, môi, răng, lưỡi hòa hiệp khởi ra lời nói.

Đại Huệ:

Bạch Thế Tôn ! Ngôn ngữ là khác (anyà) hay không khác (anayà) với phân biệt?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Không khác cũng không không khác. Vì sao? Phân biệt làm nhân khởi ra ngôn ngữ vậy. Nếu khác, thì lời nói không thể làm nhân cho ngôn ngữ; nhưng nếu không khác, thì lời nói không thể diễn đạt ý nghĩa. Bởi thế mà nói không khác cũng không không khác.

Đại Huệ:

Bạch Thế Tôn ! Lời nói là đệ nhất nghĩa, hay cái được diễn đạt bằng lời là đệ nhất nghĩa?

Phật dạy:

Không phải lời cũng không phải cái được diễn bằng lời. Vì sao? Đệ nhất nghĩa là cảnh giới an lạc của bậc thánh, không thể chỉ do lời nói mà vào được, cho nên lời không phải là đệ nhất nghĩa. Đệ nhất nghĩa là cảnh mà Thánh Trí Tự Chứng ở bên trong, không phải cảnh giới của lời và của trí phân biệt. Lời không thể chỉ rõ cảnh giới ấy. Đại Huệ ! Lời nói là do nhân duyên sinh, có sinh diệt, giao động, xoay chuyển, cái gì do duyên sinh và có xoay chuyển thì không thể làm rõ đệ nhất nghĩa. Đệ nhất nghĩa không có tướng tự tha, ngôn ngữ có tướng nên không thể chỉ rõ đệ nhất nghĩa. Đệ nhất nghĩa là chỉ có ở tự tâm, mọi tướng bên ngoài đều không, nên ngôn ngữ phân biệt không thể chỉ rõ. Bởi thế, này Đại Huệ ! Ông nên xa lìa ngôn ngữ phân biệt.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Các pháp không tự tính

Cũng không có ngữ ngôn

Không thấy nghĩa không không

Nên ngu phu luân chuyển

Hết thảy pháp không tính

Lìa ngôn ngữ phân biệt

Các hữu là như huyễn

Không sinh tử, Niết Bàn

Như vua cùng trưởng giả

Vì khiến các con vui

Trước chỉ các tương tự

Sau cho cái như thật

Ta nay cũng như thế

Trước nói pháp tương tự

Về sau mới tuyên bố

Pháp tự chứng, thật tế.

Bồ Tát Đại Huệ bạch:

Xin Phật vì con nói nghĩa lìa nhất dị (ekatvànyatva), cùng không cùng (ubhayanobhaya), hữu vô (nàstyastitva), phi hữu vô (naivàstinanàsti), thường vô thường (nityànitya) v.v.. Những điều mà các ngoại đạo không thể nói, những cảnh giới của Thánh Trí Tự Chứng. Khi hiểu được, con sẽ viễn ly vọng chấp tự tướng cọng tướng, nhập cảnh giới chân thật đệ nhất  nghĩa, tuần tự được các địa, vào quả vị Như Lai. Do nguyện lực con sẽ không cần dụng công mà hiện khắp vô biên cảnh giới như ngọc ma ni, vì liễu tri tất cả pháp đều do tự tâm phân biệt. Khi được nghe Phật dạy, con và các Bồ Tát đối với những pháp ấy sẽ lìa chấp tự tính, lìa các kiến chấp tự tướng cọng tướng, mau chứng Vô Thượng Bồ Đề, khiến chúng sinh được đầy đủ các công đức.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Hay thay, lành thay ! Ông vì thương xót chúng sinh mà hỏi ta nghĩa ấy, vì lợi ích nhiều người, vì an lạc nhiều người. Đại Huệ ! Kẻ phàm phu vô trí không biết duy tâm, do tập quán hư vọng mà chấp ngoại vật, phân biệt các tính một, khác, có, không, không có, thường, vô thường v.v... Đại Huệ ! Như con thú vì cơn khát hành hạ, do bóng nắng mà tưởng tượng nước, mê hoặc chạy theo, không biết đấy chẳng phải nước. Kẻ phàm phu cũng vậy, do huân tập hý luận phân biệt từ vô thỉ, do ba độc thiêu đốt tâm nên ưa cảnh giới sắc, thấy có sinh, trú, diệt, chấp thủ pháp trong ngoài, sa vào các chấp trước một, khác v.v... Đại Huệ ! Như thành Càn Thát Bà không phải thành cũng không phải phi thành, kẻ vô trí vì thói quen chấp trước vào hạt giống “thành” từ vô thỉ, nên tưởng có thành. Ngoại đạo cũng vậy. Vì vọng tưởng từ vô thỉ nung nấu, nên không hiểu rõ cảnh tự tâm hiện, bám vào các ngôn thuyết một, khác v.v.. Đại Huệ ! Thí như có người nằm mộng thấy trai, gái, voi, ngựa, xe, kẻ bộ hành, thành ấp, vườn rừng... các thứ trang nghiêm. Khi tỉnh nhớ lại cảnh kia vốn không phải chuyện thật. Đại Huệ ! Ý ông thế nào? Người như thế có khôn ngoan không?

Bạch Thế Tôn không!

Đại Huệ ! Ngoại đạo cũng thế. Do ác kiến ngốn ngấu không rõ duy tâm, chấp trước các quan niệm một, khác, hữu, vô v.v.. Này Đại Huệ ! Thí như tượng vẽ không có chỗ cao, thấp, kẻ ngu lầm thấy tưởng có cao thấp. Các ngoại đạo đời sau cũng vậy, do ác kiến huân tập, vọng tâm tăng trưởng, nên chấp một, khác v.v...mà tự hại, hại người. Đối với thuyết lìa hữu vô, vô sinh thì xem là chuyện không tưởng, chúng bài bác nhân quả, triệt hết căn lành. Nên biết những kẻ phân biệt có, không, khởi các tướng tự, tha như thế sẽ đọa vào địa ngục. Muốn cầu pháp thù thắng, ông hãy xa lìa. Đại Huệ, thí như những người đau mắt thấy hoa đốm (mao luân) bèn gọi nhau: “Thật là việc hiếm có, đẹp tuyệt!” Kỳ thật hoa đốm ấy lìa có không, thấy và bị thấy. Ngoại đạo cũng thế, ác kiến phân biệt một, khác, cùng, không cùng v.v.. phỉ báng chính pháp, tự chôn mình, chôn người. Đại Huệ, thí như vòng lửa thật không phải vòng, kẻ ngu mới chấp, không phải bậc trí. Ngoại đạo cũng thế, vì ác kiến chấp trước một, khác, cùng, không cùng... nên khởi sinh các pháp. Đại Huệ ! Thí như bọt nước giống ngọc pha lê, kẻ ngu chấp thật chạy theo lượm nhặt. Nhưng bọt nước kia vốn lìa ngọc và phi ngọc. Này Đại Huệ ! Khi thành lập 3 lượng (hiện lượng, tỉ lượng và phi lượng) thì Thánh Trí Tự Chứng xa lìa được hai tự tính (y tha, biến kế). Đại Huệ ! Người tu hành khi chuyển được tâm, ý, thức, năng thủ, sở thủ, an trú pháp tự chứng ở Như Lai địa, thì không khởi các tưởng có, không. Đại Huệ! Người tu hành nếu khởi những chấp hữu, vô tức đã chấp các tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Đại Huệ ! Hết thảy tự tướng và cọng tướng của các pháp đều do hóa thân Phật nói, không phải pháp thân Phật nói. Đại Huệ ! Hóa thân Phật nói thì chỉ thuận theo kiến chấp của ngu phu, không phải khai thị pháp lạc tam muội của Thánh Trí Tự Chứng. Đại Huệ ! Thí như trong nước có bóng cây, bóng ấy không phải bóng hay phi bóng, không phải không bóng hay không phi bóng. Ngoại đạo cũng thế, vì ác tà kiến huân tập, không rõ tự tâm hiện, nên sinh các phân biệt một, khác v.v.. Đại Huệ ! Thí như gương sáng không phân biệt, tùy duyên mà hiện các hình bóng, những bóng kia không phải bóng hay phi bóng, mà lại được thấy ra là bóng với phi bóng, là do người ngu phân biệt, sinh tưởng về bóng.  Ngoại đạo cũng thế, đối các hình bóng do tự tâm hiện, lại khởi chấp các tướng một, khác, cùng, không cùng. Đại Huệ ! Thí như tiếng vang do các âm thanh của gió, nước, người v.v.. hòa hiệp mà có, tiếng vang ấy không có cũng không không, vì được nghe như tiếng mà thực không phải tiếng. Ngoại đạo cũng thế, do sự huân tập phân biệt của tự tâm, nên khởi các kiến chấp một, khác, cùng, không cùng. Đại Huệ ! Thí như ở trên đất không có cây cỏ, ánh trời chiếu làm nên những làn sóng nắng. Những làn sóng kia không phải có cũng không phải không, vì là đảo tưởng, không phải tưởng. Kẻ phàm ngu cũng vậy, do tập khí sai lầm từ vô thỉ, nên ở trong pháp tính do thánh trí chứng lại có sinh, trụ, diệt, một, khác, có, không, cùng, không cùng v.v.. Đại Huệ ! Thí như người gỗ hay thây ma nhờ bùa lực của Tỳ Xá Xà (Pi’sàca) mà cử động chuyển xoay không ngừng, kẻ vô trí xem là thật. Phàm phu ngu si cũng thế, hùa theo ngoại đạo khởi ác tà kiến, vọng chấp một, khác v.v... Bởi thế, Đại Huệ ! Ông nên ở trong pháp Tự Chứng xa lìa hết thảy phân biệt sinh, trụ, diệt, hữu, vô, cùng, không cùng v.v...

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Các thức ấm có năm

Như bóng cây trong nước

Cái thấy như huyễn mộng

Không nên vọng phân biệt

Ba cõi như ảo tượng

Huyễn mộng và mao luân (hoa đốm)

Nếu quán được như thế

Hoàn toàn được giải thoát

Như bóng nắng mùa hè

Kích động mê loạn tâm

Thú khát chấp là nước

Mà thật không phải nước

Chủng tử thức cũng vậy

Chuyển động thấy cảnh giới

Như mắt thấy không hoa

Ngu phu sinh mê đắm

Từ vô thỉ sinh tử

Trói buộc trong chấp trước

Nay phải nên  xả bỏ

Như người bị diệt tẩn

Như vật huyễn, như máy

Như mây, mộng, điện, chớp

Quán sát đời như thế

Dứt sạch ba tương tục

Trong ấy không có gì

Như ảo tượng hư không

Biết các pháp như thế

Thì hết sở tri chướng

Năm uẩn như hoa đốm

Không nên vọng phân biệt

Chỉ là tên bày đặt

Tìm tướng bất khả đắc

Như bức vẽ xỏa tóc

Như mộng, thành nhạc thần

Vòng lửa và ảo tượng

Thật không mà thấy có

Như vậy thường, vô thường

Một, khác, cùng, không cùng

Do trói buộc vô thỉ

Ngu phu vọng phân biệt

Gương sáng, mắt pha lê

Ma ni ngọc đẹp báu

Trong đó hiện bóng hình

Kỳ thật không gì có

Tâm thức cũng như vậy

Hiện khắp các sắc tướng

Như mộng, như bóng nước

Lại như con Thạch nữ

Lại nữa Đại Huệ ! Pháp chư Phật nói lìa bốn cú nghĩa là lập bác, một khác, cùng không cùng, có không... Đại huệ ! Pháp Phật lấy tứ đế, duyên khởi, diệt đạo, giải thoát làm đầu, không tương ưng với những pháp như Thắng tính (praktri), Tự tại (Isvara), Túc tác (không nhân), tự nhiên, vi trần v.v... Đại Huệ ! Pháp Phật nói là để thanh tịnh hai thứ chướng ngại là trí chướng và hoặc chướng, khiến dần an trú trong 108 cú về pháp vô tướng, mà phân biệt rõ các thừa cũng như thương chủ khéo hướng dẫn người. Lại nữa Đại Huệ ! Có 4 loại thiền : 1. Thiền ngu phu (Halopacàrikadhyàna),  2. Thiền quán sát nghĩa (Arthapravicayadhyàna),  3. Thiền phan duyên chân như (Tathatàlambanadhyàna),  4. Thiền Như Lai (Tathàgatadhyàna). Đại Huệ ! Thiền ngu phu là những người tu hạnh Thanh Văn, Duyên Giác biết nhân vô ngã, thấy thân mình thân người chỉ là bộ xương ráp lại, đều là tướng vô thường, khổ, bất tịnh. Quán sát như thế kiên trì không bỏ, dần đạt đến định vô tưởng diệt, ấy là thiền ngu phu. Sao là thiền quán sát nghĩa? Ấy là khi biết rõ nhân vô ngã trên phương diện tự tướng, cọng tướng rồi, còn xa lìa chấp ngoại đạo cho mọi pháp là tự sinh tha sinh, tự tha sinh, thuận theo nghĩa pháp vô ngã của Bồ Tát Địa mà quán sát, ấy là thiền quán sát nghĩa. Sao gọi là thiền phan duyên chân như ? Ấy là, nếu phân biệt có hai vô ngã tức là vọng niệm, nếu biết như thật thì niệm kia không khởi, ấy gọi là thiền phan duyên chân như. Sao gọi là Như Lai thiền ? Ấy là pháp lạc tam muội khi vào Phật địa, an trú trong cảnh giới của Tự  Chứng Thánh Trí, vì chúng sinh mà làm các việc không thể nghĩ bàn. Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Thiền của hàng ngu phu

Thiền quán sát nghĩa tướng

Thiền phan duyên chân như

Thiền Như Lai thanh tịnh

Kẻ tu hành trong định

Quán thấy bóng nhật nguyệt

Ba đầu ma thâm hiểm (padmapàtàla)

Lửa hư không, tranh vẽ

Các hình tướng như thế

Liền sa pháp ngoại đạo

Lại đọa vào cảnh giới

Thanh Văn, Bích Chi Phật

Xa lìa tất cả đấy

An trú vô sở duyên

Tức có thể thâm nhập

Tướng như như chân thật

Ở mười phương quốc độ

Vô lượng các đức Phật

Liền đưa tay quang minh

Mà xoa đầu người ấy

Bấy giờ Đại Huệ bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Pháp Niết Bàn mà chư Phật Như Lai nói là những pháp gì? Phật dạy:

Khi tập khí và tự tính của các thức cùng thói tà kiến của tạng thức, ý và ý thức được chuyển hóa, thì ta và chư Phật gọi đó là Niết Bàn, tức là cảnh giới tính không của các pháp. Lại nữa này Đại Huệ ! Niết Bàn là cảnh giới của Thánh Trí Tự Chứng, xa lìa đoạn, thường, hữu, vô. Sao gọi là phi thường? Là lìa phân biệt tự tướng cọng tướng. Sao là phi đoạn? Vì đấy là sở hành của hết thảy các bậc Tự Chứng Thánh Trí trong cả ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Lại nữa, Đại Huệ ! Đại Niết Bàn không phải hoại không phải chết, nếu chết sẽ sinh lại, nếu hoại sẽ thành ra hữu vi. Cho nên Niết Bàn không hoại không chết, đấy là chỗ những bậc tu hành đạt đến. Lại nữa, Đại Huệ, Niết Bàn không xả, không đắc, không đoạn, không thường, không một, không khác, nên gọi là Niết Bàn. Lại nữa, Đại Huệ ! Thanh Văn Duyên Giác biết rõ tự tướng cọng tướng, xa lìa huyên náo, không sinh điên đảo, không khởi phân biệt, do đó liền sinh tưởng là Niết Bàn. Lại nữa, Đại Huệ ! Có hai loại tướng của tự tính, ấy là:  1. Tướng chấp trước tự tính ngôn thuyết.  2. Tướng chấp trước tự tính các pháp. “Tướng chấp trước tự tính ngôn thuyết” là do chấp trước hý luận, và tập khí ngôn thuyết từ vô thỉ mà khởi lên; “Tướng chấp trước tự tính các pháp” là bởi không biết vạn pháp do tự tâm hiện, mà khởi lên. Lại nữa, này Đại Huệ ! Chư Phật có hai thứ gia trì để nâng đỡ các Bồ Tát, khiến các Bồ Tát này đảnh lễ chân Phật thỉnh hỏi các nghĩa lý. Hai thứ gia trì ấy là khiến cho Bồ Tát nhập tam muội, và hiện thân trước Bồ Tát đưa tay lấy nước cam lộ rưới đầu. Đại Huệ ! Chư Bồ Tát sơ địa nhờ chư Phật nâng đỡ mà nhập định “Đại Thừa Quang Minh”. Nhập định ấy xong, chư Phật mười phương đều hiện thân trước mặt nói lời ủy dụ, như trường hợp Bồ Tát Kim Cương Tạng và các đại Bồ Tát khác, những vị đã thành tựu đức tướng. Đại Huệ ! Những Bồ Tát ấy nhờ Phật nâng đỡ mà nhập tam muội xong, lại nhờ thiện căn tích tụ từ trăm ngàn đời kiếp mà tuần tự tiến lên các địa, thông đạt được cái gì nên làm cái gì không nên (dịch theo Suzuki). Bồ Tát ấy lên bực Pháp Vân Địa, ở trong cung điện đẹp hình hoa sen lớn, ngồi trên tòa báu, được các Bồ Tát đồng hàng vây quanh. Đầu vị ấy đội mão ngọc, thân tỏa ánh sáng như ánh vàng ròng của hoa chiêm bặc, như mặt trăng tròn, chiếu hào quang lớn. Chư Phật mười phương duỗi bàn tay hoa sen tới chỗ ngồi của những Bồ Tát này mà rưới đầu với nước cam lộ. Như thái tử con vua chuyển luân nhờ được quán đảnh mà được tự tại, những Bồ Tát này cũng thế. Ấy là hai thứ gia trì. Các đại Bồ Tát nhờ hai thứ gia trì này mà diện kiến được hết thảy chư Phật. Nếu không nhờ gia trì thì không diện kiến được. Lại nữa, Đại Huệ ! Các Bồ Tát mà nhập được tam muội, hiện thần thông nói pháp, tất cả ấy đều nhờ hai lực gia trì của chư Phật. Đại Huệ ! Nếu Bồ Tát lìa sự gia trì của Phật mà thuyết pháp được, thì phàm phu cũng có thể nói pháp. Đại Huệ ! Nơi Như Lai đến, nhờ lực gia trì của Như Lai mà hết thảy núi rừng, cỏ cây, thành quách, cung điện và các nhạc khí đều phô diễn pháp âm, huống chi loài hữu tình. Những kẻ điếc, mù, câm, ngọng, đều được lìa khổ mà giải thoát. Đại Huệ ! Năng lực gia trì của Như Lai có những tác dụng rộng lớn như vậy.

Đại Huệ Bồ Tát bạch:

Vì sao Như Lai phải dùng năng lực gia trì để khiến các Bồ Tát nhập tam muội, và đạt các địa vị cao?

Phật dạy:

Này Đại Huệ ! Vì muốn khiến các Bồ Tát xa lìa phiền não và nghiệp, khiến khỏi sa vào hàng Thanh Văn, khiến mau vào Như Lai địa, khiến tăng trưởng các pháp đã chứng. Này Đại Huệ ! Nếu không có sự nâng đỡ của Như Lai thì các Bồ Tát ấy sẽ sa vào ma cảnh của ngoại đạo, Thanh Văn, không được Vô Thượng Bồ Đề.

Đức Thế Tôn lại nói bài tụng:

Như Lai nguyện thanh tịnh

Có lực gia trì lớn

Ở sơ địa, thập địa

Cho tam muội, rưới đầu.

Đại Huệ Bồ Tát lại bạch:

Bạch Thế Tôn ! Nghĩa Duyên Khởi Phật nói là, các pháp do có sự xúc tác mà sinh khởi, không phải tự sinh khởi. Ngoại đạo cũng nói Thắng tính, Tự tại (Isvara), Thời (kala), ngã, vi trần, sinh ra các pháp, Như vậy đức Thế Tôn chỉ dùng danh từ khác, chứ ý nghĩa có khác gì thuyết ngoại đạo? Bạch Thế Tôn ! Ngoại đạo nói do tác giả mà từ không sinh có, Thế Tôn cũng nói do nhân duyên mà hết thảy pháp vốn không nay sinh, sinh rồi hoàn diệt. Như chỗ Phật nói, vô minh duyên hành cho đến lão tử, thuyết này là thuyết không nhân, không phải thuyết hữu nhân. Theo như Thế Tôn dạy: “Vì cái này có nên cái kia có,” nếu đây là đồng thời tạo thành, không phải kế tục đối đãi nhau, thì nghĩa ấy không đúng. Cho nên thuyết của ngoại đạo hay hơn, không phải thuyết của Như Lai hay hơn. Vì sao? Ngoại đạo nói nhân không do duyên sinh mà có sinh kết quả. Thế Tôn nói quả đối đãi với nhân, nhân lại đối đãi với nhân khác, xoay vần như thế, thành cái lỗi “vô cùng”. Lại “Cái này có nên cái kia có” tức là không nhân.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Ta thấu rõ các pháp chỉ do tâm hiện, không năng thủ sở thủ, nên nói “Vì cái này có nên cái kia có”, đây không phải là lỗi không nhân. Đại Huệ ! Nếu không rõ các pháp đều do tâm hiện, cho là có năng thủ sở thủ, chấp trước cảnh ngoài hoặc có hoặc không, thì đấy là lỗi của kẻ chấp, không phải thuyết duyên sinh của ta.

Đại Huệ Bồ Tát lại bạch:

Thế Tôn đã có ngôn thuyết tất phải có các pháp, nếu không có các pháp thì ngôn thuyết do đâu mà khởi?

Đại Huệ ! Tuy không có pháp cũng có ngôn thuyết được. Vậy ông không thấy lông rùa sừng thỏ, con của thạch nữ v.v.. thế gian vẫn nói. Đại Huệ ! Những pháp kia phi có phi không, mà cũng có ngôn thuyết vậy. Đại Huệ ! Như chỗ ông nói, vì có ngôn thuyết nên có các pháp, luận ấy không thành. Đại Huệ ! Không phải hết thảy các cõi Phật đều có ngôn thuyết, ngôn thuyết chỉ là giả lập. Đại Huệ ! Có cõi Phật trừng mắt mà khai thị pháp, hoặc ra dấu, hoặc nhướng mày, hoặc động con ngươi, hoặc mỉm cười, hoặc ngáp, hoặc tằng hắn, hoặc nhớ nghĩ, hoặc rùng mình... dùng những cách ấy mà khai thị pháp. Đại Huệ! Trong các cõi Phật, như cõi Bất Thuấn (Animi- salokadhàtu), cõi Diệu Hương (Gandhaskgandha-dhàtu), cõi Phổ Hiền (Samantabhadra), chỉ nhìn trừng, không chớp mắt mà khiến các Bồ Tát được vô sinh pháp nhẫn (anutpattikadharmaksànti) cùng các tam muội thù thắng. Đại Huệ ! Không phải do ngôn ngữ mà các pháp trong thế giới này có; ruồi, kiến, sâu bọ v.v.. tuy không ngôn thuyết mà vẫn thành tựu được các công việc của chúng.

Thế Tôn lại nói bài tụng:

Như sừng thỏ, hư không

Cùng con của Thạch nữ

Không có mà có lời

Pháp vọng chấp cũng vậy

Trong nhân duyên hòa hợp

Ngu phu vọng chấp sinh

Không khéo rõ như thật

Nên trôi lăn ba cõi

Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Thế Tôn dạy âm thanh là thường còn, do đâu mà nói như vậy? (Nityasatda)

Đại Huệ ! Do nơi vọng pháp (bhrànti) mà nói, vì các vọng chấp ấy Thánh nhân cũng có, nhưng Thánh nhân không điên đảo. Đại Huệ, thí như bóng nắng, vòng lửa, tóc rũ, thành Càn thát bà, mộng huyễn, bóng trong gương... Những người vô trí sinh giải thích điên đảo, người có trí thì không, nhưng không phải chúng không hiện. Đại Huệ ! Khi vọng pháp hiện lên, có muôn sai ngàn biệt, nhưng không phải vô thường. Vì sao? Vì lìa hữu vô vậy. Sao là lìa hữu vô? Vì hết thảy ngu phu có đủ thứ sai biệt, như nước sông Hằng vừa được thấy vừa được không thấy: Ngạ quỷ không thấy nên không thể nói là có, những loài khác thấy, nên không thể nói là không. Bậc thánh đối các pháp hư vọng như thế xa lìa kiến chấp điên đảo. Đại Huệ ! Vọng pháp là thường còn vì tướng nó không có sai biệt. Không phải các vọng pháp có tướng (sai biệt) mà vì phân biệt nên có sai khác. Bởi thế nên nói thể của vọng pháp là thường. Đại Huệ ! Làm sao gọi là được chân thật của vọng pháp? Ấy là bậc thánh đối vọng pháp không khởi giác điên đảo, không điên đảo. Nếu có một ít lý tưởng nơi vọng pháp tất không phải là thánh trí, đấy là hí luận của ngu phu. Đại Huệ ! Nếu phân biệt vọng pháp là điên đảo, không điên đảo, ấy là thành tựu hai thứ chủng tính:  1. Thánh chủng tính (Aryagotra).  2. Phạm thiên chủng tính (Bàlaptrhagjanagotra). Đại Huệ! Thánh chủng tính lại có 3 : Thanh Văn, Duyên Giác, Phật. Đại Huệ ! Sao gọi là ngu phu phân biệt vọng pháp sinh ra chủng tính Thanh Văn? Ấy là chấp tự tướng cọng tướng. Đại Huệ ! Sao lại nói ngu phu phân biệt vọng pháp mà thành chủng tính Duyên Giác? Ấy là khi chấp trước tự tướng, cọng tướng, rồi xa lìa huyên náo. Đại Huệ ! Sao là người trí phân biệt vọng pháp mà được thành tựu chủng tính Phật thừa? Ấy là liễu đạt các pháp đều do tự tâm phân biệt, ngoài tâm không có pháp. Đại Huệ ! Có những người ngu phân biệt các thứ sự vật của vọng pháp, rồi cả quyết thế này với không thế nọ, ấy là thành tựu chủng tính sinh tử. Đại Huệ ! Các sự vật thuộc vọng pháp kia không phải thị vật cũng không phải phi vật. Đại Huệ ! Những bậc trí, nhờ đã làm một cuộc cách mạng trong tâm, ý, thức, tập khí (tà ác), 3 tự tính, 3 pháp, nên nói các vọng pháp ấy tức là chân như. Cho nên nói chân như là tâm giải thoát. Ta nay khai thị rõ ràng nghĩa ấy; lìa phân biệt là lìa hết thảy các phân biệt.

Đại Huệ Bồ Tát bạch phật:

Bạch Thế Tôn, cái vọng pháp nói đó là có hay không?

Vọng pháp ấy cũng như cái huyễn vốn không có chấp trước, nếu nó có tướng chấp trước thì nó không thể chuyển được, và như vậy tức là lý duyên khởi không khác gì thuyết “tác giả sinh” của ngoại đạo.

Đại Huệ lại nói:

Nếu các vọng pháp đồng như huyễn, tất nó sẽ làm nhân cho những vọng pháp khác.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Không phải các huyễn sự làm nhân cho vọng hoặc, vì các huyễn không sinh ra cái lỗi lầm, vì các huyễn sự không có tính phân biệt. Đại Huệ ! Phàm huyễn sự là do bùa chú của người mà sinh, không phải do tập khí lỗi lầm của phân biệt mà sinh. Cho nên huyễn sự không sinh lỗi lầm. Đại Huệ ! Những pháp mê lầm chỉ là chấp trước của tâm kẻ ngu, không phải pháp của bậc Thánh.

Bấy giờ Thế Tôn nói bài tụng:

Thánh không thấy vọng pháp

Trong đó cũng không thật

Vì vọng tức là chân

Trong ấy cũng chân thật

Nếu xa lìa vọng pháp

Mà có tướng sinh ra

Đấy lại tức là vọng

Như lòa, chưa thanh tịnh

Lại nữa, Đại Huệ ! Huyễn không phải là không, vì nó tương tự với không huyễn nên nói tất cả pháp đều như huyễn.

Đại Huệ nói:

Bạch thế Tôn ! Có phải do sự chấp trước các huyễn tướng mà nói hết thảy pháp như huyễn? Hay vì do nơi các tướng điên đảo của sự chấp trước ấy mà nói như huyễn? Bạch Thế Tôn ! Không phải hết thảy các pháp đều như huyễn cả. Vì sao? Thấy các sắc tướng không có gì là không nhân. Bạch Thế Tôn, nếu hết thảy đều không do nhân mà hiện các sắc tướng, thì các tướng ấy mới như huyễn. Vậy nên, bạch Thế Tôn, không thế nói do chấp trước các huyễn tướng mà nói hết thảy pháp đều tương tự với huyễn.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Không phải do chấp các huyễn tướng mà nói hết thảy pháp như huyễn. Đại Huệ ! Vì hết thảy pháp không thật, mau diệt như làn chớp nên nói là như huyễn. Đại Huệ ! Thí như làn chớp vừa thấy đã mất, phàm phu ở thế gian đều thấy, cũng thế, tất cả pháp đều do tự tâm phân biệt tự tướng cọng tướng mà ra, vì không biết quán sát thật ra không có gì, mà lại vọng chấp các sắc tướng.

Khi ấy Thế Tôn nói bài tụng:

Hư huyễn, không tương tự

Cũng không có các pháp

Không thật, mau như chớp

Nên biết là như huyễn

Bồ Tát Đại Huệ lại bạch:

Bạch Thế Tôn, như Phật nói trước kia, hết thảy pháp đều không sinh. Nay lại nói như huyễn, có phải trước sau nói có mâu thuẫn nhau chăng?

Đại Huệ ! Không mâu thuẫn, vì sao? Ta biết rõ chỗ sinh chính là vô sinh, chỉ vì tự tâm thấy ra như thế. Tất cả pháp ngoài hoặc có hoặc không đều thấy là vô sinh, vì chúng vốn không sinh. Đại Huệ ! Vì muốn xa lìa thuyết do nhân sinh của ngoại đạo nên ta nói các pháp không sinh. Đại Huệ ! Ngoại đạo thi nhau chấn hưng tà kiến, nói do có, không, sinh ra các pháp, không cho là do chính sự chấp trước phân biệt của mình. Đại Huệ ! ta nói các pháp không có, vô sinh, nên gọi là vô sinh. Đại Huệ ! Khi nói các pháp có là vì muốn khiến các đệ tử biết do nghiệp có sinh tử để ngăn ngừa đoạn kiến (cho rằng không có gì cả). Đại Huệ ! Như Lai nói các tướng như huyễn là để khiến lìa chấp cho rằng các tướng có tự tính, vì phàm phu sa đọa vào ác kiến tham dục, không rõ các pháp đều do tự tâm hiện. Vì muốn chúng lìa chấp trước vào các tướng do nhân duyên sinh khởi, nên nói các pháp như huyễn như mộng. Các người ngu chấp trước ác kiến, lừa dối mình, người, không thể thấy rõ chỗ như thật trú (yathàbhùtàvasthàna) của hết thảy pháp. Đại Huệ ! Thấy chỗ như thật trú của hết thảy pháp nghĩa là hiểu rõ “do tâm hiện”.

Bấy giờ Thế Tôn nói bài tụng:

Không tác nên không sinh

Có pháp có sinh tử

Hiểu rõ thảy đều huyễn

Đối tướng, không phân biệt

Lại này Đại Huệ ! Nay ta sẽ nói tướng trạng của danh, cú, văn. Các Bồ Tát quán tướng ấy, hiểu rõ nghĩa, sẽ mau thành tựu vô thượng bồ đề, lại có thể khai ngộ cho hết thảy chúng sinh. Đại Huệ ! Danh thân là gì? Ấy là do sự đặt tên, tên tức là thân, nên gọi là danh thân. Cú thân có khả năng làm rõ nghĩa quyết định rốt ráo. Văn thân là từ đó mà thành tên gọi và câu văn. Lại này Đại Huệ ! Cú thân là sự đầy đủ ý nghĩa diễn đạt trong một câu. Danh thân là tên của các chữ khác nhau, như từ chữ a đến chữ ha (Akãra – Hakàra). Văn thân là dài ngắn cao thấp. Lại, cú thân là như dấu chân người, súc vật v.v.. để lại trên ngã tư đường, danh là thuộc vào 4 uẩn vô hình nên dùng tên gọi. Văn là tự tướng của danh, vì nhờ văn mà rõ. Ấy là thân của danh, cú văn. Ông hãy tu tập tướng của danh cú văn  ấy.

Rồi Thế Tôn nói bài kệ:

Thân của chữ và câu

Cùng thân vần sai khác

Phàm phu chấp vào đấy

Như voi sa bùn sâu

Lại nữa, Đại Huệ ! Trong đời vị lai có những hạng tà trí theo lối ngu ác, lìa pháp như thật, vì thấy các tướng một, khác, cùng, không cùng. Khi được người trí hỏi thì họ đáp: “Hỏi thế này không đúng: sắc v.v.. và vô thường là một hay khác?” Cũng thế, Niết Bàn và các uẩn (skandhas), tướng, sở tướng, y, sở y, tạo, sở tạo, kiến, sở kiến, đất, vi trần, trí và kẻ trí... là một hay khác? Các câu hỏi như thế về những tướng sai khác của hiện hữu nối tiếp nhau dựa từ vấn đề này đến vấn đề khác không cùng tận. Những người bị hỏi về những vấn đề không thể nói như thế, sẽ trả lời rằng đức Như Lai đã gạt qua một bên những vấn đề đó, cho là bất khả thuyết. Tuy nhiên, những người mê lầm kia không thể hiểu ý nghĩa những gì họ nghe (từ Phật) vì họ thiếu trí giác. Các đức Như Lai Chính Đẳng Giác không giải thích những việc ấy cho tất cả, bởi vì muốn cho chúng khỏi kinh sợ. Đại Huệ ! Không nói những điều bất thuyết (vyàhritàni) là vì muốn cho những người ngoại đạo ra khỏi tà kiến về “Tác giả”. Đại Huệ ! Ngoại đạo chấp có tác giả, bảo rằng “Mạng với thân là một hay khác?” Những lời như vậy gọi là lời vô ký (avyàktravàda). Các việc không thể diễn đạt mà ngoại đạo nói không phải là giáo lý ta, lìa năng thủ sở thủ, không khởi phân biệt. Sao có sự gạt sang một bên? Này Đại Huệ ! Nếu có chấp năng thủ sở thủ, tức không hiểu mọi vật đều do tự tâm thấy, nên gạt sang một bên. Đại Huệ ! Chư Phật Như Lai dùng 4 ký luận để nói pháp cho chúng sinh. Đại Huệ ! Có những luận ta sẽ nói vào một thời khác, vì căn cơ chúng sinh chưa thuần thục nên chưa nói. Lại này Đại Huệ ! Vì sao hết thảy pháp không sinh? Vì lìa năng tác sở tác, không có tác giả. Vì sao hết thảy pháp không tự tính? Vì bậc thánh (chứng trí) quán tự tướng và cọng tướng đều không thể có. Vì sao hết thảy pháp không đến, đi? Vì các tự tướng cọng tướng không từ đâu đến cũng không đi đến đâu. Sao lại hết thảy pháp không diệt? Vì hết thảy pháp không tính, tướng, bất khả đắc. Vì sao hết thảy nói hết thảy pháp vô thường? Vì các tướng khởi lên đều có đặc tính vô thường. Vì sao nói hết thảy pháp thường? Vì các tướng khởi tức không khởi, không có gì cả. Cái tính vô thường vốn thường nên ta nói hết thảy pháp thường.” Rồi Thế Tôn nói bài tụng:

Nhất hướng và phản vấn

Phân biệt cùng đáp thẳng

Bốn cách nói như thế

Phá phục các ngoại đạo

Số luận và thắng luận

Nói sinh từ có, không

Các thứ thuyết như vậy

Tất cả đều vô ký

Vì khi trí quán sát

Thể tính chúng không có

Bất khả thuyết như vậy

Nên nói không tự tính

Khi ấy Bồ Tát Đại Huệ bạch:

Bạch Thế Tôn ! Xin Thế Tôn vì con nói về bậc Tu Đà Hoàn và những đặc tính của quả vị ấy. Con và các Bồ Tát đại hữu tình nhờ nghe nghĩa ấy sẽ biết rõ các phương tiện để chứng những quả vị Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán. Biết nghĩa ấy rồi con sẽ diễn nói lại cho chúng sinh, khiến chúng chứng được hai vô ngã, trừ sạch hai chướng ngại, dần thông đạt đặc tính các địa, được cảnh giới trí tuệ không thể nghĩ bàn của Như Lai, như ngọc ma ni nhiều màu, khiến khắp chúng sinh đều được lợi ích.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Hãy lắng nghe, ta sẽ nói.

Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Đại Huệ ! Bậc Tu Đà Hoàn, và Tư Đà Hàm có 3 cấp bực khác nhau, là hạ, trung, thượng. Bực hạ là còn sinh lại trong các cõi bảy lần, bực trung còn sinh ba lần, năm lần, bực thượng thì ngay đời này đã nhập Niết Bàn. Đại Huệ ! Ba hạng người ấy đã cắt đức 3 món kết sử (Samyojana) là thân kiến (sathàyadrsti), nghi (vicikitsà), giới cấm thủ (sìlavratapasàmar’sa), lần lần tiến lên đắc quả A La Hán. Đại Huệ ! Thân kiến có hai loại, ấy là câu sinh và phân biệt. Phân biệt thân kiến là, như do duyên khởi có vọng chấp về ba cõi. Đại Huệ ! Thí như do tính duyên khởi mà sinh các chấp trước vào vọng kế (tưởng tượng sai lầm). Các pháp ấy chỉ là tướng do phân biệt sai lầm sinh ra, chúng lìa hữu và vô, cũng không phải là cũng có cũng không. Kẻ phàm phu ngu si chấp càn, như con thú khát tưởng tượng ra nước. Đại Huệ ! Đây là kiến chấp về một cái ngã riêng biệt mà do không có trí tuệ, vị ấy đã tích tập từ lâu đời, đến khi thấy được nhân vô ngã thì xa lìa được. Đại Huệ ! Câu sinh thân kiến là quán sát khắp thân mình và thân người, các tướng uẩn vô sắc như tho, tưởng v.v.. và sắc do tứ đại tạo, các đại ấy làm nhân cho nhau, nên không có cái gọi là sắc uẩn (theo Suzuki trang 102) quán như vậy rồi thấy rõ quan niệm hữu, vô là một quan niệm phiến diện về chân lý, liền xa lìa hữu vô. Vì đã xả thân kiến nên không sinh tham dục. Đó gọi là tướng thân kiến. Đại Huệ ! Nghi tướng là khi rõ thấy tướng các pháp sở chứng, và khi hai kiến chấp và phân biệt thân nói trên đã đoạn trừ, thì không còn sinh hoài nghi gì đối với chính pháp của Phật, lại cũng không có ý tưởng theo một bậc thầy nào khác vì (phân biệt) tịnh, bất tịnh. Đấy gọi là nghi tướng (mà bậc Dự Lưu từ bỏ được). Đại Huệ ! Vì sao Tu Đà Hoàn không giữ giới cấm? Vì đã thấy rõ tướng khổ của mọi chỗ thọ sinh, cho nên không giữ. Giữ giới là vì kẻ phàm phu ngu tham trước dục lạc thế tục ở trong các cõi cho nên mới khổ hạnh giữ giới nguyện sinh vào các cõi vui. Bậc Tu Đà Hoàn không giữ tướng ấy, chỉ vì cầu chứng được pháp vô lậu, vô phân biệt, rất thù thắng mà tu hành các giới phẩm. Ấy gọi là tướng giới cấm thủ. Đại Huệ ! Bậc Tu Đà Hoàn xả ba kết nên lìa tham sân si.

Đại Huệ Bồ Tát bạch:  Tham có nhiều món. Xả những món tham nào?

Đại Huệ ! Xả các tham dục triền miên về nữ sắc, vì thấy rõ cái vui hiện tại sẽ sinh các khổ về sau, lại vì đã được pháp lạc tam muội thù thắng, nên xả cái tham ấy, không phải xả cái tham Niết Bàn. Đại Huệ ! Sao gọi là quả Tư Đà Hàm? Ấy là vì không rõ tướng của sắc, khởi phân biệt về sắc, khi sinh trở lại một lần trong đời, khéo tu các thiền định, dứt các khổ mà thực hiện Niết Bàn. Ấy gọi là Tư Đà Hàm. Đại Huệ ! Sao gọi là quả A Na Hàm? Ấy là cũng thấy hữu, vô của các sắc tướng quá khứ, hiện tại, vị lai, nhưng các phân biệt lỗi lầm không do mắt mà khởi, vĩnh viễn xa lìa các ràng buộc, không trở lại, ấy gọi là A Na Hàm. Đại Huệ ! A La Hán ấy là, đã thành tựu tất cả thiền tam muội, giải thoát, các lực, thần thông, đã dứt trừ vĩnh viễn các phiền não, khổ, phân biệt, ấy gọi là A La Hán.

Đại Huệ bạch:

Bạch Thế Tôn ! A La Hán có 3 hạng là: Một mực cầu tịch, thối nguyện bồ đề, do Phật biến hóa. Đây Phật muốn dạy A La Hán nào?

Đại Huệ ! Đây nói về hạng A La Hán cầu tịch diệt, không phải hai hạng kia. Này Đại Huệ ! Hai hạng kia là những người đã phát nguyện thực hành phương tiện thiện xảo và những người muốn trang nghiêm hội chúng của Phật mà hóa sinh. Này Đại Huệ ! Họ ở chỗ hư dối mà nói các pháp, nghĩa là họ đã lìa các việc như chứng quả, thiền, thiền giả cùng các các bực thiền, và vì biết rằng thế giới này không gì khác hơn là do tâm thấy, họ giảng về quả đạt được (cho tất cả chúng sinh). Này Đại Huệ ! Nếu Tu Đà Hoàn nghĩ thế này: “ Ta đã lìa các trói buộc”, như vậy tức có hai lỗi, lỗi sa vào ngã kiến, và lỗi không đoạn các trói buộc. Lại nữa, này Đại Huệ ! Nếu vượt khỏi các bực thiền, các món vô lượng và vô sắc giới, thì hãy xa lìa các tướng do tự tâm thấy. Đại Huệ ! Diệt tưởng định và diệt thọ định không thể siêu việt được cảnh do tự tâm thấy, vì vẫn chưa lìa được tự tâm vậy.

Thế Tôn lại nói bài tụng:

Các thiền cùng vô lượng

Vô sắc tam ma đề

Cùng định diệt tưởng thọ

Ngoài tâm không thể có

Quả Dự Lưu, Nhất Lai

Bất Hoàn, A La Hán

Các thánh nhân như thế

Đều nương cọng tâm có

Thiền giả duyên nơi thiền

Dứt hoặc, thấy chân thường

Đấy đều là vọng tưởng

Biết rõ tất giải thoát

Lại này Đại Huệ ! Có 2 món giác trí, ấy là : 1.  Trí quán sát (pravicayaby- dhi) và  2.  Trí thủ tướng phân biệt chấp trước kiến lập (vikalpalaksanagrà- hàbhinive’sapratisthàpika-budhi). Trí quán sát là quán hết thảy pháp lìa bốn câu, bất khả đắc. Bốn câu là gì? Ấy là một khác, câu bất câu, hữu vô, thường vô thường. Lìa bốn trường hợp ấy về các pháp gọi là lìa hết thảy pháp. Đại Huệ ! Ông nên tu học quán các pháp như thế. Sao gọi là trí thủ tướng phân biệt chấp trước kiến lập? Ấy là đối với các đại cứng, ẩm, ấm, động, bám giữ tướng, chấp trước hư không, vọng phân biệt, dùng tôn, nhân, dụ (pratijna-hetu-drstanta) mà vọng cho là có, ấy là trí thủ tướng phân biệt chấp trước kiến lập. Đấy là hai món tướng giác trí. Bậc Bồ Tát đại hữu tình biết các tướng ấy của trí, liền có thể thông đạt nhân pháp đều vô ngã, dùng trí vô tướng khéo quán sát các địa, giải và thành, nhập vào sơ địa, được 100 thứ định, dùng tam muội thù thắng thấy được trăm Phật trăm Bồ Tát, biết các chuyện trước và sau 100 kiếp, hào quang chiếu sáng 100 cõi Phật, khéo rõ biết tướng của các địa vị cao tột, dùng nguyện lực thù thắng mà biến hiện tự tại, đến cõi Pháp Vân, được Phật quán đảnh, vào các cõi Phật theo 10 nguyện vô tận mà giáo hóa chúng sinh được thành tựu, làm các sự ứng hiện không ngừng, mà vẫn thường an trú trong pháp lạc tam muội thù thắng của cảnh giới Thánh Trí Tự Chứng. Lại nữa, Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình nên rõ biết các sắc do tứ đại tạo. Rõ biết thế nào? Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình nên quán thế này: Các đại chủng kia thật ra vốn không sinh, vì ba cõi chỉ là phân biệt, chỉ có tâm hiện, không có ngoại vật. Quán sát như thế liền xa lìa tính của các sắc do tứ đại tạo, vượt ngoài tứ cú, lìa ngã, ngã sở, an trú chỗ như thật, thành tựu tướng vô sinh. Đại Huệ ! các đại chủng kia làm sao tạo sắc? Đại Huệ ! Ấy là Đại chủng do hư vọng phân biệt cho là ướt, nảy sinh ra nước bên trong và bên ngoài, đại chủng được phân biệt là mãnh liệt sinh ra lửa bên trong và ngoài, đại chủng phân biệt là động sinh ra gió trong và ngoài, đại chủng được cho là phân đoạn các hình sắc sinh ra đất và không gian bên trong và ngoài. Lìa hư không, do chấp trước các tà đế nên có sự nhóm họp của năm uẩn, sinh ra các đại chủng và các sắc do đại chủng tạo. Đại Huệ ! Thức là do sự chấp trước cảnh giới và ngôn thuyết làm nhân khởi, ở các cõi tiếp nối thọ sinh. Đại Huệ ! Các đại tạo sắc v.v.. (được cho là) có các đại chủng làm nhân, tuy nhiên những đại chủng này là phi hữu. Bởi vì, Đại Huệ ! Về những vật có hình tướng, chỗ ở, tác dụng, v.v.. người ta có thể nói chúng do sự phối hợp của nhiều phần tử sinh quả khác nhau, nhưng về những sự vật không hình tướng đặc biệt thì không thể nói. Bởi lẽ ấy Đại Huệ, những đại chủng và sở tạo sắc đều là phân biệt của ngoại đạo, không phải thuyết của ta. Lại nữa, Đại Huệ ! Nay ta sẽ nói thể tướng của năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đại Huệ ! Sắc là 4 đại và sở tạo sắc. Những thứ này tướng đều khác nhau. Thọ v.v.. không có sắc. Đại Huệ ! Nhưng các uẩn vô sắc không thể đếm được có bốn, vì nó như hư không. Đại Huệ, ví như hư không vượt ngoài số đếm và tướng, nhưng do phân biệt mà nói đây là hư không, các uẩn vô sắc cũng thế, lìa số đếm và tướng, lìa hữu, vô v.v.. bốn cú. Số đếm là do phàm phu nói, không phải thánh giả. Các bậc thánh chỉ nói như huyễn làm ra, giả lập, lìa khác và không khác, như mộng với bóng, không có tướng riêng biệt. Vì không hiểu cảnh giới của thánh trí nên thấy có các uẩn phân biệt trước mắt, ấy là tướng tự tính của các uẩn. Đại Huệ ! Những phân biệt như vậy ông nên xa lìa, xa lìa đó rồi liền nói các pháp tịch diệt thanh tịnh, được pháp vô ngã, nhập “Viễn Hành Địa” (Dùramyamà), thành tựu vô lượng tam muội tự tại, được thân “ý sinh”, các định như huyễn, các lực thần thông tự tại đều đầy đủ, như đất lớn lợi ích khắp quần sinh. Lại này Đại Huệ ! Niết Bàn có 4 thứ. Bốn thứ  ấy là gì? Ấy là:

Niết Bàn các pháp tự tính vô tính   (Bhàvasvabhàvàbhàvanirvana),

Niết Bàn các tướng tính vô tính  (Laksanavicitrabhàvabhàvanirvàna),

Niết Bàn giác tự tướng tính vô tính

(Svalaksanabhàvàbhàvàvabodhanirvàna),

Niết Bàn đoạn tự tướng cọng tướng các uẩn

(Skandhànàmsvasàmànyalaksanasamtatiprabandhabyucchedanirvàna).

Đại Huệ ! Bốn thứ Niết Bàn này là nghĩa của ngoại đạo, không phải do ta nói. Đại Huệ ! Điều Ta nói là, các thức phân biệt nóng v.v.. diệt gọi là Niết Bàn.

Đại Huệ Bồ Tát bạch:

Bạch Thế Tôn ! Vậy chớ Thế Tôn không lập có 8 thức đấy hay sao?

Ta có lập.

Nếu đã lập thì sao chỉ nói ý thức diệt mà không nói 7 thức kia diệt?

Đại Huệ ! Do ý thức làm nhân cùng các sở duyên mà sinh 7 thức kia. Đại Huệ ! Khi ý thức phân biệt khởi chấp trước, liền sinh các tập khí nuôi dưỡng tạng thức. Mạt na thức cùng ngã, ngã sở mà nó chấp trước tính toán đều nương tạng thức mà có, không có thể tướng riêng biệt. Tạng thức làm nhân và duyên cho nó, chấp trước các cảnh giới do tự tâm hiện, nên toàn thể hệ thống tâm thức đắp đổi làm nhân lẫn nhau. Đại Huệ ! Thí như sóng biển, cảnh do tự tâm hiện cũng bị ngọn gió cảnh giới thổi mà có sinh ra diệt. Bởi thế, khi ý thức diệt thì bảy thức kia cũng diệt. Bấy giờ Thế Tôn nói bài tụng:

Ta không chấp tự tính

Cùng các tướng đã làm

Hết phân biệt cảnh giới

Thế gọi là Niết Bàn

Ý thức nhân của tâm

Tâm làm nhân, sở duyên

Cho cảnh giới của ý

Các thức từ đó sinh

Như thác nước tuôn chảy

Sóng lớn tất không khởi

Cũng thế ý thức diệt

Thì các thức không sinh

Lại nữa, Đại Huệ ! Ta sẽ nói tướng sai biệt của tự tính vọng kế (parikalpi- tasvabhàvaprabhedanyalaksana) khiến ông và các Bồ Tát biết nghĩa ấy mà vượt ngoài các vọng tướng, chứng cảnh giới của Thánh Trí, biết được các pháp ngoại đạo, xa lìa phân biệt năng thủ sở thủ, đối với tướng y tha khởi (paratantra), không còn sinh bám víu vọng chấp. Đại Huệ ! Sao gọi là những tướng sai biệt của vọng kế? Ấy là phân biệt ngôn thuyết (abhilàpa- vikalpa), phân biệt sở thuyết (abhidheyavikalpa), phân biệt tướng (laksa- navikalpa), phân biệt tài, phân biệt tự tính (svabhàva), phân biệt nhân (hetu), phân biệt kiến (drsti), phân biệt lý (yukti), phân biệt sinh (utpàda), phân biệt bất sinh (anutpàda), phân biệt tương thuộc (sambandha), phân biệt phược giải (bandhàbandha). Đại Huệ ! Ấy là các tướng sai biệt của vọng kế. Sao là phân biệt ngôn thuyết? Ấy là chấp trước các tiếng lời hay đẹp. Sao là phân biệt ý nghĩa? Là chấp rằng thật có những sự vật như đã được nói ra cho rằng đây là cảnh mà Thánh Trí đã chứng và theo đó mà nói, ấy là phân biệt sở thuyết (ý nghĩa). Sao gọi là phân biệt tướng? Ấy là chấp vào các sự vật đã được diễn đạt, như con thú khát tưởng tượng ra nước, phân biệt các tướng cứng, ẩm, ấm, động. Ấy là phân biệt tướng. Sao gọi là phân biệt tài? Là bám giữ các thứ tiền tài vàng bạc v.v.. các thứ báu vật, mà nói ra ngôn thuyết. Sao là phân biệt tự tính? Ấy là dùng ác kiến mà phân biệt như thế này: đây là tự tính, nhất định không phải những cái khác. Sao gọi là phân biệt nhân? Là đối với nhân duyên, khởi phân biệt có không. Sao là phân biệt kiến? Ấy là sự chấp trước ác kiến của ngoại đạo, chấp có không, khác không khác, cùng không cùng v.v.. Sao là phân biệt lý? Ấy là chấp có tướng ngã, ngã sở mà sinh ra ngôn thuyết. Sao là phân biệt sinh? Ấy là kể các pháp hoặc có hoặc không do nhân duyên mà sinh. Sao là phân biệt bất sinh? Ấy là chấp rằng tất cả bản lai không sinh. Sao gọi là phân biệt tương thuộc? Ấy là đây và đó y cứ vào nhau, hỗ tương hệ thuộc, như vàng và dây vàng. Sao là phân biệt phược giải? Ấy là chấp do có cái trói buộc mà có cái bị trói buộc, như dùng sợi dây mà cột rồi lại mở. Ấy là phân biệt trói mở. Đại Huệ ! đấy là những tướng sai biệt của vọng kế, hết thảy phàm phu đều chấp trước vào đó hoặc chấp có hoặc chấp không. Đại Huệ, ở nơi pháp duyên khởi chấp các tự tính vọng kế, như thấy những huyễn vật khác nhau mà phân biệt vật này huyễn vật kia khác với huyễn (Suzuki 112). Đại Huệ ! Huyễn và các vật không phải một cũng không phải khác. Nếu khác thì huyễn không làm nhân cho các sự vật. Nếu là một thì huyễn và các vật đáng lẽ không khác nhau, nhưng vì có khác nên biết không phải một. Đại Huệ ! Ông và các Bồ Tát không nên do huyễn mà sinh chấp trước hữu vô. Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Tâm bị cảnh trói buộc

Do đó có giác tướng

Nơi vô tướng cao thượng

Trí tuệ bình đẳng sinh

Theo vọng kế thì có

Theo duyên khởi tất không

Vọng kế tức mê hoặc

Duyên khởi lìa phân biệt

Các thứ phân biệt sinh

Đều huyễn, không thành tựu

Các tướng trạng chỉ hiện

Vọng phân biệt, không chân

Các tướng ấy là lỗi

Do tâm trói buộc sinh

Kẻ vọng chấp không hiểu

Phân biệt pháp duyên khởi

Các tính vọng kế ấy

Đều tức là duyên khởi

Vọng kế có nhiều loại

Trong duyên khởi phân biệt

Thế tục, đệ nhất nghĩa

Thứ ba không nhân sinh

Vọng kế là thế tục

Dứt vọng tức thánh cảnh

Như kẻ tu quán hạnh

Nơi một, hiện các tướng

Kỳ thật không có gì

Tướng vọng kế cũng vậy

Như mắt bị đau màn

Vọng tưởng thấy các màu

Màu không sắc phi sắc

Không hiểu duyên khởi vậy

Như vàng lìa cấu bẩn

Như nước lìa bùn dơ

Như hư không không mây

Sạch vọng tưởng cũng thế

Vọng chấp vốn là không

Theo duyên khởi thì có

Kiến lập và bác bỏ

Đều do phân biệt sinh

Nếu không tính vọng kế

Mà có các duyên khởi

Không pháp mà có pháp

Pháp có từ không sinh

Do nhân nơi vọng kế

Mà có các duyên khởi

Tướng, nên thường theo nhau

Mà sinh ra vọng kế

Vì duyên khởi nương vọng

Rốt ráo không thật có

Khi thanh tịnh hiển bày

Gọi là đệ nhất nghĩa

Vọng kế có mười hai

Duyên khởi có sáu thứ

Cảnh tự chứng chân như

Thì không có sai biệt

Chân lý là năm pháp

Cùng với ba tự tính

Người tu hành quán đấy

Không làm trái chân như

Do nơi tướng duyên khởi

Vọng chấp các thứ danh

Tướng các vọng kế kia

Có ra từ duyên khởi

Trí tuệ khéo quán sát

Không duyên, không vọng kế

Trong chân như không vật

Làm sao phân biệt sinh

Trí viên thành nếu có

Tất phải lìa hữu vô

Đã xa lìa hữu vô

Làm sao có hai tính

Vọng kế thành hai tính

Hai tính do an lập

Phân biệt thấy các tướng

Thanh tịnh là thánh hạnh

Các tướng của vọng kế

Trong duyên khởi phân biệt

Nếu phân biệt khác thế

Là sa luận ngoại đạo

Vì cái thấy sai lầm

Vọng chấp vào cảnh vọng

Lìa hai thứ chấp ấy

Gọi là pháp chân thật.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật:

Bạch Thế Tôn xin vì con nói các hành tướng Tự Chứng Thánh Trí và hành tướng của Nhất Thừa, con và các Bồ Tát được hiểu rõ chỗ ấy sẽ không còn tùy kẻ khác mà giác ngộ.

Phật dạy:

Ông hãy nghe kỹ, Ta sẽ nói cho.

Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình y nơi thánh giáo, không phân biệt, nên ở một mình chỗ vắng lặng tu quán nội tâm, không do kẻ khác mà ngộ, lìa kiến phân biệt, dần tiến lên Phật địa, tu hạnh như thế gọi là hành tướng của Tự Chứng Thánh Trí. Sao gọi là hành tướng của Nhất Thừa? Ấy là chứng được đạo Nhất Thừa vậy. Sao gọi là biết đạo Nhất Thừa? Là lìa phân biệt năng thủ sở thủ, an trú trong như thật. Đại Huệ ! Đạo Nhất Thừa này ngoài Như Lai, ngoại đạo, nhị thừa, phạm vương v.v.. không thể đạt đến.

Bạch Thế Tôn ! Vì sao nói có 3 thừa mà không nói một thừa?

Đại Huệ ! Vì Thanh Văn, Duyên Giác không có pháp để tự Niết Bàn, nên ta không nói một thừa, vì những kẻ kia thường nương theo lời Như Lai dạy mà hàng phục, xa lìa, nhờ tu hành như vậy mà được giải thoát, không phải tự chứng đắc. Lại những người kia chưa thể trừ được chướng ngại của trí và tập khí của nghiệp, chưa giác ngộ được pháp vô ngã, chưa thoát khỏi bất tư nghì biến dị tử, cho nên ta nói có 3 thừa. Nếu những kẻ kia hay trừ được hết các tập khí lỗi lầm, giác ngộ pháp vô ngã, liền xa lìa sự mê say trong định để giác ngộ cảnh giới vô lậu, ở trong các cảnh giới vô lậu cao thượng xuất thế gian mà tu các công đức, đầy đủ các phương tiện, được pháp thân tự tại không thể nghĩ bàn.

Bây giờ Thế Tôn nói bài tụng:

Thiên thừa cùng phạm thừa

Thanh Văn, Duyên Giác thừa

Chư Phật Như Lai thừa

Các thừa mà ta nói

Nếu còn chứa tâm khởi

Các thừa chưa rốt ráo

Khi tâm “bị chuyển” diệt

Không có thừa, thừa giả

(xe và người ngồi xe)

Không có thừa độc lập

Nên ta gọi Nhất thừa

Vì nhiếp phục kẻ ngu

Nói các thừa sai biệt

Giải thoát có ba thứ

Là lìa các phiền não

Cùng với pháp vô ngã

Trí bình đẳng giải thoát.

Thí như gỗ trong nước

Theo làn sóng bồng bềnh

Tâm Thanh Văn cũng thế

Bị gió tưởng thổi động

Tuy hết khởi phiền não

Tập khí kia vẫn chuyển

Say vì rượu tam muội

Chấp trước cảnh vô lậu

Không phải đường cứu cánh

Lại cũng không thối chuyển

Được thân tam muội rồi

Hết kiếp vẫn chưa tỉnh

Như người say bí tỉ

Nhả rượu liền tỉnh ngộ

Thanh Văn cũng như vậy

Giác rồi sẽ thành Phật.


QUYỂN BỐN

CHƯƠNG III

VÔ THƯỜNG (anityatìparivatro Màmattrìyah)

Tiết I

Bấy giờ Phật bảo Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình:

Nay Ta sẽ vì ông nói các tướng sai biệt của thân do ý sinh. Ông hãy nghe kỹ, khéo suy nghĩ.

Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Này Đại Huệ ! Thân do ý sinh có 3 loại, ấy là:  1. Nhập tam muội  ý sinh thân là thân do nhập pháp lạc tam muội mà thành.  2.  Giác pháp tự tính ý sinh thân, là thân do biết rõ tự tính các pháp mà thành.  3.  Chủng loại câu sinh vô tác hành ý sinh thân, là thân sinh ra theo đủ các loài nhưng không có tác hành. Các bậc tu hành nhập sơ địa rồi dần chứng được các thân ấy. Đại Huệ ! Sao gọi là thân do nhập pháp lạc tam muội thành? Ấy là, ở các địa thứ 3, 4, 5, không tam muội lìa hết thảy phân biệt, tâm tịch nhiên bất động, biển tâm không khởi sóng chuyển thức, hiểu rõ các cảnh tượng đều do tâm hiện, thật ra không có gì, ấy là thân do nhập pháp lạc tam muội mà sinh. Sao là thân “Giác pháp tự tính”? Ấy là ở địa thứ 8 liễu tri các pháp như huyễn, không tướng, tâm chuyển các thức sở y, an trú định như huyễn và các định khác, có thể hiện vô lượng thần thông tự tại, như hoa nở, mau như ý khởi, như huyễn như mộng như bóng như hình, không phải do tứ đại tạo mà giống như do tứ đại tạo, các sắc tướng trang nghiêm đầy đủ, vào khắp các cõi phật, hiểu rõ tự tính các pháp, ấy cũng là thân do giác ngộ tự tính các pháp mà sinh. Sao gọi là thân “chủng loại câu sinh vô tác hành”? Ấy là hiểu rõ tướng các pháp do chư Phật chứng đắc. Đại Huệ ! Ông nên siêng quán sát ba loại thân ấy. Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Đại thừa Ta không thừa

Không tiếng cũng không lời

Không chân lý, giải thoát

Cũng không cảnh, vô tướng

Nhưng thừa ma ha diễn

Tam ma đề tự tại

Các loại thân ý sinh

Hoa tự tại trang nghiêm

Đại Huệ lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Như Thế Tôn nói có năm nghiệp vô gián (pancànantanya). Năm nghiệp ấy là gì, mà nếu làm thì đọa liền vào A Tỳ địa ngục?

Ông hãy nghe, Ta sẽ nói cho.

Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Năm tội vô gián là: giết mẹ, giết cha, giết A La Hán, Phá hòa hiệp tăng, ôm lòng ác độc gây đổ máu thân Phật. Đại Huệ ! Sao gọi là mẹ chúng sinh? Ấy là ái dục đưa đến sinh sản cùng ham vui v.v.. đều như mẹ nuôi dưỡng tất cả. Cha là gì? Là vô minh khiến sinh vào sáu xóm làng (dục giới); cắt đức hai cội gốc ấy gọi là giết cha mẹ. Sao là giết A La Hán? Ấy là các tùy miên xem như kẻ thù, như độc của chuột sinh, tận diệt chúng gọi là giết A La Hán. Sao là phá hòa hiệp tăng? Là các tướng khác nhau của các uẩn nhóm họp, đoạn trừ chúng gọi là phá hòa hiệp tăng. Sao gọi là ác tâm gây đổ máu thân Phật? Là thân 8 thức vọng sinh tư duy hiểu biết, thấy có tự tướng cọng tướng ngoài tâm, dùng tâm vô lậu, ba giải thoát mà diệt trừ thân Phật 8 thức, ấy gọi là ác tâm đổ máu thân Phật. Đại Huệ ! Ấy là năm tội vô gián bên trong, nếu có người làm, liền có sự vô gián của hiện chứng thật pháp. Lại nữa, Đại Huệ này ! Ta sẽ nói cho ông năm tội vô gián ở ngoài, khiến ông và các Bồ Tát nghe xong đời sau không sinh nghi hoặc. Sao gọi là năm vô gián ở ngoài? Là nghe các tội vô gián nói trong các kinh khác, nếu có tác giả, thì không thể hiện chứng được ba giải thoát, chỉ trừ Như Lai, các đại Bồ Tát và đại Thanh Văn. Thấy những người tạo nghiệp vô gián, vì muốn khiến họ sửa lỗi nên dùng thần thông chỉ ra các việc đồng như vậy. Những kẻ kia liền sám hối mà được giải thoát. Đấy đều là hóa hiện, không thật có. Nếu có kẻ thực sự tạo nghiệp vô gián, thì suốt đời Phật không hiện thân cho họ giải thoát, chỉ trừ khi họ giác ngộ được thân, tài sản, chỗ ở đều do tâm tạo, lìa kiến chấp phân biệt ngã, ngã sở hoặc đời sau thọ sinh các nơi khác gặp thiện tri thức lìa được lỗi lầm phân biệt.

Thế Tôn lại nói bài tụng:

Tham ái gọi là mẹ

Vô minh ấy là cha

Thức rõ nơi cảnh giới

Thì đấy gọi là Phật

Tùy miên là La Hán

Các uẩn, hòa hiệp tăng

Đoạn các vô gián ấy

Gọi là nghiệp vô gián

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:

Bạch Thế Tôn ! Xin vì con nói thể tính của chư Phật.

Đại Huệ ! hiểu rõ hai vô ngã, trừ hai chướng ngại, lìa hai chết, dứt hai phiền não, ấy là thể tính Phật. Đại Huệ ! Thanh Văn, Duyên Giác được các pháp ấy rồi cũng gọi là Phật. Ta vì nghĩa ấy mà chỉ nói một thừa.

Khi ấy Thế Tôn nói bài tụng:

Biết rõ hai vô ngã

Trừ hai chướng hai não

Cùng bất tư nghì tử

Nên gọi là Như Lai

Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Như Lai do mật ý gì mà nói cùng đại chúng những lời này: Ta là hết thảy Phật quá khứ, và nói trăm ngàn chuyện tiền thân: “Ta vào thời ấy làm vua Đảnh Sinh, làm voi lớn, làm chim Anh Vũ, Nguyệt Quang, Diệu nhãn v.v..”

Đại Huệ ! Đức Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác, do nơi bí mật tứ bình đẳng mà nói với đại chúng những lời như vầy: Ta thuở xưa làm Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp. Sao gọi là bốn? Ấy là: 1. Tự bình đẳng,  2. Ngữ bình đẳng,  3. Thân bình đẳng,  4. Pháp bình đẳng. Sao gọi là tự bình đẳng? Ấy là: Ta gọi là Phật, tất cả các đức Như Lai cũng gọi là Phật. Danh tự không khác nên gọi là bình đẳng. Ngữ bình đẳng là, Ta nói được 64 phạm âm, chư Như Lai cũng vậy, phạm âm như tiếng Ca lăng tần già không tăng không giảm không sai biệt, nên gọi là ngữ bình đẳng. Thân bình đẳng là Ta với chư Phật, pháp thân sắc tướng cùng các tướng tốt tướng phụ đều không khác, chỉ trừ khi vì điều phục các loài chúng sinh mà thị hiện các loại thân khác nhau, ấy là thân bình đẳng. Pháp bình đẳng là, Ta và chư Phật đồng chứng 37 pháp bồ đề phần. Cho nên Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác nói với đại chúng những lời như vậy. Khi ấy Thế Tôn nói bài tụng:

Ca Diếp, Câu Lưu Tôn

Câu Na Hàm là Ta

Do bốn thứ bình đẳng

Mà nói lời như vậy.

Đại Huệ Bồ Tát lại bạch:

Bạch Thế Tôn ! Thế Tôn dạy: “Khoảng thời gian từ đêm thành đạo cho đến khi nhập Niết Bàn ta không hề nói một chữ, không đã nói cũng không sẽ nói, vì không nói ấy mới là Phật nói”. Bạch Thế Tôn ! Do mật ý gì mà dạy lời ấy?

Do hai pháp bí mật mà nói lời ấy. Hai pháp ấy là gì? Là tự chứng pháp (pratyàmadharmatà) và bản trú pháp (paurànasthitidharmatà). Sao gọi là tự chứng pháp? Ấy là pháp chư Phật chứng ta cũng chứng hệt như vậy không thêm bớt, cảnh giới của tự chứng trí vốn lìa tướng ngôn thuyết, tướng phân biệt, tướng danh tự. Sao gọi là bản trú pháp? Ấy là, bản tính pháp giống như vàng trong mỏ, dù phật có ra đời hay không có ra đời, pháp vẫn ở ngôi vị của pháp, pháp giới pháp tính đều thường trú. Đại Huệ ! Thí như có người đi trong khoảng đồng rộng, thấy có con đường cũ bằng phẳng dẫn vào một ngôi cổ thành, liền theo đường ấy vào nghỉ ngơi vui thú. Đại Huệ ! Ý ông nghĩ sao? Người kia có làm ra con đường ấy và các thứ trong thành chăng?

Bạch Thế Tôn, không !

Đại Huệ ! Chân như và pháp tính thường trú mà Ta cùng các Phật chứng được cũng như vậy, cho nên nói từ khi thành Phật cho đến khi Niết Bàn, Ta không nói một lời nào, không đã nói cũng không sẽ nói.

Khi ấy Thế Tôn lại nói bài tụng:

Từ đêm thành chính giác

Đến đêm vào Niết Bàn

Giữa hai thời gian ấy

Ta đều không nói gì

Pháp bản trú tự chứng

Nên nói mật ngữ này

Ta cùng chư Như Lai

Không có chút sai biệt

Đại Huệ Bồ Tát lại bạch:

Bạch Thế Tôn ! Xin nói tướng hữu vô của hết thảy pháp, khiến con và các Bồ Tát lìa tướng ấy, mau được Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Phật dạy:

Hãy nghe kỹ, Ta sẽ nói cho.

Xin nghe, bạch Thế Tôn.

Đại Huệ ! Đa số chúng sinh ở thế gian đọa vào hai kiến chấp là chấp có (astitvani’srita) và chấp không (nastitvani’srita). Vì đọa vào hai kiến chấp ấy nên không xuất ly mà tưởng đã xuất ly. Hữu kiến là sao? Là chấp thật có nhân duyên sinh ra các pháp, không phải không thật có, thật có các pháp do nhân duyên sinh, không phải là không nhân duyên sinh. Đại Huệ ! Nói như thế tức là nói không nhân. Sao là vô kiến? Ấy là nhân có tham, sân, si nhưng vọng chấp cái làm nhân cho tham v.v.. là phi thực (Suzuki,125). Đại Huệ ! Lại có kẻ phân biệt có tướng mà không nhận có các pháp. Có kẻ thấy Phật, Duyên Giác, Thanh Văn không có tính tham sân si nên chấp những tính ấy không thật có. Đại Huệ ! Trong số đó ai là kẻ bị hoại (vaina’sika)?

Bạch Thế Tôn, ấy là kẻ công nhận có tính tham, sân, si nhưng sau lại chấp là không.

Hay thay ! Ông đã đáp đúng lời ta. Người ấy không những chỉ bị hoại vì quan niệm không có tham sân si, mà còn phá hoại Phật, Thanh Văn, Duyên Giác. Vì sao? Vì phiền não ở trong và ngoài đều bất khả đắc, vì thể tính của nó không khác cũng không đồng. Đại Huệ ! Tham sân si dù trong hay ngoài đều bất khả đắc, vì nó không có thể tính, không thể nắm bắt. Thanh Văn, Duyên Giác, Như Lai bản tính là giải thoát, vì trong họ không có tính trói buộc hay làm nhân cho trói buộc. Đại Huệ ! Nếu có tính trói buộc và làm nhân cho trói buộc tất là có cái bị trói buộc, nói như vậy gọi là kẻ phá hoại.

Đấy gọi là tướng vô và tướng hữu. Ta do mật ý ấy mà nói: Thà có ngã kiến to như núi tu di, không thà chấp không, ôm giữ tăng thượng mạn. Khởi chấp không như vậy là kẻ phá hoại, sa vào tự tướng cộng tướng, vui say trong kiến chấp ấy không hiểu các pháp do tự tâm hiện, vì không hiểu cho nên thấy có pháp ngoài, các tướng uẩn, giới, xứ sai biệt xoay chuyển sát na vô thường nối tiếp lưu chuyển rồi lại diệt. Vì hư vọng phân biệt, lìa văn tự (lìa kinh điển) cũng thành kẻ phá hoại. Thế Tôn lại nói bài tụng:

Hữu, vô là hai bên

Cho đến tâm tạo tác

Trừ sạch tạo tác ấy

Tâm bình đẳng tịch diệt

Không nắm giữ cảnh giới

Không diệt, không có gì

Có chân như diệu vật

Như cảnh giới chư Thánh

Vốn không mà có sinh

Sinh rồi lại diệt mất

Nhân duyên có cùng không

Kẻ ấy không trú pháp (Ta)

Không do ngoại đạo, Phật

Không do Ta, chúng khác

Do nơi duyên mà có

Làm sao mà được “không”

Hữu do duyên mà thành

Ai muốn được là không

Ác kiến nói có sinh

Vọng tưởng chấp có, không

Nếu biết không gì sinh

Cũng không có gì diệt

Thấy thế gian rỗng lặng

Hữu vô đều xa lìa

Bấy giờ Bồ Tát Đại Huệ lại bạch:

Bạch Thế Tôn ! Xin Thế Tôn vì chúng con nói tướng của các tông thú, con và chư Bồ Tát đạt được nghĩa ấy, sẽ không theo những giải thích sai lầm của ngoại đạo, mau được Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Hãy nghe kỹ, Ta sẽ nói cho ông.

Xin vâng, bạch Thế Tôn.

Đại Huệ ! Hết thảy hàng nhị thừa và Bồ Tát  có hai thứ tướng tông pháp, ấy là:  1. Tông thú pháp tướng (Siddhàntanayalaksana).  2.  Ngôn thuyết pháp tướng (De’sanànayalaksana). Tông thú pháp tướng là tướng sở chứng thù thắng, lìa phân biệt văn tự ngữ ngôn, nhập cảnh giới vô lậu, thành tựu các hạnh của địa vị mình, vượt lên trên hết thảy những tri giác bất chính, hàng phục ma, ngoại đạo, phát sinh ánh sáng trí tuệ. Ấy gọi là Tông thú pháp tướng.  Ngôn thuyết pháp tướng là nói các giáo pháp thuộc 9 bộ loại, lìa các tướng một, khác, có không, dùng phương tiện khéo léo tùy tâm chúng sinh mà làm cho họ hiểu được pháp này, ấy gọi là Ngôn thuyết pháp tướng. Ông và các Bồ Tát nên siêng tu học. Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Tông thú cùng ngôn thuyết

Tự chứng và giáo pháp

Nếu hay biết rõ được

Không theo người giải bậy

Như kẻ ngu phân biệt

Không phải tướng chân thật

Kia há không cầu độ?

Không một pháp có được

Quan sát các hữu vi

Sinh diệt và tương tục

Tăng trưởng hai kiến chấp

Điên đảo không biết gì

Niết Bàn lìa tâm ý

Chỉ một pháp đấy thật

Quán thế gian hư dối

Như huyễn, mộng, bẹ chuối

Không có tham nhuế si

Lại cũng không có người

Do ái sinh các uẩn

Như cảnh trong chiêm bao.

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát ma ha tát lại bạch Phật rằng:

Bạch Thế Tôn ! Xin vì con nói tướng “hư vọng phân biệt” (Abhùtapario- kalpa), hư vọng phân biệt này vì sao sinh? Làm sao sinh? Cái gì và do ai sinh? Sao gọi là hư vọng phân biệt?

Phật dạy:

Đại Huệ, hay thay ! Hay thay ! Ông vì thương xót thế gian, trời, người mà hỏi nghĩa ấy, vì lợi ích cho nhiều người, vì an lạc cho nhiều người. Ông hãy lắng nghe kỹ, khéo suy nghĩ. Ta sẽ nói cho ông.

Đại Huệ bạch: “Xin vâng!”

Phật dạy:

Này Đại Huệ ! Hết thảy chúng sinh đối ngoại cảnh, không hiểu rõ tự tâm hiện, lại chấp năng thủ, sở thủ, chấp trước hư dối, khởi các phân biệt, sa vào các kiến chấp có và không; tăng trưởng tập khí vọng kiến của ngoại đạo. Khi tâm và các tâm sở tương ưng nhóm khởi, họ liền chấp các nghĩa bên ngoài đều có; chấp ngã, ngã sở; đó gọi là hư vọng phân biệt.

Đại Huệ bạch Phật:

Bạch Thế Tôn, nếu quả như Thế Tôn dạy, các pháp bên ngoài tính vốn lìa có không, siêu việt các quan niệm (kiến chấp), thì đệ nhất nghĩa đế cũng vậy, lìa các hạn lượng tông, nhân, dụ. Bạch Thế Tôn ! Vì sao với các pháp khác thì nói khởi phân biệt, mà với đệ nhất nghĩa thì lại không? Phải chăng lời Thế Tôn dạy có trái lý, vì một nơi nói khởi, một nơi không nói khởi. Thế Tôn lại nói cái thấy hữu, vô là sa vào hư vọng phân biệt. Ví như huyễn sự, không thật có; phân biệt cũng thế, lìa các tướng hữu vô. Sao nói là đọa vào hai kiến? Thuyết này lại không đọa vào kiến chấp của thế gian đó sao?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Phân biệt không sinh không diệt. Vì sao? Vì không khởi tướng phân biệt có, không, vì các pháp thấy bên ngoài đều không có, vì hiểu rõ tự tâm hiện. Chỉ vì ngu phu phân biệt các pháp của tự tâm, bám vào các tướng, mà nói như thế, khiến họ biết những gì thấy đó đều là tự tâm, đoạn trừ các kiến chấp đắm trước ngã, ngã sở, lìa các ác nhân duyên năng tác sở tác, giác ngộ duy tâm, chuyển được ý lạc (?) (cittàs’raya), hiểu rõ các địa vị, vào cảnh giới Phật, xả bỏ các kiến về 5 pháp, 3 tự tính. Do đó ta nói do hư vọng phân biệt chấp trước mà sinh các pháp tự tâm hiện và các cảnh giới. Nếu biết rõ “như thật” liền được giải thoát.

Bây giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Các nhân cùng với duyên

Do đó sinh thế gian

Cùng bốn cú tương ưng

Không biết pháp của Ta

Thể lìa có, lìa không

Lìa câu và bất câu

Vì sao các người ngu

Phân biệt nhân duyên khởi

Không có cũng không không

Không vừa không vừa có

Quán thế gian như vậy

Chuyển tâm, chứng vô ngã

Hết thảy pháp không sinh

Vì do duyên khởi vậy

Kết quả của các duyên

Kết quả thì không sinh

Quả không tự sinh quả

Có hai quả là sai

Vì không có hai quả

Không thể có tính có

Quán các pháp hữu vi

Lìa năng duyên sở duyên

Nhất định chỉ là tâm

Nên ta nói tâm lượng

Lượng là chỗ tự tính

Xa cả hai duyên pháp

Được cứu cánh thanh tịnh

Nên ta nói tâm lượng

Ngã là tên bày đặt

Thật ra không thể có

Các uẩn là giả danh

Cũng đều không phải thật

Có bốn thứ bình đẳng

Tướng, nhân cùng sở sinh

Vô ngã là thứ bốn

Kẻ tu hành quán sát

Lìa hết thảy các kiến

Cùng phân biệt năng sở

Không được cũng không sinh

Ta nói là tâm lượng (mind noun)

Không có cũng không không

Không, có đều xa lìa

Tâm xa lìa cũng bỏ

Ta nói là tâm lượng

Chân như, không, thật tế

Niết bàn cùng pháp giới

Các loại thân ý sinh

Ta nói là tâm lượng

Vọng tưởng tập khí buộc

Các pháp do tâm sinh

Chúng sinh chấp ngoài có

Ta nói là tâm lượng

Cái thấy ngoài không có

Chỉ tâm hiện các pháp

Thân, tài sản, chỗ ở

Ta nói là tâm lượng

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật rằng:

Như Lai có nói: Như Ta đã nói, Ông và các Bồ Tát không nên căn cứ vào lời mà phải nắm lấy ý nghĩa. Bạch Thế Tôn ! Vì sao không nên nương lời mà giữ nghĩa. Lời (ngữ) là sao? Nghĩa là sao?

Này Đại Huệ ! Lời là do tập khí phân biệt làm nhân; do yết hầu, lưỡi môi, quai hàm mà phát ra các âm thanh, lời nói, đàm luận với nhau; ấy gọi là ngữ. Còn “nghĩa” là gì? Bồ Tát đại hữu tình ở một mình nơi chỗ thanh tịnh, lấy trí tuệ văn tư tu, suy nghĩ quán sát hướng về Niết Bàn, cảnh giới của tự trí, chuyển đổi các tập khí, thực hành các hành tướng của các địa, ấy gọi là nghĩa. Lại nữa, này Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình rành lời và nghĩa, biết lời và nghĩa không một không khác; và nghĩa đối với lời cũng lại như vậy. Nếu nghĩa khác lời; thì nó sẽ không nhân lời mà rõ nghĩa; nhưng do nơi lời mà thấy được ý, như đèn chiếu rõ hình sắc. Đại Huệ ! Ví như có người cầm đèn soi các vật biết vật này như thế ở chỗ như thế. Bồ Tát đại hữu tình cũng vậy; do ngọn đèn lời mà đi vào cảnh giới tự chứng, lìa ngôn thuyết. Lại này Đại Huệ ! Nếu có người y theo lời nói mà nắm ý nghĩa về Niết Bàn bất sinh, bất diệt, về tam thừa, nhất thừa, 5 pháp, 8 thức, 3 tự tính v.v.. tất người ấy sẽ sinh kiến chấp hoặc có hoặc không, thấy có các sự vật khác nhau liền khởi phân biệt, như thấy huyễn sự cho là thật. Ấy là cái thấy của phàm phu, không phải của bậc thánh hiền.

Khi ấy Thế Tôn lại nói bài kệ:

Nếu theo lời giữ nghĩa

Mà kiến lập các pháp

Vì những kiến lập ấy

Chết sa vào địa ngục

Trong uẩn không có ngã

Uẩn không phải là ngã

Không phân biệt như thế

Lại chẳng phải không có

Như kẻ ngu phân biệt

Hết thảy đều có tính

Nếu thấy được như vậy

Tức là thấy chân lý

Tất cả pháp nhiễm tịnh

Đều không có thể tính

Không như chúng được thấy

Cũng không phải là không

Lại nữa, Đại Huệ ! Ta sẽ vì ông nói tướng tri thức (Jnànavijnanakajsana), ông cùng các Bồ Tát đại hữu tình nếu hiểu rõ tướng của trí thức liền mau được Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Này Đại Huệ ! Trí có ba loại, ấy là: 1. Thế gian trí (Lautikajnàna),  2. Xuất thế gian trí (Lokottarajnàna), 3. Xuất thế gian thượng thượng trí (Lokottaratamajnàna). Sao gọi là thế gian trí? Ấy là chấp hết thảy các pháp có, không của ngoại đạo, phàm ngu. Sao gọi là xuất thế gian trí? Ấy là các chấp trước tự tướng (ngã), cọng tướng (ngã sở, nhân sinh, vũ trụ) của hàng nhị thừa. Sao là xuất thế gian thượng thượng trí? Ấy là chư Phật Bồ Tát quán tất cả pháp đều không tướng, không sinh, không diệt, không phải có, không phải không, chứng pháp vô ngã, nhập Như Lai địa. Này Đại Huệ ! Lại có ba loại trí, ấy là: 1. Tri tự tướng cọng tướng trí(svasànànyalaksanàvadjàrakajnàna);  2. Tri sinh diệt trí (utpàdavuauàvadhàrakajnàna);  3. Tri bất sinh bất diệt trí (Anutpà- dànirodhàvadhàrakajnàna). Lại này Đại Huệ ! Sinh diệt là thức, không sinh diệt là trí, thức thì sa vào nhị nguyên tướng vô tướng, cùng các thứ sai biệt làm nhân cho nhau, trí thì lìa tướng và vô tướng, lìa nhân hữu, vô. Có các tướng tích tập ấy là thức, không tích tập tướng ấy là trí. Bám trước vào cảnh giới ấy là thức, không bám trước cảnh giới ấy là trí. Do ba hòa hiệp tương ưng mà sinh là thức, vô ngại tự tính là trí. Tướng “có thể nắm được” là thức, tướng “không thể nắm được” là trí, vì đấy là cảnh giới Thánh Trí Tự Chứng, như trăng trong nước không vào không ra vậy.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Nhóm chứa nghiệp là tâm

Quán sát pháp là trí

Tuệ hay chứng vô tướng

Được tự tại uy quang

Bị cảnh buộc là tâm

Tướng “giác” sinh là trí

Cảnh thù thắng, vô tướng

Trí tuệ do đây sinh

Tâm, ý cùng với thức

Lìa các tướng phân biệt

Được pháp vô phân biệt

Bồ Tát, phi Thanh Văn

Nhẫn thù thắng tịch diệt

Trí Như Lai thanh tịnh

Hay sinh các thắng nghĩa

Xa lìa các sở hành

(samudàcàra – varijitam)

Ta có ba loại trí

Bậc thánh hay sáng rõ

Phân biệt được các tướng

Mở bày hết thảy pháp

Trí ta lìa các tướng

Siêu việt nơi nhi thừa

Cùng các hạng Thanh Văn

Trí Như Lai vô cấu

Vì hiểu rõ duy tâm.

Lại nữa, này Đại Huệ ! Các ngoại đạo có 9 loại kiến về chuyển biến, ấy là:  1. Hình chuyển biến,  2. Tướng chuyển biến (laksana),  3. Nhân chuyển biến (hetu), 4. Tương ưng chuyển biến (yukti),  5. Kiến chuyển biến (drsti), 6. Sinh chuyển biến (utpàda), 7. Vật chuyển biến (bhàva), 8. Duyên minh liễu chuyển biến (pratyayàbhivyakti),  9. Sở tác minh liễu chuyển biến (kriyàbhivyakti). Tất cả ngoại đạo do quan niệm ấy mà khởi các luận về chuyển biến dựa trên có và không. Hình chuyển biến là thấy hình thể thay đổi như vàng làm đồ trang sức; như các thứ vòng, xuyến, chuỗi đeo cổ không giống nhau, hình trạng có sai khác nhưng thể không khác. Hết thảy pháp biến đổi cũng như thế. Các pháp mà ngoại đạo chấp trước đều không “như vậy” cũng không “khác vậy”. Nên biết chỉ do phân biệt mà các pháp biến hóa; như ván là do sữa, rượu là do trái chín. Ngoại đạo nói ở đây có biến hóa, mà kỳ thật không “có” cũng không “không”, vì do tự tâm thấy, không có vật bên ngoài. Như thế đều là phàm phu mê muội, do tập khí phân biệt của mình sinh ra, chứ thật không có một pháp nào hoặc sinh hoặc diệt; như do mộng huyễn thấy có các sắc tướng, như nói con của người thạch nữ có sống chết.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Hình tùy thời biến chuyển

Đại chủng cùng các căn

Thân trung hữu (antaràbhava) sinh dần

Vọng tưởng, không minh trí

Chư Phật không phân biệt

Duyên khởi cùng thế gian

Thế gian do duyên khởi

Như thành Càn Thát Bà.

Lúc ấy Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Xin Như Lai vì con giải nói nghĩa thâm mật (samdhyatrha) cùng giải nghĩa tướng (parimocanàtrha) nơi hết thảy pháp, khiến con cùng các Bồ Tát đại hữu tình biết rõ sự sai biệt giữa trói buộc và giải thoát, chúng con sẽ biết những phương tiện thiện xảo về hai tướng ấy, và sẽ không còn chấp lời giữ nghĩa. Khi chúng con biết rõ nghĩa trói buộc (thâm mật) là gì và sự giải thoát của các pháp là gì, chúng con sẽ diệt trừ sự phân biệt lời và chữ; và nhờ trí tuệ, chúng con được nhập các cõi Phật và các hội chúng; được ấn thần thông, tự tại tổng trì, được giác tuệ, an trú trong mười nguyện vô tận, không cần dụng công biến hóa các thân, hào quang chiếu sáng như trời trăng, ngọc ma ni, đất nước lửa gió, an trú ở các địa, lìa kiến chấp phân biệt; biết các pháp đều như huyễn, mộng; nhập quả vị Như Lai, hóa độ khắp chúng sinh; khiến họ biết các pháp hư dối không thật, lìa hữu vô, đoạn cái chấp sinh, diệt, không chấp trước vào ngôn thuyết, khiến chuyển thức sở y.

Phật dạy:

Hãy lắng nghe, ta sẽ nói cho ông. Này Đại Huệ ! Sự chấp trước ăn sâu (ab-hinivésasamdhi) đối với hết thảy các pháp y lời mà nắm ý thật là không cùng. Ấy là: Chấp trước tướng (lakasanàbhivivésa), chấp trước duyên (pra- tyayàbhi), chấp trước hữu phi hữu (bhàvàbhàbhinivesa), chấp trước sinh phi sinh, chấp trước diệt phi diệt, chấp trước thừa phi thừa, chấp trước vi vô vi, chấp trước địa và tự tướng của địa, chấp trước vào chính sự phân biệt và vào cái hiện chứng (that arising from enligthenment), chấp trước vào tướng hữu vô của các tông ngoại đạo, chấp trước 3 thừa, 1 thừa ... Này Đại Huệ ! Các loại chấp trước sâu xa ấy thật vô lượng, đều do phàm phu tự phân biệt rồi bám lấy. Những phân biệt ấy như tằm làm kén, lấy tơ vọng tưởng tự quấn mình, quấn người, chấp chặt hữu vô, ham muốn chằng chịt kiên cố. Này Đại Huệ ! Nhưng thật ở đây không có tướng ăn sâu hay không ăn sâu; vì Bồ Tát đại hữu tình thấy các pháp đều ở trong tịch tịnh, không phân biệt. Nếu rõ biết các pháp chỉ do tâm thấy (thì thấy) ngoại pháp hoặc không hoặc có đều đồng một tướng, rồi theo đó quán sát các chấp sâu xa phân biệt hoặc có hoặc không, thấy đều vắng lặng; nên nói không có tướng chấp sâu dày với không sâu dày. Đại Huệ ! Ở đây không có sự trói buộc cũng không có sự giải thoát, chỉ những người không rõ chân thật mới thấy có trói buộc, có giải thoát. Vì sao? Vì hết thảy các pháp dù có dù không, thể tính của nó muốn tìm cũng không thấy được. Lại này Đại Huệ ! Kẻ phàm phu ngu muội có 3 thứ trói buộc thâm sâu, ấy là tham, sân, si, do đó mà có yêu thích đời sau cùng ham muốn, vui mừng. Sự ràng buộc thâm sâu này khiến chúng sinh tiếp tục sinh trong 5 đường; nếu dây ràng buộc này đứt, thì không thấy đâu là tướng ràng buộc hay không ràng buộc. Lại nữa, Đại Huệ này ! Nếu có sự chấp trước vào 3 duyên hòa hiệp, các thức bị ràng buộc sâu xa lần lượt khởi lên; và vì có chấp trước nên có trói buộc sâu xa. Nếu thấy 3 giải thoát, lìa 3 thức hòa hiệp, thì hết thảy các trói buộc tất không sinh.

 Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Phân biệt cái không thật

Ấy là tướng buộc ràng

Nếu biết được như thật

Các trói buộc đều đứt

Phàm phu không rõ được

Theo lời mà thủ nghĩa

Như tằm ở trong kén

Vọng tưởng tự buộc ràng.

Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Như Thế Tôn dạy, các pháp đều do phân biệt của tâm thức, không có tự tính; đấy chỉ là vọng kế (tưởng tượng sai lầm) mà thôi. Bạch Thế Tôn ! Nếu chỉ do vọng chấp, không thật có các pháp thì có phải các pháp nhiễm hoặc tịnh đều là không? (phải chăng không có gì nhiễm hay tịnh?)

Phật dạy:

Đại Huệ ! Chính thế, Chính thế ! Như ông nói, phàm phu phân biệt các pháp, nhưng pháp tính không có như vậy; đấy chỉ là vọng chấp, không có thật tính. Song các bậc thánh lấy tuệ nhãn của thánh mà thấy biết như thật có tự tính các pháp.

Đại Huệ bạch:

Nếu các bậc thánh dùng tuệ nhãn của mình mà thấy có tự tính các pháp, không phải thiên nhãn hay nhục nhãn, không giống như chỗ phân biệt của hạng phàm ngu, thì bạch Thế Tôn, làm sao hạng này lìa được phân biệt, vì họ không thể nào nhận biết thánh pháp (àryabhàvavastu)? Bạch Thế Tôn ! Những người kia không điên đảo cũng không không điên đảo. Vì sao? Vì họ không thấy những pháp mà thánh nhân thấy. Vì cái thấy của thánh nhân lìa tướng hữu vô, nên thánh cũng không phân biệt như sự phân biệt của phàm phu, vì không phải là cảnh giới của mình. Bậc thánh cũng thấy có tự tính các pháp – như vọng chấp mà hiện, vì không nói có nhân cùng không nhân, nên họ cũng sa vào kiến chấp tự tính các pháp vậy. Bạch Thế Tôn ! Các cảnh giới khác đã không đồng với cảnh này (của thánh), như vậy thành lỗi “vô cùng”, vì như thế cái gì lập thành tự tính các pháp hóa ra không thể biết được. Bạch Thế Tôn ! Những gì do phân biệt mà có, không thể là tự tính của các pháp. Thế thì sao trong khi đã bảo sự vật có ra là do vọng chấp phân biệt, lại còn nói rằng chúng thật không phải như người ta phân biệt? (Tại sao tự tính các pháp đã nói là không do phân biệt, lại nói do phân biệt mà có các pháp?) Bạch Thế Tôn ! (Đã đành) Sự phân biệt khác nhau nên các pháp cũng sai khác, vì nhân không giống nhau. Nhưng tại sao các pháp đều do phân biệt, mà chỉ cái phân biệt của phàm ngu là không “như thật”. Và Thế Tôn lại còn nói: “Vì muốn khiến chúng sinh xả bỏ các phân biệt nên Ta nói các pháp do phân biệt thấy, không phải là pháp “như thị””. Bạch Thế Tôn ! Vì sao đã muốn chúng sinh lìa các pháp do kiến hữu vô chấp trước, mà còn chấp cảnh giới của Thánh Trí, sa vào hữu kiến? Vì sao không nói pháp tịch tịnh không vô, mà nói tự tính của Thánh Trí?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Không phải là Ta không nói pháp tịch tịnh, cũng không phải Ta sa vào hữu kiến vì đã nói tự tính của Thánh Trí. Ta vì chúng sinh từ vô thỉ chấp trước nơi “hữu”, nên nói có cảnh giới ở trong tịch tịnh, Khiến chúng nghe rồi không sinh hoảng sợ, có thể như thật chứng pháp không tịch, lìa các mê loạn, đi vào lý duy thức, biết các pháp hữu vô ở bên ngoài đều do tâm thấy, ngộ được 3 giải thoát, được ấn như thật, thấy tự tính của pháp, rõ cảnh giới thánh, xa lìa hết thảy chấp trước hữu vô. Lại, này Đại Huệ ! Các Bồ Tát đại hữu tình không nên lập thuyết rằng “hết thảy pháp không sinh” lời ấy tự nó đã hỏng. Vì sao? Vì tôn kia có đối đãi mà sinh vậy. Lại vì tôn kia tức đã lọt vào trong số “hết thảy pháp”, cái tướng không sinh cũng không sinh. Lại vì tôn kia cũng đều không sinh, tôn ấy lọt vào trong số các pháp, nên tướng hữu vô cũng không sinh. Bởi thế “hết thảy pháp không sinh” thuyết ấy tự hỏng, không nên lập như thế, vì có nhiều lỗi lầm trong các phần của tam đoạn luận, lại có nhiều nhân khác nhau lẫn lộn trong đó. Cũng như thuyết (các pháp) không sinh, thuyết cho rằng “các pháp đều không, vô tự tính” cũng lại như vậy. Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình nên nói hết thảy pháp như huyễn như mộng, vì vừa được thấy cũng vừa không được thấy, vì hết thảy đều là mê loạn, trừ phi vì bọn ngu phu sợ hãi. Đại Huệ ! Kẻ phàm phu ngu muội sa vào kiến chấp hữu, vô, chớ nên làm cho chúng hoảng hốt xa lìa đại thừa.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Không tự tính, không thuyết

Không sự, không chỗ y (S.Alaya)

Phàm phu phân biệt quấy

Ác giác như thây ma

“Hết thảy pháp không sinh”

Do ngoại đạo thành lập

Nhưng thuyết kia có sinh

Vì không do duyên thành

Hết thảy pháp không sinh

Kẻ trí không phân biệt

Tôn kia do nhân sinh

Nói thế tức là hỏng

Ví như mắt có màn

Vọng tưởng thấy hoa đốm

Các pháp cũng như vậy

Phàm phu vọng phân biệt

Ba cõi chỉ giả danh

Mà không có thật thể

Do giả ấy bày ra

Liền phân biệt suy lường

Các sự tướng giả danh

Làm loạn động tâm thức

Con Phật tất vượt qua

Dạo nơi vô phân biệt

Không nước chấp có nước

Đều do khát mà sinh

Ngu thấy pháp cũng vậy

Bậc thánh thì không thế

Thánh nhân thấy thanh tịnh

Sinh nơi ba giải thoát.

Xa lìa cảnh sinh diệt

Thường du cảnh vô tướng

Kẻ tu cảnh vô tướng

Thì cái “vô” cũng không

Hữu vô đều bình đẳng

Cho nên sinh quả thánh

Làm sao hết “pháp hữu”

Làm sao được bình đẳng

Nếu tâm không rõ pháp

Trong ngoài đều loạn động

Rõ rồi liền bình đẳng

Tướng loạn khi ấy hết.

Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Như Phật đã dạy: Nếu biết cảnh giới chỉ là giả danh, đều bất khả đắc, tất không có sở thủ, vì không sở thủ nên cũng không có năng thủ, cả năng thủ sở thủ đều không, nên không khởi phân biệt, ấy gọi là trí. Bạch Thế Tôn ! Vì sao mà trí kia không được cảnh? Có phải vì không rõ nghĩa một, khác, tự tướng, cọng tướng của hết thảy pháp mà nói là “không được”? Hay vì các pháp tự tướng cọng tướng nhiều thứ không giống nhau, che lấp lẫn nhau mà “không được”? Hay vì núi cao tường đá, vì hàng rào, màn, rèm làm chướng ngại che lấp mà nói là “không được”? Hay vì quá xa, quá gần, quá già, quá bé, các giác quan (căn) mù tối không đầy đủ mà gọi là “không được”? Nếu vì không rõ biết nghĩa một, khác, tự tướng cọng tướng của các pháp mà nói là không được, thì đấy không gọi là trí mà đúng là vô trí, vì có cảnh giới mà không biết được. Nếu vì các pháp có tự tướng cọng tướng không đồng, che lấp nhau mà không được, thì đây cũng là phi trí (ajnàna); vì biết nơi cảnh giới mới gọi là trí chứ không phải không biết (mà gọi là trí). Nếu vì bị núi cao tường đá, hàng rào, rèm, màn che lấp hay vì quá xa quá gần, già, bé, mù, tối mà không biết, thì đó cũng là phi trí, vì có cảnh giới mà trí không đầy đủ nên không biết.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Cái thật trí ở đây không phải như ông nói. Chỗ Ta nói không phải nói sự ẩn che; Ta nói cảnh giới chỉ là giả danh bất khả đắc, vì biết rõ do tự tâm thấy, các pháp bên ngoài có hoặc không, trí tuệ hoàn toàn không chấp. Vì không chấp nên sở tri chướng không khởi, nhập vào ba giải thoát, trí và thể đều quên; không phải như hết thảy phàm phu vì tập khí hí luận từ vô thỉ chấp trước pháp ngoài hoặc có hoặc không, chấp các hình tướng... Biết như thế gọi là không biết, không hiểu các pháp do tâm hiện, chấp ngã, ngã sở, trí phân biệt cảnh, không biết ngoại cảnh vừa có vừa không, vì tâm những kẻ ấy ở trong đoạn kiến. Vì khiến chúng xa lìa các phân biệt như thế, nên nói hết thảy pháp do tâm kiến lập.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Nếu có các sở duyên

Trí tuệ không quán thấy

Đấy là ngu, không trí

Ấy là vọng chấp trước

Vô biên tướng lấp nhau

Chướng ngại cùng xa, gần

Trí tuệ không thấy được

Đấy gọi là tà kiến

Già, bé, các căn tối

Mà thật có cảnh giới

Không thể sinh trí huệ

Ấy gọi là tà kiến.

Lại nữa, Đại Huệ ! Kẻ ngu si phàm phu bị mê hoặc từ vô thỉ vì sự hư dối, tà kiến, phân biệt, không hiểu pháp như thật và ngôn ngữ bàn về pháp ấy, chấp trước vào các tướng ở ngoài tâm và những lời thuyết pháp phương tiện; không thể tu tập pháp chân thật thanh tịnh lìa tứ cú.

Đại Huệ bạch:

Chính thế, bạch Thế Tôn, chính như Thế Tôn dạy. Nguyện xin Thế Tôn vì con nói pháp như thật (siddhàntanaya) và pháp ngôn thuyết (désanànaya), khiến con cùng các Bồ Tát đại hữu tình hiểu rành rẽ hai pháp này, không bị lung lạc vì ngoại đạo và nhị thừa.

Phật dạy:

Ông hãy lắng nghe, lắng nghe. Ta sẽ nói cho ông. Này Đại Huệ ! Chư Như Lai trong ba đời có hai thứ pháp, ấy là pháp ngôn thuyết và pháp như thật. Ngôn thuyết pháp là tùy theo tâm của chúng sinh mà nói những giáo lý phương tiện khác nhau. Pháp như thật là người tu hành lìa phân biệt các pháp do tâm hiện, không sa vào hý luận một, khác, cùng, không cùng; siêu việt hết thảy tâm, ý, ý thức; ở nơi cảnh giới của Thánh Trí Tự Chứng, lìa các kiến chấp về nhân duyên, tương ưng; hết thảy ngoại đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, những người sa vào nhị biên đều không thể biết được, ấy gọi là pháp như thật. Hai thứ pháp ấy, ông cùng các Bồ Tát đại hữu tình nên khéo tu học.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Ta nói hai thứ pháp

“Ngôn giáo” và “như thật”

Giáo pháp cho phàm phu

Thật pháp bậc tu hành.

Lúc bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Có lần Như Lai dạy rằng Lô Ca Gia Đà (Lokàyatika – Thế luận) nói các chú thuật (mantrapratibhàna) chỉ thu được tài lợi chứ không được pháp lợi, vì không được pháp lợi nên không đáng gần gũi thừa sự cúng dường. Vì sao Thế Tôn dạy như vậy?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Các luận văn của Lô Ca Gia Đà chỉ tô điểm lời văn làm mê cuồng kẻ phàm ngu, tùy thuận thế gian mà hư vọng nói, không đúng nghĩa, không xứng lý, không thể chứng nhập cảnh giới chân thật, không thể hiểu rõ hết thảy các pháp, thường sa vào nhị biên, tự mình đã mất chính đạo, lại còn khiến người khác mất, luân hồi qua các đường tà mãi mãi không ra được. Vì sao? Vì không hiểu các pháp do tâm hiện, chấp vào cảnh ngoài tăng thêm phân biệt. Cho nên ta nói thế luận trau dồi câu, lời, lý lẽ, thí dụ, chỉ lừa bịp kẻ ngu, không thể giải thoát được các hoạn nạn sinh, già, bệnh, chết, sầu khổ. Này Đại Huệ ! Thích đề hoàn nhân (Indra) rộng giải thích các luận, và chính ông cũng tạo nhiều bộ luận (and was himself the author of a work on sound – Suzuki, p150). Kẻ thế luận kia có một đệ tử hóa hiện làm thân con rồng đi đến cung trời Đế Thích, rồi lập một luận tôn (mệnh đề) và thách Đế Thích rằng: “Này Kiều Thi Ca, tôi cùng ông tranh luận, nếu ông thua, tôi sẽ phá xe một ngàn căm của ông, nếu tôi thua, tôi sẽ cắt hết những cái đầu của tôi để chịu phục. Nói xong, bèn dùng phương pháp biện luận đánh bại Đế Thích, phá xe một ngàn căm. Đế Thích phải trở xuống lại cõi thế. Đại Huệ ! Ngôn luận thế gian (lokàyatika) có đầy đủ nhân, dụ, đến có thể hiện hình làm rồng, dùng văn từ đẹp mà mê hoặc loài trời cùng A Tu La, khiến họ chấp trước vào các kiến sinh, diệt v.v.. huống chi là loài người. Bởi thế Đại Huệ, ông không nên thân cận thừa sự cúng dường, vì những kẻ kia có thể làm sinh nhân khổ. Đại Huệ ! Thế luận chỉ nói cảnh giới do thân chứng biết. Này Đại Huệ ! Thế luận có trăm ngàn câu lời, trong đời vị lai ác kiến trái nhau, tà chúng phân tán, tách ra thành nhiều bộ, mỗi bộ một lý thuyết riêng. Đại Huệ ! Không phải các ngoại đạo khác có thể lập giáo, chỉ có Lô Ca Gia dùng trăm ngàn câu, rộng nói vô lượng luận cứ (reasonings) sai biệt, không phải lý như thật. Lại chính họ cũng không biết đấy là pháp làm mê hoặc thế nhân.

Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát nói:

Bạch Thế Tôn ! Nếu các luận do Lô Ca Gia tạo – đủ các văn tự nguyên nhân, thí dụ trau chuốt – không phải là pháp như thật, chỉ do Lô Ca Gia chấp trước vào lý thuyết của mình, nếu luận ấy gọi là ngoại đạo thì Thế Tôn cũng có nói các sự việc thế gian, nghĩa là có dùng các món văn, câu, ngôn từ mà rộng nói cho chúng hội trời, người ở khắp các cõi nước trong mười phương tụ đến, không phải là pháp của tự trí đã chứng được. Vậy thì Thế Tôn cũng nói đồng như ngoại đạo chăng.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Ta không dạy thế luận (lokàyata) cũng không dạy đến, đi (àyavyrya). Ta nói các pháp không đến không đi (cf. s. I teach that which is not coming and going). Này Đại Huệ ! Đến, ấy là nhóm tụ, sinh trưởng. Đi, ấy là diệt, không đến không đi, ấy tức là không sinh không diệt. Vì sao? Vì ta không chấp vào hữu vô của ngoại pháp, vì biết chỉ do tự tâm, không thấy hai thủ, không sinh phân biệt cảnh giới của các tướng, nhập vào pháp môn không, vô tướng, vô nguyện mà được giải thoát. Đại Huệ ! Ta nhớ có lần Ta ở lại một nơi nào đó, có kẻ thế luận bà la môn đến , thốt nhiên hỏi Ta: “Cồ Đàm ! Có phải hết thảy đều được tạo nên chăng?” Ta đáp: “Này bà la môn, nếu hết thảy được tạo ấy là thế luận (materialism) đầu tiên.” Người ấy lại hỏi: “Tất cả đều không được tạo chăng?” Ta đáp: “Tất cả đều không được tạo, đây là thế luận thứ hai.” Người kia lại hỏi: “Tất cả là thường chăng? Vô thường chăng? Sinh chăng? Không sinh chăng?” Ta đáp: “Đấy là thế luận thứ sáu.” Người kia lại hỏi: “Tất cả là một chăng? Là khác chăng? Là cùng (câu) chăng? Không cùng (bất câu) chăng? Tất cả đều do các nhân duyên mà sinh chăng?” Ta đáp: “Đó là thế luận thứ mười một.” Người kia hỏi nữa: “Hết thảy đều có thể giải thích (hữu ký – Vyàktra) chăng? Có linh hồn chăng? Có thế giới này chăng? Không có thế giới này chăng? Có giải thoát chăng? Không có giải thoát chăng? Tất cả đều là sát na (chóng qua – momentary) chăng? Không sát na chăng? Hư không, Niết Bàn cùng phi trạch diệt (Apratisamkhyànirodha) là được tạo tác chăng? Không dược tạo tác chăng? Có trung hữu (antã àbhava) chăng? Không có trung hữu chăng?” Ta đáp rằng: “Này bà la môn, tất cả đó đều là thế luận của ông, không phải thuyết của Ta. Bà la môn ! Ta nói do các tập khí hý luận từ vô thỉ mà sinh ba cõi, không hiểu rõ chỉ do tự tâm thấy, còn ngoại pháp bị chấp thủ đó thật không thể nắm bắt (bất khả đắc). Theo thuyết ngoại đạo, thì linh hồn (ngã), căn, cảnh cả ba hòa hiệp sinh. Ta không nói có nhân, cũng không nói không nhân, chỉ y theo năng thủ sở thủ của vọng tâm mà nói duyên khởi, không phải cái mà ông cùng những người thủ trước nơi linh hồn có thể hiểu thấu.” Đại Huệ ! Hư không, Niết Bàn cùng phi trạch diệt chỉ có con số 3, vốn không có thể tính, huống nữa là nói tác cùng phi tác (được tạo hay không được tạo). Đại Huệ ! Khi ấy người thế luận bà la môn lại hỏi Ta rằng: “Do vô minh, ái nghiệp làm nhân duyên mà có tam giới chăng? Hay là không nhân chăng?” Ta đáp: “Đấy hai câu ấy cũng là thế luận. Này bà la môn ! cho đến có một chút gì động lưu phân biệt của tâm thức đối với ngoại cảnh đều là thế luận.” Này Đại Huệ ! Khi ấy người bà la môn lại hỏi ta rằng: “Có gì không phải là thế luận chăng? Tất cả những luận từ các thứ văn, câu, nhân, dụ trau chuốt của ngoại đạo, không có gì là không do từ trong pháp của Ta mà ra.” Ta đáp: “Có. Không phải là những gì ông tin vào, chứ không phải là mọi người không chấp nhận; không phải không nói tương ưng với các thứ văn các nghĩa lý, cũng không phải không tương ưng.” Người kia lại hỏi: “Có một luận nào không phải là thế luận mà được thế gian chấp thuận chăng?” Ta nói: “Có; nhưng không phải là cái mà ông cùng hết thảy ngoại đạo có thể biết. Vì sao? Vì (các ông) hư vọng phân biệt, chấp trước sự vật bên ngoài. Nếu hiểu được các pháp hữu, vô đều do tự tâm thấy, không sinh phân biệt, không ôm giữ ngoại cảnh, an trú trong cảnh “tự xứ” (cf.Suz.154) “tự xứ trú” thì không khởi phân biệt. Đấy là pháp Ta, không thuộc về ngươi. Này bà la môn ! Nói tóm lại bất cứ chỗ nào tâm thức có qua, lại, diệt, sinh, có cầu mong, bám víu, đối với sự vật có tham ái, đối với quan điểm có chấp trước, đều là thế luận của ông, không phải pháp Ta.” Này Đại Huệ ! Kẻ thế luận bà la môn đã hỏi như thế, ta đã đáp như thế. Người kia không hỏi Ta về thật pháp của Ta, mà im lặng bỏ đi, nghĩ như vầy: “Sa Môn Cù Đàm không có gì đáng tôn trọng, nói hết thảy pháp không sinh không tướng không nhân không duyên, chỉ do tự tâm phân biệt thấy, nếu hiểu được như thế thì không sinh phân biệt.” Đại Huệ ! Ông nay cũng hỏi Ta nghĩa ấy: Vì sao một người gần gũi Thế luận chỉ được tài lợi, không được pháp lợi (Dharmasamgraha).

Đại Huệ bạch:

Bạch Thế Tôn, tài và pháp mà Thế Tôn dạy ấy có nghĩa là gì?

Phật đáp:

Hay lắm ! Ông vì chúng sinh đời sau mà suy nghĩ nghĩa ấy. Ông hãy lắng nghe, lắng nghe. Ta sẽ nói cho ông. Đại Huệ này, tài là cái gì có thể sờ được, nhận được, cầm nắm ôm giữ được, nếm được, khiến người ta bám víu ngoại cảnh, sa vào nhị nguyên, tăng trưởng tham ái, sinh lão bệnh tử buồn lo khổ não; Ta và chư Phật gọi đó là tài lợi, do gần gũi thế luận mà thâm nhập. Sao gọi là pháp lợi? Ấy là hiểu rõ pháp chỉ là tâm, thấy được hai vô ngã, không nắm giữ tướng, không phân biệt; biết rõ các giai đoạn tu hành, lìa tâm, ý, thức, được chư Phật lấy nước cam lộ rưới đầu, nhận và làm đầy đủ mười nguyện vô tận, được tự tại đối với tất cả pháp, đấy gọi là pháp lợi, vì không sa vào kiến chấp, hý luận, phân biệt nhị nguyên. Này Đại Huệ ! Thế luận của ngoại đạo khiến kẻ ngu sa vào hai bên là thường và đoạn. Chấp nhận thuyết vô nhân (Ahetuvàda) là thường kiến (Sàsvata- drsti); cho rằng các nhân đều hoại diệt là đoạn kiến (ucchedadrsti). Không thấy có sinh trú diệt, Ta gọi là được pháp lợi. Đấy là sự khác nhau giữa tài và pháp; ông cùng các Bồ Tát đại hữu tình hãy siêng quán sát.

Thế Tôn lại nói bài tụng:

Điều phục, nhiếp chúng sinh

Lấy giới hàng phục ác

Trí Tuệ diệt kiến chấp

Giải thoát được tăng trưởng

Các tà thuyết ngoại đạo

Đều là luận thế gian

Vọng chấp tác, sở tác

Không thể tự chứng thành

Chỉ có thuyết của Ta

Không chấp trước năng, sở

Nói ra cho đệ tử

Để chúng lìa thế luận

Pháp năng thủ, sở thủ

Ngoài tâm không thể có

Cả hai do tâm hiện

Đoạn, thường bất khả đắc

Chỉ một mảy động tâm

Đó đều là thế luận

Người không khởi phân biệt

Mới thấy rõ tự tâm

“Đến” là do thấy có

“Đi” là do thấy “không”

Hiểu thấu rõ đến, đi

Không khởi sinh phân biệt

Hữu thường cùng vô thường

Được tạo, không được tạo

Cõi này và cõi khác

Đều là pháp thế gian.

Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn, những pháp gì là Niết Bàn mà các ngoại đạo phân biệt?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Niết Bàn theo các ngoại đạo phân biệt đều không phù hợp với tướng của Niết Bàn. Ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói. Đại Huệ! Hoặc có ngoại đạo nói: Thấy các pháp vô thường nên không tham cảnh giới, uẩn giới xứ đều diệt, tâm tâm sở không hiện ra, không nhớ nghĩ cảnh quá, hiện, vị lai, như ngọn đèn tắt, như hạt giống hoại, như lửa đã tàn, không ôm giữ không dính mắc, không sinh các phân biệt... cho đó là Niết Bàn. Này Đại Huệ ! Không phải vì thấy hoại mà gọi là Niết Bàn.

Có người cho rằng Niết Bàn là đi đến một nơi khác, chỗ lìa cái tưởng về cảnh giới, như gió ngừng lại. Có người cho rằng Niết Bàn là không thấy có người biết và pháp bị biết. Có người cho rằng Niết Bàn là không khởi kiến chấp phân biệt thường, vô thường. Có người lại bảo: “Phân biệt các tướng làm phát sinh ra khổ”, mà không biết tướng do tự tâm hiện. Vì không biết nên sợ hãi tướng, cầu cái vô tướng, sinh ham thích sâu xa (cái vô tướng), chấp đó là Niết Bàn. Có người biết rõ các pháp nội, ngoại tự tướng cọng tướng trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều có tự tính không hoại diệt, tưởng đó là Niết Bàn. Có người chấp rằng ta, người, chúng sinh và thọ mạng cùng hết thảy pháp không có gì hoại diệt, tưởng đấy là Niết Bàn. Lại có hàng ngoại đạo không trí tuệ, chấp có thần ngã (Prakti, primary substance), sĩ phu (supreme soul), “Thật”, câu na (guna) xoay vần biến hóa làm ra muôn vật; cho đó là Niết Bàn. Lại có ngoại đạo cho Niết Bàn là chấm dứt phước cùng phi phước. Có kẻ chấp không do trí tuệ mà các phiền não dứt. Có kẻ chấp Tự Tại (Isvara) là đấng tác giả chân thật, là Niết Bàn. Có kẻ chấp chúng sinh xoay vần sinh lẫn nhau, cho đó là nhân, ngoài ra không có nhân khác. Vì những kẻ ngu không hiểu rõ nên chấp đấy là Niết Bàn. Có kẻ chấp rằng đạt đến đúng đường ấy là Niết Bàn. Có kẻ chấp Niết Bàn là khi có sự hòa hiệp giữa Câu na và chủ tể của câu na, giữa tính một và khác, cùng và không cùng. Có kẻ chấp mọi vật do tự nhiên sinh (Suz. Dịch: Có kẻ cho Niết Bàn là thấy mọi vật đều tồn tại do bản chất của riêng chúng.) như sắc lông sặc sỡ của chim khổng tước, hay cái bén nhọn của gai góc, hay chỗ sinh báu vật thì có các thứ báu, những vật như vậy do ai tạo đâu? Liền chấp tự nhiên sinh, lấy đó làm Niết Bàn. Hoặc chấp hiểu rõ 25 đế (tattvas) là được Niết Bàn. Lại có kẻ nói giữ được 6 hạnh gìn giữ chúng sinh là được Niết Bàn. Lại có người cho rằng Thời sinh ra thế gian, vậy Thời tức là Niết Bàn. Hoặc chấp các vật “có” là Niết Bàn, hoặc chấp không vật là Niết Bàn, lại có kẻ chấp mọi vật hữu, vô đều là Niết Bàn, hoặc chấp các vật và Niết Bàn không khác nhau, đấy là Niết Bàn. Này Đại Huệ ! Lại có những người nói khác với những gì ngoại đạo nói, dùng nhất thiết trí và âm thanh của sư tử rống mà nói, hiểu thấu được cảnh duy tâm, không giữ cảnh ngoài, xa lìa bốn cú (àtuskotika), an trú nơi “như thật” (yathàbhùta), không sa vào nhị nguyên, lìa năng thủ sở thủ, không rơi vào các lượng (đo lường), không bám trước chân thật, an trú nơi pháp hiện chứng của thánh trí, ngộ hai vô ngã, lìa hai phiền não, sạch hai chướng, lần lượt tu các địa Bồ Tát, nhập vào Phật dịa, được các định như huyễn v.v.. vĩnh viễn siêu việt tâm, ý, ý thức gọi là được Niết Bàn. Này Đại Huệ ! Những ngoại đạo kia chấp trước hư vọng, không đúng lý, chấp những điều mà bậc trí lìa bỏ, đều là đọa vào hai bên mà tưởng Niết Bàn. Nơi đây không ở không ra, ngoại đạo kia đều do thuyết của mình mà sinh vọng giác, trái ngược với lý, không thành cái gì; chỉ khiến tâm ý dong ruỗi qua lại tán loạn, rốt ráo không được Niết Bàn. Ông và các Bồ Tát nên xa lìa.

Thế Tôn nói bài tụng:

Ngoại đạo nói Niết Bàn

Mỗi mỗi đều sai biệt

Đấy chỉ là vọng tưởng

Không phải phương giải thoát

Xa lìa các phương tiện

Không đến cảnh vô phược

Vọng sinh tưởng giải thoát

Mà thật không giải thoát

Các thuyết của ngoại đạo

Đều chấp thủ khác nhau

Họ không được giải thoát

Ngu si vọng phân biệt

Hết thảy ngoại đạo si

Vọng thấy tác, sở tác

Chấp trước luận hữu vô

Nên không được giải thoát

Phàm phu ưa phân biệt

Không sinh trí chân thật

Ngôn thuyết gốc ba cõi

Chân thật nhân diệt khổ

Thí như bóng trong gương

Chỉ hiện mà không thực

Trong tập khí, gương tâm

Phàm phu thấy có hai

Không hiểu duy tâm hiện

Nên khởi hai phân biệt

Nếu biết chỉ là tâm

Thì phân biệt không sinh

Tâm tức là các tướng

(nhưng) lìa tướng, sở tướng

Như kẻ ngu phân biệt

Tuy thấy mà không thấy

Ba cõi do phân biệt

Ngoại cảnh toàn không có

Vọng tưởng hiện các thứ

Kẻ phàm phu không biết

Các kinh nói khác nhau

Chỉ khác trên danh tự

Nhưng lìa nơi ngữ ngôn

Thì không thể nắm nghĩa.


QUTỂN  NĂM

CHƯƠNG III

VÔ THƯỜNG

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Xin Thế Tôn giảng cho con tính tự giác của Như Lai (Tathàgata), Ứng Chính Đẳng Giác, khiến con cùng các Bồ Tát đại hữu tình hiểu rành rẽ rồi tự giác ngộ, giúp người giác ngộ.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Như ông hỏi, ta sẽ nói cho ông.

Đại Huệ nói:

Vâng , bạch Thế Tôn ! Đấng Như Lai, Ứng Cúng Chính Đẳng Giác là được tạo thành hay không được tạo thành, là quả hay nhân, là tướng (predicat- ting) hay sở tướng (predicated), là thuyết hay sở thuyết (an expression or what is expressed), là giác (knowledge) hay sở giác (that which is know-able...) tất cả những điều ấy, Như Lai đều như thế hay đều không như thế?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Đấng Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác không phải tác (created) cũng không phải phi tác, không phải quả không phải nhân, không phải tướng không phải sở tướng, không phải thuyết không phải sở thuyết, không phải giác không phải sở giác. Vì sao? Vì những điều như thế đều bị mắc vào lỗi nhị nguyên. Này Đại Huệ ! Nếu Như Lai là được tạo thành (tác) tức là vô thường, nếu vô thường thì hết thảy pháp được tạo tác đều là Như Lai cả, điều ấy ta cùng chư Phật không chấp nhận. Nếu Như Lai được tạo tác tức là không có thể tính, thì hóa ra tất cả những phương tiện tu hành (để chứng quả) thành không, vô ích, giống như sừng thỏ, con của thạch nữ, vì không do nhân tạo thành. Nếu không phải nhân không phải quả tức không có không không; nếu không có không không tức vượt ngoài tứ cú. Nói tứ cú nghĩa là chỉ thuận theo thế gian mà có ngôn thuyết. Nếu vượt ngoài tứ cú, chỉ có ngôn thuyết mà thôi thì khác nào con của thạch nữ. Đại Huệ ! Con của thạch nữ chỉ có ngôn thuyết không ở trong tứ cú, vì không ở trong tứ cú nên không thể suy lường. Những người có trí tuệ nên biết như vậy đối với nghĩa của tất cả những lập luận về Như Lai. Này Đại Huệ ! Như Lai có nói “ các pháp là vô ngã” (niràtmànah sarvadharmàh), vì trong các pháp không có tính ngã nên nói là vô ngã, chứ không phải là không có tự tính các pháp. Nên biết những cú nghĩa về Như Lai cũng thế. Này Đại Huệ ! Thí như trâu không có tính ngựa, ngựa không có tính trâu, chứ không phải là không có tự tính. Hết thảy các pháp cũng vậy; không có tự tướng, không có mà có (phi phi hữu tức hữu ?), không phải là chỗ phàm phu có thể biết. Vì sao không biết? Vì phân biệt vậy. Hết thảy pháp không sinh, hết thảy pháp không tự tính, tất cũng như vậy. Này Đại Huệ ! Như Lai và uẩn không khác, không không khác. Nếu không khác tức vô thường, vì các uẩn là được tạo. Nếu khác thì như hai sừng trâu có chỗ khác và cũng có chỗ không khác vậy. Vì hai sừng trông giống nhau nên không khác, cái ngắn cái dài nên có khác. Như sừng bên phải khác sừng bên trái, sừng trái khác sừng phải, ngắn dài không đồng sắc tướng cũng khác, nhưng cũng không khác.

Uẩn, giới xứ v.v.. cũng vậy, hết thảy pháp đều như vậy. Đại Huệ ! Như Lai ấy là y chỗ giải thoát mà nói, Như Lai và giải thoát không khác cũng không không khác. Nếu khác, thì Như Lai tức tương ưng với sắc tướng, mà tương ưng sắc tướng tức là vô thường. Nếu không khác, thì lẽ ra không thấy các sai biệt trong những người tu hành nhưng thật thì có sai biệt, nên không phải là không khác.

Trí và sở tri (cái biết và pháp được biết) cũng thế, không khác cũng không không khác. Nếu không khác không không khác tức là không phải thường cũng không phải vô thường, không phải tác, không sở tác, không phải hữu vi cũng không phải vô vi, không phải giác không phải sở giác, không phải tướng không phải sở tướng, không phải uẩn không phải khác uẩn, không phải thuyết không phải sở thuyết, không phải một không phải khác, không phải cùng nhau không phải không cùng nhau. Vì nghĩa ấy nên siêu việt hết thảy suy lường. Vì siêu việt suy lường nên chỉ có trên danh tự, vì chỉ có trên danh tự nên không có sinh, vì không có sinh nên không có diệt, vì không có diệt nên như hư không. Này Đại Huệ ! Hư không không phải tác (nhân) cũng không phải sở tác (quả). Vì không phải nhân không phải quả nên xa lìa phan duyên (Niràlambya), vì xa lìa phan duyên nên vượt ra ngoài hết thảy những pháp hí luận. Vượt ngoài hết thảy pháp hí luận ấy là Như Lai. Như Lai chính là thể Chính Đẳng Giác. Chính Đẳng Giác ấy là viễn ly tất cả căn, cảnh giới.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Vượt ngoài căn suy lường

Không phải quả hay nhân

Tướng hay là sở tướng

Tất cả đều xa lìa

Uẩn, duyên, cùng chính giác

Một, khác, không ai thấy

Đã không có ai thấy

Sao còn sinh phân biệt

Không phải tác, sở tác

Không nhân, không không nhân

Không uẩn, không lìa uẩn

Cũng không lìa các vật

Không phải có pháp thể

Như phân biệt kia thấy

Lại không phải là không

Các pháp tính như vậy

Đối có thành ra không

Đối với “không” nên có

Không đã không thể giữ

Có cũng không nên nói

Không rõ ngã vô ngã

Chỉ chấp nơi danh từ

Kẻ kia chìm nhị biên

Hoại mình, hoại thế gian

Nếu hay thấy pháp này

Liền lìa hết các lỗi

Đó gọi là chính quán

Không hủy báng Đạo Sư

Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Như trong kinh Phật dạy đức Như Lai không phải chịu sự sinh, diệt, và Thế Tôn lại dạy Bất sinh bất diệt ấy cũng là một tên gọi khác để chỉ Như Lai. Bạch Thế Tôn ! Xin Thế Tôn chỉ dạy. Cái lẽ bất sinh bất diệt ấy tức là vô pháp (non-entity), sao lại nói đấy là tên khác của Như Lai. Như Thế Tôn dạy: “Hết thảy pháp không sinh không diệt”, nên biết đó tức là sa vào các kiến chấp hữu, vô. Nếu pháp không sinh tức không thể giữ, không có một chút pháp nào cả thì ai là Như Lai? Xin Thế Tôn giảng rõ.

Phật dạy:

- hãy lắng nghe, ta sẽ nói. Này Đại Huệ ! Ta nói Như Lai không phải là vô pháp, lại không phải là thâu nhận (nhiếp thủ) các pháp bất sinh bất diệt, cũng không đối đãi nhân duyên (để xuất hiện), cũng không phải là vô nghĩa. Ta nói vô sinh tức là một tên khác cho “pháp thân do ý sinh” (mano- mayadharmakàya) của Như Lai. Hết thảy ngoại đạo Thanh Văn Duyên Giác, Bồ Tát thất địa không rõ ý ấy. Đại Huệ ! Thí như Đế Thích (sakra), đất, hư không, cho đến chân tay, tùy theo mỗi vật, mỗi thứ đều có nhiều tên. Không phải vì có nhiều tên mà thành ra có nhiều thể, hay thành vô thể. Đại Huệ ! Ta cũng như thế, ở nơi thế giới Ta Bà này, có ba a tăng kỳ trăm ngàn danh hiệu, những kẻ phàm ngu tuy nghe tuy nói mà không biết đấy là tên khác của Như Lai. Trong số ấy có người hoặc nhận Ta là Như Lai, có người cho Ta là bậc Vô Sư (Svayambhù), hay đấng Đạo Sư (Nàyaka), hay đấng Thắng Đạo (Vinàyaka), Phổ Đạo (Parinàyaka), hay Phật, hay Ngưu Vương hay Phạm Vương (Brahman), hay Tùy Hữu (Visnu), hay Tự Tại (Isvara), hay đấng Thắng Giả (Pradhàna), hay đấng Ca Tỳ La (Kapila), hay đấng Chân Thật Biên (Bhùtànta), đấng Vô Tận (Ariskta?), đấng Đoan Tướng (Nemina?); hoặc có kẻ cho Ta như thần gió, thần lửa, hay đấng Câu Tỳ La, hay mặt trăng, hay mặt trời, hay như vì vua, hay như tiên nhân, hay như đấng Thức Ca (Suka), hay như Nhân Đà La (Indra), như sao, như sức mạnh lớn, như nước, như cái vô diệt, như cái không sinh, như Tính không, như Chân Như (Tathatà), như Đế (Satyatà), Thật tính (Bhùtatà), Thật Tế (Shùtakoti), Pháp giới (Dharmadhàtu), Niết Bàn, Thường Trụ, Bình Đẳng, Vô nhị, Vô Tướng, Tịch Diệt, Cụ Tướng, Nhân Duyên, Phật Tính, Giáo Đạo, Đạo Lộ, Nhất Thế Trí, Đấng Tối Thắng (Jina), đấng Ý Thành Thân... hết thảy những tên như thế, đầy ba a tăng kỳ trăm ngàn danh hiệu, không tăng không giảm. Trong thế giới này cùng các thế giới khác, có những kẻ biết Ta như trăng trong nước không vào không ra, nhưng hạng phàm ngu tâm bị chìm đắm nơi nhị biên không thể hiểu thấu, mà cũng tôn trọng cúng dường thừa sự, không khéo giải danh tự cú nghĩa, chấp ngôn giáo, mê muội đối với lẽ chân thật, cho rằng vô sinh vô diệt tức là không thể tính, mà không biết đấy là một danh hiệu khác của Phật như Nhân Đà La, Đế Kiệt La v.v.. Vì tin nơi ngôn giáo, mê muội chân thật, ở hết thảy pháp đều y theo lời (bhùta) mà nắm lấy nghĩa (atrha), nên những kẻ phàm ngu kia nói: “Nghĩa chính là lời, nghĩa và lời không khác. Vì sao? Vì nghĩa không thể tính (nên không khác với lời. Suz. 166)”. Kẻ ấy không hiểu rõ tự tính của ngôn âm; cho rằng ngôn tức là nghĩa, không có thể tính riêng biệt cho nghĩa. Đại Huệ ! Kẻ kia ngu si không biết rằng ngôn thuyết thì có sinh diệt, còn nghĩa thì không sinh diệt. Đại Huệ! Hết thảy ngôn thuyết đều sa vào văn tự, còn nghĩa thì không (sa vào), vì lìa có và không, không sinh, không thể tính. Đại Huệ ! Như Lai không nói pháp sa vào văn tự, vì hữu và vô của văn tự đều bất khả đắc. Đại Huệ ! Nếu có người nói những pháp sa vào văn tự, ấy là pháp hư dối. Vì sao? Vì tự tính của các pháp lìa văn tự. Cho nên, này Đại Huệ ! Trong kinh Ta nói: “Ta cùng chư Phật và Bồ Tát không nói một chữ không đáp một tiếng nào”. Vì sao? Vì hết thảy pháp lìa văn tự. Nhưng không phải là ta không thuận theo nghĩa mà phân biệt nói. Đại Huệ ! Nếu không nói thì giáo pháp phải đứt đoạn, giáo pháp đoạn đứt thì không có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật. Nếu tất cả đều không thì ai nói pháp và nói cho ai? Bởi thế, Đại Huệ này, Bồ Tát đại hữu tình không nên chấp trước nơi văn tự, mà phải tùy nghi thuyết pháp. Ta cùng chư Phật đều tùy những thứ phiền não, ưa muốn và hiểu biết không đồng của chúng sinh mà khai diễn cho chúng, khiến chúng biết các pháp đều do tâm hiện, không có cảnh ngoài, xả bỏ hai phân biệt, chuyển hóa tâm, ý thức; chứ không phải vì chúng mà nói pháp do Thánh Trí Tự Chứng (Su. có thêm một đoạn). Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình nên theo nghĩa, chớ theo văn tự, theo văn tự thì đọa vào ác kiến; chấp trước chủ trương của mình mà khởi ngôn thuyết, không thể hiểu rõ các pháp tướng văn từ chương cú, đã tự hại còn hại người, không thể khiến tâm người giải ngộ. Nếu khéo biết rõ hết thảy pháp tướng, văn từ cú nghĩa đều thông, thì có thể khiến tự mình thọ cái vui vô tướng, mà còn giúp người an trú đại thừa. Nếu khiến được người an trú đại thừa thì liền được hết thảy chư Phật Thanh Văn Duyên Giác cùng chư Bồ Tát thâu nhận. Nếu được chư Phật, Thanh Văn... thâu nhận thì có thể thâu nhận hết thảy chúng sinh, có thể thâu nhận hết thảy chính pháp. Nếu nhiếp thọ được hết thảy chính pháp thì không làm đứt đoạn hạt giống Phật (Budhavamsa). Nếu không đoạn giống Phật thì được chỗ thù thắng tốt đẹp. Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình sinh chỗ tốt đẹp thù thắng, muốn chúng sinh an trú đại thừa, dùng mười lực tự tại hiện các hình tướng, tùy căn cơ của họ mà nói pháp chân thật. Chân thật pháp ấy là không hai, không phân biệt, không đến không đi, hết thảy hí luận đều bặt dứt. Cho nên, này Đại Huệ ! Thiện nam, thiện nữ không nên y lời mà chấp nghĩa. Vì sao? Vì pháp chân thật lìa văn tự. Đại huệ ! Thí dụ có người dùng ngón tay chỉ sự vật, đứa bé con chỉ nhìn ngón tay không nhìn vật. Kẻ phàm phu ngu si cũng vậy, theo nơi ngón tay ngôn thuyết mà sinh chấp trước, thậm chí đến chết cũng không xả bỏ được ngón tay văn tự để nắm đệ nhất nghĩa. Đại Huệ ! Thí như con nít mới sinh đáng phải ăn đồ chín; có người không biết rành cách nấu chín, mà cho nó ăn đồ sống tất phát cuồng loạn. Bất sinh bất diệt cũng thế, không tu phương tiện tất là không tốt. Vì thế hãy nên khéo tu phương tiện, chớ theo ngôn thuyết như nhìn đầu ngón tay. Đại Huệ ! Nghĩa chân thật vốn vi diệu tịch tịnh, ấy là nhân của Niết Bàn. Ngôn thuyết thì cùng với vọng tưởng mà khiến người trôi lăn trong sinh tử. Đại Huệ ! Thật nghĩa là do nghe nhiều mà được, nghe nhiều là rành nghĩa không phải rành lời. Người rành nghĩa không theo ác kiến ngoại đạo, tự mình không theo, cũng khiến người không theo. Ấy gọi là nghe nhiều nơi nghĩa, kẻ muốn cầu nghĩa nên gần gũi hạng người này và xa lìa những kẻ chấp trước văn tự.

Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình nương thần lực Phật mà bạch:

Bạch Thế Tôn ! Như Lai diễn nói bất sinh bất diệt không có gì là kỳ lạ đặc biệt. Vì sao? Hết thảy ngoại đạo cũng nói đấng “Tạo tác tác giả” không sinh không diệt; Thế Tôn cũng nói hư không Niết Bàn cùng phi sát diệt (Amatisamkhyànirodha) là bất sinh bất diệt. Ngoại đạo nói đấng tác giả làm nhân duyên sinh ra thế gian, Thế Tôn cũng nói vô minh ái nghiệp sinh ra các thế gian. Cả hai thuyết đều nói nhân duyên sinh, chỉ khác trên danh từ. Vì nhân duyên của các vật bên ngoài cũng thế. Cho nên thuyết của Phật và của ngoại đạo không có sai biệt. Ngoại đạo nói: “Vi trần, thắng diệu (pradhàna), Tự tại (Isvara), Sinh chủ (Prajàpati) v.v.. 9 thứ (Navadra- vya) như vậy là bất sinh bất diệt. Thế Tôn cũng nói hết thảy pháp không sinh không diệt; có hay không đều bất khả đắc. Bạch Thế Tôn ! Các đại chủng không hoại, vì tự tính của chúng không sinh không diệt, lan khắp các cõi mà vẫn không mất tự tính. Bạch Thế Tôn ! Tuy phân biệt thì có biến đổi chút ít, song hết thảy những điều Như Lai dạy không có gì là ngoại đạo không đã nói rồi. Cho nên Phật pháp cũng giống như ngoại đạo. Nếu không giống thì xin Phật diễn bày cho con thuyết của Phật hơn ngoại đạo ở chỗ nào. Nếu không có sai biệt thì ngoại đạo tức là Phật; vì họ cũng nói bất sinh bất diệt vậy. Thế Tôn thường dạy trong một thế giới không có nhiều Phật, nhưng theo đây thì có.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Chỗ Ta nói không sinh không diệt không đồng với bất sinh bất diệt của ngoại đạo, cũng không đồng với luận của họ về sinh và vô thường (dịch theo Sz.). Vì sao? Thuyết của ngoại đạo là có thật tính không sinh không biến đổi. Ta không sa vào hữu, vô như vậy. Pháp Ta nói không hữu không vô, lìa sinh lìa diệt. Sao là phi vô? Vì như thấy các hình sắc huyễn mộng. Sao gọi là phi hữu? Vì tự tính của sắc tướng không phải có, nhưng nó đồng thời vừa được thấy vừa không được thấy, vừa được nắm giữ vừa không được nắm giữ. Cho nên Ta nói hết thảy pháp không phải có không phải không. Nếu biết rõ tất cả chỉ do tự tâm thấy, thì liền an trú tự tính, không sinh phân biệt, các việc tạo tác ở thế gian sẽ đều chấm dứt. Phân biệt ấy là việc của phàm phu, không phải hiền thánh. Đại Huệ ! Vọng tâm phân biệt cảnh giới không thật, như người huyễn cùng người huyễn buôn bán ra vào trong thành Càn thát bà, tâm mê phân biệt cho là có thật. Những chuyện kẻ phàm ngu thấy như sinh bất sinh, hữu vi vô vi cũng thế, như người huyễn sinh, người huyễn diệt. Người huyễn thật ra không sinh không diệt. Các pháp cũng vậy, lìa sinh diệt. Này Đại Huệ ! Kẻ phàm phu hư vọng khởi quan niệm sinh diệt, thánh nhân không vậy. Nói hư vọng nghĩa là không như pháp tính. Khởi kiến chấp điên đảo. Điên đảo kiến là chấp pháp có thể tính. Không thấy được chỗ vắng lặng. Vì không thấy vắng lặng nên không thể xa lìa hư vọng phân biệt. Cho nên, này Đại Huệ ! Cái thấy vô tướng là thù thắng, không phải cái thấy có tướng. Tướng là nhân của sinh, nếu không có tướng tất không có phân biệt. Không sinh không diệt ấy là Niết Bàn. Đại Huệ ! Nói Niết Bàn ấy nghĩa là thấy chỗ “như thật” xa lìa các pháp tâm và tâm sở phân biệt, được thánh trí nội chứng của Như Lai. Ta nói đấy là Niết Bàn tịch tịnh.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Để trừ chấp có sinh

Thành lập nghĩa không sinh

Ta nói luận vô nhân

Kẻ ngu không hiểu được

Hết thảy pháp không sinh

Cũng không là vô pháp

Như Càn thành, huyễn mộng

Tuy có mà không nhân

Không, vô sinh, vô tính

Có gì mà Ta nói?

Lìa các duyên hòa hợp

Kẻ trí không hay thấy

Vì thế nên ta nói

Không vô sinh vô tính

Mỗi mỗi duyên hòa hợp

Chỉ hiện chứ không có

Phân tích không hòa hợp

Không như ngoại đạo thấy

Như mộng và tóc rũ ? (thùy phát)

Huyễn sự cùng Càn thành

Không nhân mà vọng thấy

Thế sự cũng như vậy

Chiết phục luận hữu nhân

Bày rõ lý vô sinh

Nghĩa vô sinh nếu còn

Pháp nhãn thường không diệt

Ta nói luận vô nhân

Ngoại đạo đều sợ hãi

Làm sao, và nhân đâu

Lại vì sao mà sinh

Hòa hiệp ở chỗ nào

Mà lập vô nhân luận?

Quán sát pháp hữu vi

Không nhân không vô nhân

Nên luận sinh diệt kia

Do đó mà bị phá

Vì vô nên không sinh

Hay vì đổi các duyên?

Hay có tên không nghĩa

Nguyện Phật vì con nói

Vô pháp không bất sinh

Cũng không phải chờ duyên

Không phải tên của vật

Cũng không tên, không nghĩa

Không thuộc của ngoại đạo

Thanh Văn cùng Duyên Giác

Cùng Bồ Tát thập trụ

Ấy là vô sinh tướng

Xa lìa các nhân duyên

Không có người năng tác

Chỉ do tâm kiến lập

Ta nói là vô sinh

Các pháp không nhân sinh

Không không cũng không có

Lìa năng sở, phân biệt

Ta nói là vô sinh

Ngoài tâm không có gì

Lại lìa nơi hai tính

Y tha và vọng kế

(paratantra, parikalpita)

Như thế chuyển sở y

Đấy Ta nói vô sinh

Ngoại vật có cùng không

Tâm không sở thủ gì

Tất cả kiến đều đoạn

Ta gọi là vô sinh

Cú nghĩa “không, vô tính”

Nghĩa nó đều như vậy

Không vì không nói không

Vô sinh nên nói không

Nhân duyên cùng tụ hội

Cho nên có sinh diệt

Nếu nhân duyên phân tán

Sinh diệt tất không có

Nếu lìa các nhân duyên

Thì tuyệt không có pháp

Tính một cùng tính khác

Do phàm ngu phân biệt

(Vô hữu bất sinh pháp)

Hữu, vô không sinh pháp

Câu, phi cũng như vậy

Chỉ trừ khi duyên hợp

Trong ấy thấy khởi diệt

Theo tục giả ngôn thuyết

Nói vòng móc nhân duyên

Nếu lìa vòng nhân duyên

Nghĩa “sinh” (samkalà) bất khả đắc

Ta nói chỉ vòng câu

Không sinh nói bất sinh

Lìa các lỗi ngoại đạo

Phàm ngu không thể hiểu

Lìa vòng xích nhân duyên

Mà riêng có pháp sinh

Ấy là luận vô nhân

Phá hoại nghĩa câu tỏa

Như đèn hay chiếu vật

Vòng xích nếu như thế

Đấy tức lìa vòng xích

Mà riêng có các pháp

Vô sinh tức vô tính

Thể tính như hư không

Lìa duyên sinh tìm pháp

Là kẻ ngu phân biệt

Lại có loại vô sinh

Do bậc thánh chứng được

Sinh kia không phải sinh

Ấy là vô sinh nhẫn

Nếu biết cả thế gian

Đều chỉ là vòng xích

Và không gì khác hơn

Kẻ ấy tâm được định.

Vô minh cùng ái nghiệp

Là kềm tỏa bên trong

Các đại, bùn, bánh xe

Là câu tỏa bên ngoài.

Nếu nói có pháp khác

Cũng do nhân duyên sinh

Ngoài nghĩa vòng xích này

Đây không phải giáo lý.

Sinh pháp nếu phi hữu

Ai nhận ra nhân duyên?

Vì các pháp sinh nhau

Nên gọi là nhân duyên

Tính cứng, ướt, ấm, động

Do phàm ngu phân biệt

Chỉ có duyên, không pháp

Nên nói vô tự tính

Như lương y trị bệnh

Nguyên tắc không sai khác

Nhưng vì bệnh không đồng

Liều thuốc có khác nhau

Ta vì các chúng sinh

Diệt trừ bệnh phiền não

Biết căn cơ mạnh yếu

Diễn nói các pháp môn

Phiền não không phải khác

Mà sinh ra các pháp

Chỉ có một đại thừa

Bát chính đạo trong mát.

Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Hết thảy ngoại đạo vọng nói vô thường; Thế Tôn cũng nói các hành là vô thường, là pháp phải chịu sinh diệt. Thuyết ấy con không hiểu là tà hay chính? Vô thường có mấy thứ?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Ngoại đạo nói có 7 thứ vô thường, không phải pháp của Ta. Bảy thứ ấy là: 1. Có người cho rằng có sinh khởi rồi xả bỏ, gọi là vô thường, vì sinh rồi bất sinh nên nói là tính vô thường.  2. Lại có kẻ nói hình biến hoại là vô thường.  3. Có kẻ nói sắc là vô thường.  4. Có kẻ nói cái biến dị của sắc là vô thường. Hết thảy các pháp nối nhau không dứt, khiến cái thể tự nhiên biến đổi và diệt; như trước là sữa sau biến thành gia ua, sự biến dịch ấy tuy không thấy được song nó chính là yếu tố hủy diệt nằm ngay trong mọi sự vật.  5. Có kẻ nói các vật có ra là vô thường.  6. Có kẻ cho hữu phi hữu (existence, non existence) là vô thường.  7. Có kẻ nói bất sinh là vô thường ở khắp trong mọi pháp. Trong số những quan điểm ấy, hữu phi hữu vô thường (Bhàvàbhàvànityatà), nghĩa là các tướng năng tạo sở tạo đều hoại diệt, còn tự tính của đại chủng thì bản lai không khởi. Bất sinh vô thường (Anutpàdànityatà) là các pháp thường, vô thường v.v.. đều không có. Như thế hết thảy đều không có gì sinh; cho đến phân tách thành vi trần cũng không thấy gì. Vì không sinh khởi nên nói là vô sinh. Đây gọi là “bất sinh vô thường”. Nếu không hiểu nghĩa ấy tức sa vào nghĩa “sinh vô thường” của ngoại đạo, nghĩa là ở chỗ không phải thường không phải vô thường mà tự sinh ra phân biệt. Nghĩa ấy thế nào? Nghĩa là có một vật gọi là vô thường tự nó không bị hoại diệt, nhưng có thể hoại các pháp. Nếu không có cái vô thường hoại hết các pháp, thì rốt cuộc pháp sẽ bất diệt, thành không có (vô hữu) (như chiếc gậy hay hòn đá, hay như một cái búa đập nát mọi vật khác mà tự nó thì không hoại, ở đây cũng vậy). Đại Huệ ! (đây là nghĩa của ngoại đạo nhưng) Vô thường và hết thảy các pháp ta thấy trước mắt thì không thấy đâu là sai biệt năng tác sở tác, để nói được rằng đây là vô thường, còn đây là cái bị vô thường nó hoại diệt. Vậy thành ra năng tác sở tác đều thường cả mới phải, vì không thấy cái nhân khiến cho các pháp thành ra phi hữu. Đại Huệ ! Về các pháp bị hoại diệt thật ra có nhân, nhưng phiền một nỗi là không phải chỗ phàm ngu hiểu được. Đại Huệ, nhân khác không thể sinh ra quả khác, nếu sinh được, thì hết thảy các pháp đều sinh lẫn nhau, pháp này pháp kia năng sinh sở sinh đều không khác nhau gì cả. Nhưng hiện thấy có khác. Làm sao dị nhân sinh dị quả? Đại Huệ ! Nếu có một pháp (objective existence) gọi là vô thường thì cũng đồng với cái sở tác (kết quả) và thành ra tự nó cũng vô thường, vì vô thường cho nên các pháp vô thường đây đều là thường cả. Đại Huệ ! Nếu tính vô thường ở trong các pháp, thì đáng cùng các pháp sa vào ba giai đoạn quá khứ, hiện tại, vị lai, cùng với sắc quá khứ mà diệt, cùng vị lai không sinh, hiện tại cùng hoại.

Các ngoại đạo cho rằng thể tính của bốn đại là không hoại, tức là bốn đại khác với sắc do bốn đại tạo, vì lìa khác với không khác; tự tính của nó cũng không hoại diệt. Đại Huệ ! Những pháp năng tạo, sở tạo trong ba cõi không có gì là không phải tướng sinh, trụ, diệt, làm sao có riêng một tính vô thường có thể sinh ra các vật mà tự nó không diệt? Thuyết cho rằng đầu tạo sau diệt nên gọi là vô thường (pràrambhavinivttryanityatà) cũng không vững, vì các đại chủng khác nhau không thể tạo lẫn nhau; không phải mỗi đại tự tạo, vì không có cái khác ở trong nó; cũng không cùng tạo vì trái nhau. Cho nên biết không phải “thủy – tạo vô thường” hình trạng hoại vô thường (tribhavacittamàtra) ấy là không phải hoại năng tạo cùng sở tạo nhưng hình trạng hoại. Nghĩa ấy thế nào? Ấy là chẻ tách “sắc” cho tới vi trần, chỉ diệt cái hình trạng dài ngắn v.v.. đã thấy. Chứ không diệt cái sắc thế năng tạo sở tạo. Kiến này sa vào số luận (Sàmkhyavadà) “Sắc tức là vô thường” (Rùpam evànityam) ấy có nghĩa hình trạng là vô thường, không phải tính tứ đại là vô thường. Nếu tính đại chủng cũng vô thường thì tất là không có thế giới. Không có thế giới nên biết ấy là sa vào kiến chấp của Thế luận thấy hết thảy pháp do tự tướng sinh chỉ có trên ngôn thuyết. Chuyển biến vô thường (Vikàràityatà) ấy là sắc chủng (rùpa) (hay hình thức) biến đổi chứ không phải đại chủng (tứ đại) biến đổi. Thí như lấy vàng làm các món trang sức, các món này có biến đổi nhưng vàng thì không. Đây cũng vậy. Đại Huệ ! Các kiến ngoại đạo như thế hư vọng phân biệt về vô thường. Họ nói như vầy: “Lửa không thể đốt cháy tự tướng của nó, mà chỉ phân tán ra. Nếu nó có thể thiêu đốt được, tức thì năng tạo sở tạo đều đoạn diệt.” Vì sao? Vì không chấp pháp ngoài, vì ba cõi chỉ là tâm (Tribhavacittamàtra), vì không nói tới các tướng, vì các sai biệt của đại chủng tính đều không sinh không diệt, không có năng tạo sở tạo, vì năng thủ sở thủ đều do phân biệt khởi, vì biết hai tính thủ (năng sở) đúng như thật, vì hiểu rõ duy tâm hiện, vì lìa hai kiến chấp hữu vô của ngoại đạo, lìa kiến hữu vô nên không phân biệt năng tạo sở tạo. Đại Huệ ! Các pháp thế gian, xuất thế gian, và xuất thế gian thượng thượng chỉ là tự tâm, không thường, không vô thường; không hiểu rõ như thế sẽ sa vào hai biên kiến ngoại đạo. Đại Huệ ! Ngoại đạo không rõ biết ba pháp ấy do phân biệt nên khởi ngôn thuyết chấp trước tính vô thường. Đại Huệ ! Cảnh giới ngữ ngôn phân biệt của ba pháp này không phải chỗ phàm phu biết được.

Thế Tôn lại nói bài tụng:

Trước tạo rồi sau xả

Hình trạng có chuyển biến

Các sắc vật vô thường

Ngoại đạo vọng phân biệt

Các pháp không hoại diệt

Tự tính đại thường trú

Các kiến chấp ngoại đạo

Nói thế là vô thường

Các chúng ngoại đạo kia

Đều nói: “Không sinh diệt”

“Các tính đại tự thường

Cái gì là vô thường?”

Năng thủ và sở thủ

Hết thảy đều là tâm

Hai thứ do tâm hiện

Không có ngã, ngã sở

Các pháp như Phạm Thiên

Ta nói chỉ là tâm

Nếu lìa xa nơi tâm

Hết thảy không có được.


CHƯƠNG IV

HIỆN CHỨNG

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Xin vì con nói tướng “Nhập diệt thứ đệ tương tục” (Nirodhakramànusamdhilaksana) của hết thảy Thanh Văn, Duyên Giác, khiến con cùng các Bồ Tát đại hữu tình khéo biết tướng ấy khỏi bị mê hoặc bởi lạc thú “diệt tận định” (nirodhasukkasamàpatti), không sa vào lầm lẫn của nhị thừa, ngoại đạo.

Phật dạy:

Hãy lắng nghe, lắng nghe. Ta sẽ nói cho ông rõ. Này Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình đến địa thứ 6, cùng Thanh Văn Duyên Giác nhập diệt định, Bồ Tát địa thứ 7 niệm niệm thường nhập vì đã lìa bỏ quan niệm về tự tính của các pháp. Nhị thừa thì không thế. Nhị thừa còn hữu tác (something effect- producing), đọa năng thủ sở thủ; không đạt đến tướng vô sai biệt của các pháp; (họ chỉ nhờ) hiểu rõ tự tướng cọng tướng của pháp thiện, bất thiện mà vào diệt định, nên không hiện tiền thường nhập. Đại Huệ ! Bồ Tát ở Bát địa, Thanh Văn, Duyên Giác, đã diệt các tưởng phân biệt của tâm, ý, ý thức. Từ sơ địa cho đến lục địa, họ quán sát hết thảy ba cõi đều chỉ do tâm, ý, ý thức tự phân biệt khởi, lìa ngã, ngã sở, không thấy các tướng ngoài. Kẻ phàm ngu không biết được vì lầm lỗi huân tập từ vô thỉ đến nay. Từ nơi tự tâm biến ra tướng năng thủ sở thủ rồi sinh chấp trước. Đại Huệ ! Tam muội của bát địa Bồ Tát đạt được cũng như Niết Bàn của Thanh Văn Duyên Giác, nhưng nhờ Phật lực gia trì nên Bồ Tát ở trong tam muội không nhập Niết Bàn, nếu không có sự gia trì ấy thì Bồ Tát không hóa độ chúng sinh, không hoàn thành Như Lai địa, lại còn đoạn dứt giống Phập. Bởi thế nên Phật vì Bồ Tát mà nói các công đức lớn không thể nghĩ bàn của Như Lai, khiến họ rốt cuộc không nhập Niết Bàn, Thanh Văn Duyên Giác tham đắm pháp lạc tam muội, ở trong đó sinh tưởng là Niết Bàn. Đại Huệ ! Bồ Tát thất địa khéo quán sát tâm, ý, ý thức, các chấp ngã, ngã sở, vô ngã của nhân, pháp, các tự tướng cọng tướng, sinh diệt, được chắc chắn rành rẽ về tứ vô ngại biện (catuhpratisamvid), ở trong tam muội mà được tự tại, dần vào các “địa” đầy đủ các Bồ Đề phần. Đại Huệ ! Ta sợ các Bồ Tát không hiểu rõ tự tướng, cọng tướng, không biết thứ lớp các địa mà phải sa vào ác kiến nên nói như vậy. Đại Huệ ! Thật ra không có gì sinh hay diệt; các địa lần lượt qua lại trong ba giới đều do tâm thấy, nhưng kẻ phàm ngu không hiểu rõ nên Ta và chư Phật mới nói như vậy. Đại Huệ ! Thanh Văn, Duyên Giác cho đến Bồ Tát ở Bát địa, vì pháp lạc tam muội làm say mê hôn ám, chưa hiểu rõ tất cả chỉ do tâm hiện, bị tự tướng cọng tướng ràng buộc che lấp tâm, dính mắc hai vô ngã, tưởng đó là Niết Bàn, không phải trí tuệ vắng lặng tịch diệt. Đại Huệ ! Các Bồ Tát đại hữu tình khi thấy sự vui của Tam muội tịch diệt, thì liền nhớ đến bản nguyện đại bi, tu tập đầy đủ mười nguyện vô tận; vì lẽ ấy họ không nhập Niết Bàn ngay; vì nhập Niết Bàn thì không sinh quả, lìa năng thủ sở thủ; liễu đạt duy tâm, nơi hết thảy pháp không phân biệt, không sa vào tâm, ý, ý thức, vào các chấp trước tính, tướng của pháp ngoài. Tuy nhiên không phải là họ không khởi các chính nhân Phật pháp, tùy theo việc làm của trí tuệ mà khởi như vậy, được địa tự chứng của Như Lai. Đại Huệ ! Thí như người chiêm bao thấy mình tìm hết cách để sang sông, nhưng chưa sang thì đã tỉnh ngủ. Tỉnh rồi suy nghĩ về những việc đã thấy, tự hỏi không biết đấy là thật hay vọng? Rồi lại tự nhủ rằng: “Không thật cũng không vọng, như thế chỉ là những tập khí phân biệt của thấy nghe hay biết tích tụ lại, lìa có và không, chỉ là những sự việc hiện trong ý thức lúc chiêm bao mà thôi.” Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình cũng vậy, từ sơ địa cho đến thất địa, cho đến vào bát địa được vô phân biệt, thấy hết thảy pháp như huyễn như mộng, lìa năng thủ sở thủ, thấy công năng rộng lớn của tâm và tâm sở, siêng tu phật pháp, ai chưa chứng thì khiến được chứng, lìa các vọng tưởng phân biệt của tâm, ý, ý thức, chứng “vô sanh nhẫn”. Niết Bàn mà Bồ Tát chứng được ấy không phải là hoại diệt. Đại Huệ ! Trong đệ nhất nghĩa không có thứ lớp cũng không tương tục, xa lìa hết thảy cảnh giới phân biệt, ấy gọi là pháp tịch diệt.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Các trụ cùng Phật địa

Duy tâm không ảnh tượng

Đây là điều chư Phật

Đã đang và sẽ nói

Bảy địa đâu còn tâm

Bảy địa không ảnh tượng

Chín và mười còn trụ

Trên đó chỉ Ta được.

Tự chứng và thanh tịnh

Đây là địa của Ta

Thắng xứ của Ma Hê (mahesvara)

Sắc cứu cánh (Akanisthha) trang nghiêm

Thí như lửa lớn tụ

Ánh sáng nó bùng phát

Hóa hiện ra ba cõi

Vui vẻ mà trong mát

Có thế giới đang hóa

Nơi đấy nói các thừa

Đều là địa Như Lai

Thập địa cũng là sơ

Sơ cũng là bát địa

Cửu địa là đệ thất

Thất địa lại như bát

Đệ nhị là đệ tam

Đệ tứ là đệ ngũ

Đệ tam là đệ lục

Không tướng đâu thứ lớp.


 

CHƯƠNG V

NHƯ LAI THƯỜNG HAY VÔ THƯỜNG

 

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật rằng:

Bạch Thế Tôn ! Đức Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác là thường hay vô thường?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Đức Như Lai Ứng Chính Đăng Giác không thường, cũng không vô thường. Vì sao? Vì cả hai quan niệm ấy đều lỗi. Sao là lỗi? Đại Huệ ! Nếu nói Như Lai là thường, thì bị lỗi năng tác; hết thảy ngoại đạo nói năng tác là thường. Nếu Như Lai là vô thường, thì bị lỗi sở tác, đồng với các uẩn có tướng (qualifying) và sở tướng (qualified), rốt cuộc sẽ đoạn diệt thành không có. Thế mà Như Lai thì thật không đoạn diệt. Đại Huệ ! Nếu Như Lai cũng vô thường như tất cả các vật được tạo tác như bình, áo v.v.. thì hóa ra bao nhiêu sự tu phước trí đều thành không, vô ích. Lại nữa, nếu vậy các pháp được tạo đều là Như Lai cả, vì nhân không khác nhau. Cho nên Như Lai không thường không vô thường. Lại, này Đại Huệ ! Như Lai không phải thường; nếu là thường, thì như hư không không đợi nhân mới thành. Đại Huệ ! Thí như hư không không thường không vô thường. Vì sao? Vì lìa các lỗi thường, vô thường, một, khác, cùng, không cùng (bothness, not-bothness – câu bất câu) v.v... Lại nữa Đại Huệ ! Như Lai không thường, nếu là thường, thì tức không sinh, đồng như sừng thỏ, sừng ngựa, sừng cá, sừng rắn v.v...

Tuy nhiên, này Đại Huệ ! Trong một nghĩa khác thì có thể nói Như Lai là thường. Vì sao? Vì trí hiện chứng là thường pháp. Chứng trí là thường nên Như Lai cũng thường. Đại Huệ ! Tự tính của pháp, chỗ ở của pháp, và ngôi vị của pháp (pháp tính pháp trụ pháp vị) mà chư Phật chứng được, dù Như Lai có hiện ra đời hay không, pháp ấy vẫn thường trụ không dời đổi, ở nơi các pháp sở đắc của hết thảy nhị thừa ngoại đạo, chứ không phải là không có gì. Tuy nhiên đấy không phải điều phàm ngu biết được. Đại Huệ ! Như Lai ấy là do pháp tính nội chứng thanh tịnh mà có tên gọi ấy, không phải do tập quán hư vọng về tâm, ý, ý thức, uẩn giới xứ mà có. Hết thảy ba cõi đều do hư vọng phân biệt sinh, Như Lai không do hư vọng phân biệt sinh. Đại Huệ ! Nếu có hai (duality) thì có thường và vô thường. Nhưng Như Lai không hai, vì chứng hết thảy pháp không sinh; cho nên không thường không vô thường. Đại Huệ ! Cho đến có một chút nào ngôn thuyết khởi, đều sa vào lỗi thường hoặc vô thường. Bởi thế nên trừ tiệt hai cái “biết” phân biệt, chớ để chút nào còn sót.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài kệ:

Xa lìa thường vô thường

Mà hiện thường vô thường

Thường quán Phật như thế

Không khởi sinh ác kiến

Nếu thường hoặc vô thường

Tu tập đều vô ích

Để trừ giác phân biệt

Không nói thường vô thường

Cho đến lập thuyết gì

Hết thảy đều lầm loạn

Nếu thấy do tự tâm

Thì không còn tranh cãi.


CHƯƠNG VI

SÁT NA PHẨM

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Xin vì con nói tướng sinh diệt của uẩn, giới, xứ. Nếu không có ngã thì ai sinh, ai diệt? Vì các phàm phu bám nơi sinh diệt, không cầu hết khổ, không chứng Niết Bàn.

Phật dạy:

Đại Huệ ! Hãy nghe kỹ. Ta sẽ nói cho ông. Này Đại Huệ ! Trong Như Lai tạng có nhân thiện lẫn bất thiện, có thể tạo ra đời sống ở tất cả các cõi, như người đóng tuồng biến hiện các cõi, lìa ngã ngã sở, vì không biết thế nên ba duyên (cha, mẹ, và nghiệp) hòa hợp mà có quả sinh. Ngoại đạo không hiểu, chấp là có tác giả. Những gì do tập khí hư ngụy từ vô thỉ tích tụ lại gọi là tạng thức, sinh ra thất thức là chỗ ở của vô minh, như biển lớn bỗng nổi ba đào mà thể tướng của nó (nước) vẫn liên tục thường trú, không gián đoạn. Tạng thức cũng thế, bản tính thanh tịnh lìa lỗi vô thường, lìa lý luận về ngã, còn bảy thất kia: ý, ý thức v.v.. thì niệm niệm sinh diệt; lấy vọng tưởng làm nhân, cảnh tướng làm duyên hòa hiệp mà sinh, không hiểu sắc v.v.. do tự tâm hiện, chấp trước danh tướng sinh khởi những lạc thọ khổ thọ. Danh tướng ràng buộc đã do tham mà sinh ra, lại sinh khởi tham hoặc làm nhân, hoặc làm duyên. Khi các thủ căn (sự chấp trước) diệt không còn tương tục sinh những phân biệt khổ lạc, thì hành giả hoặc được diệt định hoặc được tứ thiền, hoặc khéo thâm nhập các chân lý giải thoát, bèn vọng sinh tưởng mình đã giải thoát; mà kỳ thật chưa xả chưa chuyển được cái gọi là tạng thức ở trong Như Lai tạng. Nếu không có tạng thức thì 7 thức kia đều diệt. Vì sao? Vì tạng thức là nhân và duyên sinh ra các thức kia. Nhưng đây không phải là cảnh giới mà hàng tu hành theo ngoại đạo nhị thừa biết được; vì họ chỉ biết tính “nhân vô ngã” chỉ giữ tự tướng cọng tướng của uẩn giới xứ. Nếu thấy được 5 pháp, 3 tự tính của Như Lai tạng, các pháp đều vô ngã, tùy thứ lớp các địa lần lần chuyển đổi tạng thức đến chỗ tịch diệt, thì sẽ không bị ác kiến ngoại đạo lay chuyển, an trú “bất động địa”, được 10 thứ pháp lạc tam muội. Nhờ năng lực tam muội của chư Phật gia trì, hành giả quán sát các pháp bất tư nghì của Phật và nguyện lực xưa kia của mình, không trú nơi thật tế (biên giới của thực tại) và pháp lạc tam muội, được trí tự chứng, không giống như nhị thừa ngoại đạo; được 10 con đường dẫn đến giòng thánh, được thân ý sinh, lìa các hành nghiệp. Bởi thế, này Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình muốn được thắng pháp, phải nên thanh tịnh Như Lai tạng gọi là tạng thức. Đại Huệ ! Nếu không có Như Lai tạng tên là tạng thức đó thì tất không có sinh diệt. Cho nên người tu hành tuy thấy pháp lạc của sự an trú trong cảnh nội giới mà vẫn không xả bỏ, dõng mãnh tinh tấn. Đại Huệ ! Tạng thức Như Lai tạng ấy bản tính thanh tịnh, chỉ vì bị khách trần nhiễm ô mà thành bất tịnh. Hết thảy nhị thừa ngoại đạo ức đoán mà khởi kiến chấp không thể biện chứng được. Như Lai thì thấy rõ ràng phân minh ở nơi đó, như thấy trái am ma lật ở trong lòng tay (àmalaka). Đại Huệ ! Ta vì Thắng Man phu nhân (Srìmàlàdevì) cùng các Bồ Tát Thâm diệu tịnh trí (sksmanipunavisudhabudhi-bodhisattva) mà nói Như Lai tạng tên Tạng thức cùng 7 thức đồng khởi, khiến hàng Thanh Văn thấy rõ pháp vô ngã. Này Đại Huệ ! Cảnh giới nói cho Thắng Man phu nhân nghe là cảnh giới thật, không phải cảnh của nhị thừa ngoại đạo. Đại Huệ ! Tạng thức Như Lai tạng này là cảnh giới Phật, cũng là chỗ đi của những tịnh trí Bồ Tát như ông, những người hiểu biết theo nghĩa lý. Đây không phải là chỗ hiểu của hết thảy ngoại đạo nhị thừa chấp trước văn tự. Cho nên ông cùng các Bồ Tát đại hữu tình ở nơi thức tạng của Như Lai tạng nên siêng năng quán sát, chớ có mới nghe qua bèn tưởng là đủ rồi.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Như Lai tạng sâu xa

Gắn liền với bảy thức

Hai thứ chấp trước sinh

Hiểu rõ liền xa lìa

Do vô thỉ huân tập

Như bóng hiện trong tâm

Nếu quán sát như thật

Thì tướng cảnh không có

Kẻ ngu nhìn ngón chỉ

Thấy ngón không thấy trăng

Kẻ chấp trước văn tự

Không thấy lý của Ta

Tâm như người đạo diễn

Mạt na kẻ làm hề

Sáu thức kia bầu bạn

Tạo tấn tuồng thế gian.

 

Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Xin vì con nói các sai biệt của 5 pháp, 3 tự tính, 8 thức cùng 2 vô ngã. Con cùng các Bồ Tát đại hữu tình biết rõ điều ấy rồi, dần tu các địa, đầy đủ các pháp Phật, đạt được quả vị tự chứng của Như Lai.

Phật dạy:

Ông hãy lắng nghe, Ta sẽ nói. Này Đại Huệ ! 5 pháp, 3 tự tính, 8 thức, 2 vô ngã ấy nghĩa là: danh (màna), tướng (mimitta), phân biệt (vikalpa), chính trí (sanyagjnàna), như như (tathatà). Nếu người tu hành quán sát pháp này, thì được vào cảnh giới tự chứng của Như Lai, xa lìa các kiến chấp thường đoạn, hữu vô v.v.., được pháp lạc tam muội sâu xa. Đại Huệ ! Kẻ phàm ngu không hiểu 5 pháp, 3 tự tính, 8 thức, 2 vô ngã, nơi cảnh do tâm hiện thấy có ngoại vật mà khởi phân biệt. Thánh nhân không thế.

Đại Huệ bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Vì sao không hiểu mà khởi phân biệt?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Kẻ phàm ngu không biết danh chỉ là cái giả lập, tâm theo đó lưu động thấy các tướng, chấp ngã, ngã sở, nhiễm trước đối với sắc, che lấp chướng ngại thánh trí, khởi lên tham sân si, tạo tác ác nghiệp như tầm kéo kén, vọng tưởng tự trói buộc mình, đọa vào các nẻo của biển lớn sinh tử, như bánh xe đạp nước tuần hoàn không dứt, không biết pháp như huyễn như ảo tượng như trăng trong nước, chỉ do tự tâm hiện, do vọng phân biệt khởi, lìa năng thủ sở thủ cùng sinh, trú, diệt. (Nhưng hẻ phàm ngu lại) cho rằng do tự tại, thời tiết, vi trần, thắng tính mà sinh, vì họ chạy theo danh, tướng. Đại Huệ ! Trong đây “tướng” có nghĩa là do nhãn thức thấy gọi là sắc, do nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức mà có gọi là thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tất cả đó Ta gọi là tướng; nghĩa là phân biệt đây là voi, ngựa xe, bộ hành, nam nữ v.v.. chứ không gì khác; làm rõ cái tướng của chúng. Ấy gọi là phân biệt. “Chính trí” là quán sát thấy rõ tính và tướng chỉ do hỗ tương đối đãi mà có, không thật, chỉ là khách, nên thức tâm không khởi vì không đoạn không thường, không theo chỗ của ngoại đạo nhị thừa. Thế gọi là chính trí. Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình dùng chính trí ấy quán sát danh tướng không hữu không vô, xa lìa hai ác kiến biên chấp là thêm và bớt. Danh tướng và thức xưa nay không khởi, Ta nói pháp ấy là “như như”. Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình an trú nơi như như được “vô chiếu hiện cảnh” (state of imagelessness), lên “hoan hỉ địa” (pramudità) lìa các cõi của ngoại đạo, vào nơi pháp thuần thục của xuất thế pháp, biết hết thảy các pháp đều như huyễn, chứng pháp của Thánh Trí Tự Chứng, lìa kiến chấp ức đoán, như thế lần lượt đến “pháp vân địa”, khi đến pháp vân rồi sẽ được đầy đủ các lực tam muội, tự tại, thần thông đầy đủ Như Lai. Khi thành Như Lai rồi, sẽ vì chúng sinh mà hiện thân khắp nơi như trăng trong nước, tùy theo ưa muốn của chúng mà nói pháp, thân được thanh tịnh lìa tâm, ý, thức, mang áo giáp mười thệ nguyện rộng lớn, đầy đủ thành tựu mười nguyện vô tận , ấy gọi là những điều Bồ Tát đại hữu tình Thâu hoạch được khi nhập “như như”.

Bấy giờ Đại Huệ lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn, ba tự tính là ở trong năm pháp, hay là có tướng riêng của chúng?

Phật nói:

Đại Huệ ! Ba tính, tám thức, hai vô ngã đều ở trong năm pháp. Trong số đó, danh và tướng là tính vọng kế (parikalpita; false imagination), vì vọng kế y nơi phân biệt tâm, tâm sở của danh tướng mà khởi lên đồng thời với danh tướng, như mặt trời và ánh sáng chiếu ra là tính duyên khởi. Chính trí và như như không thể hoại, nên gọi là tính viên thành (parinishpanna). Đại Huệ ! Khi phát sinh chấp trước đối với những pháp do tự tâm hiện, thì tám thức phân biệt khởi. Tướng sai biệt của các pháp đều không thực, chỉ là tính vọng kế (tưởng tượng). Nếu bỏ được hai thứ ngã chấp, thì trí nhị vô ngã (nhân vô ngã và pháp vô ngã) liền sinh. Đại Huệ ! Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Như Lai, các cấp bực của Thánh Trí Tự Chứng, cùng tất cả Phật pháp đều bao gồm trong năm pháp này. Lại nữa, này Đại Huệ ! Trong năm pháp – tướng, danh, phân biệt, như như, chính trí – thì tướng nghĩa là những gì thấy được, như màu sắc, hình trạng v.v.. mỗi mỗi sai khác. Do các tướng ấy mà lập nên những tên gọi như cái bình là bình, không gì khác, gọi là danh. Bày ra các tên gọi, chỉ rõ các tướng tâm và tâm sở, ấy gọi là phân biệt. Tên gọi và tướng rốt ráo đều không, chỉ do vọng tâm phân biệt, quán sát như thế cho đến khi “cái biết” diệt, ấy gọi là như như. Đại Huệ ! Tướng (characthistics) của như như là chân thật, quyết định, rốt ráo, căn bản, tự tính, khả đắc. Ấy là tướng như như. Ta cùng các Phật tùy thuận (theo chúng sinh mà có) chứng nhập, như thật tướng của nó mà khai thị diễn nói. Nếu ai theo đó giải ngộ được, lìa chấp đoạn, thường, không sinh phân biệt, nhập cảnh giới tự chứng, ra khỏi cảnh giới của ngoại đạo nhị thừa, ấy gọi là chính trí. Đại Huệ ! Năm pháp, ba tính, tám thức, hai vô ngã này, tất cả Phật pháp đều bao gồm trong ấy. Đại Huệ ! Trong những pháp này ông nên lấy trí mà khéo thông, và khuyên người khác thông đạt. Thông đạt rồi thì nhất định không bị kẻ khác lay chuyển.

Bấy giờ Thế Tôn nói bài tụng:

Năm pháp ba tự tính

Cùng với tám thứ thức

Và hai thứ vô ngã

Bao quát hết đại thừa

Danh, tướng cùng phân biệt

Gồm trong hai tự tính

Chính trí và như như

Ấy là tướng viên thành

Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật rằng:

Bạch Thế Tôn ! Như trong kinh nói, chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại số nhiều như cát sông Hằng. Ấy nghĩa là gì? Nên như lời mà hiểu, hay có ý nghĩa gì khác?

Phật dạy Đại Huệ:

Không nên hiểu theo ngôn từ. Đại Huệ ! Chư Phật ba đời không phải số như cát sông Hằng. Vì sao? Sự tối thắng của Như Lai siêu việt thế gian, không gì có thể sánh, không thí dụ gì có thể đạt tới, chỉ lấy ít phần làm thí dụ mà thôi.Ta vì hàng phàm phu ngoại đạo tâm ưa chấp trước thường, vô thường, ác kiến tăng trưởng sinh tử luân hồi, muốn chúng chán ghét xa lìa, phát sinh hy vọng thù thắng mà nói rằng: Phật dễ thành dễ gặp. Nếu nói Phật khó gặp như hoa Ưu đàm (udumbarapuspa) thì những kẻ kia liền thối chí không siêng năng. Bởi lẽ đó mà Ta nói Phật ba đời nhiều như cát sông Hằng. Ta cũng có lần vì những người thọ sự giáo hóa của Ta mà nói Phật khó gặp như hoa Ưu đàm. Đại Huệ ! Chưa ai từng thấy hoa Ưu đàm cũng không ai sẽ thấy, nhưng Như Lai thì có người đã thấy và sẽ thấy. Đại Huệ! Thí dụ như thế không nói lên được chính chân lý, chân lý là cảnh giới của thánh trí chứng được tự trong tâm mình, thế gian không sánh được, vượt ngoài các thí dụ, hết thảy phàm ngu không tin nhận nỗi. Đại Huệ ! Như Lai chân thật vượt qua các tướng do tâm, ý, ý thức quan niệm, không thể lập thí dụ về Như Lai. Tuy nhiên đôi lúc cũng vì chúng mà nói rằng Như Lai nhiều như cát sông Hằng cũng không mâu thuẫn. Đại Huệ ! Thí như cát sông Hằng bị cá, voi, ngựa dẫm đạp mà không sinh phân biệt, thường thanh tịnh không dơ, Thánh trí của Như Lai cũng như cát sông Hằng, năng lực thần thông tự tại của Như Lai cũng như cát ấy, dù bị bọn cá ngoại đạo đến nhiễu loạn Phật vẫn không khởi niệm phân biệt. Vì sao? Vì bản nguyện (pùrvapranihitatva) của Như Lai là lấy tam muội lạc để an khắp chúng sinh, như cát sông Hằng không ghét yêu không phân biệt. Đại Huệ ! Như cát sông Hằng, có đăc tính của đất, đến thời kiếp tận, tất cả đất đai đều bị thiêu hủy nhưng địa đại không bỏ tự tính, vì địa đại thường sinh đồng thời với hỏa đại. Những người ngu nói địa đại bị thiêu hủy nhưng kỳ thật không thiêu, vì hỏa là nhân của địa. Pháp thân của Như Lai cũng thế, như cát sông Hằng, không bao giờ hoại diệt. Đại Huệ, cũng như cát sông Hằng không có hạn lượng, ánh sáng của Như Lai cũng vậy, vì muốn thành tựu vô lượng chúng sinh, nên chiếu khắp đại hội Phật. Đại Huệ ! Thí như cát sông Hằng ở luôn trong tự tính “cát” không biến thành các vật khác, Như Lai cũng vậy, ở trong thế gian không sinh không diệt, vì cái nhân để thọ sinh đi các cõi đều bị đoạn diệt. Đại Huệ ! Như cát sông Hằng lấy đi không thấy bớt bỏ vào không thấy thêm, chư Phật cũng thế, trí phương tiện khiến chúng sinh thành thục không tăng không giảm. Vì sao? Vì pháp thân của Như Lai vốn không thân. Đại Huệ ! Cái gì có thân thì có hoại diệt. Pháp thân không thân nên không hoại diệt. Đại Huệ ! Như cát sông Hằng, dù có khổ công ép để lấy dầu suốt đời cũng không được, Như Lai cũng thế, tuy vì chúng sinh mà phải chịu các khổ bức bách, vẫn không bao giờ khởi sân nhuế, không bỏ tướng pháp giới, không bỏ hương vị của pháp, không bỏ bổn nguyện ban bố hạnh phúc cho chúng sinh, vì Phật có đầy đủ đại từ, đại bi. Nếu Ta không khiến cho tất cả chúng sinh vào Niết Bàn thì tự Ta cũng không vào Niết Bàn. Đại Huệ ! Như cát sông Hằng chảy theo nước, không phải nơi không có nước, Như Lai cũng vậy, các pháp Như lai nói ra không có gì là không thuận theo giòng Niết Bàn, vì thế mà nói chư Phật Như Lai như cát sông Hằng.

Đại Huệ ! “Như Lai” nói pháp không theo các đường; “đường” có nghĩa là hoại diệt, biên giới sơ khởi (pùrvakoti: bản tế) của sinh tử không thể biết. Đã không biết được thì làm sao nói “đường”. Này Đại Huệ ! “Thú” có nghĩa là đoạn diệt, kẻ phàm ngu không biết.

Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật:

Nếu biên giới sơ khai (bản tế) của sinh tử không thể biết được, thì làm sao chúng sinh ở trong sinh tử giải thoát được?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Khi nhân của tập khí hư dối từ vô thỉ bị hoại diệt, biết rõ cảnh ngoài chỉ do tâm hiện, khi phân biệt được chuyển y, đấy gọi là giải thoát, chứ không phải là diệt. Cho nên không thể nói không có biên tế (endlessness). Đại Huệ ! “Không biên tế” chỉ một tên khác của phân biệt. Đại Huệ ! lìa tâm phân biệt, thì không có chúng sinh. Khi lấy trí quán sát các pháp trong ngoài, thì thấy tri cùng sở tri đều vắng lặng. Đại Huệ ! Hết thảy pháp đều do tự tâm phân biệt thấy, vì không hiểu rõ nên tâm phân biệt khởi, khi hiểu rõ thì tâm phân biệt diệt.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Quán sát các Đạo Sư

Ví như cát sông Hằng

Không hoại cũng không đi

Người ấy tất thấy Phật

Ví như cát Sông Hằng

Lìa tất cả các lỗi

Mà thường tùy theo giòng

Phật thể cũng như vậy.

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật rằng:

Bạch Thế Tôn ! Xin giảng nói cho con tướng sát na hoại của hết thảy pháp. Những pháp nào gọi là có sát na?

Phật đáp:

Hãy nghe kỹ, Ta sẽ nói. Đại Huệ ! Hết thảy pháp ấy là: thiện pháp (kusala), bất  thiện pháp (akusala), hữu vi pháp (samsktra), vô vi pháp (asamsktra), thế gian pháp, xuất thế gian pháp, hữu lậu pháp, vô lậu pháp (anàsrava), hữu thọ pháp (upàtta), vô thọ pháp (anupàtta). Đại Huệ ! Nói tóm lại, năm thủ uẩn do nhân là tập khí của tâm, ý, ý thức mà tăng trưởng, kẻ phàm ngu ở nơi đây phân biệt là thiện, bất thiện. Bậc thánh hiện chứng pháp lạc tam muội gọi là thiện vô lậu pháp. Lại nữa, này Đại Huệ ! Thiện và bất thiện ấy là tám thức. Tám thức ấy là gì? Ấy là Như Lai tạng gọi là Tạng thức, mạt na thức, ý thức và năm thức căn. Đại huệ ! Năm thức cùng đi với ý thức, những tướng sai biệt thiện bất thiện xoay chuyển nối tiếp nhau không dứt, vô dị thể (alaya) sinh ra, sinh rồi liền diệt, vì không hiểu cảnh do tự tâm hiện nên khi diệt lại có một hệ thống 5 thức khác sinh khởi tiếp theo; ý thức hợp với năm thức ấy mà thu vào các hình tướng sai biệt, không giây nào dừng nghỉ, Ta nói đấy là pháp sát na. Đại Huệ ! Như Lai tạng gọi là tạng thức cùng đi với các tập khí của Mạt na và các thức kia, ấy là sát na pháp. Nhưng vô lậu tập khí không phải là sát na pháp. Đây không phải là điều những người theo sát na luận phàm phu có thể hiểu được. Những kẻ kia không biết vừa là sát na vừa không là sát na, nên chấp các pháp vô vi (unmade – asamsktra) cũng hoại diệt như những pháp khác, đọa vào đoạn kiến. Đại Huệ ! Chính năm thức tự chúng không bị lưu chuyển, không phải là nhân khổ lạc, cũng không là nhân Niết Bàn. Như lai tạng thì cùng với nhân (tạo nghiệp) mà thọ khổ, vui có sinh diệt, bị bốn tập khí làm mê hoặc ngăn che. Nhưng kẻ phàm ngu bị phân biệt xông đầy tâm thức không hiểu được nên sinh kiến chấp là sát na khởi. Đại Huệ ! Như vàng, kim cương, xá lợi của Phật, có tính chất đặc biệt không thể tổn hoại. Nếu các pháp chứng đắc có tính sát na diệt, thì thánh nhân lẽ ra không còn là thánh nhân. Nhưng sự thật là bậc thánh không bao giờ mất thánh cách. Như vàng, kim cương, dù trải qua hết kiếp vẫn không giảm cân lượng. Vì sao kẻ phàm ngu không nhận rõ chỗ thâm mật của lời Ta nói, lại sinh tưởng sát na đối với tất cả pháp?

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng:

Bạch Thế Tôn ! Thế Tôn thường dạy nếu đầy đủ sáu pháp ba la mật, sẽ thành chính giác. Sao gọi là sáu pháp? Sao gọi là đầy đủ?

Phật dạy:

Đại Huệ ! Có ba thứ ba la mật khác nhau, ấy là thế gian, xuất thế gian, và xuất thế gian thượng thượng. Đại Huệ ! Thế gian ba la mật là phàm phu chấp ngã, ngã sở, chấp thủ nhị biên, cầu được thân ở các cõi, tham sắc thanh hương vị xúc, nên tu các hạnh ba la mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, thành tựu được thần thông, sinh vào cõi Phạm Thế. Đại Huệ ! Xuất thế gian ba la mật là Thanh Văn Duyên Giác chấp trước Niết Bàn, mong cầu hỷ lạc cho tự thân mà tu các ba la mật. Đại Huệ ! Xuất thế gian thượng thượng ba la mật là, Bồ Tát đại hữu tình đối với hai pháp của tự tâm, biết rõ chỉ do phân biệt khởi, nên không sinh vọng tưởng, chấp trước, không ôm giữ sắc tướng. Vì muốn lợi lạc chúng sinh, Bồ Tát thường tu bố thí Ba la mật. Đối với các cảnh giới không sinh phân biệt, ấy là tu thi la (sìla), ba la mật. Thực hành nhẫn nhục không lúc nào khởi phân biệt, biết rõ tự tính năng thủ sở thủ, gọi là sằn đề ba la mật. Đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm, siêng tu không biếng nhác, tùy thuận chân lý mà hiểu, không sinh phân biệt, không khởi kiến chấp Niết Bàn theo ngoại đạo, là thiền ba la mật. Dùng trí quán sát mọi pháp, tâm không khởi phân biệt, không sa vào nhị biên, chuyển các thức sở y thành thanh tịnh (a revulsion takes place at the basis) mà không hoại nghiệp trước (while previous karma is not destroyed), được cảnh giới nội chứng của thánh trí, gọi là bát nhã ba la mật.

Khi ấy Thế Tôn lại nói bài tụng:

Ngu phân biệt hữu vi

Không, vô thường, sát na

Nghĩa sát na phân biệt

Như sông, đèn, hạt giống

Hết thảy pháp không sinh

Tịch tịnh không sở tác

Các tự tính đều lìa

Ấy gọi là sát na

Sinh không dừng liền diệt

Không nói cho phàm ngu

Pháp vô gián tương tục

Phân biệt các cõi khởi

Vô minh chính là nhân

Tâm thức do đó sinh

Khi sắc còn chưa đến

Trung gian trú ở đâu

Vô gián tương tục diệt

Mà có tâm khác khởi

Khi (tâm) không trú sắc

Duyên vào đâu mà sinh

Nếu duyên pháp mà khởi

Nhân ấy tất hư vọng

Nhân vọng, thể không thành

Sao lại sát na diệt?

Chính thọ của bậc tu

Kim cương, Xá Lợi Phật

Cùng với Quan Âm cung (abhàsvara)

Là những thứ bất hoại

Trí Như Lai viên mãn

Chỗ tỳ kheo chứng đắc

Các pháp tính thường trú

Sao lại thấy sát na?

Càn thành, các tướng huyễn

Vì sao không sát na?

Đại chủng không thật tính

Sao lại nói năng tạo?


QUYỂN SÁU

CHƯƠNG VII

PHẨM BIẾN HÓA

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình bạch Phật:

Bạch Thế Tôn ! Như Lai vì cớ gì thọ ký cho các bậc A La Hán rằng họ sẽ chứng Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác? Vì cớ gì mà nói rằng chúng sinh không chứng pháp Bát Niết Bàn cũng thành Phật? Lại cớ gì nói từ khi Như Lai mới thành Phật đến khi nhập Niết Bàn, trong thời gian đó Phật không nói một chữ nào? Lại nói Như Lai thường trú trong định không giác không quán? Lại nói các Phật sự đều là hóa tác. Lại nói các thức sát na biến hoại. Lại nói thần Kim Cang thường theo hộ vệ. Lại nói giới hạn đầu tiên (primary limit – tiền tế) không thể biết, nhưng có thể biết tịch diệt. Lại nói có ma và các việc (nghiệp) của ma? Lại nói có dư báo, nói chuyện người con gái Bà la môn tên Chiên Giá (Cancàmànavikà), người con gái ngoại đạo Tôn Đà Lợi (Sundarikà) cùng các chuyện (Phật) đi khất thực bát không trở về v.v.. Thế Tôn đã có những nghiệp chướng như vậy (Kàrmava- rana), làm sao thành được nhất thiết chủng trí (Sarvàkàranatà)? Nếu đã thành bậc nhất thiết chủng trí rồi, thì tại sao không lìa được những lỗi ấy?

Phật dạy:

Hãy nghe kỹ, ta sẽ nói. Đại Huệ ! Ta vì Niết Bàn vô dư nên mật khuyến các Bồ Tát cõi này và các cõi khác, những vị tu Bồ Tát hạnh mà lại cầu Niết Bàn Thanh Văn, mật khuyến họ xả bỏ tâm ấy siêng tu hạnh lớn. Lại biến ra hóa Phật và các Hóa Thanh Văn mà thọ ký từng người, không phải pháp tính Phật làm việc thọ ký ấy. Đại Huệ ! Phật và nhị thừa không khác, do ở điểm rằng Phật và Thanh Văn, Duyên Giác đều cùng có một vị giải thoát là đoạn các hoặc chướng, không phải trí chướng (Jneyàvarana). Trí chướng thì phải thấy pháp vô ngã mới được thanh tịnh. Phiền não chướng (klesàvarana) thì khi thấy nhân vô ngã, ý thức liền xả. Ban đầu phải đoạn tập khí trong tạng thức thì sự giải thoát khỏi pháp chướng mới được vĩnh viễn thanh tịnh. Đại Huệ ! Ta y nơi pháp thường trú mà nói mật ngữ này, vì không khác với chư Phật đời trước và đời sau, cũng nói pháp đầy đủ văn tự như thế. Đại Huệ ! Cái biết chân chính của Như Lai không có vọng niệm, không đợi tư lự suy nghĩ rồi mới nói, vì Như Lai từ lâu đã đoạn bốn tập khí, (kiến, dục, sắc, hữu – DG) lìa hai chết (phân đoạn tử và biến dị tử – DG), trừ hai chướng ngại (hoặc chướng và trí chướng – DG). Đại Huệ ! Ý (mạt na) và ý thức của năm thức căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân –DG), bảy thứ do tập khí làm nhân, ấy là tính sát na, không có vô lậu thiện và cũng không chịu luân hồi. Đại Huệ ! Như Lai tạng chính là nhân của sinh tử lưu chuyển và Niết Bàn, của khổ và lạc; kẻ ngu không biết quấy chấp là không. Đại Huệ ! Các đức Như Lai biến hóa mới thường được Kim Cang lực sĩ theo hộ vệ, chứ không phải các đức Phật chân thật. Như Lai chân thật vượt ngoài mọi giác quan và đo lường, nhị thừa ngoại đạo không biết được, an trú nơi pháp lạc hiện hữu và đã thành tựu trí nhẫn. Bởi thế không cần được Kim Cang lực sĩ hộ vệ. Tất cả hóa Phật đều không do nghiệp sinh, không phải Phật cũng không phải phi Phật. Thí như thợ gốm hòa các thứ lại mà làm các đồ vật, hóa Phật cũng thế; đầy đủ các tướng hiện ra để diễn nói pháp, nhưng vẫn không thể nói được cảnh giới do Thánh Trí Tự Chứng mà có.

Lại nữa, Đại Huệ ! Các kẻ phàm ngu thấy sáu thức diệt mà chấp đoạn kiến, không hiểu rõ Tạng thức thì sinh chấp thường kiến. Đại Huệ ! Biên giới đầu tiên của vọng tâm phân biệt vốn không tự tính, bất khả đắc. Lìa phân biệt ấy liền được giải thoát, đoạn bốn thứ tập khí, lìa hết thảy lỗi lầm.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Tam thừa cùng không thừa

Không có Phật Niết Bàn

Tất thọ ký thành Phật

Nói lìa các lỗi ác

Thành tựu trí cứu cánh

Cùng vô dư Niết Bàn

Để dụ kẻ hèn nhát

Theo mật ý kia nói

Trí sở đắc của Phật

Diễn nói đạo như thế

Ở đây không đâu khác

Nên Phật không Niết Bàn

Các kiến, dục, sắc, hữu

Bốn tập khí như thế

Ý thức từ đó sinh

Tạng, Mạt na ở đó

Thấy ý thức, năm thức

Vô thường nên chấp đoạn

Mê ý, Tạng chấp thường

Tà trí gọi Niết Bàn.


CHƯƠNG VIII

CẤM ĂN THỊT

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình lại bạch Phật rằng:

Bạch Thế Tôn ! Xin vì con nói các công đức và lỗi lầm của việc ăn thịt, không ăn thịt. Con cùng các Bồ Tát biết nghĩa ấy rồi sẽ diễn nói cho chúng sinh ăn thịt ở hiện tại, vị lai bị các tập khí huân tập, và khiến họ bỏ vị thịt mà cầu vị pháp, đối với hết thảy mọi loài sinh lòng đại bi, thương như thương con một, ở địa vị Bồ Tát, được vô thượng chính đẳng chính giác, hoặc tạm dừng ở nhị thừa rồi cuối cùng cũng thành vô thượng chính đẳng chính giác. Bạch Thế Tôn ! Những bọn Thế luận khởi kiến hữu vô, chấp trước đoạn, thường mà còn cấm không cho ăn thịt, huống hồ đức Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác, đầy lòng đại bi, thế gian đều nương cậy, mà lại tự cho phép mình và kẻ khác ăn thịt hay sao. Hay thay ! Đấng Thế Tôn đầy đủ đại bi thương xót thế gian, thường xem chúng sinh như con một, nguyện xin Thế Tôn giải nói cho con về những lỗi lầm và ác độc của sự ăn thịt và những công đức của sự kiêng thịt, khiến con cùng các Bồ Tát nghe rồi phụng hành, rộng nói cho người.

Bấy giờ Đại Huệ Bồ Tát lại nói bài tụng:

Bồ Tát đại hữu tình

Chí cầu Vô Thượng Giác

Rượu thịt cùng tỏi hành

Được ăn hay không được

Kẻ ngu tham ăn thịt

Hôi dơ không xiết kể

Đồng như ác thú kia

Làm sao mà ăn được

Kẻ ăn có lỗi gì

Không ăn có đức gì

Xin nguyện đấng Thế Tôn

Vì con khai diễn hết.

Khi ấy Phật dạy Bồ Tát Đại Huệ rằng:

Đại Huệ ! Hãy nghe, và khéo suy nghĩ. Ta sẽ phân biệt rõ cho ông thấy. Đại Huệ ! Có vô số lý do khiến Bồ Tát thương xót không ăn thịt, Ta chỉ nói đôi phần. Đại Huệ ! Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay không ngừng qua lại trong sinh tử luân hồi, không khỏi có lần làm cha mẹ anh em con cái lẫn nhau, hoặc làm bà con, bè bạn, đầy tớ thân yêu... Sang đời khác họ sinh làm thân chim và thú, sao nỡ đem ăn thịt? Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình xem chúng sinh như thân mình, nghĩ rằng thịt đều do có mạng sống mà ra, làm sao nỡ ăn? Đại Huệ ! Bọn quỷ la sát v.v.. nghe Ta nói thế này còn bỏ ăn thịt, huống hồ những người thích pháp. Đại Huệ ! Bồ Tát đại hữu tình ở đâu cũng xem chúng sinh là thân thuộc, cho đến nghĩ như con một của mình, nên không ăn tất cả thịt. Đại Huệ ! Những người bán thịt ở góc đường chợ búa hoặc lấy thịt chó ngựa người trâu bò v.v.. đem bán để cầu lợi, uế tạp như thế làm sao ăn được.

Đại Huệ ! Hết thảy các thứ thịt đều do máu huyết ô uế làm ra, người cầu trong sạch sao lại ăn dùng. Đại Huệ ! Chúng sinh khi thấy những người ăn thịt thì sợ hãi, kẻ tu từ tâm sao lại ăn thịt. Đại Huệ ! Những thợ săn, Chiên đà la (Càndàla), những người bắt cá, lưới chim, chó thấy thì sủa, thú vật thấy thì bỏ chạy. Tất cả chúng sinh bay trên không chạy trên đất, sống dưới nước, trông thấy những người kia đều nghĩ : “Tên ấy trông như quỷ la sát, nay đến đây chắc để giết mình.” Vì lo giữ mạng sống nên chúng đều chạy tránh. Người ăn thịt cũng vậy. Cho nên Bồ Tát vì tu hạnh từ không nên ăn thịt. Đại Huệ ! Người ăn thịt thì thân thể hôi hám dơ bẩn, tiếng ác truyền khắp, hiền thánh, người tốt không thân gần, do vậy Bồ Tát không nên ăn thịt. Đại Huệ ! Máu thịt là thứ mà tiên thánh không dùng, nên Bồ Tát không ăn thịt. Đại Huệ ! Lại vì muốn gìn giữ tín tâm của chúng sinh, không để họ chê bai nhạo báng Phật pháp, nên Bồ Tát không ăn thịt. Đại Huệ ! Nếu đệ tử ta ăn thịt, thì người đời sẽ ôm lòng chê bai, nói: “Sa môn tịnh hạnh sao lại từ bỏ vị ăn của chư thiên mà cư xử như ác thú, ăn thịt đầy bụng đi khắp thế gian, khiến chúng sinh cầm thú hoảng sợ, phá hạnh thanh tịnh, lỗi đạo sa môn? Xem đấy đủ biết Phật pháp không có hạnh điều phục.” Bồ Tát thương chúng sinh, muốn giữ cho họ khỏi sinh tâm ấy, nên không ăn thịt. Đại Huệ ! Khi thịt người cháy thì hơi hôi xông lên, các thứ thịt nướng khác cũng vậy. Cũng cùng là thịt, sao lại có thứ ăn, có thứ không ăn. Cho nên những người vui đạo thanh tịnh không nên ăn thịt. Đại Huệ ! Các nam nữ thiện tín tu hành thanh tịnh ở dưới cây hay nơi vắng vẻ để an trú tâm từ, trì chú cầu giải thoát, hoặc cầu pháp Đại thừa, nhưng vì ăn thịt mà không đạt được các mục đích trên. Bởi thế Bồ Tát muốn lợi mình lợi người không nên ăn thịt. Đại Huệ ! Người ăn thịt khi trông thấy thịt liền sinh lòng tham ăn ngon. Bồ Tát thương nghĩ hết thảy chúng sinh như thân mình, làm sao thấy thịt mà nghĩ đến chuyện ăn được? Vì thế Bồ Tát không nên ăn thịt. Đại Huệ ! Lại người ăn thịt thì chư thiên xa lánh, hơi miệng thường hôi, ngủ mộng bất an, tỉnh dậy lo sợ, bị ác quỷ dạ xoa hút mất tinh khí, lòng nhiều hoảng sợ, ăn không biết đủ, tăng trưởng bệnh , dễ sinh ghẻ lở, mụt nhọt, thường bị vi trùng đục khoét, không thể sinh tâm chán ghét muốn xa lìa thịt. Đại Huệ ! Ta thường nói: “Tỳ kheo ăn cái gì cũng nên nghĩ như ăn thịt con.” Các thức ăn khác còn thế, thì sao Ta lại cho phép đệ tử ăn thịt được? Đại Huệ ! Thịt không tốt đẹp, không sạch, làm sinh các tội ác, phá hoại các công đức, bị chư thiên, thánh nhân xa lìa, sao Ta lại cho phép đệ tử ăn thịt? Kẻ nào nói Ta thuận cho ăn thịt chính là phỉ báng Ta vậy. Đại Huệ ! Thức ăn sạch là lúa gạo, đậu, đại mạch, tiểu mạch, dầu mè, ván sữa, đường. Những loại như thế đều được chư Phật quá khứ cho phép ăn. Những thứ nên ăn Ta nói đây là để cho những thiện nam tín nữ trong dòng họ Ta, những kẻ có đức tin thanh tịnh, đã trồng căn lành từ lâu đời, không tham trước thân mạng tài sản, xót thương hết thảy như chính thân mình. Ta nói những vật nên ăn cho những người như vậy, chứ không phải cho những kẻ có thói quen độc ác, tính như hổ lang, lòng nặng dục vọng.

Đại Huệ ! Xưa có quốc vương tên Sư tử sinh (Simhasaydàsa), ưa mùi vị thịt, ăn đủ thứ thịt đến cả thịt người, thần dân không chịu nỗi nên làm phản. Cuối cùng vua mất nước, chịu khổ não lớn. Đại Huệ ! Thích Đề Hoàn Nhân đã ở địa vị vua trời, do tập khí ăn thịt đời trước còn lại, nên biến làm chim ưng săn đuổi một con bồ câu. Ta lúc ấy làm vua tên Thi Tỳ (Sivin), thương xót bồ câu nên tự cắt thịt mình để thế mạng cho nó.

Đại Huệ ! Tập khí còn lại của Đế Thích còn làm khổ chúng sinh, huống gì những kẻ ăn thịt thường xuyên không biết hổ thẹn. Ăn thịt đã tự hại còn hại người, vì thế Bồ Tát không nên ăn thịt. Đại Huệ ! Xưa có ông vua cỡi ngựa đi săn, ngựa sợ chạy vào núi hiểm, chốn không người ở, cũng không có lối ra. Vua gặp một sư tử cái cùng nó hành dâm sinh nhiều con. Trong số con có một trưởng giả rất giàu có tên Ban Túc, về sau làm vua thống lĩnh 7 ức nhà, vì quen thói ăn thịt nên không phải thịt thì không ăn. Ban đầu ăn thú vật sau đến ăn người, sinh con trai con gái đều là quỷ la sát, chết tái sinh làm sư tử, sài lang, cọp beo, chim điêu, chim thứu v.v.. muốn cầu được thân người còn không được, nói gì đến cầu thoát sinh tử đạt Niết Bàn. Đại Huệ ! Ăn thịt có vô lượng lỗi lầm tai hại như thế, nên chấm dứt ăn thịt sẽ được công đức lớn. Kẻ phàm ngu không biết những tổn hại của sự ăn thịt và lợi ích của không ăn. Bởi thế nay Ta vì ngươi mà nói rõ. Bất cứ cái gì là thịt đều không nên ăn. Đại Huệ ! Người ta sát sinh phần lớn là do có người ăn thịt, nếu không người ăn thì cũng không có việc giết; bởi thế ăn thịt cũng có tội như  giết. Quái lạ cho người đời tham đắm vị thịt, thịt người còn ăn huống là thịt chim thú. Vì tham ăn ngon, chúng đặt ra đủ cách giăng lưới bày bẫy khắp nơi, loài dưới nước, loài ở trên đất, loài bay trên không đều bị giết hại, nếu không tự mình ăn thì cũng đem bán để lấy tiền.

Đại Huệ ! Thế gian có những kẻ không lòng thương xót, chuyên làm việc tàn bạo như quỷ la sát; khi thấy chúng sinh thân hình béo tốt là nghĩ đến thịt, và bảo “Con vật này ăn được đấy.” Đại Huệ ! Thế gian không có thứ thịt nào không do mình giết hay người giết, lòng mình không nghi là nó bị giết (để có thể ăn được.) Do nghĩa này mà Ta cho phép Thanh Văn ăn thứ thịt như thế. Đại Huệ ! Đời sau có những kẻ ngu si xuất gia trong pháp luật của Ta, giảng quấy giới luật, làm loạn chính giáo, phỉ báng Ta với lời nói Ta cho phép ăn thịt và chính Ta cũng đã từng ăn. Đại Huệ ! Nếu Ta cho phép Thanh Văn ăn thịt, tức Ta không phải người an trú tâm từ, người tu quán hạnh, người hành đầu đà, người đi nơi đại thừa; làm sao có thể khuyên thiện nam tín nữ nên xem chúng sinh như con một, nên dứt ăn tất cả thịt? Đại Huệ ! Có chỗ Ta nói cho ăn ba thứ tịnh nhục, đấy là để dần dần cấm hẳn, khiến dễ tu học. Nay trong kinh này, tất cả thịt của con vật tự chết hay bị giết, đều không được ăn. Đại Huệ ! Ta chưa bao giờ cho phép đệ tử ăn thịt, cũng không đang cho phép, cũng không sẽ cho phép.

Đại Huệ ! Tất cả sự ăn thịt đối với người xuất gia đều là bất tịnh.

Đại Huệ ! Nếu có kẻ ngu si phỉ báng Ta bằng cách nói Như Lai cho phép ăn thịt và chính Như Lai cũng đã có ăn, nên biết kẻ ấy bị ác nghiệp buộc ràng, sẽ bị đọa vào những chỗ không lợi lạc. Đại Huệ ! Các thánh đệ tử  còn không ăn những thứ đoàn thực của phàm phu, huống gì thịt vốn là thức ăn dơ uế. Đại Huệ ! Thanh Văn Duyên Giác Bồ Tát còn chỉ ăn pháp thực (dharmàhàra) huống gì Như Lai. Đại Huệ ! Pháp thân Như Lai không phải là thân ô tạp. Như Lai đã dứt trừ hết phiền não, tẩy sạch hết tập khí, khéo thanh lọc tâm tuệ, đại bi bình đẳng quán khắp chúng sinh như con một; há lại cho phép đệ tử Thanh Văn ăn thịt con Ta sao? Huống nữa là tự Ta ăn. Nói như vậy là chuyện không có.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Đều từng làm thân thuộc

Do các uế mà thành

Làm khiếp sợ chúng sinh

Nên không được ăn thịt

Tất cả các loại thịt

Hành tỏi, các thứ rượu

Những vật bất tịnh ấy

Người tu hành lìa xa

Lại thường lìa dầu thoa

Cùng giường có thủng lỗ

Vì các côn trùng nhỏ

Trong đó rất sợ hãi

Ăn (thịt) sinh phóng dật

Phóng dật sinh tà giác

Tà giác sinh tham lam

Bởi vậy không nên ăn

Vì tà giác sinh tham

Tâm bị mê vì tham

Tâm mê tăng ái dục

Sinh tử không giải thoát

Vì lợi sát chúng sinh

Lấy tiền ra mua thịt

Cả hai đều ác nghiệp

Chết đọa ngục gào thét

Không thấy nghe nghi giết

Ba thứ ấy gọi tịnh

Vì thịt ấy không có

Kẻ ăn Ta quở trách

Lại cùng ăn nuốt nhau

Chết đọa vào ác thú

Hôi dơ và si cuồng

Bởi thế không nên ăn

Thợ săn, chiên đà la

Đồ tể, la sát bà

Sinh trong các hạng ấy

Là quả báo ăn thịt

Đã ăn không hổ thẹn

Đời đời bị si cuồng

Chư Phật cùng Bồ Tát

Thanh Văn đều nghi ghét

Tượng kiếp (Hastikakshya) cùng Đại vân (Mahàmegha)

Niết Bàn, ương quật ma (angulimàlika)

Cùng Lăng Già kinh này

Ta đều bảo dứt thịt

Trước nói kiến, văn, nghi

Để dứt hết thảy thịt

Vì ác tập cho nên

Kẻ ngu vọng phân biệt

Như tham ngăn giải thoát

Các thịt cũng như thế

Nếu người có ăn thịt

Không thể vào thánh đạo

Chúng sinh đời vị lai

Nói ngu si về thịt

Nói “đây tịnh không tội

Phật cho chúng ta ăn.”

Tịnh thực còn (xem) như thuốc

Như đói ăn thịt con

Cho nên kẻ tu hành

Biết lượng đi xin ăn

Ăn thịt trái giải thoát

Cùng trái biểu tượng thánh

Khiến chúng sinh sợ hãi

Cho nên không được ăn

Kẻ an trú từ tâm

Thường phải nên xa lìa

Sư tử và hổ lang

Ăn thịt sinh trong đó

Nếu các thứ rượu thịt

Hết thảy đều không dùng

Sẽ sinh dòng hiền thánh

Thịnh vượng, đủ trí tuệ.


KINH ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG GIÀ

QUYỂN VI

CHƯƠNG IX

ĐÀ LA NI

(Dhàranìparivatro nàma Navamah)

 

Phật dạy Đại Huệ Bồ Tát đại hữu tình:

Đại Huệ ! Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai vì muốn ủng hộ người thọ trì kinh này, nên diễn nói chú Lăng Già. Nay Ta cũng nói chú ấy, ông nên thọ trì.

Liền nói bài chú:

“Đát điệt tha, đổ tra, đổ tra, đổ tra, đổ tra, bát tra. bát tra, cát tra cát tra, a ma lệ, a ma lệ, tỳ ma lệ, tỳ ma lệ, nễ mế nế mế, hê mế hê mế, phược mế phược mế, cát lệ cát lệ, yết ra cát lệ, a tra mạt tra, chiết tra đốt tra, kỳ nhã tra tát phổ tra, cát địa, lạt địa bạt địa, hê mế, hê mế, đệ mế, chiết lệ chiết lệ, bát lị bát lị, hạn đệ tỳ đệ, án chiết mãn chế, đỗ trà rị đỗ trà rị, bát trà rị, át kế át kế, hê mế hê mế, đổ đổ đổ đổ, lổ lổ lổ lổ, đổ đổ đổ đổ, hổ đổ hổ đổ, hổ đổ hổ, ta bà ha.”

(Tadyathà tutte tutte vutte vutte patte patte katte katte amale amale vimale vimale nime nime hime hime vame vame kale kale atte matte vatte tuttle jnette sputte katte katte latte patte dime dime cale cale pace pace bandhe bandhe ance mance dutare dutare patare patare arkhe arkhe sarkhe sarkhe cakre cakre dine dine hime hime tu tu tu tu du du du du ru ru ru ru phu phu phu phu svàha).

Đại Huệ ! Trong đời vị lai, nếu có người thiện nam thiện nữ thọ trì đọc tụng, vì người khác mà nói Đà La Ni này, nên biết những người ấy không bị tất cả người, phi nhân, quỷ thần v.v.. động tới. Nếu có người bỗng gặp chuyện dữ, mà tụng niệm cho người ấy 108 biến chú này, thì ác ma liền bỏ chạy. Đại Huệ, Ta lại nói cho ông Đà La Ni này nữa. (Đức Phật liền nói bài chú):

Đát điệt tha, bát đầu ma đệ bệ, bát đầu mế hế, nê hế mễ hế nê, lệ chủ la chủ lệ, hổ lệ hổ la hổ lệ, sấu lệ sấu lệ, bả lệ bả la bả lệ, sấn đệ tần đệ, bạn thệ mạt đệ, ni la ca lệ, sa bà ha.

(Tadyathà-padma padmadeve – hime hini hine – cu cule culu cule – phale phula phule – yule ghule yula yule – ghule ghula ghule – pale pala palemunce cchinde bhinde bhannje marde pramarde dikakare svàhà).

Đại Huệ ! Nếu có thiện nam thiện nữ thọ trì đọc tụng, vì người diễn nói Đà La Ni này, thì sẽ không bị trời, rồng, dạ xoa, nhân và phi nhân v. v.. cùng các ác quỷ thần làm hại. Ta vì muốn cấm chỉ các loài la sát mà nói thần chú này. Người trì chú này cũng như thọ trì tất cả bộ kinh Nhập Lăng Già vậy.


CHƯƠNG X

KỆ TỤNG – PHẦN THỨ NHẤT

 

Bấy giờ Thế Tôn muốn nói lại các nghĩa rộng trong Tu Đa La (kinh) này nên nói bài kệ:

Các pháp không chắc thật

Đều do phân biệt sinh

Vì phân biệt là không

Bị phân biệt không có

Do hư vọng phân biệt

Mà có các thức sinh

Tám, chín thức các món

Như sóng lớn trong biển

Tập khí thường tăng trưởng (1)

 

Tâm chuyển theo cảnh giới

Như sắt với nam châm

Tính chúng sinh sở y

Xa lìa các suy lường

Cùng lìa trí, sở tri

Chuyển y đặng giải thoát

Được như huyễn tam muội

Siêu quá nơi thập địa

Khi quán thấy tâm vương

Tưởng thức đều xa lìa

Khi tâm đã chuyễn y

Ấy gọi là thường trụ

Ở nơi Liên Hoa cung

Khởi ra các huyễn cảnh

Đã ở cung ấy rồi

Tự tại không dụng công

Lợi ích cho chúng sinh

Như mầu ngọc ma ni

Không hữu vi, vô vi

Chỉ trừ vọng phân biệt

Phàm ngu mê chấp giữ

Như thạch nữ mộng con

Nên biết rằng linh hồn

Uẩn, giới, các thứ duyên

Các kiến hữu, phi hữu

Đều không, vô tự tính

Ta dùng phương tiện nói

Nhưng thật không có tướng

Phàm phu vọng chấp giữ

Năng tướng cùng sở tướng

Tất cả biết cùng không

Tất cả không tất cả

Do phàm ngu phân biệt

Phật không giác tự, tha

Các pháp như mộng huyễn

Không sinh, không tự tính

Vì đều là tính không

Không có, bất khả đắc

Ta chỉ nói một tính

Lìa nơi vọng kế chấp

Tự tính không có hai

Chỗ làm của các Thánh

Như tứ đại bệnh suy

Khắp cõi thấy hoa đốm

Cái thấy đó không thực

Thế gian cũng như vậy

Như huyễn hiện các tượng

Cây cỏ cùng ngói sỏi

Mà thật không có gì

Các pháp cũng như vậy

Không năng thủ sở thủ

Không trói không bị trói

Như huyễn như ảo tượng

Như mộng như hoa đốm

Nếu muốn thấy chân thật

Hãy lìa phân biệt, thủ

Nên tu quán chân thật

Tất không Phật, không nghi

Thế gian đồng như mộng

Sắc, của cải đều thế

Nếu thấy được như vậy

Là tối tôn trên đời

Ba giới do tâm khởi

Do mê hoặc thấy có

Lìa vọng không thế gian

Biết rồi chuyển nhiễm y

Sở kiến của phàm ngu

Vọng chấp có sinh diệt.

Bậc trí quán như thật

Không sinh cũng không diệt

Thường hành “vô phân biệt”

Xa lìa tâm, tâm pháp

Trú trời sắc cứu cánh

Lìa các chỗ lỗi lầm

Nơi đấy thành chính giác

Đủ thần thông tự tại

Cùng các định thù thắng

Hóa hiện nơi thành này

Hóa thân vô lượng ức

Du khắp hết các cõi

Khiến ngu phu được nghe

Như hương, khó nghĩ lường

Xa lìa đầu, giữa, cuối

Lại xa lìa hữu, vô

Không nhiều mà hiện nhiều

Không động mà biến khắp

Nói trong thân chúng sinh

Tính chân bị che lấp

Mê hoặc thành huyễn có

Không phải huyễn bị mê

Do tâm mê hoặc nên

Hết thảy đều thành có

Vì chúng trói buộc nhau

Tạng thức sinh thế gian

Như thế các thế gian

Chỉ có giả hiện bày

Các kiến như thác chảy

Có ra pháp và người

Nếu biết được như thế

Tức là chuyễn sở y

Làm con Ta đích thực

Thành tựu pháp tùy thuận

Do ngu phu phân biệt

Pháp cứng, ẩm, ấm, động

Giả danh không có thật

Lại không tướng, sở tướng

Thân hình và các căn

Đều do tám vật thành

Phàm ngu chấp sắc tướng

Thân kia bị lao lung

Phàm ngu vọng phân biệt

Nhân duyên hòa hiệp sinh

Không rõ tướng chân thật

Trôi lăn trong ba cõi

Các chủng tử trong thức

Hay hiện cảnh giới tâm

Do phàm ngu phân biệt

Vọng chấp nơi hai thủ

Vô minh cùng ái nghiệp

Các tâm do đó sinh

Vì vậy Ta biết rõ

Đó là tính y tha

Vọng phân biệt có vật

Mê hoặc các tâm pháp

Phân biệt kia đều không

Mê vọng chấp là có

Tâm bị các duyên buộc

Sinh khởi nên chúng sinh

Nếu xa lìa các duyên

Ta nói không sở kiến

Đã lìa hết các duyên

Tự tướng và phân biệt

Trong thân không sinh khởi

Ta gọi là vô vi

Tâm sở chúng sinh khởi

Năng thủ và sở thủ

Sở kiến đều vô tướng

Phàm ngu vọng phân biệt

Hiển thị A Lại Gia

Tạng thức rất thù thắng

Lìa năng thủ sở thủ

Ta nói là chân như

Trong uẩn không có người

Không ngã, không chúng sinh

Sinh chỉ là thức sinh

Diệt chỉ là thức diệt

Như tranh có cao thấp

Tuy thấy mà không thật

Các pháp cũng như vậy

Tuy thấy mà không có

Như thành càn thát bà

Lại như bóng nắng lòa

Sở kiến thường như vậy

Trí quán không thể có

Nhân duyên cùng thí dụ

Lấy đó mà lập tôn

Càn thành, mộng, vòng lửa

Ảo tượng, ánh mặt trời

Nơi lửa, và mao luân

Lấy đó làm ví dụ

Để bày nghĩa vô sinh

Thế phân biệt đều không

Mê hoặc, như huyễn mộng

Thấy các loài không sinh

Ba cõi không sở y

Trong ngoài cũng như vậy

Thành tựu vô sinh nhẫn

Được như huyễn tam muội

Cùng với Ý sinh thân

Đủ các món thần thông

Các lực và tự tại

Các pháp vốn vô sinh

Không, không có tự tính

Mê hoặc các nhân duyên

Nên nói có sinh diệt

Ngu phu vọng phân biệt

Lấy tâm hiện ra tâm

Cùng hiện các ngoại sắc

Mà thật không có gì

Như định lực quán thấy

Tượng Phật cùng khớp xương

Phân chẻ đến đại chủng

Giả bày ra thế gian

Thân, tài sản, chỗ ở

Ba pháp làm sở thủ

Ý thủ và phân biệt

Ba pháp làm năng thủ

Mê hoặc cùng vọng kế

Là phân biệt năng, sở

Chỉ theo văn tự, cảnh

Mà không thấy chân thật

Hành giả lấy tuệ quán

Các pháp không tự tính

Khi ấy trụ vô tướng

Hết thảy đều dứt bặt

Như lấy mực vẽ gà

Kẻ vô trí vọng thủ

Thật không có ba thừa

Phàm ngu không hiểu được

Nếu thấy các Thanh Văn

Cùng với Bích Chi Phật

Đều là chỗ hóa hiện

Của Bồ Tát đại bi

Ba cõi chỉ là tâm

Phân biệt hai tự tính

Chuyển y lìa nhân pháp

Ấy tức là chân như

Nhật nguyệt ánh đèn lửa

Đại chủng và ma ni

Không phân biệt tác dụng

Chư Phật cũng như vậy

Các pháp như mao luân

Xa lìa sinh, trụ, diệt

Lại lìa thường, vô thường

Nhiễm tịnh cũng như thế

Như bôi thuốc vào mắt

Thấy đất thành sắc vàng

Mà thật trong đất kia

Vốn không có tướng vàng

Kẻ ngu cũng như vậy

Tâm mê loạn vô thỉ

Vọng chấp các pháp thật

Như huyễn như ảo tượng

Nên quán một chủng tử

Cùng phi chủng đồng ẩn

Một chủng hết thảy chủng

Gọi các pháp của tâm

Các chủng tử là một

Chuyển y thành phi chủng

Bình đẳng đồng pháp ấn

Tất đều không phân biệt

Tất cả những chủng tử

Làm nhân cho các thức

Sinh các sự phiền não

Gọi là các chủng tử

Quán tự tính các pháp

Mê hoặc không bỏ đời

Tính vật vốn vô sinh

Biết rõ tức giải thoát

Bậc định quán thế gian

Các sắc do tâm khởi

Vô thỉ tâm mê hoặc

Thật không có sắc, tâm

Như huyễn và Càn thành

Mao luân và ảo tượng

Không có mà hiện có

Các pháp cũng như vậy

Hết thảy pháp không sinh

Chỉ do mê hoặc thấy

Đã do mê vọng sinh

Ngu vọng chấp có hai

Do các thứ tập khí

Sinh các làn sóng tâm

Nếu khi tập khí đoạn

Sóng tâm không còn khởi

Tâm duyên các cảnh khởi

Như tranh nương vào vách

Nếu ở giữa hư không

Làm sao mà họa được

Nếu duyên một ít phần

Khiến tâm kia được sinh

Tâm đã do duyên khởi

Nghĩa duy tâm không thành

Tính tâm vốn thanh tịnh

Cũng như hư không lặng

Đem tâm mà chấp tâm

Do tập khí không khác

Chấp trước tự tâm hiện

Do tâm mà sinh khởi

Sở kiến không ngoài tâm

Nên nói rằng duy tâm

Tạng thức gọi là tâm

Tư lương lấy làm ý

Hay rõ các cảnh giới

Ấy tức gọi là thức

Tâm thường là vô ký (avyàktra)

Ý đủ hai thứ hành

Hiện tại thức đầy đủ

Các pháp thiện, bất thiện

Tu chứng không nhất định

Các địa vào cõi nước

Vượt ra ngoài tâm lượng

An trú không quả tướng

Các sở kiến hữu, vô

Cùng với các món tướng

Đều là do phàm phu

Điên đảo vọng chấp trước

Bậc trí lìa phân biệt

Sự vật đã trái nhau

Do tâm không sắc tướng

Bởi thế vô phân biệt

Các căn đều như huyễn

Cảnh giới thì như mộng

Năng tác cùng sở tác

Hết thảy đều phi hữu

Tục đế có tất cả

Đệ nhất nghĩa tuyệt không

Vô tính của các pháp

Gọi là đệ nhất nghĩa

Trong chỗ vô tự tính

Nhân vì các ngôn thuyết

Nên có các vật khởi

Ấy gọi là tục đế

Nếu không có ngôn thuyết

Các vật khởi cũng không

Trong tục đế không có

Chỉ có lời, không sự

Pháp điên đảo hư vọng

Thật ra không có gì

Nếu đảo là thật có

Thì vô không tự tính

Vì hữu không có tính

Mà pháp điên đảo kia

Hết thảy các vật có

Đều là bất khả đắc

Ác tập huân nơi tâm

Hiện ra đủ các tướng

Mê hoặc nói ngoài tâm

Vọng thủ các sắc hình

Phân biệt vốn là không

Nên phân biệt đoạn được

Vô phân biệt sẽ thấy

Thật tính, chứng chân không

Vô minh huân nơi tâm

Nên thấy các chúng sinh

Như các voi ngựa huyễn

Cùng cây lá và vàng

Như kẻ bị đau mắt

Mê hoặc thấy mao luân

Phàm phu cũng như vậy

Vọng thủ các cảnh giới

Phân biệt, sở phân biệt

Cùng người khởi phân biệt

Chuyển, sở chuyển, nhân chuyển

Do đó sáu giải thoát

Do nơi vọng kế nên

Không địa, không các đế

Lại không có sát độ

Hóa Phật và nhị thừa

Tâm khởi hết thảy pháp

Hết thảy xứ và thân

Tâm tính thật vô tướng

Vô trí thủ các món

Phân biệt mê hoặc tướng

Gọi là y tha khởi

Trong tướng có các tên

Ấy là vì vọng kế

Các duyên pháp hòa hợp

Phân biệt thành danh, tướng

Tất cả đều không sinh

Gọi là viên thành thật

Mười phương các sát độ

Trong chúng sinh, Bồ Tát

Bao nhiêu pháp, Báo Phật

Hóa thân cùng biến hóa

Đều từ cực lạc giới

Của Di Đà mà ra

Ở trong kinh Phương Quảng

Nên biết nghĩa bí mật

Những gì Phật tử nói

Cùng của Đạo Sư dạy,

Đều do Hóa thân nói

Không phải Thật Báo Phật

Các pháp không từng sinh

Cũng không phải không có

Như huyễn, lại như mộng

Như hóa, như Càn thành

Các pháp do tâm khởi

Các pháp do tâm thoát

Tâm khởi không cách khác

Tâm diệt cũng như thế

Vì chúng sinh phân biệt

Các tướng hư vọng hiện

Duy tâm thật không cảnh

Lìa phân biệt, giải thoát

Do phân biệt, hí luận

Tích tập từ vô thỉ

Vì các ác tập huân

Khởi cảnh hư vọng này

Các pháp đều không sinh

Do tự tính vọng kế

Y chỉ nơi duyên khởi

Chúng sinh mê phân biệt

Phân biệt không tương ưng

Thì y tha cũng dứt

Sở trú rời phân biệt

Chuyển y tức chân như

Chớ vọng kế hư vọng

Vọng kế tức không thật

Mê hoặc vọng phân biệt

Năng, sở thủ đều không

Phân biệt thấy ngoại cảnh

Ấy là tính vọng kế

Do hư vọng kế ấy

Duyên khởi tự tính sinh

Tà thấy các ngoại cảnh

Không cảnh chỉ do tâm

Quán sát đúng như lý

Năng, sở thủ đều diệt

Cảnh ngoài thật không có

Tập khí nhiễm ô tâm

Mà chuyển có tợ cảnh

Khi diệt hai phân biệt

Trí tịnh thuộc chân như’

Khởi ra cảnh vô ảnh

Cảnh thánh khó nghĩ bàn

Do cha mẹ hòa hiệp

Như gia ua trong bình

A Lại Gia, ý đủ

Khiến tăng trưởng xích, bạch

Bế thi (pesì) và Trù bào (Ghanàrbuda)

Các thứ uế nghiệp sinh

Gió nghiệp tăng bốn đại

Sinh ra như trái chín

Năm cùng năm và năm

Sang khiếu có chín lỗ

Móng, răng, lông đầy đủ

Đủ rồi bèn sinh ra

Mới sinh như phân trùng

Lại như người tỉnh ngủ

Mắt mở ra thấy sắc

Phân biệt dần tăng trưởng

Phân biệt quyết xong rồi

Các môi răng hòa hiệp

Bắt đầu phát nói năng

Như giống chim anh vũ

Thuận chúng sinh ý lạc

Ta lập ra đại thừa

Không phải chỗ ác kiến

Ngoại đạo không thể thọ

Thừa do Ta tự chứng

Không thể suy lường được

Sau khi Phật diệt độ

Xin nói ai thọ trì

Đại Huệ ! Ông nên biết

Sau khi Ta Niết Bàn

Đời vị lai sẽ có

Kẻ thọ trì pháp Ta

Trong xứ Nam Ấn Độ

Tỳ kheo danh đức lớn

Quyết hiệu là Long Thọ

Hay phá luận hữu, vô

Trong thế gian làm rõ

Vô Thượng Đại Thừa Ta

Được Sơ Hoan Hỉ địa

Vãng sinh xứ An Lạc

Trong nghĩa lý duyên khởi

Hữu vô đều không thành

Trong duyên tưởng tượng vật

Phân biệt ra co, không

Kiến ngoại đạo như vậy

Xa lìa pháp của Ta

Danh tự của các pháp

Đã nối nhau nhiều đời

Tập (khí) quá khứ, hiện tại

Xoay vần cùng phân biệt

Nếu không nói ra tên

Tất thế gian mê hoặc

Vì muốn trừ mê hoặc

Nên lập ra danh ngôn

Kẻ ngu phân biệt pháp

Mê hoặc nơi danh tự

Mê hoặc các duyên sinh

Ấy là ba phân biệt

Chấp bất sinh bất diệt

Tự tính như hư không

Tự tính vốn không có

Đấy là tướng vọng kế

Như huyễn, bóng, ảo tượng

Mộng, bóng gương, vòng lửa

Như tiếng vang, Càn thành

Ấy là y tha khởi

Chân như, không, bất nhị

Thật tế cùng pháp tính

(Bhùtakoti, Dharmatà)

Đều không có phân biệt

Ta nói là viên thành

Ngữ ngôn thuộc về tâm

Hư vọng sa nhị biên

Tuệ phân biệt thật đế

Là tuệ không phân biệt

Nơi người trí mới hiện

Nơi người ngu không hiện

Cái hiện nơi trí ấy

Hết thảy pháp không tướng

Như chuỗi đeo vàng giả

Kẻ ngu cho là vàng

Các pháp cũng như vậy

Ngoại đạo vọng suy lường

Mọi pháp vô thủy chung

Ở nơi tướng chân thật

Thế gian đều vô tác

Vọng kế không hiểu được

Các pháp trong quá khứ

Vị lai cùng hiện tại

Hết thảy pháp như thế

Tất cả đều không sinh

Do các duyên hòa hợp

Nên nói có các pháp

Nếu lìa sự hòa hợp

Không sinh cũng không diệt

Mà các pháp duyên khởi

Một, khác đều không có

Lược nói là không sinh

Nói rộng là không diệt

Một đằng “bất sinh không”

Một đằng là “sinh không”

Bất sinh không là thắng

Sinh không tất diệt hoại

Chân như, không, thật tế

Niết Bàn cùng pháp giới

Các thứ ý sinh thân

Ta nói là dị danh

Nơi các kinh luật luận

Khởi phân biệt về tịnh

Nếu không hiểu vô ngã

Là theo lời, không nghĩa

Chúng sinh vọng phân biệt

Sở kiến như sừng thỏ

Phân biệt tức mê hoặc

Như thú khát đuổi bóng

Do nơi vọng chấp trước

Mà khởi ra phân biệt

Nếu lìa nhân vọng kế

Tức không khởi phân biệt

Đại phương quảng sâu xa

Biết các cõi tự tại

Ta vì Bồ Tát nói

Không phải vì Thanh Văn

Ba cõi không, vô thường

Xa lìa ngã, ngã sở

Ta vì các Thanh Văn

Nói tổng tướng như thế

Không trước hết thảy pháp

Đi một mình tịch tịnh

Tư niệm Bích Chi quả

Ta vì Duyên Giác nói

Thân là y tha khởi

Mê hoặc không tự thấy

Phân biệt tự tính ngoài

Mà khiến tâm vọng khởi

Nhờ chứng, nhờ gia trì

Do sinh vào các loài

Do có được trong mộng

Ấy bốn thứ thần thông

Thần thông được trong mộng

Cùng do oai lực Phật

Hay do sinh các loài

Đều không phải “báo đắc”

Do tập khí huân tâm

Nên bóng tợ – vật khởi

Kẻ phàm ngu chưa hiểu

Cho nên nói là sinh

Do nơi vọng phân biệt

Khi còn thấy ngoại tướng

Thì còn tăng thêm vọng

Vì không thấy tâm mê

Vì sao nói có sinh

Mà không nói sở kiến

Khi không vật mà thấy

Nói cho ai? Vì sao?

Thể tâm vốn thanh tịnh

Ý cùng với các thức

Do tập khí thường huân

Mà làm các uế loạn

Tạng thức xa lìa thân

Ý bèn tìm đường nẻo

Thức bày tợ cảnh giới

Thấy rồi tham nắm giữ

Sở kiến đều do tâm

Ngoại cảnh bất khả đắc

Nếu tu quán như thế

Xả vọng đạt chân như

Cảnh giới của định chứng

Nghiệp cùng oai lực Phật

Ba thứ bất tư nghì

Chỗ khó lường của trí

Quá khứ, vị lai, ngã

Hư không cùng Niết Bàn

Ta tùy thế tục nói

Chân đế lìa văn tự

Nhị thừa cùng ngoại đạo

Cùng y chỉ các kiến

Mê hoặc lý duy tâm

Vọng phân biệt ngoại cảnh

La Hán, Bích Chi Phật

Cùng với trí giác Phật

Chủng tử đã thành tựu

Mộng thấy Phật quán đảnh

Huyễn tâm tịch tịnh đến

Vì sao nói hữu vô

Ở đâu, nói cho ai?

Cớ gì, nguyện Phật giải

Vì kẻ mê duy tâm

Ta nói huyễn, hữu, vô

Khi sinh, diệt tương ưng

Tướng sở tướng bình đẳng

Ý thức tên “phân biệt”

Cùng với năm thân thức

Như bóng hình trôi chảy

Từ tâm khởi chủng tử

Nếu tâm cùng với ý

Các thức thân không khởi

Thì được ý sinh thân

Lại được đến Phật địa

Các duyên cùng uẩn, giới

Tự tướng của nhân, pháp

Đều do tâm bày ra

Như mộng cùng mao luân

Quán thế gian huyễn mộng

Y chỉ nơi chân thật

Chân thật lìa các tướng

Lại lìa nhân tương ưng

Cảnh chứng của bậc thánh

Thường trú nơi vô niệm

Mê hoặc nhân tương ưng

Chấp thế gian làm thật

Hết thảy hí luận diệt

Thì mê hoặc không sinh

Mê theo pháp, phân biệt

Si tâm thường hiện khởi

Các pháp không, vô tính

Nói thường hay vô thường

Là kiến của “sinh luận” (utpàdavàdin)

Không phải vô sinh luận (anutpàdavàdin)

Nhất, dị, câu, bất câu

Tự nhiên cùng tự tại

Thời, vi trần, thắng tính

Duyên, phân biệt thế gian

Thức là giống sinh tử

Có giống nên có sinh

Như họa nương nơi tướng

Biết rõ tức liền diệt

Thí như thấy người huyễn

Mà có sinh tử huyễn

Phàm ngu cũng như vậy

Do si có buộc, mở

Hai thứ pháp trong, ngoài

Cùng các nhân duyên kia

Kẻ tu hành quán sát

Đều trụ nơi vô tướng

Tập khí không lìa tâm

Cũng không cùng với tâm

Tuy tập khí trói buộc

Tướng tâm không sai khác

Tâm như áo sắc trắng

Bị tập ý thức nhiễm

Cấu tập làm ô uế

Khiến tâm không hiện rõ

Ta nói như hư không

Không hữu cũng không vô

Tạng thức cũng như vậy

Hữu, vô đều xa lìa

Nếu ý thức chuyển y

Thì tâm lìa cấu loạn

Ta nói tâm là Phật

Đã rõ hết thảy pháp

Đoạn dứt ba tương tục

Lại lìa nơi bốn cú

Hữu, vô đều xa lìa

Các hữu (bhava) thường như huyễn

Bảy địa do tâm khởi

Nên có hai tự tính

Hai địa cùng Phật địa

Chính là viên thành thật

Dục, sắc, vô sắc giới

Cùng với cõi Niết Bàn

Đều ở nơi thân này

Đều là tâm cảnh giới

Khi còn có sở đắc

Thì còn mê hoặc khởi

Nếu biết tự tâm khởi

Thì mê hoặc không sinh

Ta lập hai thứ pháp

Các tướng và thực chứng

Dùng đủ thứ nguyên tắc

Mà phương tiện lập thuyết

Thấy các thứ danh, tướng

Là mê hoặc, phân biệt

Nếu lìa xa danh tướng

Là tính tịch cảnh thánh

Do phân biệt năng, sở

Tất có tướng vọng kế

Nếu lìa phân biệt kia

Tự tính là chỗ thánh

Tâm đã được giải thoát

Là chân lý thường tồn

Chủng tính và pháp tính

Chân như lìa phân biệt

Đã có thanh tịnh tâm

Thì có tạp nhiễm hiện

Không tịnh tức không nhiễm

Là chân tịnh của thánh

Thế gian do duyên sinh

Tăng trưởng thêm phân biệt

Quán nó như huyễn mộng

Khi ấy tức giải thoát

Các thứ ác tập khí

Cùng với tâm hòa hiệp

Chúng sinh thấy ngoại cảnh

Không thấy pháp tính tâm

Tâm tính vốn thanh tịnh

Không sinh các mê hoặc

Mê do ác tập khởi

Cho nên không thấy tâm

Mê hoặc tức là chân

Chân không ở chỗ khác

Không nơi hành, phi hành

Cũng không thấy nơi khác

Nếu quán các hữu vi

Xa lìa tướng, sở tướng

Vì đã lìa các tướng

Thấy thảy đều là tâm

An trụ nơi duy tâm

Không phân biệt ngoại cảnh

Trú sở duyên chân như

Vượt quá ngoài tâm lượng

Khi siêu đến tâm lượng

Cũng siêu đến vô tướng

Đã trú ở vô tướng

Không thấy cả đại thừa

Hành tịch, không dụng công

Tịnh tu các đại nguyện

Trí tối thắng vô ngã

Vô tướng nên không thấy

Hãy quán tâm sở hành

Lại quán trí sở hành

Quán thấy tuệ sở hành

Nơi tướng không mê hoặc

Khổ đế thuộc về tâm

Tập là cảnh của trí (jnàna)

Diệt, đạo và Phật địa

Đều là cảnh của tuệ

Đắc quả và Niết Bàn

Cùng với tám thánh đạo

Khi biết các pháp ấy

Là trí Phật thanh tịnh

Nhãn căn cùng sắc cảnh

Không, minh và tác ý

Nên khiến từ tạng thức

Sinh nhãn thức chúng sinh

Năng, sở thủ, thủ giả

Mỗi thứ đều không có

Không nhân vọng phân biệt

Ấy là kẻ vô trí

Danh, nghĩa không sinh nhau

Riêng danh nghĩa cũng thế

Do nhân, vô nhân sinh

Đều không ngoài phân biệt

Vọng nói trụ chân đế

Tùy kiến giải bày nói

Một tính, năm không thành

Xa lìa nơi đế nghĩa

Hí luận về hữu, vô

Nên vượt các ma ấy

Khi đã thấy vô ngã

Không vọng cầu các cõi

Chấp tác giả là thường

Chú thuật hưng tranh luận

Chân đế lìa ngôn thuyết

Mà thấy pháp tịch tịnh

Do nương vào tạng thức

Mà có mạt na chuyển

Dựa vào tâm và ý

Mà có các thức sinh

Các pháp hư vọng lập

Cùng tâm tính, chân như

Định giả quán như thế

Thông đạt tính duy tâm

Quán ý cùng tưởng, sự

Không nghĩ thường, vô thường

Cùng với sinh, bất sinh

Không phân biệt hai nghĩa

Do nơi A Lại Gia

Các thức đều sinh khởi

Trọn không nơi một nghĩa

Mà sinh hai món tâm

Do thấy duy tự tâm

Lìa không, lìa ngôn thuyết

Nếu không thấy tự tâm

Bị lưới tà kiến trói

Các duyên không từng sinh

Các căn không chỗ có

Không tham, không uẩn, giới

Tất không các hữu vi

Vốn không các nghiệp báo

Không tác không hữu vi

Xưa nay không chấp trước

Không buộc cũng không mở

Pháp hữu, vô, vô ký

Pháp, phi pháp, đều không

Không thời, không Niết Bàn

Pháp tính bất khả đắc

Không Phật không chân đế

Không nhân cũng không quả

Không điên đảo, Niết Bàn

Không sinh cũng không diệt

Lại không mười hai chi

Biên, vô biên không có

Hết thảy kiến đều đoạn

Ta nói là duy tâm

Phiền não nghiệp cùng thân

Quả sở đắc của nghiệp

Đều như huyễn như mộng

Như Càn Thát Bà thành

Vì trụ nơi duy tâm

Nên thấy có đoạn thường

Niết Bàn không các uẩn

Không ngã cũng không tướng

Đã nhập vào duy tâm

Chuyển y được giải thoát

Do ác tập làm nhân

Ngoài hiện ra đại địa

Cùng với các chúng sinh

Duy tâm không thấy gì

Hình bóng, thân, tài sản

Do tập chúng sinh hiện

Tâm không là hữu, vô

Tập khí khiến không rõ

Cấu hiện ra trong tịnh

Không phải tịnh trong cấu

Như mây che hư không

Tâm không hiện cũng thế

Tính vọng chấp nói có

Nơi duyên khởi tất không

Vì vọng kế mê chấp

Duyên khởi không phân biệt.

Không sở tạo đều (là) sắc

Có sắc không sở tạo

Mộng, huyễn, ánh, Càn thành

Đều không phải được tạo.

Nếu nơi pháp duyên sinh

Nói thật cùng không thật

Kẻ ấy tất tin theo

Các kiến nhất cùng dị.

Thanh Văn có ba hạng:

Nguyện sinh và biến hóa

Và lìa tham, sân si

Từ chính pháp sinh ra.

Bồ Tát cũng ba hạng

Chưa có các Phật tướng

Vì nhớ nghĩ chúng sinh

Mà hiện hình tướng Phật

Các loại tâm chúng hiện

Đều từ tập khí sinh

Các loại hình và bóng

Như sao, mây, trời, trăng

Nếu đại chủng thật có

Sẽ có “sở-tạo” sinh

Vì đại chủng vô tính

Nên không tướng năng, sở

Đại chủng là năng tạo

Địa thủy là sở tạo

Đại chủng vốn vô sinh

Nên không sở-tạo-sắc

Sắc giả, thật các thứ

Cùng huyễn sở tạo sắc

Sắc mộng, sắc Càn thành

Sắc nắng là thứ năm

Năm hạng nhất xiển đề

Năm chủng tính cũng vậy

Ngũ thừa cùng phi thừa

Niết Bàn có sáu loại

Các uẩn hai mươi bốn

Các sắc có tám món

Phật có hai mươi bốn

Phật tử có hai loại

Pháp môn trăm lẻ tám

Thanh Văn có ba hạng

Các cõi Phật chỉ một

Một Phật cũng như vậy

Giải thoát có ba loại

Tâm lưu chú có bốn

Vô ngã có sáu thứ

Sở tri cũng có bốn

Xa lìa nơi tác giả

Cùng lìa các lỗi kiến

Trong tự chứng bất động

Là vô thượng đại thừa

Sinh cùng với bất sinh

Có tám thứ chín thứ

Một niệm cùng niệm thứ

Chứng đắc chỉ có một

Vô sắc giới tám thứ

Thiền sai biệt có sáu

Các Phật tử, Bích Chi

Xuất ly có bảy hạng

Ba cõi tất không có

Thường vô thường cũng không

Tác nghiệp và quả báo

Đều như chuyện trong mộng

Chư Phật vốn không sinh

Vì đệ tử Thanh Văn

Tâm thường không thấy được

Các pháp đều như huyễn

Nên ở nơi các cõi

Từ Đâu Suất nhập thai

Sở sinh và xuất gia

Không từ bào thai sinh

Vì chúng sinh lưu chuyển

Mà nói pháp Niết Bàn

Các đế cùng các cõi

Tùy cơ khiến giác ngộ

Thế gian, các châu, rừng

Vô ngã, ngoại đạo, hành

Thiền, thừa, A lại Gia

Quả, cảnh bất tư nghì

Các loài tinh tú, trăng

Các vua, các loài trời

Loài Càn Thát, dạ xoa

Đều do nghiệp ái sinh

Biến-dị-tử khôn lường

Cũng cùng hiệp tập khí

Đến khi chết vĩnh tận

Lưới phiền não đã dứt

Tiền lúa cùng vàng bạc

Ruộng vườn và tôi tớ

Voi ngựa và trâu dê

Đều không nên nuôi giữ

Không nằm giường có lỗ

Không bôi bùn trát đất

Bát bằng vàng, bạc đồng

Đều không được nắm giữ

Ứng khí (vỏ) ốc, pha lê

Đất, đá, cùng bằng sắt

Đấy một lượng Ma kiệt

Tùy bát Ta cho phép

Thường mặc màu thanh tịnh

Nhuộm các mảnh giẻ trắng

Bằng phân trâu, bùn , lá

Thành sắc áo ca sa

Con dao dài bốn ngón

Có hình nửa mặt trăng

Dùng để cắt vải áo

Kẻ tu hành được giữ

Chớ học các kỹ thuật

Lại không được mua bán

Nếu cần, sai tịnh nhân

Đấy là pháp Ta dạy

Thường giữ gìn các căn

Khéo rõ nghĩa kinh luật

Không giao thiệp người tục

Ấy là bậc tu hành

Dưới cây trong hang núi

Nhà thô, trong mả mồ

Hang cỏ cùng đất trống

Kẻ tu hành nên trú

Trong mồ và chỗ khác

Ba y mang theo mình

Nếu khi thiếu áo mặc

Có kẻ cho nên nhận

Khi ra đi khất thực

Nhìn phía trước một tầm

Nhiếp niệm mà xin ăn

Cũng như ong hút mật

Chỗ có nhiều người nhóm

Có chúng tỳ kheo ni

Sinh sống với thế tục

Đều không nên khất thực

Các vua cùng con vua

Quan lớn, kẻ giàu sang

Kẻ tu hành khất thực

Đều không nên thân gần

Nhà có kẻ sinh và chết

Nhà bạn bè, bà con

Chỗ tăng ni hỗn tạp

Người tu hành không ăn

Trong chùa khói không dứt

Thường nấu các món ăn

Nếu vì mình mà nấu

Người tu hành không ăn

Hàng giả quán thế gian

Năng tướng cùng sở tướng

Đều xa lìa sinh diệt

Lại xa lìa hữu vô.

 

 

QUYỂN BẢY

 

CHƯƠNG  X

KỆ TỤNG – PHẦN THỨ NHÌ

Nếu những bậc tu hành

Không khởi các phân biệt

Không lâu được tam muội

Lực, thông, và tự tại

Kẻ tu hành không nên

Vọng chấp nhân, vi trần

Thời, thắng tính, tác giả

Duyên sinh ra thế gian

Thế gian do phân biệt

Các thứ tập khí sinh

Kẻ tu hành hãy quán

Các hữu như mộng huyễn

Xa lìa kiến chấp thường

Phủ định và xác định

Thân, tài sản, chỗ ở

Không phân biệt ba cõi

Không nghĩ việc ăn uống

Chính niệm đoan thân trú

Luôn luôn cung kính lễ

Chư Phật và Bồ Tát

Khéo giải nghĩa kinh luật

Pháp lý thú chân thật

Năm pháp, hai vô ngã

Lại tư duy tự tâm

Pháp nội chứng thanh tịnh

Các địa cùng Phật địa

Hành giả tu như thế

Ngồi đài sen, (được) quán đảnh

Du hành khắp các nẻo

Chán ghét tất cả hữu

Đến gò mả, chỗ tịnh

Tu tập các quán hạnh

Có vật không nhân sinh

Vọng nói lìa đoạn, thường

Lại nói lìa hữu, vô

Vọng chấp là trung đạo

Vọng chấp vô nhân luận

Vô nhân là đoạn kiến

Vì không rõ ngoại vật

Phá hoại lý trung đạo

Sợ sa vào đoạn kiến

Không xả pháp sở chấp

Vừa xác định phủ định

Vọng nói là trung đạo

Khi đã rõ duy tâm

Xả lìa hết ngoại pháp

Lại lìa vọng phân biệt

Như thế hợp trung đạo

Duy tâm, không có cảnh

Không cảnh, tâm không sinh

Ta và chư Như Lai

Nói đó là trung đạo

Dù sinh hay không sinh

Tự tính, không tự tính

Hữu và vô đều không

Không nên phân biệt hai

Không thể khởi phân biệt

Kẻ ngu nói giải thoát

Tâm không biết trí sinh

Sao đoạn được nhị chấp

Vì hiểu rõ tự tâm

Đoạn được hai sở chấp

Hiểu rõ nên đoạn được

Không phải không phân biệt

Biết rõ do tâm hiện

Phân biệt sẽ không khởi

Vì phân biệt không khởi

Tâm chân như chuyển y

Nếu thấy pháp khởi ra

Lìa các lỗi ngoại đạo

Niết Bàn của bậc trí

Không phải là diệt hoại

Ta và chư Phật nói

Biết vậy sẽ thành Phật

Nếu lại thêm phân biệt

Tức là luận ngoại đạo

Không sinh mà hiện sinh

Không diệt mà hiện diệt

Biến khắp muôn ức chỗ

Liền hiện như trăng nước

Một thân làm nhiều thân

Đốt lửa cùng rưới mưa

Tùy cơ hiện trong tâm

Cho nên nói duy tâm

Tâm cũng là duy tâm

Phi tâm cũng tâm khởi

Thông đạt các sắc tướng

Tất cả đều duy tâm

Hình tướng Phật, Thanh Văn

Cùng hiện tướng Duyên Giác

Và các hình sắc khác

Đều nói là duy tâm

Từ nơi vô sắc giới

Cho đến trong địa ngục

Vì chúng sinh hiện khắp

Đều do tâm làm nên

Các tam muội như huyễn

Cùng với thân ý sinh

Mười địa và tự tại

Đều do chuyển y thành

Kẻ ngu bị tưởng chuyển

Theo thấy nghe hay biết

Tự phân biệt điên đảo

Bị hý luận làm động

Hết thảy không, vô sinh

Ta thật không Niết Bàn

Hóa Phật ở các cõi

Nói tam thừa, nhất thừa

Phật có ba mươi sáu

Mỗi loại có mười hạng

Tùy tâm khí chúng sinh

Mà hiện ở các cõi

Pháp Phật ở thế gian

Cũng như tính vọng kế

Tuy thấy có đủ thứ

Kỳ thực không có gì

Pháp Phật là chân phật

Ngoài ra đều (là) Hóa Phật

Tùy chủng tử chúng sinh

Thấy hiện thân của Phật

Vì mê hoặc các tướng

Nên khởi ra phân biệt

Phân biệt không khác chân

Tướng bất (?) nơi phân biệt

Tự tính cùng thọ dụng

Hóa thân cùng Hiện hóa

Ba mươi sáu vị Phật

Đều do tự tính thành

Do giống tập huân ngoài

Mà sinh ra phân biệt

Không giữ cái chân thật

Mà giữ cái vọng chấp

Mê hoặc do nội tâm

Cùng duyên ở ngoại cảnh

Chỉ hai thứ ấy khởi

Không có duyên thứ ba

Mê hoặc nương trong ngoài

Mà có ra sinh khởi

Sáu mươi hai, mười tám

Nên Ta nói là tâm

Biết chỉ có căn, cảnh

Tất lìa nơi ngã chấp (àtmagràha)

Rõ tâm không cảnh giới

Liền lìa được pháp chấp

Do nương nơi bản thức (àlaya)

Mà có các thức sinh

Do nương vào nội xứ

Mà tợ hình hiện ngoài

Kẻ ngu thường phân biệt

Hữu vi cùng vô vi

Đều là bất khả đắc

Như hoa đốm, mao luân

Như thành Càn Thát Bà

Như huyễn như ảo tượng

Không có mà thấy có

Duyên khởi pháp cũng thế

Ta do ba thứ tâm

Giả lập căn, cảnh, ngã

Mà tâm, ý, thức kia

Tự tính thật không có

Tâm ý cùng với thức

Vô ngã có hai thứ

Năm pháp và tự tính

Ấy là cảnh giới Phật

Nhân tập khí là một

Mà thành ra ba tướng

Như lấy một màu hòa

Tường vẽ thấy các hình

Năm pháp hai vô ngã

Tự tính, tâm, ý thức

Ở trong chủng tính Phật

Đều là bất khả đắc

Xa lìa tâm, ý, thức

Lại lìa nơi năm pháp

Và lìa nơi tự tính

Đấy là chủng tính Phật

Nếu nghiệp thân ngữ ý

Không tu pháp bạch tịnh

Chủng tính tịnh của Phật

Tất lìa nơi hiện hạnh

Thần thông lực tự tại

Tam muội, tịnh trang nghiêm

Các thứ ý sinh thân

Ấy chủng tính Phật tịnh

Chỗ nội chứng vô cấu

Xa lìa các tướng nhân

Bát địa và Phật địa

Do Như Lai tính thành

Viễn Hành cùng Thiện Thệ

(Dùramgamà, Sàdhumatì)

Pháp Vân và Phật địa

Đều là chủng tính Phật

Ngoài ra đều nhị thừa

Tâm Như Lai tự tại

Nhưng vì hàng ngu phu

Tướng tâm có sai biệt

Mà nói bảy thứ địa

Địa thứ bảy không khởi

Lỗi lầm thân ngữ ý

Sở y địa thứ tám

Như mộng thấy qua sông

Địa thứ tám thứ năm

Hiểu rõ công xảo minh

Các Bồ Tát hay làm

Vua trong các cõi hữu

Kẻ trí không phân biệt

Sinh hay là không sinh

Không cùng với bất không

Tự tính, vô tự tính

Thảy chỉ là tâm lượng

Mà thật bất khả đắc

Vì hàng nhị thừa nói

Đây thật, đây hư vọng

Không phải vì Bồ Tát

Không nên nói phân biệt

Hữu phi hữu đều không

Cũng không tướng sát na

Pháp giả, thật cũng không

Ngoài tâm không có được

Hữu pháp là tục đế

Vô tính đệ nhất nghĩa

Mê hoặc chỗ vô tính

Ấy tức là thế tục

Hết thảy pháp đều không

Ta vì hàng phàm ngu

Theo tục giả bày nói

Nhưng đấy không chân thật

Các pháp do ngôn khởi

Tất có nghĩa sở hành

Khi thấy do ngôn sinh

Thì các pháp không có

Như lìa tưởng không hoa

Lìa hình cùng không bóng

Nếu tạng thức thanh tịnh

Thì sóng thức không sinh

Nương Pháp thân có Báo

Từ Báo khởi Hóa thân

Đấy là căn bản Phật

Ngoài ra Hóa Phật hiện

Không nên vọng phân biệt

Không cùng với bất không

Vọng chấp hữu và vô

Lời nghĩa đều không có

Kẻ phàm vọng phân biệt

Đức, thật, trần làm sắc

Một mảy trần không có

Cho nên không cảnh giới

Chúng sinh thấy tướng ngoài

Đều do tự tâm hiện

Cái bị thấy đã không

Nên không có ngoại cảnh

Như voi bị sa lầy

Không thể nào di động

Thanh Văn trú trong định

Chìm đắm cũng như thế

Nếu thấy các thế gian

Do tập khí làm nhân

Hữu vô đều không thấy

Pháp vô ngã, giải thoát

Tự tính là vọng kế (parikalpita)

Duyên khởi tức y tha (paritantra)

Chân như là viên thành

Trong kinh Ta thường nói

Tâm, ý cùng với thức

Phân biệt cùng biểu thị

Tạng thức làm ba cõi

Đều đồng nghĩa với tâm

Thọ mạng, hơi ấm, thức

A Lại Gia, mạng căn (jìvitendriyà)

Ý cùng với ý thức

Đều đồng nghĩa “phân biệt”

Tâm hay giữ được thân

Ý (manas) xét đoán suy lường

Ý thức cùng năm thức

Rõ cảnh giới tự tâm

Hoặc thật có ngã thể

Khác uẩn cùng trong uẩn

Nơi đó tìm ngã thể

Rốt ráo không thể được

Quán thế gian mỗi mỗi

Các phiền não chính, phụ

Đều do tự tâm hiện

Lìa khổ được giải thoát

Tâm trí Thanh Văn đạt

Tịch tịnh trí Duyên Giác

Trí tuệ của Như Lai

Sinh khởi vô cùng tận

Thật không có sắc ngoài

Chỉ do tự tâm hiện

Phàm phu không hay biết

Vọng phân biệt hữu vi

Không biết cảnh giới ngoài

Các thứ đều do tâm

Kẻ ngu dùng nhân, dụ

Lập thành bốn cú nghĩa

Bậc trí tất hiểu rõ

Cảnh giới tự tâm hiện

Không dùng tôn nhân dụ

Lập ra các cú nghĩa

Phân biệt, bị phân biệt

Đều là tướng vọng kế

Y chỉ nơi vọng kế

Mà khởi thêm phân biệt

Xoay chuyển nương lẫn nhau

Đều do một tập khí

Cả hai đều là khách

Không (phải) tâm chúng sinh khởi

Ở yên trong ba cõi

Phân biệt tâm, tâm sở

Tợ cảnh giới hiện ra

Là tự tính vọng kế

Hình bóng cùng chủng tử

Hợp thành mười hai xứ

Sở y, sở duyên hợp

Nói có vật được sinh

Cũng như bóng trong gương

Mắt lòa thấy mao luân

Tập khí che cũng thế

Kẻ ngu khởi vọng kiến

Nơi cảnh tự phân biệt

Mà khởi thêm phân biệt

Ngoại cảnh không thể có

Như ngu không biết dây

Lầm cho dây là rắn

Không hiểu tự tâm hiện

Vọng phân biệt cảnh ngoài

Như thế tự thể dây

Tính nhất dị đều lìa

Chỉ vì tâm mê lầm

Vọng khởi phân biệt dây

Khi vọng kế phân biệt

Tính vọng kế không còn

Như các vật cũng vậy

Chỉ do phân biệt sinh

Sở kiến tuyệt phi hữu

Từ vô thỉ mê hoặc

Khởi phân biệt hữu vi

Pháp nào khiến mê hoặc

Nguyện Phật vì con nói

Các pháp không tự tính

Chỉ do tự tâm hiện

Không hiểu rõ tự tâm

Cho nên phân biệt sinh.

Như kẻ ngu phân biệt

Vọng kế thật không có

Có những cái khác thế

Mà kẻ ngu không biết

Những cái bậc thánh có

Kẻ ngu không biết đến

Nếu thánh cũng như phàm

Thì thánh có hư vọng

Vì tâm thánh vốn tịnh

Nên không có mê hoặc

Tâm phàm ngu không tịnh

Nên có vọng phân biệt

Như mẹ bảo con thơ:

“Thôi con đừng khóc nữa

Trên trời có quả rơi

Xuống nhiều cho con bắt”

Ta vì chúng sinh nói

Các thứ quả tưởng tượng

Khiến chúng vui ham theo

Pháp thật lìa hữu vô

Các pháp trước không có

Các duyên không hòa hợp

Vốn không sinh mà sinh

Tự tính vốn không có

Pháp chưa sinh không sinh

Lìa duyên, không chỗ sinh

Pháp hiện sinh cũng thế

Lìa duyên không thể có

Quán thật chỉ duyên khởi

Không hữu cũng không vô

Không hữu vô cùng sinh

Kẻ trí không phân biệt

Kẻ ngu phu ngoại đạo

Vọng nói tính nhất, dị

Không hiểu lý duyên khởi

Thế gian như huyễn mộng

Đại thừa Ta vô thượng

Siêu việt nơi danh ngôn

Nghĩa ấy rất rõ ràng

Mà kẻ ngu không biết

Thanh Văn cùng ngoại đạo

Thuyết họ đầy xan lẫn

Khiến nghĩa đều biến đổi

Tất cả do vọng kế

Các tướng cùng tự thể

Hình trạng cùng với tên

Bốn thứ ấy duyên nhau

Mà khởi các phân biệt

Chấp do Phạm, Tự Tại

Một thân (Suz. Nhân) cùng nhiều thân

Cùng nhật nguyệt vận hành

Kẻ ấy không (phải) con Ta

Đầy đủ các Thánh kiến

Thông đạt pháp như thật

Khéo léo chuyển các tưởng

Đến bên kia bờ thức

Dùng pháp giải thoát này

Lìa hẳn nơi hữu vô

Cùng lìa chỗ khứ, lai

Đấy (là) con trong pháp Ta

Nếu sắc, thức chuyển diệt

Các nghiệp bị hư hoại

Tức là không sinh tử

Cũng không thường, vô thường

Nhưng khi chúng chuyển diệt

Tuy xả ly sắc xứ

Nghiệp vẫn ở tạng thức

Lìa lỗi lầm hữu vô

Sắc thức tuy chuyển diệt

Mà nghiệp không hoại mất

Khiến ở trong các cõi

Sắc thức lại tương tục

Nếu các chúng sinh kia

Nghiệp đã khởi bị hoại

Ấy là không sinh tử

Lại không có Niết Bàn

Nếu nghiệp cùng sắc thức

Đồng thời mà diệt hoại

(Nếu) Trong sinh tử có sinh

Sắc, nghiệp sẽ không khác

Sắc, tâm và phân biệt

Không khác, không không khác

Kẻ ngu nói diệt hoại

Mà thật lìa hữu, vô

Duyên khởi cùng vọng kế

Xoay vần không tướng riêng

Như sắc với vô thường

Xoay chuyển sinh cũng thế

Đã lìa khác, không khác

Vọng kế không thể biết

Như sắc tính vô thường

Vì sao nói có không

Khéo đạt chỗ vọng kế

Duyên khởi tất không sinh

Do thấy chỗ duyên khởi

Vọng kế tức chân như

Nếu diệt tính vọng kế

Tức là hoại pháp nhãn

Bèn ở trong pháp Ta

Xác định cùng phủ định

Các hạng người như thế

Thường hủy báng chính pháp

Kẻ kia cùng phi pháp

Diệt hoại pháp nhãn Ta

Bậc trí không giao thiệp

Lại bỏ việc tỳ kheo

Vì phá hoại vọng kế

Nên xác định, phủ định

Nếu theo sự phân biệt

Khởi các kiến hữu, vô

Họ như huyễn, mao luân

Mộng, nắng cùng Càn thành

Họ không học Phật pháp

Không nên cùng ở chung

Đã tự do hai biên (?)

Lại còn phá người khác

Nếu có bậc tu hành

Quán nơi tính vọng kế

Vắng lặng lìa hữu vô

Phật tử nên cùng ở

Như thế gian có chỗ

Sinh vàng, ngọc ma ni

Chỗ kia không tạo tác

Mà chúng sinh thọ dùng

Nghiệp tính cũng như vậy

Xa lìa các thứ tính

Nghiệp được thấy vốn không

Mà vẫn sinh các nẻo

Như chỗ thánh biết rõ

Pháp đều không có gì

Do kẻ ngu phân biệt

Pháp vọng kế phi không

Vì kẻ ngu phân biệt

Pháp ấy không có vậy

Đã không hết thảy pháp

Chúng sinh không tạp nhiễm

Vì có pháp tạp nhiễm

Bị vô minh, ái buộc

Hay khởi thân sinh tử

Các căn tất đầy đủ

Nếu nói ngu phân biệt

Pháp này đều là không

Thì không các căn sinh

Kẻ tu hành không chơn

Nếu không có pháp này

Vẫn làm nhân sinh tử

Kẻ ngu không đợi tu

Tự nhiên mà giải thoát

Nếu không có pháp kia

Phàm Thánh làm sao phân

Lại tất không Thánh nhân

Tu hành ba giải thoát

Các uẩn cùng nhân, pháp

Tự, cọng tướng sáu tướng

Các duyên và các căn

Ta vì Thanh Văn nói

Duy tâm và không nhân

Các địa và tự tại

Chân như tịnh nội chứng

Ta vì Bồ Tát nói

Đời vị lai sẽ có

Kẻ mặc áo ca sa

Vọng nói chỗ hữu, vô

Hủy hoại chính pháp Ta

Pháp duyên khởi vô tính

Là lãnh vực chư Thánh

Tính vọng kế không vật (Bhàva)

Kẻ suy tính phân biệt

Vị lai có kẻ ngu

Các ngoại đạo Kiệt ma (Kanabhuj)

Nói ra luận vô nhân (Asatkàryavàda)

Ác kiến hoại thế gian

Vọng nói các thế gian

Đều do vi trần sinh

Mà trần kia không nhân

Chín món thật vật thường

Do thật mà sinh thật

Do đức mà sinh đức

Pháp tính khác với đây

Hủy báng nói không có

Nếu vốn không mà sinh

Thế gian có nhân đầu

Sinh tử không nhân đầu

Ấy là pháp của Ta

Hết thảy vật ba cõi

Vốn không mà sinh ra

Thì lừa, chó sinh sừng

Đáng lẽ không nghi ngại

Noãn sắc thức vốn không

Mà nay mới có sinh

Áo, mũ, đệm các thứ

Lẽ ra do bùn sinh

Trong vải không có đệm

Trong cây bồ cũng không

Trong mỗi duyên sao không

Đều sinh ra cái đệm

Nếu mạng và thân kia

Vốn không mà nay sinh

Như Ta đã nói trước

Đấy là luận ngoại đạo

Tôn Ta nói trước kia

Vì để ngăn ý ấy

Khi ngăn ý ấy rồi

Sau mới nói tên mình

Sợ rằng chúng đệ tử

Mê chấp tôn hữu vô

Nếu Ta vì kẻ ấy

Trước nói luận ngoại đạo (tìthavàda)

Ác tuệ Ca tỳ la

Vì các đệ tử nói

Thắng tính sinh thế gian

(Bị cầu na) chuyển biến

Vì các duyên không có

Không đã sinh, hiện sinh

Các duyên đã là không

Không sinh không bất sinh

Tôn Ta lìa hữu vô

Lại lìa các nhân duyên

Sinh diệt và sở tướng

Hết thảy đều xa lìa

Thế gian như huyễn mộng

Nhân duyên đều vô tính

Thường quán sát như vậy

Phân biệt tuyệt không khởi

Nếu quán được các hữu

Như ảo tượng, mao luân

Lại như Tầm hương thành

Thường lìa hữu lìa vô

Nhân duyên đều xả ly

Khiến tâm được thanh tịnh

Nếu nói không ngoại cảnh

Mà chỉ có tâm thôi

Không cảnh tức không tâm

Làm sao thành duy thức (cittamàtra)

Nếu có cảnh sở duyên

Tâm chúng sinh khởi lên

Không nhân tâm không sinh

Làm sao thành duy thức

Chân như cùng duy thức

Là lãnh vực chúng Thánh

Có danh ngôn không thật

Không giải được pháp Ta

Do năng thủ sở thủ

Mà tâm có sinh khởi

Tâm thế gian như vậy

Nên không là duy tâm

Hình bóng, thân, tài, đất

Như huyễn, do tâm sinh

Tâm tuy phân làm hai

Mà tâm không hai tướng

Như dao không tự cắt

Như ngón không tự sờ

Tâm không tự thấy mình

Việc ấy cũng như vậy

Không có hình tượng xứ

Tất không y tha khởi

Tính vọng kế cũng không

Năm pháp hai tâm diệt

Năng sinh và sở sinh

Đều là tướng tự tâm

Mật ý nói năng sinh

Mà thật không tự sinh

Các thứ cảnh hình trạng

Nếu do tưởng tượng sinh

Hư không cùng sừng thỏ

Đáng cũng thành cảnh tướng

Tợ cảnh do tâm khởi

Cảnh ấy không phải vọng

Nhưng cảnh vọng kế kia

Lìa tâm không thể có

Trong vô thỉ sinh tử

Cảnh giới đều không có

Tâm không có chỗ khởi

Làm sao thành hình tượng

Nếu vật không có (mà) sinh

Sừng thỏ đáng cũng sinh

Không thể vô vật sinh

Mà khởi ra phân biệt

Như bóng gương không có

Thì trước kia cũng không

Làm sao trong vô cảnh

Mà tâm duyên cảnh khởi

Chân như, không, thật tế

Niết Bàn cùng pháp giới

Hết thảy pháp không sinh

Ấy tính đệ nhất nghĩa

Kẻ ngu sa hữu vô

Phân biệt các nhân duyên

Không thể biết các hữu

Không sinh, không tác giả

(Do) Tâm vô thỉ làm nhân

Duy tâm không có vật

Đã không cảnh vô thỉ

Tâm do đâu mà sinh?

Vô vật mà sinh được

Thì nghèo đáng là giàu

Vô cảnh mà sinh tâm

Nguyện Phật vì con nói

Hết thảy đều không nhân

Không tâm cũng không cảnh

Tâm đã không chỗ sinh

Lìa chỗ làm ba cõi

Nhân các bình, áo, sừng

Mà nói không sừng thỏ

Cho nên không được nói

Không có pháp nhân nhau

Không nhân có mà không

Cái không ấy không thành

Có đối không cũng thế

Xoay chuyển nhân nhau khởi

Nếu y theo vài pháp

Mà có vài pháp khởi

Ấy tức cái đã y

Không nhân mà tự có

Nếu vật có chỗ nương

Chỗ nương cũng có nương

Thì thành lỗi vô cùng

Lại không có ít pháp

Như nương các cây lá

Hiện ra các huyễn tướng

Chúng sinh cũng như vậy

Nương sự hiện các vật

Nương năng lực huyễn sư

Kẻ ngu thấy huyễn tướng

Nương nơi các cây lá

Không huyễn nào có được

Nếu y chỉ nơi sự

Pháp ấy tức liền hoại

Sở kiến đã không hai

Còn chút nào phân biệt

Phân biệt không vọng kế

Phân biệt cũng không có

Vì phân biệt là không

Không sinh tử Niết Bàn

Do không (cái) bị phân biệt

Phân biệt tất không khởi

Làm sao tâm không khởi

Mà có được duy tâm

Ý sai biệt vô lượng

Đều không pháp chân thật

Không thật không giải thoát

Lại không các thế gian

Như kẻ ngu phân biệt

Sở kiến ngoài đều không

Tập khí quấy đục tâm

Như hình ảnh hiện ra

Các thứ pháp hữu, vô

Hết thảy đều không sinh

Chỉ duy tự tâm hiện

Xa lìa nơi phân biệt

Nói các pháp do duyên

Cho kẻ ngu, chẳng trí

Tự tính tâm giải thoát

Tịnh tâm lãnh vực thánh

Số, thắng cùng lộ hình (nanga)

Phạm Chí (Vipra) và Tự Tại

Đều sa vào vô kiến

Xa lìa nghĩa tịch tịnh

Không sinh, không tự tính

Ly cấu, không như huyễn

Phật xưa và Phật nay

Vì ai nói như vậy

Kẻ tịnh tâm tu hành

Lìa các kiến, kế đạt

Chư Phật vì họ nói

Ta cũng nói như vậy

Nếu tất cả do tâm

Thế gian ở chỗ nào

Nhân gì thấy đại địa

Chúng sinh có đi lại

Như chim bay trong không

Tùy phân biệt mà đi

Không nương cũng không ở

Như đạp đất mà đi

Chúng sinh cũng như vậy

Do nơi vọng phân biệt

Dạo đi nơi tự tâm

Như chim trong hư không

Bóng thân, tài, quốc độ

Phật nói chi tâm khởi

Xin nói bóng chỉ (là) tâm

Nhân gì, vì sau khởi

Bóng thân, tài, quốc độ

Đều do tập khí chuyển

Lại nhân không như lý

Phân biệt mà sinh ra

Cảnh ngoài là tưởng tượng

Tâm duyên cảnh mà sinh

Rõ cảnh chỉ là tâm

Thì phân biệt không khởi

Nếu thấy tính vọng kế

Danh nghĩa không hòa hợp

Xa lìa giác, sở giác

Giải thoát các hữu vi

Danh, nghĩa đều xa lìa

Đấy là pháp chư Phật

Nếu lìa đó cầu ngộ

Tất không giác tự tính

Nếu thấy được thế gian

Lìa năng giác, sở giác

Khi ấy tất không khởi

Phân biệt danh, sở danh

Do thấy được tự tâm

Danh tự vọng tác diệt

Không thấy được tự tâm

Tất khởi lên phân biệt

Bốn uẩn không sắc tướng

Số bốn không có được

Đại chủng tính khác tên

Làm sao cùng sinh sắc

Do lìa được các tướng

Năng sở tạo không có

Dị sắc riêng có tướng

Các uẩn sao không sinh

Nếu thấy được vô tướng

Uẩn xứ đều xả ly

Khi ấy tâm cũng ly

Nên thấy pháp vô ngã

Do căn cảnh sai khác

Sinh ra tám loại thức

Ở trong vô tướng kia

Ba tướng ấy đều lìa

Ý duyên A Lại Gia

Khởi chấp ngã, ngã sở

Cùng hai chấp của thức

Biết rõ tất xa lìa

Quán thấy lìa nhất, dị

Ấy tức không bị động

Lìa nơi ngã, ngã sở

Hai thứ vọng phân biệt

Không sinh không tăng trưởng

Lại không lâm (?) nhãn thức

Đã lìa năng sở tác

Diệt rồi không sinh lại

Thế gian không năng tác

Lại lìa tướng năng sở

Vọng kế cũng duy tâm

Ra sao xin Phật nói

Tự tâm hiện các thứ

Phân biệt các hình tướng

Không hiểu do tâm hiện

Vọng cho là ngoài tâm

Vì không có trí giác

Nên khởi ra vô kiến

Làm sao nơi tính hữu

Mà tâm không sinh chấp

Phân biệt không hữu, vô

Nên nơi hữu không sinh

Rõ sở kiến duy tâm

Phân biệt tất không khởi

Vì phân biệt không khởi

Chuyển y không chỗ vướng

Đình chỉ bốn tông kia

Gọi là nhân pháp hữu

Đấy là phân biệt tên

Chỗ lập đều không thành

Nên biết nhân năng tác

Cũng thành lập như thế

Vì người thuyết năng tác

Nói nhân duyên hòa hợp

Vì ngăn lỗi chấp thường

Nói duyên là vô thường

Kẻ ngu nói vô thường

Mà thật không sinh diệt

Không thấy pháp hoại diệt

Mà vẫn có sở tác

Trời, người, A tu la

Quỷ, súc sinh, diêm la

Chúng sinh sinh trong đó

Ta nói là lục đạo

Do nghiệp thượng, trung, hạ

Mà thọ sinh trong đó

Giữ gìn các thiện pháp

Mà được thắng giải thoát

Phật vì các tỳ kheo

Nói các chỗ thọ sinh

Niệm niệm đều sinh diệt

Xin Phật vì con nói

Sắc sắc không tạm ngừng

Niệm niệm cũng sinh diệt

Ta vì đệ tử nói

Sinh diệt cũng như thế

Phân biệt là chúng sinh

Lìa phân biệt không có

Ta vì nhân duyên ấy

Nói các niệm niệm sinh

Nếu lìa bám nơi sắc

Không sinh cũng không diệt

Duyên sinh không duyên sinh

Vô minh cùng chân như

Hai pháp nên có khởi

Không hai tức chân như

Nếu duyên kia không duyên

Sinh pháp có sai biệt

Thường, vô thường, các duyên

Có năng tác sở tác

Đó tức đại Mâu Ni

Cùng chư Phật đã nói

Có năng tác sở tác

Không khác với ngoại đạo

Ta vì Phật tử nói

Thân là khổ ở đời

Cùng là tập ở đời

Diệt, đạo tất đều đủ

Kẻ ngu vọng phân biệt

Nên giữ ba tự tính

Thấy có năng, sở thủ

Thế cùng xuất thế pháp

Ta trước quán đối đãi

Nói thủ nơi tự tính

Nay vì ngăn các kiến

Không nên vọng phân biệt

Tìm lỗi là phi pháp

Lại khiến tâm không định

Đều do hai thủ khởi

Không hai tức chân như

Nếu vô minh, ái, nghiệp

Mà sinh ra các thức

Tà niệm lại có nhân

Ấy tức lỗi “vô cùng”

Không trí nói các pháp

Có bốn thứ hoại diệt

Vọng khởi hai phân biệt

Pháp thật lìa hữu, vô

Xa lìa bốn cú nghĩa

Lại lìa nơi nhị kiến

Hai thứ phân biệt khởi

Biết rõ không sinh lại

Trong bất sinh biết sinh

Trong sinh biết bất sinh

Vì pháp kia đồng đẳng

Không nên khởi phân biệt

Nguyện Phật vì con nói

Lý ngăn ngừa hai kiến

Khiến con cùng các chúng

Thường không sa hữu, vô

Không lẫn ngoại đạo luận

Lại xa lìa nhị thừa

Chỗ mà Phật đã chứng

Chỗ con Phật không lùi

Giải thoát nhân phi nhân

Cùng một tướng vô sinh

Vì mê chấp dị danh

Kẻ trí nên thường lìa

Pháp do phân biệt sinh

Như mao luân, huyễn ảo

Ngoại đạo vọng phân biệt

Thế do tự tính sinh

Vô sinh cùng chân như

Tính không và chân tế (bhùtakoti)

Các thứ ấy đồng nghĩa

Không nên chấp là không

Như lông có nhiều tên

Tên Đế Thích cũng thế

Các pháp cũng như vậy

Không nên chấp là không

Sắc và không không khác

Vô sinh cũng như thế

Không nên chấp là khác

Thành ra lỗi kiến chấp

Vì phân biệt tổng, biệt

Cùng với biến phân biệt

Chấp trước các tự tướng

Dài ngắn cùng vuông tròn

Tổng phân biệt (samkalpa) là tâm

Biến phân biệt (parikalpa) là ý

Biệt phân biệt (Vikalpa) là thức

Đều lìa tướng năng sở

Trong pháp Ta khởi kiến

Cùng vô sinh ngoại đạo

Đều là vọng phân biệt

Lỗi lầm, đều không khác

Nếu có người rõ được

Pháp vô sinh Ta nói

Cùng cái vô sinh làm

Người ấy hiểu pháp Ta

Vì muốn phá các kiến

Vô minh vô trú xứ

Khiến biết hai nghĩa ấy

Nên Ta nói vô sinh

Phật nói pháp vô sinh

Dù là hữu hay vô

Tức đồng với ngoại đạo

Luận vô nhân,bất sinh

Ta nói là Duy tâm

Xa lìa nơi hữu vô

Dù sinh hay bất sinh

Kiến ấy đều nên lìa

Vô nhân nói không sinh

Sinh tất chấp tác giả

Tác tức lẫn các kiến

Vô tức tự nhiên sinh

Phật nói các phương tiện

Chính kiến cùng đại nguyện

Hết thảy pháp nếu không

Thì sao thành đạo tràng

Lìa năng thủ sở thủ

Không sinh cũng không diệt

Chỗ thấy pháp phi pháp

Đều do tự tâm khởi

Thuyết do Mâu Ni nói

Trước sau tự mâu thuẫn

Vì sao nói các pháp

Lại nói là không sinh

Chúng sinh không thể biết

Nguyện Phật vì con nói

Được lìa lỗi ngoại đạo

Cùng cái nhân điên đảo (Visamàhetu)

Duy nguyện bậc Thắng Thuyết


Nói chỗ sinh và diệt

Đều lìa nơi hữu vô

Mà không hoại nhân quả

Thế gian sa nhị biên

Bị các kiến mê hoặc

Nguyện xin đấng Mắt Xanh

Nói thứ lớp các địa

Thủ, sinh, cùng bất sinh

Không rõ nhân tịch diệt

Đạo tràng không chỗ được

Ta cũng không nói gì

Pháp sát na đều không

Không sinh không tự tính

Các Phật đã sạch hai

Có hai tức thành lỗi

Bị các kiến che lấp

Phân biệt không phải Phật

Tưởng tượng ra sinh diệt

Nguyện vì chúng con nói

Tích tập các hí luận

Do hòa hiệp mà sinh

Tùy chủng loại hiện ra

Sắc cảnh đều đầy đủ

Thấy các ngoại sắc rồi

Bèn khởi ra phân biệt

Nếu hiểu được chỗ ấy

Tức thấy nghĩa chân thật

Đều lìa nơi đại chủng

Các Phật đều không thành

Đại chủng đã duy tâm

Nên biết không gì sinh

Tất thuận chủng tính thánh

Chớ phân biệt phân biệt

Không phân biệt là trí

Phân biệt nơi phân biệt

Là hai, không Niết Bàn

Nếu lập tôn vô sinh

Tất hoại cái huyễn pháp

Nếu không nhân khởi huyễn

Tổn giảm tự tôn mình

Ví như bóng trong gương

Tuy lìa tính một, khác

Chỗ thấy không phải không

Tướng sinh cũng như vậy

Như Càn thành, vật huyễn

Tức đối nhân duyên có

Các pháp cũng như vậy

Tuy sinh mà không sinh

Phân biệt nơi nhân pháp

Mà khởi hai thứ ngã

Đây chỉ thế tục nói

Kẻ ngu không biết rõ

Do nguyện và tập khí

Tự lực và tối thắng

Thứ năm pháp Thanh Văn

Mà có các La Hán

Thời gian và hoại diệt

Thắng giải cùng đổi dời

Bốn thứ vô thường ấy

Ngu phân biệt, không (phải) trí

Kẻ ngu đọa nhị biên

Vi trần, tự tính (praktri), tác (Kàrapa)

Vì chấp tôn hữu, vô

Không biết nhân giải thoát

Đại chủng trái nghịch nhau

Đâu hay khởi sắc tướng

Chỉ là tính đại chủng

Không có sắc sở tạo

Lửa thiêu hoại sắc tướng

Nước đắm chìm mọi vật

Gió thổi phăng mọi sự

Làm sao sinh các sắc

Sắc uẩn và thức uẩn

Chỉ có hai không năm

Ngoài ra chỉ tên khác

Ta nói là cừu oán

Tâm, tâm sở (cittacaitta) sai biệt

Mà khởi ra hiện pháp

Phân tích các sắc tướng

Chỉ tâm, không vật tạo

Xanh trắng đối đãi nhau

Tác sở tác cũng thế

Sở sinh và Tính Không

Lạnh nóng, tướng sở tướng

Cùng hết thảy hữu vô...

Tưởng tượng, không có thật

Tâm ý và sáu thức

Cùng tương ưng lẫn nhau

Đều nương tạng thức sinh

Không một cũng không khác

Số, tháng và Lộ hình

Những kẻ chấp Tự Tại

(Tàrkika, Isvarodita)

Đều sa vào hữu vô

Xa lìa nghĩa tịch diệt

Đại chủng sinh hình (samthàna) tướng (àkriti)

Không sinh ra đại chủng

Ngoại đạo nói đại chủng

Sinh đại chủng và sắc

Ngoài các pháp vô sinh

Ngoại đạo chấp tác giả

Theo nơi tôn hữu, vô

Kẻ ngu không biết rõ

Tướng thanh tịnh chân thật

Cùng ở với đại trí

Chỉ cùng tâm tương ưng

Không hòa hiệp với ý, (v.v..)

Nếu nghiệp đều sinh sắc

Tất trái nhân các uẩn

Chúng sinh đừng nên chấp

Vô hữu trú vô sắc

Nói sắc mà không có

Thì chúng sinh cũng không

Luận vô sắc là đoạn

Các thức cũng không sinh

Thức nương bốn chỗ trú

Nói vô sắc sao được?

Nội ngoại đã không thành

Nên thức cũng không khởi

Nếu thức chúng sinh (là) không

Tự nhiên được giải thoát

Ấy là luận ngoại đạo

Kẻ vọng kế không biết

Hoặc có kẻ chấp trước

Các uẩn có trung gian

Như sinh cõi vô sắc

Vô sắc làm gì có

Sắc ở trong vô sắc

Tức không thể thấy được

Vô sắc tức trái tôn

Không xe, người đi xe (thừa, thừa giả)

Thức do tập khí sinh

Cùng các căn hòa hiệp

Tám thức trong sát na

Đều không thể nắm giữ

Nếu các sắc không khởi

Các căn không phải căn

Cho nên Thế Tôn nói

Căn, sắc, Sát nị ca (Ksanika)

Vì sao không rõ sắc

Mà có thức sinh được?

Vì sao thức không sinh

Mà có thọ sinh tử

Các căn cùng căn cảnh

Thánh giả hiểu nghĩa ấy

Kẻ ngu si vô trí

Vọng chấp thủ danh kia

Không nên chấp đệ lục

Có thủ cùng không thủ

Vì lìa các lỗi lầm

Bậc thánh không định thuyết

Các ngoại đạo vô trí

Sợ hãi nơi đoạn thường

Chấp hữu vi vô vi

Cùng ngã không sai khác

Hoặc chấp ngã là tâm

Hoặc là khác với ý

Tính một có thể giữ

Tính khác cũng như thế

Nếu thủ đã quyết định

Đặt tên tâm, tâm sở

Chấp thủ ấy vì sao

Không giải quyết “tính một”

Có thủ cùng tác nghiệp

Chứng đắc, nên thọ sinh

Như do lửa mà thành

Ý nghĩa giống, không giống

Như khi lửa thiêu đốt

Củi, vật đều cùng cháy

Vọng chấp ngã cũng thế

Vì sao không sở thủ

Dù sinh hay không sinh

Tâm tính thường thanh tịnh

Chỗ lập ngã ngoại đạo

Sao không lấy ví dụ?

Rừng mê hoặc của thức

Vì vọng xa chân pháp

Vì ưa thích ngã luận

Mà tìm cầu bỉ thử

Chỗ của trí nội chứng

Tướng chân ngã thanh tịnh

Đấy tức Như Lai Tạng

Ngoại đạo không biết được

Phân tích các uẩn ra

Năng thủ và sở thủ

Nếu biết được tướng ấy

Tức sinh trí chân thật

Các kẻ ngoại đạo kia

Ở trong vòng thức tạng

Chấp Mạt Na là ngã

Không phải chỗ Phật nói

Nếu rõ được chỗ này

Giải thoát thấy chân đế

Khiến tu các phiền não

Đoạn trừ liền thanh tịnh

Bản tính thanh tịnh tâm

Chỗ chúng sinh cầu được

Như Lai Tạng vô cấu

Xa lìa biên, vô biên

Bốn thức ở trong uẩn

Như vàng, bạc trong quặng

Gạn lọc thành tươi sạch

Vàng bạc đều hiện rõ

Phật không phải người, uẩn

Chỉ là trí vô lậu

Biết rõ thường tịch tịnh

Là chỗ về của ta

Bản tính thanh tịnh tâm

Tùy phiền não, ý thảy

Cùng với ngã tương ưng

Nguyện Phật vì con nói

Tự tính thanh tịnh tâm

Ý thảy là cái gì

Nghiệp tích tụ của nó

Tạp nhiễm nên thành hai

Ý thảy (v.v..), ngã, phiền não

Làm nhiễm ô tịnh tâm

Ví như nước trong kia

Mà có các cấu bẩn

Như áo được lìa dơ

Cũng như vàng lìa quặng

Áo, vàng đều không hoại

Tâm lìa lỗi cũng thế

Kẻ vô trí tìm cầu

Ống tiêu cùng loa trống

Để tìm các tiếng hay

Ngã trong uẩn cũng thế

Như phụ nữ mang thai

Tuy có, không thể thấy

Ngã chân thật trong uẩn

Vô trí không thấy được

Như tinh túy trong thuốc

Lại như lửa trong cây

Ngã chân thật (kudgala) Trong uẩn

Vô trí không thấy được

Không tính trong các pháp

Cùng với tính vô thường

Ngã chân thật trong uẩn

Vô trí không thấy được

Các địa, tự tại, thông

Quyền, đảnh, thắng, tam muội

Nếu không có chân ngã

Những thứ ấy đều không

Có người phá hoại nói:

“Nếu có, chỉ ngả ra”

Bậc trí nên đáp rằng:

“Phân biệt ấy là ngã”

Kẻ nói không chân ngã

Báng pháp, chấp hữu vô

Tỳ kheo nên yết ma

Trục xuất chớ giao thiệp

Thuyết chân ngã bừng thạnh

Như lửa kiếp tận nổi

Thiêu rừng rậm vô ngã

Lìa các lỗi ngoại đạo

Như tô, lạc, thạch mật

Cùng các thứ dầu ăn

Tất cả đều có vị

Kẻ chưa nếm không biết

Ở trong thân các uẩn

Năm món tìm cầu ngã

Kẻ ngu không hiểu được

Trí thấy tức giải thoát

Dụ do minh trí lập

Còn không rõ được tâm

Nghĩa chứa đựng trong đó

Làm sao hiển hiểu rõ

Tướng sai biệt các pháp

Không rõ chỉ một tâm

Kẻ suy lường vọng chấp

Không nhân và không khởi

Bậc định quán nơi tâm

Tâm không thấy được tâm

Kiến do sở kiến sinh

Sở kiến nhân gì khởi

Họ ta Ca chiên diên (kàtyàyana)

Ra khỏi Tịnh Cư Thiên (sùddhàvàsa)

Vì chúng sinh nói pháp

Khiến nhập Niết Bàn thành

Duyên nơi pháp bốn trú

Ta cùng chư Như Lai

Trong ba nghìn quyển kinh

Rộng nói Niết Bàn pháp

Dục giới và vô sắc

Không ở đó thành Phật

Cõi trời sắc cứu cánh (Rùpadhàtvakanisttha)

Lìa dục được Bồ Đề

Cảnh giới không chuyển nhân

Nhân chuyển được cảnh giới

Kiếm bén trí bậc tu

Cắt lìa phiền não kia

Vô ngã làm sao có

Các pháp huyễn hữu vi

Kẻ ngu thấy chân như

Sao nói không chân ngã

Pháp đã làm, chưa làm

Đều không nhân mà khởi

Hết thảy đều vô sinh

Kẻ ngu không hiểu được

Pháp năng tác không sinh

Sở tác và các duyên

Cả hai đều không sinh

Làm sao chấp năng tác

Kẻ vọng kế nói có

Nhân trước sau đồng thời

Dụ bình, các đệ tử

Nói các vật sinh khởi

Phật không là hữu vi

Các tướng tốt đầy đủ

Là công đức Luân Vương

Đó không phải Như Lai

Phật lấy trí làm tướng

Xa lìa các kiến chấp

Lãnh vực tự nội chứng

Đoạn hết thảy lỗi lầm

Điếc mù cùng ngọng câm

Già, trẻ, ôm hờn oán

Nhất là những kẻ ấy

Không có phần phạm hạnh

Tùy hảo ẩn là trời

Tướng ẩn là Luân Vương

Cả hai đều phóng dật

Chỉ hiện nơi người tu

Sau khi Ta chết rồi

Sẽ có Tỳ da sá (Vyàsa)

Kana (Kanàda) Lê sa bà (Rishabha)

Kiếp tỳ la (Kapila) xuất hiện

Một trăm năm sau Ta

Thuyết của Tỳ da sa

Cùng luận Bà đa la (Bhàraka) v.v..

Rồi có Bán trạch sa (Bàndava)

Kiều vi bà (Kaurava), La ma (Ràma)

Lại có Mao cuồng vương (Maurì)

Nan đà (Nanda) và Cúc đa (Gupta)

Đến Miệt lợi xa vương (Mleccha)

Sau đó đao binh khởi

Rồi có thời hắc ám (Kaliyuga)

Thời ấy các thế gian

Không tu hành chính pháp

Qua sau các thời ấy

Thế như bánh xe lăn

Lửa, mặt trời hòa hiệp

Thiêu đốt ở cõi dục

Lại lập các cõi trời

Thế gian lại thành tựu

Các vương cùng bốn họ

Các tiên cùng pháp hóa

Vệ đà cùng tế tự

Sẽ có pháp ấy thịnh

Pháp đàm luận hí tiếu

Trường hàng và giải thích

Tôi nghe như vầy v.v..

Mê hoặc nơi thế gian

Các thứ y nhận được

Nếu có thứ chính sắc

Lấy bùn xanh phân trâu

Nhuộm đi cho hủy màu

Hết thảy các y phục

Phải lìa tướng ngoại đạo

Hiện tướng bậc tu hành

Tướng oai nghiêm của Phật

(Y phục phải nghiêm chỉnh)

Cần phải buộc giây lưng

Lọc nước rồi hãy uống

Lần lượt mà khất thực

Không đến chỗ phi xứ

Sinh cõi trời thắng diệu

Và sinh trong loài người

Đủ các tướng quý báu

Sinh trời và vua người

Vua có bốn thiên hạ

Pháp giáo trụ lâu đời

Lên cao tột cung trời

Do tham nên thối thất

Thuần thiện (Ktrayuga) cùng ba thời

Hai thời, thời cực ác

Phật khác hiện thời thiện

Thích Ca ra đời ác

Sau khi Ta Niết bàn

Tất Đạt Đa họ Thích

Tỳ nữu (Visnu), Đại tự tại (Mahesvara)

Các ngoại đạo cũng xuất

Như vậy tôi nghe v.v..

Điều Thích sư tử nói

Đàm cổ (puràvttra) cùng tiếu ngữ (Itihàsa)

Tiên tỳ dạ sa nói

Sau khi Ta Niết Bàn

Tỳ nữu, Đại tự tại

Các thuyết kia nói rằng:

Ta làm nên thế gian

Ta tên Phật ly trần (Viraja-jina)

Họ Ca đa diễn na (Kàtyàyana)

Cha tên Thế gian chủ (Prajàpati)

Mẹ hiệu là Cụ tài (Vasumati)

Ta sinh nước Chiêm bà (Campà)

Ông nội trước của Ta

Do dòng mặt trăng sinh (Somavamsa)

Nên hiệu là Nguyệt tạng (Somagupta)

Xuất gia tu khổ hạnh

Diễn nói ngàn pháp môn

Thọ ký cho Đại Huệ

Rồi sau đó diệt độ

Đại Huệ truyền Đạt ma (Dharma)

Đạt ma truyền Di khư lê (Mekhala)

Di khư gặp thời ác

Kiếp tận pháp sẽ diệt

Ca Diếp Câu Lưu Tôn

Câu Na Hàm Mưu Ni

Cùng Ta ly trần cấu

Đều sinh thời thuần thiện

Khi thời thiện dần giảm

Có đạo sư tên Huệ (Mati)

Thành tựu đại dõng mãnh

Giác ngộ được năm pháp

Không phải nhị, tam thời

Cũng không thời cực ác

Chỉ trong thời thuần thiện

Mới hiện Đẳng Chính Giác

Áo tuy không rách rưới

Nhưng vải vụn vá thành

Như lỗ đuôi Khổng tước

Không có ai xâm đoạt

Hoặc hai ngón ba ngón

Cách nhau mà may thành

Nếu làm khác như thế

Kẻ ngu sinh tham trước

Chỉ giữ ba chiếc áo

Thường tắt lửa tham dục

Tắm trong nước trí huệ

Ngày đêm ba thời tu

Như phóng tên rất mạnh

Tên rơi phóng tên khác

Lại như hai đầu cân

Thiện bất thiện cũng thế

Nếu một hay sinh nhiều

Tất có tướng dị biệt

Kẻ cho hãy như ruộng

Kẻ nhận hãy như gió

Nếu một hay sinh nhiều

Hết thảy không nhân có

Nhân sở tác bị hoại

Ấy là thuyết vọng kế

Nếu thuyết của vọng kế

Thêm dụ đèn, hạt giống

Một mà sinh ra nhiều

Chỉ tương tợ, không nhiều

Mè thì không sinh đậu

Đậu nhỏ không (phải) giống lúa

Sao nói một sinh nhiều

Danh thủ (pànini) tạo Thanh luận (Sabhanatri)

Quảng chủ tạo Vương luận

Vọng thuyết theo thế luận

Sẽ sinh trong Phạm tạng

Ca đa diên (Kàtyàyana) tạo kinh

(Tiên) Thọ bì (Yajnàvalka)

Câu lưu (Bhudhuka) tạo thiên văn

Thời ác thế sẽ có

Chúng sinh các thế gian

Nhờ phước được làm ma

Đúng pháp cai trị thế

Giữ gìn cho cõi nước

Thanh nghị (Vàlurìka) cùng Xích đậu (Masuràksha)

Trắc tích (Kautilya) và Mã hành (Asvalayana)

Những đại phúc tiên ấy

Sẽ xuất hiện đời sau

Tất Đạt Đa dòng Thích

Bộ đa (Bhùtànta), ngũ Kế giả (Pancacudaka)

Ngũ lực (Vàgbali) cùng Thông huệ (Medhàvin)

Cũng ra đời về sau

Ta ở nơi rừng hoang

Phạm vương đến cho Ta

Trần bì (Ajina), Tam kỳ trượng (dandakàsthà)

Bác điều (Mekhalà) cùng quân trì (Cakramandala)

Bậc đại tu hành này

Sẽ thành đấng ly cấu

Nói pháp chân giải thoát

Tướng của các Mâu Ni

Phạm vương cùng phạm chúng

Các trời cùng chúng trời

Cho Ta áo da nai

Trở về cùng tự tại

Ta ở trong rừng cây

Tứ thiên vương đế thích

Cho Ta y phục đẹp

Cùng với bát khất thực

Nếu lập luận bất sinh

Nhân ấy sinh rồi sinh

Lập vô sinh như thế

Chỉ là thuyết hư huyễn

Do vô thỉ tích tập

Vô minh nhân của tâm

Sinh diệt nối tiếp nhau

Phân biệt của vọng kế

Tăng khu luận có hai

Thắng tính cùng biến dị

Trong thắng có sở tác

Sở tác phải tự thành

Thắng tính cùng với vật

Câu na nói sai biệt

Các món tác sở tác

Biến dị đều không được

Như thủy ngân trong sạch

Bụi bẩn không thể nhiễm

Tạng thức sạch cũng thế

Nơi chúng sinh y chỉ

Như các thứ rau hôi

Vị muối và thai tạng

Chủng tử cũng như thế

Tại sao mà không sinh

Tính nhất và tính dị

Câu bất câu cũng thế

Không sở thủ mà có

Không vô vi, hữu vi

Trong ngựa không tính trâu

Ngã trong uẩn cũng thế

Chỗ nói vi, vô vi

Đều không có tự tính

Trong giáo lý tìm ngã

Là ác kiến vọng cầu

Không hiểu nên nói có

Chỉ vọng thủ, không ngoài

Ngã ở trong các uẩn

Một, khác đều không thành

Lỗi lầm kia rõ rệt

Kẻ vọng kế không biết

Như gương nước và mắt

Hiện ra các thứ hình

Xa lìa tính một, khác

Ngã trong uẩn cũng vậy

Hành giả tu chính định

Kiến (darsana), đế (satya) cùng với đạo (màrga)

Siêng tu ba thứ ấy

Giải thoát các ác kiến

Như ở trong khe cửa

Thấy ánh chớp qua mau

Pháp thiên biến cũng thế

Không nên khởi phân biệt

Phàm phu tâm mê hoặc

Chấp Niết Bàn có, không

Nếu có được thánh kiến

Như thật mà hiểu được

Nên biết pháp biến dị

Xa lìa nơi sinh diệt

Lại tìm nơi hữu vô

Cùng với tướng năng sở

Nên biết pháp biến dị

Xa lìa luận ngoại đạo

Lại lìa nơi danh, tướng

Diệt ngã kiến bên trong

Thân sung sướng cõi trời

Thân bị khổ địa ngục

Nếu không có trung hữu

Các thức không thể sinh

Nên biết trong các đường

Các loại thân chúng sinh

Loài sinh từ thai, trứng v.v..

Đều do trung hữu sinh

Lìa thánh giáo chính lý

Diệt dục hoặc càng tăng

Là cuồng thuyết ngoại đạo

Kẻ trí không nên nói

Trước nên rõ biết ngã

Và các thủ phân biệt

Không biết rõ phân biệt

Như con người Thạch nữ

Ta lìa xa nhục nhãn

Dùng huệ nhãn thiên nhãn

Thấy các thân chúng sinh

Lìa các hành các uẩn

Quán thấy trong các hành

Có sắc tốt sắc xấu

Giải thoát, không giải thoát

Có kẻ ở cõi trời

Kẻ thọ nhân các cõi

Chỉ mình Ta biết được

Vượt chỗ thế gian biết

Không phải cảnh suy lường

Vô ngã mà tâm sinh

Tâm ấy làm sao sinh

Há không nói tâm sinh

Như sông, đèn, hạt giống?

Nếu không vô minh v.v..

Tâm thức tất không sinh

Lìa vô minh không thức

Làm sao sinh tương tục

Thuyết của kẻ vọng chấp

Ba đời và phi thế

Thứ năm không thể nói

Chỗ các đức Phật biết

Các hành, thủ, sở thủ

Đều là nhân trí tuệ

Không nên nói trí tuệ

Gọi tên là các hành

Vì có nhân duyên ấy

Tất có pháp này sinh

Không riêng có tác giả

Đấy là pháp Ta nói

Gió không thể sinh lửa

Nhưng khiến lửa bùng dậy

Lại do gió lửa tắt

Làm sao dụ cho ngã?

Chỗ nói vi, vô vi

Đều lìa nơi các thủ

Sao kẻ ngu phân biệt

Lấy lửa mà lập ngã

Sức các duyên xoay vần

Cho nên sinh ra lửa

Nếu phân biệt như lửa

Ngã ấy do ai sinh

Vì ý thảy làm nhân

Các uẩn, xứ tích tụ

Ông thương chủ vô ngã

Thường với tâm cùng khởi

Cả hai như mặt trời

Xa lìa năng, sở tác

Lửa không thể thành lập

Kẻ vọng kế không biết

Chúng sinh, tâm, Niết Bàn

Bản tính thường thanh tịnh

Nhiễm thói lỗi vô thỉ

Không khác như hư không

Các ngoại đạo tượng ngọa (Hastisayya)?

Bị các kiến tạp nhiễm

Ý thức làm che khuất

Chấp lửa là thanh tịnh

Nếu được như thật kiến

Sẽ đoạn được phiền não

Xả rừng rậm tà dụ (Drstàntagahana)

Đến lãnh vực của Thánh

Phân biệt thành khác nhau

Giữa trí cùng sở tri

Kẻ ngu vì không biết

Nói chỗ không nên nói

Như ngu lấy gỗ khác

Làm chiên đàn (candanàgaru), trầm thủy

Vọng chấp cùng chân trí

Nên biết cũng như vậy

Ăn xong cầm bát về

Tẩy rửa cho sạch sẽ

Súc miệng sạch các vị

Nên tu hành như thế

Nếu nơi pháp môn này

Suy nghĩ đúng như lý

Tịnh tín lìa phân biệt

Thành tựu định tối thắng

Lìa chấp, ở nơi nghĩa

Thành kim cang pháp đăng

Phân biệt nơi hữu vô

Cùng các lưới ác kiến

Ba độc thảy đều lìa

Được tay Phật quán đảnh

Ngoại đạo chấp năng tác

Mê phương hướng không nhân

Sợ hãi thuyết duyên khởi

Đoạn diệt, không thánh tính

Các quả báo biến khởi

Là các thức cùng ý

Ý từ tạng thức sinh

Thức nương Mạt Na khởi

Tạng thức khởi các tâm

Như biển khơi sóng lớn

Do tập khí làm nhân

Tùy duyên mà sinh khởi

Sát na tướng nối nhau

Chấp cảnh giới tự tâm

Các món hình cùng tướng

Ý căn và thức sinh

Do ác tập vô thỉ

Mà sinh tợ ngoại cảnh

Chỗ thấy chỉ là tâm

Ngoại đạo không hiểu được

Nhân kia và duyên kia

Mà sinh ra các thức

Cho nên khởi các kiến

Trôi lăn trong sinh tử

Các pháp như huyễn mộng

Trăng đáy nước, Càn thành

Nên biết hết thảy pháp

Chỉ là tự phân biệt

Chính trí nương chân như

Mà khởi các tam muội

Thủ Lăng Nghiêm như huyễn

Các tam muội như thế

Được nhập vào các địa

Tự tại và thần thông

Thành tựu trí như huyễn

Được các Phật rưới đầu

Thấy thế gian hư dối

Khi ấy tâm chuyển ý

Được vào Hoan hỉ Địa (Muditàbhùmi)

Các địa cùng Phật địa

Đã được chuyển y rồi

Như ma ni nhiều mầu

Lợi ích cho chúng sinh

Tùy hiện như trăng nước

Xa lìa kiến hữu, vô

Cùng với câu, bất câu

Siêu việt hạnh nhị thừa

Lại siêu đệ thất địa

Pháp hiện chứng bên trong

Từng bậc mà tu tập

Xa lìa các ngoại đạo

Nên nói là đại thừa

Nói pháp môn giải thoát

Như sừng thỏ, ma ni

Xả ly các phân biệt

Lìa chết cùng biến dịch

Giáo do lý mà thành

Lý nhờ giáo mà rõ

Nên y giáo, lý này

Chớ lại thêm phân biệt.

 

HẾT