Về Văn Bản “Xuất Gia Sa Di Quốc Âm Thập Giới” Ở Chùa Liên Phái Hà Nội

Chùa Liên Phái Hà Nội do Hòa Thượng Lân Giác Thích Trừng Trừng sáng lập hồi đầu thế kỷ 18. Hòa Thượng vốn dòng họ Trịnh, song có chí xuất gia, theo Hòa Thượng Chân Nguyên ở chùa Long Động Hải Dương. Sau về khai sáng ra chùa Liên Tống (tức Liên Phái). Ở đây Hòa Thượng đã biên soạn chế tác rất nhiều tài liệu để giáo dưỡng tăng ni. Năm Bính Tuất (1726) niên hiệu Bảo Thái thứ 7 Hòa Thượng đã diễn giải 10 điều răn giới cho hàng tăng người mới xuất gia và cho đem khắc in. Hiện ở chùa Liên Phái Hà Nội

VỀ VĂN BẢN “XUẤT GIA SA DI QUỐC ÂM THẬP GIỚI” Ở CHÙA LIÊN PHÁI HÀ NỘI

THÍCH MINH TÂM

Hội Phật giáo

Chùa Liên Phái Hà Nội do Hòa Thượng Lân Giác Thích Trừng Trừng sáng lập hồi đầu thế kỷ 18. Hòa Thượng vốn dòng họ Trịnh, song có chí xuất gia, theo Hòa Thượng Chân Nguyên ở chùa Long Động Hải Dương. Sau về khai sáng ra chùa Liên Tống (tức Liên Phái). Ở đây Hòa Thượng đã biên soạn chế tác rất nhiều tài liệu để giáo dưỡng tăng ni. Năm Bính Tuất (1726) niên hiệu Bảo Thái thứ 7 Hòa Thượng đã diễn giải 10 điều răn giới cho hàng tăng người mới xuất gia và cho đem khắc in. Hiện ở chùa Liên Phái Hà Nội(1) còn giữ được một bnr in năm 1726. Toàn văn viết theo thể lục bát, lời văn súc tích, song cũng rất gần với lời ăn tiếng nói của dân. Đây có thể coi là văn bản Nôm thế kỷ 18, có niên đại xác định, cung cấp nhiều tài liệu có giá trị. Do vậy chúng tôi xin phiên âm giới thiệu toàn văn như sau:

Như như vâng giáo Chân Nguyên(2)

Diễn dương(3) luật tạng lưu truyền lâu xa.

Lành thay kẻ mới xuất gia

Gượng(4) trao mười giới gọi là Sa di

Trước đàn bốn nguyện ba quy.

Thế trừ(5) lĩnh lấy điền y(6) vận mình(7).

 

Thứ nhất là giới sát sinh

Từ bi đạo ấy lưu tình tại nhân(8)

Muôn loài hễ giống có thân

Thửa tỉnh muốn sống lễ phân Nhác gì

Cũng dòng một giống linh tri(9)

Vẩy lông sừng vuốt(10) hình tuy chẳng cùng!

Luân hồi chuyển kiếm Khôn thông(11)

Hoặc là cha mẹ vợ chồng anh em.

Đổi thân(12) lạ dấu Khôn tìm.

Lộn vào sâu bọ muông chim Nhác loài.

Giết lầm ăn lỡ dông dài.

Trả ân làm oán hao nài nghiệp duyên.

Vậy nên điện Bụt am thiền

Tiếc Ngài(13) phải dặn che đèn há nga(14)

Nước ăn lấy vải lọc qua

Bước đi phòng kẻo xông pha đạp dày.

Chớ nuôi muông giữ(15) trầu cày.

Giữ lòng không khó(16) ăn mày thập phương.

E trừ sâu lá bọ tương

Thuốc dùng thảo mọc kẻo phương(17) vật loài.

 

Thân đạo(18) là giới thứ hai.

Ngay lòng(19) lọ phải then cài chử tin.

Một tớ(20) xem bằng(21) muôn nghìn.

Của người chẳng những bạc tiền mới năm.

Chẳng cho chẳng lấy làm ngần(22).

Cành cây ngọn cỏ mỗ phần(23) mựa(24) hề.

Kinh Rằng: “Một gã sa-di.

Trộm bánh tăng chúng trai thì(25) ba phen

Một gã sa-di trộm đường phèn

Vật khính tình trọng ngỡ hèn(26) chẳng phân

Một gã sa-di trộn trái ăn

Ba người ấy phải đọa thân tam đồ(27)

Khuyên ai, ai nghĩa đấy cho.

Liếc gương kẻ trước mà tu sự mình

Nếu còn vật mắt gian manh.

Lọn đời chay lạt công trình bỏ đâu.

Răn lòng chẳng những xuyên thân.

Tổn nhân(28) ích kỷ thấy âu chớ làm.

Bao giờ lọt khỏi nguồn tham

Độ mình(29) mới biết trần phàm(30) khác ta.

Tà dâm là giới thứ ba.

Cổ kim đã mấy tay già chịu non.

Đã rằng bỏ rẻ vợ con.

Tăng phong sao có khuê môn tảo tần.

Nếu mà dục giới đã gần

Máy thiền đễ đọng khôn phân cõi hồ.

Tấc mây vầng nguyệt(31) nên mờ.

Vô tâm đổi cảnh bao giờ chửa hay

Hải ba năm đốt một giây

Dái(32) khi tiểu củi, mà cây chẳng còn.

Vật chi nguyệt phấn hoa sen.

Khứng(33) mài gọn sắt cho mòn cớ sao.

Vi hay bể ái hay hào(34)

Chớ thì còn ghé mình vào làm chi.

Kinh Rằng: “có bật sô ni,

Mộng lòng dâm dục lai khi phép màu.

Rằng: dâm chẳng sát chẳng thân(35)

Hại người chẳng có tội đâu đến mình.

Bỗng không mãnh hỏa(36) tự sinh.

Phút giây cháy hết thân mình chẳng dư”.

Vọng ngôn là giới thứ tư.

Chẳng cho hư thực thực hư dối người.

Có không bày đặt nên lời.

Chỉ hươu rằng ngựa(37) tơi bời dọc ngang.

Ỷ ngữ là nói vẻ vang(38)

Quyến người động dục(39) mua thương cháchờn(40)

Phỉnh phờ thêu dệt dỗ mơn

Khiến lòng sắt đá nên sờn nên xiêu

Lưỡng thiệt là lưỡi hai chiều,

Ở đây nói đó xui yêu kết thù.

Miệng bằng tráo trở xiểm xu.

Giả tên dối họ hôn xu(41) chẳng thường.

Ác khẩu là miệng dữ dàng

Đe loi chửi mắng được càng tranh năng.

Hại người gươm giáo đâu bằng.

Miệng bằng gang thép dạ bằng gai chông.

Khẩu nghiệp là bốn gian hùng

Diệt trừ khỏi cả mối mong tới vời.

Ngàn vàng khôn chuộc một lời.

Ví rằng nói khó chẳng chơi chớ lầm!

Ẩm tửu là giới thứ năm

Kẻo cho cuồng dược(42) há xâm(43) tính thường.

Để cho trí tuệ chủ trương.

Kẻo hao tinh huyết, kẻo thương khí thần.

Hãy suy từ cõi hương lâm,

Xưa nay vì rượu bỏ thân mấy người.

Thần men(44) một đoạn vui cười.

Tính mình đã khác năm mười đoạn xa.

Lại thân rủ nguyệt quyết hoa.

Trong khi chẳng tỉnh, ai là có khôn.

Huống đà đứng cửa sa-môn

Thế gian một tiếng suy tôn rằng Thày.

Tròn đầu vuông áo dường này

Mộng tràn chưa tỉnh còn say lấy gì?

Trăm năm thề đã định kỳ.

Tưởng rằng rùa hạc(45) thực thì thước gang.

Sá tua(46) phản chiếu hồi quang

Tỉnh hồn trong giấc hoàng lương(47) mới màu.

Còn màng thuốc dại trong hầu.

Thì mơ hồ điệp(48) thế ân đến già.

 

Thứ sáu là giới hương hoa.

Hình dụng chẳng được liệt là điểm trang.

Cho hay thì sự vẻ vang.

Thoáng qua vẫn tựa một thành mộng xuân.

Hoa trước mắt, vật ngoài thân.

Vô mùi(49) mà lại có phân động tình.

Ví dù giới tinh tuệ minh(50)

Hương nào hơn nữa hương mình thơm tho.

Áo xiêm thì dùng vải to.

Ruột tằm lông thú chẳng cho đoái hoài.

Thói thường tí lạt son phai

Ta thì áo vải chỉ gai đạo bền.

Cho hay dòng Bụt giống tiên.

Thế tình bỗ bã rẳng quê.

Ta xưng nạp tử(51) dần chê mặc lòng

Đời thì lựa tạc ấn phong(52)

Nghiệm thay hễ sắc thì không có gì.

Nghĩa câu “Nhất thiết hữu vi”(53).

Mà xem lọ phải thuyết chi nữa là.

Thứ bảy là giới xướng ca.

Kẻo cho ti trúc(54) xâm pha tính tình.

Hễ loài cầm sắt tiêu sênh(55)

Tùng nơi múa hát dập dềnh nhởn nhơ.

Miễn(56) loài đánh đáo hạc cờ

Cùng nơi điếm rượu lầu thơ chơi bời.

Tăng người tu chửa chọn đời.

Giữ cầm giới pháp mựa dời bản thân.

Chẳng nghe, vả chẳng tới gần.

Lánh mình cho tuyệt thanh trần mới yên.

Gì hơn suối chảy thông reo.

Thanh cao đã gác trần hươu mới tìm.

Yên vui mà chẳng hoang dâm

Lại thêm sảng khí dưỡng tâm ngụ nhàn(57)

Kệ màu câu nhiệm(58) muôn vàn.

Màng chi thanh sắc trong đoàn lợi danh.

Số là hằng thuận chúng sinh.

Cho nên lại phải diễn kinh làm đàn.

Khoa nhi lễ nhạc bách ban(59)

Mở quyền ra độ thể gian đạo tạng.

Thứ tám là giới cao sàng.

Dựng lề khiêm hạ(60) dứt đường kiêu căng.

Phép xưa giường dùng đằng thằng(61)

Như-lai tám ngón đo bằng chẳng qua(62).

Cao hơn thì phạm há nga(63).

Sá tua gìn giữ tiết ta(64) chớ dời.

Nơi ngồi nằm, chốn nghỉ ngơi.

Mựa dùng trạm trổ vẽ vời gấm thêu.

Thuở xưa đệm cỏ ngồi hiên(65)

Nằm hang ở núi còn nhiều vẻ hay.

Huống chi dõi xuống đời nay.

Đã cao giường phản lại dày chiếu chăn.

Hơn xưa biết đã mấy phân.

Lọ là rộng rãi sắc thân làm gì.

Quốc sư tích cũ còn ghi.

Trầm hương tóa bán nhân vì vua ban.

Làm cho mười kiếp nghiệp oan.

Lại lo trả được tai nàn mới xong.

Ví dù chẳng chút sai lòng.

Oan hồn Triều Thác(66) còn ngong(67) làm gì.

Thứ chín làn giới phi thời.

Tứ tư nhật ngọ(68) làm kỳ hữa chay.

Một rằng thiên thực(69) rạng ngày.

U đồ ngã quỷ(70) nghiệp đầy về âm.

Nếu nghe khua bát động mâm.

Dạ thèm dậy lựa cháy xâm(71) giết hần.

Vả còn ý nhiệm cơ mầu.

Ngụ trong giới ấy để sau mật truyền.

Hễ đã lạc phát(72) tu thiền.

Ăn tứ bán nhật dễ tiền(73) mà thôi.

Bụi khi thời khi xảy xui.

Gió sương nắng gió bẻ bui chẳng hằng(74)

Sự chăng được chớ há rằng.

Bây giờ giới ấy dường hằng bỏ rơi.

Thửa trong giây phút biết dời.

Rộng choi khi có mặt trời cũng nên.

Đã lành lại giữ cho truyền

Xuất gia giới luật mười thiên rành ròi.

Ngoan tăng sao bỗng quen mui.

Bảo nhau nói lý mà lui khá cười.

Chóc trì(75) là giới thứ mười.

Chẳng nề phần biệt của người của ta.

Bạc vàng châu báu ngọc ngà.

Tơ hào chẳng được tay tra bắt cầm.

Giống hay hoặc tính mê tâm(76)

Gây tham mống họa cổ câm đùng đùng.

Mượn gương ngươi Khải ngươi Sùng(77)

Giơ xem phải thấy vô dùng hay chăng?

Huống chi hô tục làm tăng.

Nam minh(78) đã quyết Côn Bằng(79) hóa bay.

Một mình một bát lọn tay.

Dày mỏng và(80) tẩm đổi thay đông hè.

Tuyết sương thì đói bụng ve.

Chẳng cầu yên trọng, chẳng e khấn thù.

Gió xuân đắp đổi trăng thu.

Mặc dù thích ở ngao du rừng thiền.

Nương nhờ phúc, lộc tự nhiên.

Cửa nhà cơm áo tùy duyên thể tình.

Dầu ai đòi hỏi lợi danh.

Lắc đầu biếng thốt xưng mình bàn Tăng.

Chú thích:

1. Chùa Liên Phái Hà Nội: Vốn là trung tâm in Kinh sách ở vùng Kinh thành Thăng Long xưa. Trong khu nhà ba gian của chùa còn chứa mấy chục bộ ván in Kinh. Từ sau năm 1954 các ván in ở Đầm Ngọc Sơn lại đưa gửi xuống chùa Liên phái. Năm 1995 thầy trụ trì lại đem gửi một phần vào thư viện Hán Nôm.

2. Thân Nguyên: Tức Chân Nguyên Hòa Thượng, pháp danh Tuệ Đăng.

3. Diễn dương: Diễn Nôm để hoằng dương.

4. Gương: Tạm thời

5. Thế trừ: Cắt tóc và gạt bỏ áo quần thế tục.

6. Điền y: Áo của 1 vị sư.

7. Vận mình: Mặc vào người.

8. Lưu tình tạc nhân: Để tình cảm vào nhân ái.

9. Linh tri: hiểu biết.

10. Vẩy lông sừng vuốt: chỉ các loài cá, chim, thú.

11. Khôn thông: Khó thông tỏ hết.

12. Đổi thân: thay đổi thân làm kiếp khác.

13. Ngài: sâu bộ, con thiêu thân.

14. Nga (từ cổ): vui chơi hừa hãi.

15. Muông giữ: chó giữ nhà.

16. Không khó: Trống rỗng nghèo nàn, không có gì.

17. Phương: phương hại, tổn hại.

18. Thân đạo: trộm cắp.

19. Ngay lòng: lòng ngay thẳng.

20. Một tổ: một sợi tơ, một chút.

21. Bằng (từ cổ): bằng, giống như.

22. Ngần: Mẫu mực, khuôn thước.

23. Mỗ phần (từ cổ): Một chút.

24. Mựa (từ cổ): chớ, đừng

25. Trai thì: Đồ ăn chay đúng thời.

26. Hèn (từ cổ): Kém cỏi, không quan trọng.

27. Tam đồ: Ba đường ác, gồm ngã quỉ, xúc sinh, địa ngục.

28. Độ mình: tự cầu độ cho bản thân mình.

29. Trần phàm: Cõi phàm tục ở trần gian.

30. Vầng nguyệt: Vầng trăng, ý nói một tấc mây cũng che mờ vầng trăng.

31. Dái (từ cổ): E rằng.

32. Khứng (từ cổ): chịu, chịu khó.

33. Bào: Bọt nước, ý nói Bể ái dục như bọt nước dễ tan.

34. Chẳng sát chẳng thân: Không sát sinh, không trộm cắp.

35. Mãnh hỏa: lửa cháy mạnh, ý nói lửa mạnh tự sinh ra đốt sạch chẳng còn gì.

36. Chỉ hươu rằng ngựa: Triệu Cao, tướng của nhà Tần, tác oai tác phúc, cho người dắt hươu qua sân rồi chỉ vào bảo đó là ngựa, các quan sợ oai Triệu Cao, đành phải nói theo là ngựa.

37. Vẻ vang (từ cổ) Hào nháng bề ngoài.

38. Quyến người động dục: ta động lòng ham muốn.

39. Chác (từ cổ) mua.

40. Bôn xa: chạy vạy.

41. Cuồng dược: Thuốc độc, thuốc điên dại.

42. Bá xâm: Dinh dắng đến, phạm vào.

43. Thần men: Trầm non.

44. Rùa hạc: Hai loài vật sống rất lâu, người xưa dùng để ví với việc người sống lâu.

45. Sá tua (từ cổ): nên, cần phải.

46. Hoàng lương: Tức giấc mộng rễ vòng, ý nói công danh phú quý ở đời, chỉ ngắn ngủi bằng giấc mơ.

47. Hoàng Điệp: Bươm bướm, trong khi nằm mơ những biết mình hóa ra bướm hay bướm hóa ra mình. Hài rơm nón lá cũng nên chẳng nề.

48. Vô mùi: Không có mùi vị.

49. Giới tịnh tuệ minh: giới luật thanh tịnh, trí minh mẫn.

50. Nạp tử: chỉ thiền tăng, do các vị Thiền Tăng thường hay mặc áo nạp y để đi đấy đó thuyết pháp.

51. Ấn phong: Ban cho ấn tín, phong cho chức tước, ý nói được làm quan, hưởng vinh hoa phú quý.

52. Nhất thiết hữu vi: tất cả mọi việc làm.

53. Ti trúc: đàn sáo.

54. Cầm sắt tiêu sênh: tên bốn thứ nhạc cụ thời cổ.

55. Miễn (tự cổ) và, cùng.

56. Ngụ nhàn: Hưởng nhàn, ý nói sống ở nơi yên vắng thì tâm tính được an dưỡng thanh nhàn.

57. Kệ màu câu nhiệm: Kinh kệ rất màu nhiệm.

58. Bách ban: Trăm loại.

59. Khiêm ha: Khiêm tốn, Khiêm nhường.

60. Đằng thằng: Dây này để đan giường.

61. Chẳng qua: không vượt qua.

62. Nga (từ cổ): vui chơi, hừa hãi.

63. Tiết ta: tiết chế bản thân.

64. Ngồi hiên: Ngồi trên hiu trần, ý nói ngồi nằm ở nơi bình thường.

66. Triều Thác: Tên một viên quan đời cổ Trung Quốc, bị oan khuất, nên khi chết oan hồn đòi oán thù.

67. Ngong (từ cổ): Trông ngóng.

68. Nhật ngọ: Giữa trưa.

69. Thiên thực: Bữa ăn của trời.

70. Ngã quỷ: Quỷ đói, Bọn quỷ ở âm ty ăn vào buổi tối.

71. Xâm: lấn tới.

72. Lạc phạt: cắt tóc.

73. Bán nhật dỡ tiền: Từ nửa ngày trở về sớm, ý nói, sư tăng chỉ được an từ trưa trở về sáng, còn nếu sau buổi trưa mà an là phí thời thực.

74. Hằng: Thường, thường lệ.

75. Chóc trì: nắm giữ.

76. Hoặc tính mê tâm: tâm tính mê hoặc.

77. Người Khải người Sùng: tức Vương Khải và Thạch Sùng hai phú gia giàu có đời Tần ở Trung Quốc.

78. Nam minh: Biền Nam.

79. Côn Bằng: tức cá Côn và chim Bằng, theo truyền thuyết cổ, cá Côn và chim Bằng tượng trưng cho loài có chí lớn.

80. Và (từ cổ): Vài.

Thông báo Hán Nôm học 2000, tr.424-434