Nghệ thuật điêu khắc đình làng ở Bắc Bộ

Ở mỗi một làng quê đồng bằng Bắc Bộ, kiến trúc gây ấn tượng nhất đối với du khách là đình làng. Trải qua thời gian, rêu phong đã làm cho ngôi đình trở nên cổ kính. Mái đình xoè rộng, bốn đầu đao cong vút, bộ cột đình đồ sộ, ao làng soi bóng ngôi đình trầm mặc, dường như đình làng chỉ còn sống với thời đã qua.

Nghệ thuật điêu khắc đình làng ở Bắc Bộ

 
Nhưng khi bước vào bên trong đình, không khí mát dịu làm ta như trút bỏ vướng mắc của đời sống, chìm vào không gian tâm linh bao bọc xung quanh để tĩnh trí mà chiêm bái trước đức Thành Hoàng làng, nhìn ngắm những hình chạm khắc trên kiến trúc. Và ta hiểu rằng ngôi đình đang ôm vào bên trong, thầm lặng giữ gìn một di sản nghệ thuật vô giá, mà đến ngày hôm nay nhìn ngắm nó vẫn thấy hiển hiện, xôn xao đời sống xã hội mấy trăm năm về trước và để lại những giá trị to lớn về văn hóa, lịch sử và nghệ thuật.

Nhìn một cách khái quát, nghệ thuật điêu khắc đình làng ở đồng bằng Bắc Bộ phát triển từ những bước đầu tiên ở thế kỷ XVI, đạt dấu ấn rực rỡ đỉnh cao ở thế kỷ XVII, chững lại, chín muồi ở thế kỷ XVIII và thoái trào ở thế kỷ XIX. Có thể nói, giá trị nhiều mặt mà điêu khắc đình làng để lại tập trung ở di sản điêu khắc đình làng thế kỷ XVI - XVII. Điêu khắc đình làng của 2 thế kỷ này đại diện điển hình nhất cho toàn bộ nghệ thuật điêu khắc ở đồng bằng Bắc Bộ.
 
Các thủ pháp tạo hình của điêu khắc đình làng:
 
1.cái nhìn trẻ thơ:
Điêu khắc trang trí đình làng là tác phẩm của những nghệ nhân nông dân Bắc Bộ. Nghệ thuật của họ xuất phát từ đời sống và cái nhìn có tính bản năng thuần phác của người nông dân. “Nó được sản sinh trong khoảng khắc lịch sử mà tinh thần dân tộc vùng dậy tưng bừng nhất, mà nền văn nghệ dân gian thắng thế nhất”. Chắc chắn khi sáng tạo để phản ánh, tái tạo hiện thực và giải toả những ẩn ức, họ không bị câu thúc từ bất cứ những quy chuẩn tạo hình nào. Trong họ đồng thời có 2 con người: người nghệ nhân với kỹ thuật chạm khắc điêu luyện và người nghệ sĩ với sự tự do trong tưởng tượng, phản ánh, bộc lộ cái cảm tự thân về hiện thực, bằng bất kỳ thủ pháp nào mà họ cho là phù hợp. Nhiều thủ pháp tạo hình được sử dụng để sáng tạo ra các bức chạm khắc, thể hiện cái nhìn hồn nhiên, mộc mạc, hóm hỉnh, đầy sức sống như cái nhìn của trẻ thơ .

2.Đồng hiện:

Đồng hiện là thủ pháp tạo hình cho phép người nghệ sỹ trên một mặt phẳng cùng một lúc có thể tái hiện nhiều hoạt cảnh của đời sống với không gian, thời gian khác nhau. Từ xa xưa thủ pháp tạo hình này đã có mặt ở nhiều nền mỹ thuật thế giới. Cách đây hơn hai nghìn năm, từ thời văn hóa Đông Sơn, trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, người nghệ nhân xưa đã dùng thủ pháp đồng hiện để diễn tả lễ hội vòng đời. Người (múa, giã gạo, đánh trống...), chim, thú, thuyền... cùng một lúc trong vòng quay vũ trụ. Thủ pháp tạo hình này phản ánh hiện thực theo quy luật riêng của nó.
Nhiều hoạt cảnh trong phù điêu trang trí đình làng đã dùng thủ pháp này. Hoạt cảnh sinh hoạt xã hội ở đình Thổ Tang (Vĩnh Phúc) diễn tả cùng một lúc nhiều hoạt động rất khác nhau như cảnh cưỡi ngựa, cùng hàng có quan ngồi uống rượu, có người hầu, cùng lúc bên cạnh có người đang cày ruộng... Trang trí trên cốn đình Hương Canh (Vĩnh Phúc) có cảnh đi săn, quan cưỡi ngựa, cảnh đấu vật, người hái củi, người ngồi thiền... Chạm khắc đình Hạ Hiệp (Hà Tây) diễn tả cảnh một người đang đút quan tài vào miệng rồng (theo tích mả táng hàm rồng), cạnh đó có hai người đang đánh vật, bên trên có người đang ngồi bó gối, trung tâm bức chạm là một đầu rồng lớn và hai con rồng nhỏ.
Nhưng ở đình Phù Lão (Bắc Giang), có lẽ, người nghệ sỹ nông dân đã sử dụng thủ pháp này một cách thoả mái nhất. Chúng ta hãy xem kỹ một hoạt cảnh với năm nhân vật được chạm trên ván giong liền với bẩy. Một cô gái khoả thân ngồi trên râu rồng, làn tóc dài vắt ra phía trước. Tuy hai tay đã bị gãy, nhưng có thể đoán được rằng cô đang tết tóc. Phía dưới cô gái, một cặp nam nữ đang nhẩy múa, trên nền cảnh phía sau là một dải mây vờn. Cô gái mặc áo dài, tóc búi ngược, tay cầm quạt đang mở xoè, chân đang nhún nhẩy, tay chống ngang sườn. Chàng trai cởi trần, mặc quần cộc, tay đang dang ra bên cạnh bạn gái. Dịch về phía bên trong là một cặp nam nữ đang tỏ tình, với tư thế sống động. Chàng trai như đang hăm hở xông đến, còn cô gái vén váy kéo sát người tình về phía mình. Phía xa, một chú khỉ vắt vẻo ngồi cười ở mỏm bẩy. Một con rồng nhô ra, trông thật ngộ nghĩnh, làm tăng tính hài hước của hoạt cảnh. Toàn bộ các tình huống được diễn ra trên nền là một con rồng lớn, làm tăng tính huyền thoại cho hoạt cảnh. Bức chạm đã diễn tả đồng thời nhiều hoạt động, dường như không cùng một thời gian, không gian.
Thủ pháp đồng hiện thể hiện tính dân chủ của cộng đồng làng xã, một đặc điểm khá nổi bật của văn hóa làng.

3.Cường điệu:

Cường điệu là một thủ pháp nghệ thuật được nhiều ngành nghệ thuật khác nhau sử dụng như văn học, sân khấu... Trong nghệ thuật tạo hình, thủ pháp cường điệu là tăng kích thước đường nét, hình khối, màu sắc để nhấn mạnh ý đồ, gây sự chú ý về mặt thị giác. Do đó mà hình tượng được nổi bật và gây được ấn tượng hơn. Chúng ta cũng đã bắt gặp thủ pháp này trong những tượng mồ ở Tây Nguyên.

Những người nghệ sỹ nông dân đã sử dụng nhiều thủ pháp này trong các bức chạm khắc của mình. Nhân vật được rút ngắn chiều cao, thường thấp lùn quá mức. Chẳng hạn theo tỷ lệ giải phẫu một thân có chiều cao 6 đến 7 đầu, thì nhân vật trong những bức chạm khắc đình làng thường là 3 đến 4 đầu. Bức chạm người múa (đình Thổ Hà, Bắc Giang) có tỷ lệ chỉ hơn 2 đầu, có cánh tay dài quá cỡ. Điểm nhấn của bức chạm là khuôn mặt của người thiếu nữ. Tượng người ôm gà chọi thì con gà được phóng to gấp nhiều lần so với thực tế; tượng người cưỡi voi thì ngược lại con voi lại quá nhỏ so với người (đình Chu Quyến, Hà Tây)... Nhiều khi thân người phía dưới bị lược bỏ ra khỏi mặt phẳng (hoạt cảnh trai gái vui đùa ở đình Hạ Hiệp, Hà Tây). Thái Bá Vân cho rằng: “Chúng (thủ pháp-NVC) tìm một giá trị tự tại, chứ không tìm một giá trị mô phỏng, cho nên, trên đường biểu hiện, chúng sẵn sàng từ bỏ bề ngoài, mà nhận lấy những vô lý trước tự nhiên. Biết bao cánh tay vươn dài gấp đôi, hay teo lại chỉ bằng một phần ba cách tay bình thường. Những tỷ lệ bị ấn tẹt xuống, những khớp xương bị bẻ quẹo, những liên lạc về khối và đường nét không thể có trong không gian thực, thế mà, ở đây, lại hết sức hợp lý và thuận cảm”.

Khi dùng thủ pháp cường điệu để làm nổi bật ý đồ, người nghệ sỹ nông dân nhiều khi đã giảm thiểu, lược bỏ chi tiết đến mức tối đa, hoặc ngược lại dùng thủ pháp tăng cường tối đa chi tiết trên nền cảnh, để đối tượng thường được để khối thô mộc được tôn lên. Bức chạm đánh vật (đình Phù Lão, Bắc Giang), người múa (đình Thổ Hà, Bắc Giang), tắm đầm sen (đình Đông Viên, Hà Tây), bốn người uống rượu trên đầu bẩy (đình Thổ Tang, Vĩnh Phúc)... nền cảnh để phẳng, hoặc chỉ sử dụng đường nét rất hạn chế. Bức chạm bốn nụ cười nổi tiếng (đình Hưng Lộc, Nam Định) thì nền cảnh với bụi cây lớn phía sau được chạm trổ rất kỹ, với nhiều chi tiết.

4.Nhiều điểm nhìn:

Nhiều điểm nhìn là thủ pháp cùng một lúc đưa nhiều góc nhìn ở các vị trí khác nhau về một đối tượng lên một mặt phẳng. Thủ pháp nghệ thuật này đã có mặt trong nền mỹ thuật thổ dân châu Phi, đã được Picátxô sử dụng trong các bức tranh theo trường phái lập thể của mình. Thủ pháp nhiều điểm nhìn mở rộng khả năng biểu đạt, thể hiện được sự đa diện, phức tạp của sự vật. Trong các bức chạm khắc đánh cờ ở đình Hạ Hiệp (Hà Tây), đình Ngọc Bích (Vĩnh Phúc) người nghệ nhân đã đưa hai điểm nhìn từ trên xuống và nhìn ngang, tạo ra bố cục đặc sắc. Bàn cờ ở vị trí trung tâm, có hình vuông như nhìn từ trên xuống, còn các nhân vật lại như nhìn ngang theo phối cảnh, mặc dầu bố cục của chạm khắc không theo định luật xa gần.

5.Kết hợp huyền thoại và hiện thực, trang trí và tả thực:

Trong chạm khắc trang trí người nghệ nhân xưa đã kết hợp hai yếu tố của cõi huyền và cõi thực thông qua thủ pháp kết hợp trang trí và tả thực vào trong một bố cục, tạo nên đặc trưng độc đáo của điêu khắc đình làng. Ngay từ những chạm khắc của những ngôi đình từ thế kỷ XVI đã thể hiện rõ tư duy này. Hai cô tiên có cánh, tay cầm hoa sen đứng (hay là bay) hai bên, ở giữa có hai người cầm quạt ngồi; những vân xoắn lớn đầy chất trang trí như những đám mây thiêng, trùm phía trên, phía dưới có người mẹ gánh hai đứa con dường như đang vội vã đi chợ; voi lồng, voi cày trong nền cảnh đầy chất trang trí huyền thoại với những họa tiết vân xoắn lớn (đình Tây Đằng). Hai người đánh vật được tạc rất mộc mạc, sinh động ở giữa, hai bên có hai rồng chầu hai bên (đình Phù Lưu)... Đặc biệt ở ngôi đình cổ nhất Việt Nam vừa mới phát hiện gần đây, đình Thụy Phiêu (Hà Tây) được dựng năm 1531, trên cột của gian gác thờ, được làm bổ sung vào thế kỷ XVII, có chạm trổ hình rồng với đường nét chạm khắc mang tính nghiêm nhặt, nhưng ở đuôi rồng phía trên người nghệ nhân tạc một con lợn béo, khối thô mộc. Cột bên cạnh phía dưới, một con thạch sùng dường như đang vờn với con rồng. Con rồng tâm linh và con lợn, con thạch sùng hiện thực. Đó là hai thế giới đối lập nhau và ở đó còn chứa đựng một nụ cười về thế sự, nhân sinh.

Sang thế kỷ XVII, khuynh hướng này ngày càng được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngôi đình. ở đình Chu Quyến hoạt cảnh uống rượu, đánh cờ, đánh vật trên nền cảnh những con rồng vây quanh. Chạm khắc đình Giang Xá có hoạt cảnh một người ngồi bó gối, sau vai có hai con rồng quấn phía sau. Rồi giữa hoạt cảnh của nhiều hoạt động như đi săn (có hai người gánh một con thú săn được), phía sau có một con chó săn, cảnh hái củi, dắt ngựa... có con rồng huyền thoại bình thản hoà mình vào khung cảnh của đời sống hiện thực (đình Hương Canh, Vĩnh Phúc).

Thế kỷ XVIII thủ pháp này được sử dụng hạn chế dần, ở đình Dư Hàng (Hải Phòng) có một bức chạm đầu rồng, dưới ngay miệng rồng có một con chó quay đầu lại nhìn vào mặt rồng. Dường như người nghệ sỹ nông dân trong khi sáng tạo đồng thời sống trong cõi thực và cõi mơ.

Danh họa Trần Văn Cẩn nhận định: “Xem trong nghệ thuật cổ truyền dân tộc, thì rõ ràng chính cái vốn về chạm trổ lại giàu có, độc đáo còn hơn cả vốn hội họa về những đức tính tạo hình rất sáng tạo của người xưa, đã kết hợp nhuần nhuyễn tài tình hai tính chất tưởng như không đi được với nhau: tính hiện thực với tính trang trí”.

Từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến XIX, chạm khắc trong đình làng đã giảm sút về số lượng và chất lượng. Các đề tài có tính quy phạm, nghiêm nhặt như Tứ linh, Tứ quý và hoa lá, mà ít có những hoạt cảnh đời sống.

6.Biểu tượng hóa:

Khi giao lưu với văn hóa Trung Hoa, người Việt tiếp thu nhiều môtíp trang trí có tính biểu tượng. Thủ pháp sử dụng những môtíp trang trí có tính biểu tượng được người nghệ nhân dân gian thể hiện tập trung trong những ngôi đình muộn, nhất là những đình làng thời Nguyễn (khi xây mới hoặc khi trùng tu đình làng vào thời Nguyễn). Với thủ pháp này, nhiều đề án trang trí có tính biểu tượng đã được sử dụng. Đứng đầu Tứ linh là con rồng với nhiều lớp nghĩa. Lớp nghĩa đầu tiên con rồng là biểu tượng cho mây, mưa, sấm chớp với tâm thức cầu mưa của cư dân nông nghiệp, sau khi tiếp thu văn hóa Trung Hoa thì con rồng mang biểu tượng cho uy quyền của bậc quân vương. ở những ngôi đình thế kỷ XVI, môtíp rồng đã được chạm khắc rất nhiều trên kiến trúc; sau đó môtíp rồng - tiên có biểu tượng cho ý nghĩa cội nguồn “con rồng cháu tiên”. Trong đình làng, con rồng làm tăng “uy quyền” của Thành Hoàng làng, vị vua tinh thần của làng. Con lân, linh vật huyền thoại, biểu trưng cho ước vọng thái bình; quy (rùa) biểu tượng cho sự trường tồn, trường thọ và phượng biểu tượng cho hạnh phúc, sang quý. Có một điều chúng ta nhận thấy: hiếm khi 4 linh vật được sử dụng trong một đề án trang trí mà thường sử dụng cặp đôi như rồng - phượng hoặc lân - quy.

Trong Tứ linh có bổ sung 4 con vật nữa để thành Bát vật. Đó là ngư-phúc-hạc-hổ. Ngư (cá) gắn với truyền thuyết “cá hóa rồng” biểu tượng cho sự thành đạt, hanh thông; phúc (dơi) biểu tượng cho phúc đức; hạc biểu tượng cho sự cao khiết và trường thọ; hổ là chúa sơn lâm, biểu tượng cho sức mạnh, có thể trấn áp tà ma.

Trong Tứ quý có 4 loài cây: mai - biểu tượng cho sự hồn nhiên; lan - biểu tượng cho sự tinh khiết; cúc - biểu tượng cho sự thanh nhàn mà sang trọng; trúc - thể hiện tính cách cứng rắn của người quân tử. Đồng thời Tứ quý còn mang ý nghĩa của 4 mùa trong năm.

Ngoài ra các môtíp trang trí cặp đôi như: rồng-phượng, lưỡng long chầu nguyệt, phượng hàm thư, tiên-rồng... đều giàu tính biểu tượng, thể hiện ước vọng về sự cao sang, hạnh phúc, trường thọ, phúc lộc dồi dào.

Đặc trưng của nghệ thuật điêu khắc đình làng


Với sự phong phú về đề tài phản ánh, đa dạng về thủ pháp tạo hình và trình độ cao về kỹ thuật chạm khắc gỗ, điêu khắc đình làng có một số đặc trưng cơ bản:

7.Hồn nhiên, mộc mạc, sinh động trong phản ánh hiện thực:
 
Điêu khắc trang trí đình làng thực sự là cuốn biên niên sử về làng xã đồng bằng Bắc Bộ mấy trăm năm qua. Các hoạt cảnh của những phù điêu đình làng Bắc Bộ đã làm hiển hiện trước mắt chúng ta cuộc sống của những người nông dân Bắc Bộ. Đề tài phản ánh hiện thực khá phong phú đa dạng. Hoạt động của đời sống thường nhật của những người nông dân dường như vẫn xôn xao, cuồn cuộn sống động trong những ngôi đình làng còn tồn tại đến ngày nay.

Các sinh hoạt của muôn mặt đời thường như: cho con bú, tắm đầm sen, uống rượu, đánh cờ, đá cầu, cho lợn ăn, đi săn, đánh hổ, đi cày, đánh vật, chải tóc, gãi chân cho nhau... đến cảnh quan quân cướp bóc dân lành, phạt vạ, táng mả hàm rồng, vinh quy bái tổ, hội làng... đều được người nghệ sỹ nông dân đưa vào các bức chạm khắc một cách hồn nhiên, làm cho người ta có cảm tưởng cuộc sống chạy thẳng vào tác phẩm chạm khắc, mà không tuân theo một quy định nào về nghệ thuật, quan điểm, thẩm mỹ.

Nhiều chi tiết có tính chất dân tộc học của xã hội truyền thống ở mảng chạm khắc, cung cấp cho chúng ta thông tin về những nhân vật cụ thể thuộc những tầng lớp khác nhau như: lính, quan võ, quan văn, nông dân, người biểu diễn xiếc... Rồi những chi tiết về y phục, trang sức của nhiều người khác nhau như: cái khố, khẩu súng kíp, mũ, nón quai thao, cái yếm, để tóc trần, tóc dài... Chính tính hiện thực phong phú đã làm nên giá trị lịch sử đặc sắc cho điêu khắc đình làng. Bằng những nhát đục bạt khoẻ khoắn, thô phác, với cảm hứng sáng tạo dạt dào, hiện thực cuộc sống ở làng dường như lung linh, sinh động cho đến ngày nay.

8.Khái quát cao trong thủ pháp tạo hình:

Sự độc đáo của nghệ thuật điêu khắc trang trí đình làng thể hiện ở tính khái quát cao trong thủ pháp xây dựng tác phẩm như nhấn mạnh trọng tâm, biết chọn những vấn đề quan trọng nhất để diễn tả, phản ánh, hướng người xem vào nội dung, giản lược về hình thức, để không ảnh hưởng đến quá trình tri giác. Các chạm khắc đình làng đã bỏ qua định luật xa gần, những nguyên tắc về giải phẫu, bố cục, tính hợp lý của hiện thực, để tạo ra một sự hợp lý của nghệ thuật do người nghệ sỹ dân gian sáng tạo ra.

Để đạt được mục đích này người nghệ nhân dân gian đã sử dụng nhiều thủ pháp tạo hình như: thủ pháp đồng hiện, để mở rộng không gian, thời gian; thủ pháp cường điệu, gây ấn tượng bằng cách nhân cách hóa nhân vật; thủ pháp nhiều điểm nhìn để tạo ra cái nhìn lập thể đặc sắc; thủ pháp biểu tượng hóa để thể hiện nhân sinh quan, vũ trụ quan. Người nghệ nhân xưa quan niệm cái đẹp, cái hợp lý tựu trung là phải “thuận mắt”. Gợi, tạo liên tưởng, quan trọng hơn tả.

9.Giàu tính nhân bản:

Phù điêu trang trí đình làng đồng bằng Bắc Bộ là bài ca về cuộc sống và con người. Tính trữ tình và biểu cảm tràn ngập trong các bức chạm khắc. Người nông dân Bắc Bộ sống hoà hợp với thiên nhiên, muông thú. Các môtíp cây-hoa-lá rất nhiều và luôn quấn quýt xung quanh nhân vật. Những cảnh sinh hoạt được phản ánh rất bình dị như: mẹ cho con bú, gánh con, chăn lợn, cày ruộng, dắt ngựa, uống rượu, chọi gà, đánh vật, làm xiếc, hội làng... Nguyễn Đỗ Cung đã nhận định: “Cảnh vật tự nhiên mộc mạc, cuộc sống và những cuộc đấu tranh hàng ngày liền được biểu hiện với những hình thức giản dị, trực tiếp, vật và người trong đời sống bình thường được thể hiện trong nghệ thuật, lấn át những con vật thần thoại và những nhân vật có tính ước lệ cao”.

Việt Nam là đất nước đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh tàn khốc, nhưng bản chất trọng tình cảm đã khiến trong các tác phẩm điêu khắc của những người nghệ sỹ-nông dân hầu như không có đề tài chiến tranh, chủ yếu là những đề tài ca ngợi tình cảm đằm thắm của con người với con người, con người với thiên nhiên, muông thú, như: cảnh trai gái vui đùa, tắm đầm sen, đấu vật... Không chỉ tình cảm của con người mà tình cảm của con vật cũng được biểu hiện sinh động mạnh mẽ như bức chạm “rồng ổ” (rồng mẹ với đàn rồng con) ở rất nhiều đình làng, cảnh đàn khỉ đang ôm ấp đùa nghịch nhau (đình Hưng Lộc, Nam Định)... Trong các tác phẩm điêu khắc đình làng cũng không có những nhân vật hung ác. Con rồng là linh vật thiêng liêng, qua bàn tay tạo tác của người nghệ nhân cũng trở nên quen thuộc. Cô tiên trong đồ án trang trí thần thoại như: tiên-hạc, tiên-rồng, tiên múa, tiên đánh đàn... trông rất bình dị, hiền lành như những cô thôn nữ ở làng.

Đặc biệt, hình tượng người phụ nữ được thể hiện khá phong phú. Tư tưởng Nho giáo coi phụ nữ là “phụ nhân nan hóa”, “ thập nữ viết vô”; phong bế dục vọng, nam nữ “thụ thụ bất thân”... thì trong điêu khắc đình làng các người nghệ sĩ nông dân công khai bộc lộ dục vọng, lạc thú của con người, miêu tả một cách hiện thực cảnh trai gái tình tự, giao hoan, cảnh phụ nữ khỏa thân, tắm đầm sen... như ở đình Đông Viên (Ba Vì, Hà Tây), đình Đại Phùng (Hoài Đức, Hà Tây), đình Phù Lão (Lạng Giang, Bắc Giang)... Có thể nói, đề tài của điêu khắc trang trí đình làng đã hướng về con người, thể hiện những nhu cầu sống, những khát vọng, ước mơ về một cuộc sống no đủ, lạc thú, hạnh phúc và thanh bình của những người nông dân chất phác mộc mạc, yêu đời.

10.Tính lưỡng nguyên trong nghệ thuật tạo hình:

Đặc tính này cũng thể hiện tư duy lưỡng phân, lưỡng hợp của người Việt. Trần Quốc Vượng (1996) đã nhận định: “ý niệm lưỡng phân và lưỡng hợp này còn đeo đuổi tư duy Việt cổ nhiều lắm, lâu lắm”.

Tính lưỡng nguyên trong thủ pháp tạo hình điêu khắc đình làng đã kết hợp những yếu tố nhiều khi trái ngược nhau về tính chất như: trang trí với tả thực; kết hợp phù điêu với tượng tròn; đường nét với hình khối; kết hợp thủ pháp cách điệu hóa có tính biểu tượng, với hoạt cảnh có tính khái quát; đưa những chủ đề trái ngược nhau vào một bố cục như yếu tố thiêng vào một khung cảnh của đời sống hiện tại.

Nghệ thuật điêu khắc đình làng chứa đựng những giá trị tạo hình độc đáo, thể hiện xu hướng có tính lưỡng nguyên, đó là xu hướng nhập thế và thoát ly. Hai xu hướng này đan xen vào nhau, tuy đậm nhạt có lúc khác nhau. Thế kỷ XVI - XVII, xu hướng nhập thế thể hiện tính trội, khi các hoạt cảnh của đời sống tràn vào các ngôi đình với cảm hứng dạt dào. Chính nó đã làm nên giá trị độc đáo nhất của điêu khắc đình làng. Từ thế kỷ XVIII trở đi, xu hướng nhập thế giảm dần nhường chỗ cho xu hướng thoát ly có nhiều nhiều yếu tố tâm linh, tín ngưỡng. Xu hướng thoát ly được tăng cường cùng với việc sử dụng nhiều mô típ trang trí có tính biểu tượng, nhằm sùng bái và linh thiêng hóa vị Thành Hoàng làng, nhất từ khi nhà Nguyễn đưa Nho giáo về vị trí độc tôn. Trong điêu khắc ở các ngôi đình đã vắng bóng đề tài cuộc sống. Các bức chạm khắc với đề tài mang tính công thức, thiên về trang trí.

Có thể xem xét tính lưỡng nguyên qua bảng so sánh sau:

1 - Tính chất Kết hợp - Cách tạo hình kết hợp Trang trí và hoạt cảnh

2 - Tính chất Loại hình - Cách tạo hình kết hợp Phù điêu và Tượng tròn, Đường nét và Hình khối

3 - Tính chất Thủ pháp - Cách tạo hình kết hợp Cách điệu và Tả thực, Biểu tượng hóa và Khái quát hóa

4 - Tính chất Cách thức - Cách tạo hình kết hợp Nhiều chi tiết và Ít chi tiết, không có khoảng trống và có khoảng trống

5 - Tính chất Xu hướng - Cách tạo hình kết hợp Thoát ly và Nhập thế,

6 - Tính chất Chủ đề - Cách tạo hình kết hợp Cái thiêng và Cái hiện thực

Đình làng - một thiết chế văn hóa tín ngưỡng xuất hiện vào cuối thời Lê sơ, đã được đã được các học giả người Pháp nghiên cứu từ khá sớm, nhưng với hệ quy chiếu của thẩm mỹ Hy -La, họ đã bỏ qua điêu khắc đình làng, mà không nhìn ra giá trị đích thực của chúng. Ngày hôm nay, với ánh sáng của nghệ thuật hiện đại, điêu khắc đình làng (mà loại hình nổi bật là phù điêu) thực sự được đánh giá và tôn vinh là một di sản văn hóa, di sản mỹ thuật quý báu của dân tộc.

-------

Chú thích:

1. Trẻ em, với cái nhìn từ bỏ lý tính, thường vẽ tranh với cái nhìn đồng hiện, cường điệu, nhiều điểm nhìn... Danh họa Matisse (1869-1954), người mở đầu cho trường phái Dã thú và Rousseau (1844-1910), người khai sinh trường phái Ngây thơ (Naif) cũng được coi đã sử dụng con mắt trẻ thơ để nhìn và phản ánh thế giới, đã làm một cuộc cách mạng về thẩm mỹ trong nghệ thuật tạo hình đầu thế kỷ XX.

2, 3. Thái Bá Vân, Tiếp xúc nghệ thuật, Viện Mỹ thuật, Hà Nội, 1997, tr.309, 308.

4. Nhiều tác giả, Những vấn đề mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội, 1997, tr.7.

5. Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung, Việt Nam điêu khắc dân gian, Nxb Ngoại Văn, Hà Nội, 1975, tr.3.

6. Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hóa dân tộc, Tạp chi Văn hóa - Nghệ thuật, Hà Nội, 2000, tr.27.

Nghệ thuật đình làng Bắc Bộ - Nguyễn Văn Cương - Tạp chí Văn hóa nghệ thuật