Giải mã bí ẩn những pho "tượng táng" ở Việt Nam I-V (hết)

Mới đây, PGS.TS, nhà nhân chủng học Nguyễn Lân Cường đã công bố công trình nghiên cứu để đời của ông với tiêu đề: “Bí mật phía sau nhục thân của các vị thiền sư”. Công trình này đã gây được sự chú ý đặc biệt của công chúng.

PV VTC News đã có buổi gặp gỡ trò chuyện với TS. Nguyễn Lân Cường để tìm hiểu những câu chuyện trong và ngoài cuốn sách. Cùng với những tài liệu TS. Cường cung cấp, tác giả đã về những ngôi chùa, nơi chứa nhục thân của các vị thiền sư, những mong chuyển tải thông tin hấp dẫn và sống động đến độc giả.

Con đường nhỏ gập ghềnh ổ gà ổ vịt, lúc xuyên qua làng mạc, lúc cắt qua cánh đồng dẫn đến ngôi chùa Đậu nằm cuối làng Gia Phúc (xã Nguyễn Trãi, Thường Tín, Hà Nội).

Chùa Đậu nằm giữa cánh đồng, có dòng sông Nhuệ chảy uốn lượn sau lưng và những hồ nước lớn bao bọc xung quanh khiến chùa như được tạo dựng ngoài đảo. Đứng từ xa nhìn lại, chợt động tâm thấy cảnh nước biếc gương soi thấu cửa thiền.

Bìa cuốn sách của "Nhà xương học" Nguyễn Lân Cường.

Chúng tôi đến chùa đúng vào ngày nhà chùa đang tổ chức lễ cầu siêu, nên có rất đông phật tử. Cạnh nhà thờ tổ, trong tư thất tuềnh toàng, đại đức Thích Thanh Nhung đang ngồi nhai trầu bỏm bẻm với dáng vẻ rất thư thái.

Là người nhiều năm trụ trì chùa Đậu nên đại đức Thích Thanh Nhung nắm rõ mọi thông tin về ngôi chùa cổ đặc biệt này.

Theo bia Dương Hòa thứ 5 (1639) hiện vẫn đặt tại chùa Đậu, thì ngôi chùa này được xây dựng từ thời Lý, thế kỷ thứ 11 và 12. Còn theo truyền thuyết thì chùa được xây dựng từ thời Sĩ Nhiếp (thế kỷ thứ 3), cùng với chùa Dâu.

 

Chùa Đậu.

Khi đó, bầu trời ở phía Nam cung thành có một luồng kinh khí. Theo lệnh vua, Quách Thông đã đi tìm hiểu sự lạ. Về tới đất Gia Phúc, thấy thế đất rất trông tựa dáng hình một đóa hoa sen đang nở tỏa sáng liền tả lại cho Sĩ Nhiếp. Sĩ Nhiếp cho rằng hoa sen là nơi đất Phật, bèn cho lập chùa, đặt tên là Thành Đạo Từ.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đặc biệt là sự tàn phá của chiến tranh, thời tiết, chùa đã được tu sửa nhiều lần, nên kiến trúc còn lại mang dấu ấn của thời Lê – Nguyễn.

 

Chùa Đậu lúc nào cũng đông phật tử.

Ngôi chùa này có tới 5 tên gọi khác nhau gồm Thành Đạo Từ, Pháp Vũ Tự, chùa Vua, chùa Bà và chùa Đậu.

Các cụ già ở thôn Gia Phúc giải thích rằng, tên gốc do Sĩ Nhiếp đặt là Thành Đạo Từ, nhưng chùa lại thờ Đức Pháp Vũ, nên gọi là Pháp Vũ Tự. Ngày trước, do đích thân nhà vua tìm đất dựng chùa và ngôi chùa này vốn một thời chỉ dành cho vua chúa đến lễ, dân chỉ được lễ trong 3 ngày hội, nên mới gọi là chùa Vua.

Bồ Tát hiện thân là giới nữ, nên dân lại gọi là chùa Bà. Bậc chí sĩ đến chùa cầu nghiệp lớn được đậu đạt, người dân đến chùa cầu thì trồng cây đều ra hoa đậu quả, nên dân gian gọi là chùa Đậu. Cái tên giản dị này lại trở nên thông dụng nhất.

 

Nhục thân thiền sư Vũ Khắc Minh được đặt trang nghiêm trong nhà thờ tổ.

Cũng theo các cụ già trong làng Gia Phúc, trước khi bị thực dân Pháp đốt vào năm 1947, chùa còn lưu giữ rất nhiều vật quý vua ban, cả ngôi chính điện rất lớn và đẹp.

Tôi lang thang trên nền khu chính điện xưa kia với những chân cột đá lớn trơ trụi mà trong lòng trào dâng cảm giác luyến tiếc.

Đại đức Thích Thanh Nhung dẫn tôi vào nhà tổ chiêm ngưỡng nhục thân hai vị thiền sư nổi tiếng Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường.

 

Nhục thân thiền sư Vũ Khắc Trường.

Hai vị thiền sư đã được các nhà khoa học tu bổ, ngồi trầm mặc với tư thế tọa thiền trong lồng kính. Phía dưới nền nhà, rất nhiều người đang ngồi khoanh chân chắp tay niệm phật. Họ mang đủ chuyện hỷ nộ ái ố đến “tâm sự” rồi cầu sự bình an.

 

Cầu khấn dưới chân thiền sư Vũ Khắc Minh.

Theo Đại đức Thích Thanh Nhung, hiện trong chùa Đậu có tới 2 pho tượng thiền sư Nguyễn Khắc Minh và 2 pho  thiền sư Nguyễn Khắc Trường. Tuy nhiên, chỉ có 2 pho thật đặt ở nhà tổ, 2 pho bằng thạch cao để trong am thờ cạnh chùa. Vì am thờ dột nát, ẩm thấp, nên không thể để hai vị ngồi đó.

Truyền thuyết kể lại rằng, xưa kia, làng Gia Phúc có hai ông, một chú, một cháu, từ bé đến cuối đời chỉ ăn rau. Lớn lên một chút thì vào chùa Đậu tu hành. Vậy nên, nhân dân quanh vùng thường gọi thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường là “nhà sư Rau”.

Cả đời hai ông chỉ ăn một bữa cơm rau vào chính Ngọ, rồi lại ngồi trong chùa tụng kinh gõ mõ siêu độ cho nhân gian.

 

Những nhà khoa học, nghệ nhân tu bổ hai pho tượng nổi tiếng ở chùa Đậu.

Đoán biết mệnh số đã tận, thiền sư Vũ Khắc Minh dặn đệ tử: “Sau đúng 100 ngày, nếu không nghe thấy tiếng mõ tụng kinh của ta nữa thì hãy mở cửa am. Nếu thi thể ta hôi thối thì dùng đất lấp am lại, còn thi thể ta nguyên vẹn, không có mùi thì lấy sơn bả lên người ta trước khi xây bịt kín am”.

Dặn xong đệ tử, ông mang theo một chum nước uống, một chum nhỏ đựng dầu thắp sáng rồi vào trong am ngồi tụng kinh, niệm Phật. Đệ tử bịt kín cửa am lại, chỉ để hở một lỗ nhỏ thông khí.

Đúng 100 ngày sau, không nghe thấy tiếng mõ tụng kinh nữa, đệ tử mở cửa am thì thấy nhà sư viên tịch trong tư thế ngồi thiền. Các đệ tử đã làm như thiền sư Vũ Khắc Minh dặn.

Theo truyền thuyết, người cháu của thiền sư Vũ Khắc Minh là Vũ Khắc Trường cũng vào am gõ mõ tụng kinh và hóa như vậy.

Câu chuyện về hai vị thiền sư viên tịch trong tư thế ngồi thiền tồn tại như một truyền thuyết lưu truyền trong dân gian...
Còn tiếp…

Phạm Ngọc Dương (VTC News)


(VTC News) - Tại sao nội tạng, da thịt của các vị thiền sư không bị thối rữa, trong khi các vị thiền sư này không dùng bất cứ một loại chất ướp xác nào?

Câu chuyện về hai vị thiền sư nổi tiếng Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường sau 100 ngày không ăn, không ngủ, dù linh hồn đã lên cõi Phật, song còn để lại nhân gian một xá lợi bất hoại, được lưu truyền trong những câu chuyện dân gian. Người dân ở làng Gia Phúc ai cũng biết và kể chuyện này. Những vị sư trụ trì chùa Đậu cũng nắm rõ truyền thuyết và kể lại cho người viếng chùa nghe, thế nhưng, thực hư thế nào, xá lợi hai vị sư hiện ra sao thì không ai biết rõ.

Tấm bia cổ ghi lịch sử chùa Đậu.

Năm 1983, Viện Khảo cổ học cử một đoàn cán bộ, trong đó có ông Nguyễn Lân Cường về chùa Đậu kiểm tra sự xuống cấp của cái gác chuông.

Sau khi đi một vòng quan sát những di sản, hiện vật quý của chùa Đậu, nhà khảo cổ Nguyễn Lân Cường đứng rất lâu trước một chiếc am thờ bên cạnh chùa.

Ông Cường xúc động nhớ lại giây phút đặc biệt đó: “Tôi đã đứng lặng người rất lâu trước chiếc am nhỏ bên phải chùa. Thiền sư Vũ Khắc Minh ngồi đó, phía sau mành, đôi mắt lim dim như đang suy tư về cõi Phật”.

Am chứa nhục thân thiền sư Vũ Khắc Minh.

Phía bên phải chùa cũng có một chiếc am nữa. Bên trong tháp cũng có một vị thiền sư và theo trụ trì chùa, đó là nhục thân của thiền sư Vũ Khắc Trường, mà theo truyền thuyết là cháu của thiền sư Vũ Khắc Minh. Tuy nhiên, theo ông Cường, không có cứ liệu nào khẳng định thiền sư Vũ Khắc Trường là cháu thiền sư Vũ Khắc Minh.

Như bị pho tượng kỳ lạ hút hồn, nhà khảo cổ Nguyễn Lân Cường đã tiến lại vén mành. Ông phát hiện ra vết nứt trên trán pho tượng. Qua vết nứt rất nhỏ, chỉ chừng 0,2cm, ông nhìn rõ xương sọ. Như vậy, ông chắc chắn bên trong pho tượng này chứa hài cốt người, chỉ có điều đây là hình thức táng nào thì còn phải nghiên cứu kỹ mới có được câu trả lời.

Nhục thân thiền sư Vũ Khắc Trường.

Thế là, nhục thân thiền sư Vũ Khắc Minh được đưa về phòng chụp X-quang của Bệnh viện Bạch Mai. Qua các phim chụp, “nhà xương học” hàng đầu Việt Nam đã rất ngạc nhiên khi không phát hiện được vết đục nào trên hộp sọ.

Qua các tài liệu khoa học nghiên cứu về ướp xác, đặc biệt là các xác ướp nổi tiếng của Ai Cập, những nhà chuyên môn biết rằng, để ướp được xác, người ta thường đục thủng phần xương lá mía và nền sọ hoặc đỉnh sọ để lấy não. Sau đó, người ta độn vải hoặc những chất bảo quản vào trong xương sọ.

Thiền sư Vũ Khắc Minh viên tịch trong tư thế kiết già.

Từ việc không có vết đục ở sọ, nhà khoa học Nguyễn Lân Cường khẳng định rằng, não của thiền sư Vũ Khắc Minh đã không bị lấy ra khỏi cơ thể.

Nhưng liệu có phải các đệ tử đã dựng một pho tượng rỗng, rồi xắp xếp xương cốt của vị thiền sư này vào trong bụng pho tượng? “Nhà xương học” Nguyễn Lân Cường khẳng định chắc chắn: “Qua những thước phim chiếu chụp, kể cả quá trình tu bổ pho tượng, chúng tôi đã không tìm được bất kỳ một vật liệu nào như chất kết dính, dây, giá đỡ… để cố định và đỡ xương. Các xương cũng đều nằm đúng vị trí giải phẫu học”.

Thiền sư Vũ Khắc Trường (bên trái) vẫn hở xương chân khi chưa tu bổ xong.

Sau nhiều ngày nghiên cứu, tìm hiểu, chiếu chụp, không tìm thấy chất kết dính, chuyên gia  Nguyễn Lân Cường đã khẳng định với toàn thể thế giới rằng, ông đã phát hiện ra một hình thức táng mới ở Việt Nam. Ông đặt tên cho hình thức táng này là tượng táng hoặc thiền táng. Từ đấy, giới khoa học gọi nhục thân của các vị thiền sư ở Việt Nam là tượng táng, riêng nhà Phật thì thích cách gọi thiền táng hơn.

Sau này, khi nghiên cứu rộng ra toàn thế giới, PGS Nguyễn Lân Cường mới biết rằng, phương thức táng này cũng có ở Trung Quốc, mà cụ thể là di hài Lục Tổ Huệ Năng (638 - 713). Hiện nhục thân vẫn còn đến hôm nay và được để ở chùa Hoa Nam (huyện Thiều Quang, Quảng Đông).

PGS Nguyễn Lân Cường vẫn chưa trả lời được rất nhiều bí mật liên quan đến nhục thân các vị thiền sư.


Trong các tài liệu chính sử của Việt Nam cũng ghi chép về việc Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, thiền sư Giác Hải để lại xá lợi sau khi hóa. Tuy nhiên, trải qua binh biến, giặc dã, hiện xá lợi của những tổ sư này không còn nữa.

Để tìm được câu trả lời về cách táng tượng này,  PGS Nguyễn Lân Cường đã cùng các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu nhiều năm ròng. Việc tìm hiểu chất liệu để làm tượng được các nhà khoa học đặc biệt chú ý.

Các nhà khoa học đã tìm ra chất liệu làm tượng giữ thi hài thiền sư Vũ Khắc Minh và thiền sư Vũ Khắc Trường khá đơn giản, gồm sơn ta, đất tổ mối, mùn cưa, giấy bản…

Người dân tin rằng hai vị "sư Rau" rất linh thiêng.

Qua việc nghiên cứu nhục thân của hai vị thiền sư Chùa Đậu, kết hợp với truyền thuyết dân gian, PGS Nguyễn Lân Cường đã mô tả hành trình táng tượng như sau:

Sau 100 ngày nhập tịch, tiếng mõ trong am cạnh chùa dứt, các học trò đã mở am, phát hiện thiền sư Vũ Khắc Minh viên tịch trong tư thế vẫn ngồi kiết già, không có mùi hôi thối, các học trò đã lập tức tiến hành táng tượng.

Đất gò mối rất mịn, tơi, mùn cưa, giấy bản giã thành bột, được trộn với sơn ta thành một loại hỗn hợp. Người ta đã quét hỗn hợp này lên cơ thể thiền sư Vũ Khắc Minh một lớp dày để làm khung đỡ giữ cho xác nguyên dạng.

Tiếp đó, người ta quét một lớp sơn ta kết hợp với việc dát những lá bạc mỏng. Lớp ngoài cùng là quang dầu. PGS. Nguyễn Lân Cường phát hiện ra rằng, kỹ thuật làm chất bồi để tượng táng các thiền sư cũng giống như cách tạo hoành phi, câu đối ở các đình chùa nước ta.

Cây sơn - loại vật liệu chính làm tượng táng.


Khám phá được chất liệu làm tượng táng, đúng 20 năm sau ngày phát hiện ra hai pho tượng chứa nhục thân bất hoại, năm 2003, PGS.TS. Nguyễn Lân Cường đã cùng các nghệ nhân, họa sĩ đã tiến hành tu bổ hai pho tượng chứa xá lợi toàn thân này.

Những vết nứt trên tượng táng thiền sư Vũ Khắc Minh được kết lại, xương cốt thiền sư Vũ Khắc Trường cũng được xắp xếp lại do khá lộn xộn.

Hiện tại, hai vị thiền sư đầy huyền thoại đã được tu bổ thành công và yên vị trong ngôi nhà tổ và được bảo quản kỹ càng trong tủ kính với môi trường khí ni-tơ đậm đặc. Với sự bảo quản kỹ lưỡng như thế này, nhục thân hai vị thiền sư sẽ là bất hoại.

Hàng vạn Phật tử không những cả nước mà khắp thế giới đã và đang tìm về chiêm bái hai vị thiền sư. Hàng chục bí mật bao phủ quanh hai vị thiền sư này đã được chuyên gia Nguyễn Lân Cường tìm ra. Tuy nhiên, vẫn còn hàng trăm bí mật mà PGS.TS. Nguyễn Lân Cường cũng như các nhà khoa học khắp thế giới vẫn chưa tìm được câu trả lời. Bí mật lớn nhất đó là, tại sao nội tạng, da thịt của các vị thiền sư không bị thối rữa, trong khi các vị thiền sư này không dùng bất cứ một loại chất ướp xác nào?

Còn tiếp…

Phạm Ngọc Dương (VTC News)


Qua khe hở do viên gạch rơi ra, ni sư Đàm Chính ghé mắt nhìn vào và giật mình suýt ngã khi thấy rõ ràng một người đang ngồi kiết già trong tháp.

Cách Hà Nội hơn 20km, trên đường đi Bắc Ninh, có tấm biển lớn chỉ đường về chùa Tiêu, thuộc xã Tương Giang (Từ Sơn, Bắc Ninh).

Giữa cánh đồng mênh mông trồi lên một ngọn núi, đứng từ xa trông rõ tượng thiền sư Vạn Hạnh khổng lồ nhìn về Thăng Long.

Tượng thiền sư Vạn Hạnh trên núi Tiêu nhìn về kinh thành Thăng Long.


Xưa kia, nơi đây phong cảnh sơn thủy hữu tình. Dòng Tương giang uốn lượn dưới chân núi Tiêu nay đã rời xa, biến thành bờ xôi ruộng mật, xóm làng trù phú.

Những ngày cuối năm, du khách viếng thăm Tiêu Sơn rất đông, nhang khói tỏa hương ngát cửa thiền. Tôi vòng ra sau chùa, đi dưới những hàng cây, trèo lên đỉnh núi ngắm những am tháp rêu phong, cổ kính. Thật đúng là: “Chim sáo cây rừng kêu ẩn sớm/ Chùa Tiêu bóng tháp khểnh nằm trưa” (Tiêu Sơn hoài cổ thi).

Ngôi chùa này vốn có tên Thiên Tâm, dựng từ thời Tiền Lê, là nơi thiền sư Vạn Hạnh tu thiền, giảng đạo và dạy dỗ vị vua đầy huyền thoại Lý Công Uẩn.

Trong gian nhà Tổ, dưới chân pho tượng chứa nhục thân bất hoại của thiền sư Như Trí, ni sư Đàm Chính ngồi trầm mặc, một tay lần tràng hạt, một tay đều đều gõ mõ lốc cốc.

Nhà Tổ của chùa Tiêu.

Du khách lặng lẽ đứng sau ni sư chắp tay khấn vái pho tượng nhục thân thiền sư Như Trí với lòng thành kính sâu sắc. Thiền sư Như Trí choàng tấm áo vàng, đôi mắt khép hờ, khuôn mặt phúc hậu, ngồi kiết già trong tủ kính.

Ni sư Đàm Chính đã ngoài 80 tuổi và đã có gần 70 năm gắn bó với chùa Tiêu. Ni sư Đàm Chính kể: “Ngày xưa, khắp ngọn núi Tiêu cây cỏ rậm rạp, rắn rết bò lổm ngổm đầy núi, nên chẳng ai dám vào khu vực có mộ tháp, nơi đặt xương cốt của các hòa thượng. Khu mộ tháp gần như bị bỏ quên

Như duyên trời, một ngày cách nay 60 năm, khi nhà chùa dọn cỏ ở tháp Viên Tuệ, thì một viên gạch rơi ra.

Nhà chùa cầm viên gạch ghép lại chỗ cũ, thì phát hiện thấy dòng chữ in trên viên gạch: Hòa thượng Như Trí, viên tịch năm 1723 (Bảo Thái năm thứ tư triều Lê Dục Tông). Sau này, tìm hiểu các tài liệu, thấy tên sư Như Trí đứng thứ 15 trong danh sách các vị hòa thượng đã trụ trì chùa Tiêu, vẫn được chùa cúng thỉnh”.

Tháp Viên Tuệ - nơi ni sư Đàm Chính đã phát hiện nhục thân thiền sư Như Trí.

Qua khe hở do viên gạch rơi ra, ni sư Đàm Chính ghé mắt nhìn vào và giật mình suýt ngã khi thấy rõ ràng một người đang ngồi kiết già trong tháp. Hoảng quá, ni sư Đàm Chính cầm viên gạch bịt kín lại và chôn chặt chuyện này trong lòng, không kể với bất kỳ ai.

Theo các tài liệu còn lưu lại ở chùa, thiền sư Như Trí là đệ tử nối pháp của thiền sư Chân Nguyên. Thiền sư Như Trí đã từng khắc in lại bộ Thiền Uyển Tập Anh, là bộ sách có giá trị đặc biệt không những về lịch sử Phật giáo mà còn là một tác phẩm truyền kỳ có giá trị về văn học, triết học và văn hóa dân gian.

Thiền sư Như Trí cùng người thầy Chân Nguyên của mình tiếp nối tinh thần phục hưng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Theo các tài liệu của thiền phái Trúc Lâm, sau khi mãn duyên độ sinh, ngài an nhiên trước sinh tử, nhập thất kiết già và để lại nhục thân bất hoại.

Thiền sư Như Trí lúc đang ngồi trong am tháp (Ảnh chụp lại ở chùa Tiêu).

Theo ni sư Đàm Chính, nếu không có sự kiện một người chăn trâu mò lên tháp tìm của quý, chọc thủng pho tượng thiền sư Như Trí, thì ni sư quyết đem bí mật về pho tượng kia xuống suối vàng.

Năm ấy, một người đàn ông trong làng, khi thả trâu trên núi Tiêu, đã mò lên tháp Viên Tuệ với ý định tìm… vàng bạc.

Gỡ mấy viên gạch ra, ông này nhìn thấy một pho tượng giống hệt một người còm nhom đang ngồi trong tháp. Do tò mò, ông ta đã kiếm một cây gậy chọc thử vào pho tượng. Kết quả, ông ta chọc thủng mặt vị thiền sư đã an tọa gần 300 năm trong tháp gạch rêu phong.

Sau này người chăn trâu này bị bệnh trọng, thế là lời đồn thổi về một nhà sư chết ngồi trong tháp rất linh thiêng lan truyền khắp xóm thôn.



Biết không thể giấu kín chuyện này mãi, ni sư Đàm Chính đã báo cáo với Hòa thượng Thích Thanh Từ - Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt.

PGS. TS Nguyễn Lân Cường kể, hồi đang tu bổ nhục thân Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu, một tỳ kheo của Thiền viện Trúc Lâm đã đến xem và có ý yêu cầu ông tu bổ giúp một nhục thân nữa, tuy nhiên, gặng hỏi mãi mà vị tỳ kheo kia nhất quyết không nói đó là nhục thân nào, ở chùa nào.

Đến tận năm 2004, sau khi viết xong dự án “Tu bổ và bảo quản thiền sư Như Trí ở chùa Tiêu Sơn” và được phê duyệt, TS. Nguyễn Lân Cường mới có điều kiện tiếp cận với nhục thể vị thiền sư kỳ lạ này.

Hầu hết thông tin từ pho tượng nhục thân của thiền sư Như Trí cung cấp cho TS. Nguyễn Lân Cường, cũng giống như nhục thân hai vị thiền sư chùa Đậu. Thiền sư Như Trí cũng tịch trong tư thế ngồi thiền và được các đệ tử phết bên ngoài bằng một lớp bồi gồm đất tổ mối, sơn ta, mùn cưa…

Điều khác biệt là trong lớp bồi không có thếp vàng, thếp bạc. Nhưng trong lớp bồi lại có những miếng đồng mỏng, có tác dụng đỡ cho nhục thân ngài qua nhiều năm không bị gục xuống.

Nhục thân thiền sư Như Trí khi chưa tu bổ.

Điều vô cùng ngạc nhiên với TS. Nguyễn Lân Cường khi tu bổ pho tượng táng này, đó là ông đã phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi nằm trong bụng thiền sư Như Trí.

Ông Cường khẳng định: “Tượng được phủ kín bằng lớp bồi, phía dưới lại có đáy gốm hình tòa sen, do đó, khối vật chất này không thể lọt vào ổ bụng được”.

Tin chắc khối vật chất này chính là nội tạng của thiền sư Như Trí, song ông Cường và các nhà khoa học vẫn lấy mẫu chuyển đến Viện Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia để phân tích.

Đúng như dự đoán, kết quả phân tích hóa học cho thấy, hợp chất lấy từ bụng thiền sư Như Trí chính là các chất còn lại của phần phủ tạng.

Từ kết quả này, TS. Nguyễn Lân Cường suy luận rằng, trong bụng hai vị thiền sư chùa Đậu cũng có khối hợp chất còn lại của nội tạng mà máy chụp X-quang không phát hiện được.

Nhục thân thiền sư Như Trí được đặt tại nhà Tổ sau khi đã tu bổ.

Theo lời TS. Nguyễn Lân Cường, khi mở am tháp, ông đau lòng vô cùng khi chứng kiến thiền sư Như Trí ngồi thiền trong môi trường ẩm mốc.

Với sự xâm hại nghiêm trọng của thời tiết, vi khuẩn, côn trùng hàng mấy trăm năm, lẽ ra toàn thể nhục thân của ngài đã phải về với cát bụi, thế nhưng, vì sao ngài vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí cả khối vật chất của phủ tạng cũng vẫn còn nguyên vẹn? Câu hỏi này chưa có lời giải đáp.

Việc tu bổ pho tượng táng nhục thân thiền sư Như Trí đã hoàn thành từ năm 2004. Thiền sư đã trở lại dáng vẻ gần như ban đầu và tiếp tục "ngồi kiết già" trong nhà thờ Tổ với sự bảo quản vô cùng kỹ lưỡng của khoa học hiện đại. 
Đã ngót 400 năm trôi qua kể từ ngày vị thiền sư người Trung Quốc viên tịch trong một ngôi chùa cổ ở Việt Nam, cuộc đời cũng như những bí mật tu hành của ngài vẫn còn vô vàn ẩn số…

Đứng trên núi Tiêu Sơn (nơi có ngôi chùa Tiêu và nhục thân thiền sư Như Trí) phóng tầm mắt qua những làng mạc, thấy núi Tiên như một tảng đá của thiên đàng đánh rơi.

Xung quanh ngọi núi thuộc huyện Tiên Du (Bắc Ninh) này, có rất nhiều huyền thoại liên quan đến tiên giới, trong đó có chuyện Từ Thức gặp tiên, rồi chuyện chàng tiều phu vào rừng đốn củi Vương Chất gặp hai ông tiên chơi cờ trên núi.

Linh thú uy nghiêm ở chùa Phật Tích.
Tượng Phật A-di-đà ngàn năm tuổi.

Chùa Phật Tích trên núi Tiên (còn gọi là núi Lạn Kha, núi Phật Tích) xây dựng vào thời Lý, năm Thái Bình thứ 4 (1057) với rất nhiều tòa ngang, dãy dọc.

Tôi chợt rùng mình bởi vẻ đẹp huyền ảo đầy chất thiền của bức tượng Phật A-di-đà khổng lồ được tạc bằng đá màu xanh ngọc nguyên khối. Theo sử liệu, năm 1066, vua Lý Thánh Tông đã cho xây dựng một ngôi tháp cao đến nỗi đứng ở kinh thành Thăng Long vẫn nhìn thấy. Đến đời Trần, tháp đổ, lộ ra pho tượng tuyệt đẹp này. Khi ấy, toàn bộ pho tượng được dát vàng óng ánh.

Du khách đứng lại dưới những tán cây rợp bóng, ngắm 10 pho tượng thú gồm sư tử, voi, tê giác, trâu, ngựa mỗi loại hai con. Những pho tượng đều được tạc bằng đá xanh nguyên khối.

Tượng thiền sư Chuyết Chuyết trong tháp Báo Nghiêm.

Đứng trên đỉnh non Tiên, nhìn ra tứ phía, chỉ biết mượn mấy câu thơ của tác gia Nguyễn Trãi khi ông về thăm và vịnh cảnh chùa: “Bóng xế thuyền con buộc/ Vội lên lễ Phật đài/ Mây về giường sãi lạnh/ Hoa rụng suối hương trôi/ Chiều tối vượn kêu rộn/ Núi quang, trúc bóng dài/ Ở trong dường có ý/ Muốn nói bỗng quên rồi”.

Lạc giữa rừng tháp đá và gạch nung gồm 32 ngôi, phần lớn được dựng từ thế kỷ 17, nơi cất giữ xá lị của các nhà sư từng trụ trì chùa, tôi chợt như nghe đâu đây tiếng mõ kêu lốc cốc đều đặn vang ra từ các am tháp.

Chỉ có những am tháp, những linh vật bằng đá khổng lồ, pho tượng Phật nặng nhiều tấn cùng một số cổ vật khác đào được từ lòng đất trong những lần khai quật là những gì ít ỏi còn lại của một thời vàng son. Toàn bộ ngôi chùa đã bị ngọn lửa thiêu rụi vào năm 1947.

Đại đức Thích Đức Thiện là người trụ trì ngôi chùa này sau nửa thế kỷ vắng tiếng kinh kệ. Đại đức về trụ trì từ năm 2002 sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Phật học tại Ấn Độ.

Tiến sĩ Phật học Thích Đức Thiện - trụ trì chùa Phật Tích.

Sinh ra tại Bắc Ninh, cái nôi của văn hóa Phật giáo, lại dành cả đời nghiên cứu Phật giáo, nên mọi thông tin về ngôi chùa cổ này Đại đức đều nắm rất rõ.

Lạc giữa “rừng mộ tháp” nghe chuyện thiền sư Chuyết Chuyết, mà thấy vẻ đẹp giản dị, song vô cùng bí ẩn và huyền diệu của Phật pháp.

Thiền sư Chuyết Chuyết sinh năm 1590, tại Tiệm Sơn (huyện Hải Trừng, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc), nay thuộc thành phố Dương Châu. Sư mang họ Lý, tên Thiên Tộ.

Truyền rằng, Thiên Tộ nằm trong bụng mẹ qúa 9 tháng 10 ngày rất lâu mới ra đời.

Tuổi thơ của Lý Thiên Tộ cực kỳ đau khổ.  Bố mẹ mất sớm, Thiên Tộ phải ở với chú. Dù còn nhỏ đã mất cả cha và mẹ cuộc sống nghèo khổ, song Thiên Tộ thông minh xuất chúng, học thông cả ngũ kinh tứ thư.

"Rừng mộ tháp" - nơi đặt xá lị của các hòa thượng trụ trì chùa Phật Tích.

Tuy nhiên, người chú không nuôi nổi, nên năm Thiên Tộ 15 tuổi, ông gửi vào chùa Tiệm Sơn. Khi được chú dắt đến chùa, trưởng lão Tiệm Sơn hỏi: “Ngươi định tạo sự nghiệp gì mà tìm về cửa Phật?”, Thiên Tộ thưa: “Giúp vua cứu dân”.

Sau khi luận về công danh, trưởng lão Tiệm Sơn thấy cậu bé còn ham danh lợi, song rất thông minh, nên đồng ý cho Thiên Tộ xuất gia, rồi giữ lại chùa để truyền dạy cho tỉnh ngộ. Thiên Tộ có pháp danh Viên Văn.

Biết kiến thức Phật giáo của mình không đủ để dạy Viên Văn, hòa thượng chùa Tiệm Sơn đã gửi sư cho hòa thượng Tăng Đà Đà ở Nam Sơn.

Sau khi luận về Phật pháp, hòa thượng Đà Đà nói với tăng ni trong chùa: “Ngày khác ta sẽ nhường chỗ cho kẻ này, y sẽ bước khỏi đầu sào trăm trượng”. Biết rằng sư Viên Văn là một người xuất chúng, nên truyền hết yếu chỉ tâm tông cho sư.

Tượng táng nhục thân thiền sư Chuyết Chuyết.


Chỉ một thời gian ngắn theo hòa thượng Đà Đà, sư Viên Văn đã đắc pháp, đi giáo hóa mười phương. Danh tiếng của ngài vang danh khắp thiên hạ, khiến học giả đương thời đều kính trọng.

Năm 18 tuổi, sư Viên Văn sang Campuchia hoằng pháp ròng rã 16 năm, được quốc vương xứ này quan tâm đặc biệt.

Năm 1623, ngài sang vùng Quảng Nam thuyết pháp, nhận thiền thư Minh Hành làm đệ tử.

Đến năm 1933, ngài cùng đệ tử đến kinh thành Thăng Long. Sau khi yết kiến vua Lê và chúa Trịnh, ngài được mời về trụ trì chùa Khán Sơn ở Thăng Long để giảng dạy Phật pháp. Từ đó, ngài được gọi là Chuyết Công hoặc Chuyết Chuyết.

Sau đó khoảng một năm, hòa thượng Chuyết Chuyết đi về chùa Phật Tích, trụ trì tại ngôi chùa cổ này. Tuy nhiên, sau đó, chúa Trịnh Tráng cho trùng tu chùa Bút Tháp, nên lại mời sư về trụ trì, giảng đạo ở ngôi chùa này cho đến khi viên tịch.

Đã gần 400 năm trôi qua kể từ ngày vị thiền sư người Trung Quốc này viên tịch trong một ngôi chùa cổ ở Việt Nam, cuộc đời cũng như những bí mật tu hành của ngài vẫn còn vô vàn ẩn số…

Còn tiếp…


Thế giới bí ẩn bao trùm nhục thân các vị thiền sư

Điều kỳ lạ là khi thiền sư mất, cả tháng trời khắp chùa có mùi hương thơm rất lạ.

Gần như cả cuộc đời hòa thượng Chuyết Chuyết dành cho việc hoằng pháp tứ phương.

Cũng như những thiền sư đã tu thành chính quả, biết mình sắp rời xa nhân thế, thiền sư Chuyết Chuyết gọi đệ tử đến bên dặn dò bằng mấy lời kệ: “Tre gầy thông vót nước rơi thơm/ Gió thoảng trăng non mát rờn rờn/ Nguyên Tây ai ở người nào biết/ Mỗi chiều chuông nổi đuổi hoàng hôn”. Lời kệ này được chép trong sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn.

 

Phục dựng thiền sư Chuyết Chuyết (Ảnh: Nguyễn Lân Cường).

Đọc xong lời kệ, các đệ tử thút thít khóc, thiền sư liền bảo: “Nếu ai động tâm khóc lóc thì không phải đệ tử của ta”. Nghe lời, các đệ tử nín thinh, ngồi gõ mõ tụng kinh. Tiếng kinh kệ vang lên đều đều. Thiền sư Chuyết Chuyết lặng lẽ bước vào tháp Báo Nghiêm, đệ tử bịt cửa tháp lại. Không gian yên lặng đến kỳ lạ, con chim không hót, con khỉ chẳng thấy kêu.

Ngày rằm tháng bảy năm Giáp Thân (1644), tiếng mõ ngừng vang từ tháp. Thiền sư Chuyết Chuyết viên tịch khi tròn 54 tuổi. Điều kỳ lạ là khi thiền sư mất, cả tháng trời khắp chùa có mùi hương thơm rất lạ.

Đệ tử chân truyền là thiền sư Minh Hành đã dùng kỹ thuật tượng táng phổ biến thời bấy giờ để bó cốt thầy, rồi đặt ngài vào tháp Báo Nghiêm.

 

Thiền sư Chuyết Chuyết đặt trong khám rồng.

Một thời gian sau, thiền sư Minh Hành đưa nhục thân thiền sư Chuyết Công vào một ngôi chùa tận trong Thanh Hóa để tránh chiến tranh, binh đao. Rồi không rõ nguyên nhân gì, các đệ tử lại đưa về nhà thờ tổ của chùa Phật Tích, sau đó đưa vào tháp Báo Nghiêm.

Lịch sử của Phật giáo ghi rõ thông tin về cuộc đời tu hành và nhục thân của thiền sư Chuyết Chuyết như vậy.

 

Khám rồng cổ - nơi đặt nhục thân thiền sư Chuyết Chuyết (Ảnh: Nguyễn Lân Cường).

Tháng 8 năm 1989 tượng nhục thân thiền sư Chuyết Chuyết được tìm thấy trên rừng mộ tháp, nhưng xương cốt còn tới 133 mảnh. Đống chất bồi làm tượng táng cũng cơ bản giống với chất bồi làm những pho tượng táng khác. Tuy nhiên, theo ý kiến của TS. Nguyễn Lân Cường, cách thức làm tượng táng thiền sư Chuyết Chuyết thì hoàn toàn khác.

Qua việc tìm thấy 7 đoạn dây đồng, TS. Nguyễn Lân Cường kết luận rằng, người ta đã không quét lớp bồi trực tiếp lên thân thể thiền sư Chuyết Chuyết, mà dùng dây đồng dựng khung xương rồi mới quét lớp bồi (?!).

 

Nhóm phục dựng cho TS. Nguyễn Lân Cường chỉ đạo đã không cần dùng giá đỡ xương vẫn phục dựng thành công nhục thân (Ảnh: Nguyễn Lân Cường).

TS. Nguyễn Lân Cường đã cùng họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân, nhà điêu khắc Bùi Đình Quang, họa sĩ Nguyễn Đình Hiển bỏ nhiều tháng trời nghiên cứu, phục dựng thành công pho tượng táng thiền sư Chuyết Chuyết.

Là nhà khoa học đầu tiên của Việt Nam được theo học phương pháp phục chế lại mặt theo xương sọ của giáo sư M.M. Gheraximov, nên TS. Nguyễn Lân Cường dễ dàng phục dựng lại khuôn mặt của thiền sư Chuyết Chuyết giống hơn cả pho tượng táng mà các thiền sư đã dựng cách nay mấy trăm năm.

Điều đặc biệt, TS. Nguyễn Lân Cường đã không cần dùng những sợi đồng để dựng khung xương như cách làm của người xưa với di hài của thiền sư Chuyết Chuyết. Ông cùng nhóm phục dựng đã gắn xương vào đúng vị trí giải phẫu trên chất liệu bồi, rồi quét tiếp lớp bồi nữa như táng tượng bình thường.

Ngày hoàn thành pho tượng táng là ngày đặc biệt đáng nhớ với TS. Nguyễn Lân Cường và nhóm phục dựng. Hàng ngàn người đã đổ về chùa Phật Tích chen nhau chiêm ngưỡng nhục thân vị thiền sư đầy huyền thoại này.

 

TS. Nguyễn Lân Cường luôn hy vọng lớp trẻ sẽ tiếp nối công việc nhọc nhằn song đầy ý nghĩa của ông.

Bí mật phía sau những pho tượng táng các thiền sư là gì? TS. Nguyễn Lân Cường đã trả lời khá đầy đủ trong công trình nghiên cứu để đời của ông: “Bí mật phía sau nhục thân của các vị thiền sư”. Tuy nhiên, những điều mà TS. Nguyễn Lân Cường trả lời chỉ là những lý giải mang tính chất khoa học thuần túy. TS. Nguyễn Lân Cường hiểu rằng, phía sau những nhục thân này là cả một thế giới bí ẩn cần tiếp tục nghiên cứu.

Đã sắp bước sang tuổi xưa nay hiếm, nên cứ sau mỗi cuộc nghiên cứu, tu bổ, TS. Nguyễn Lân Cường đều chụp hàng vạn tấm hình, quay hàng chục cuốn phim rồi nộp cả cho cục di sản văn hóa để làm tư liệu.

Ông bảo, ông làm thế là vì đã cao tuổi, lỡ có chuyện gì, lớp trẻ còn có cái để học tập. Biết đâu, một ngày nào đó, lại phát hiện thêm nhục thân của các vị thiền sư, các nhà khoa học trẻ có thể dựa vào kiến thức của ông để biết cách tu bổ.

Phạm Ngọc Dương (VTC News)