Lướt sóng mà đi

Ta về biển là ta có cơ hội tiếp xúc với biển, để thấy biển qua tâm và thấy tâm qua biển. Biển có những tính chất nào mà ta có thể tiếp xúc và học tập được từ nơi những tính chất ấy để chuyển hóa tâm ta. Ta có thể tiếp xúc và thấy rõ biển qua các tính chất như sau:

 

-         Tính Cạn Và Sâu :

Ta sẽ tiếp xúc tính cạn và sâu của biển, để ta có thể tiếp xúc tính cạn và sâu trong trong tâm linh của mỗi chúng ta. Biển đi từ cạn ra sâu và đến chỗ sâu hun hút.

Ta tiếp xúc với sắc thân này cũng vậy. Sắc thân được tạo nên từ bốn đại: đất, nước, gió, lửa. Đất là thể rắn nơi thân thể chúng ta; nước là thể lỏng, gió là thể khí và lửa là thể nhiệt ở nơi thân thể chúng ta. Nhìn sâu vào, bề cạn của thân thể được tạo nên từ các cảm thọ và các cảm giác. Do có cảm giác, nên ta thấy có vui, có buồn và không vui không buồn. Cái gì làm cho ta vui, cái gì làm cho ta buồn, cái gì làm cho ta không vui không buồn? Khi tâm ta tiếp xúc với các đối tượng mà ta thích ý sẽ phát sinh cảm giác vui thích trong ta. Khi ta tiếp xúc với các đối tượng không khả ý, thì cảm giác khó chịu nảy sinh trong ta, và khi ta tiếp xúc với đối tượng mà tâm ta không phải vừa ý, cũng không phải không vừa ý, ta có cảm giác trung tính. Như vậy, những cảm giác dễ chịu, khó chịu, trung tính đều nương nơi sắc uẩn này mà biểu hiện.

Rồi, ta đi sâu vào chiều sâu của các cảm thọ. Chiều sâu của cảm thọ là gì? Là tưởng, là ý tưởng. Có những trường hợp mà đối tượng không là gì cả, nhưng do ta tưởng tượng, nên thích ý thì vui, không thích ý thì buồn. Do đó, cái vui, buồn chỉ là cảm giác ảo do tưởng. Người đó không thương mình mà tưởng là thương thì vui, người đó không ghét mình mà tưởng là ghét nên buồn, đó là ảo tưởng.

Nên, tưởng là chiều sâu của thọ uẩn, sắc uẩn.

Chiều sâu của tưởng là gì? Sau tưởng là các chủng tử của tâm hành. Tâm là một biển cả mênh mông. Các chủng tử tâm hành giống như sóng và bọt của sóng trên mặt biển. Chính tâm hành đó làm tâm ta vẩn đục, không an ổn. Tâm hành là những hạt giống có khả năng tác nghiệp để dẫn đến quả báo khổ hay vui. Tâm hành tác động liên hệ đến các phiền não, tham, sân, si mãnh liệt bao nhiêu, thì sẽ nảy sinh quả báo khổ đau cho ta bấy nhiêu. Tâm hành liên hệ đến thiện tâm sở vô tham, vô sân, vô si bao nhiêu sẽ tạo ra quả báo hạnh phúc an lạc cho ta bấy nhiêu.

Như vậy, tâm hành là chiều sâu của tưởng.

Sau các chủng tử tâm hành là gì? Là nhận thức, còn gọi là thức uẩn. Thức uẩn là một tập hợp của tám nhận thức, gồm:

-       Nhãn căn tiếp xúc với sắc trần, phân biệt thuộc về mắt khởi sinh, gọi là nhãn thức.

-       Nhĩ căn tiếp xúc với thanh trần, phân biệt thuộc về tai khởi sinh, gọi là nhĩ thức.

-       Tỷ căn tiếp xúc với hương trần, phân biệt thuộc về mũi khởi sinh gọi là tỷ thức.

-       Thiệt căn tiếp xúc với vị trần, phân biệt thuộc về lưỡi khởi sinh, gọi là thiệt thức.

-       Thân tiếp xúc với xúc trần, phân biệt thuộc về thân khởi sinh, gọi là thân thức.

Năm cái biết thuộc về mắt, tai, mũi, lưỡi, thân là bề mặt, là cái biết vô hại, chúng chưa liên hệ đến ý thức.

Khi ý thức duyên vào năm nhận thức đó mà khởi lên sự phân biệt tốt xấu, hay duyên vào những ấn tượng tồn đọng trong A-lại-da thức mà khởi lên những tư niệm hay tác ý và tùy theo mức tác ý liên hệ đến các chủng tử tham, sân, si, mạn, nghi hay liên hệ đến các thiện tâm sở mà tạo ra nghiệp thiện hay ác và từ đó mà dẫn quả báo lành hay dữ.

Sau ý thức là mạt-na thức, tức là thức chấp ngã. Thức này chấp vào kiến phần của thức A-lại-da là tự ngã của nó.

Yếu tố thứ tám là A-lại-da thức. Thức này hàm chứa tất cả những chủng tử do nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức tạo tác, rồi đưa vào trong thức này cất giữ, khiến cho các chủng tử thiện ác không bị rơi mất. Vì vậy, đối với bảy thức trước, thức này được xem như là biển cả. Bao nhiêu chủng tử thiện, ác, tốt, xấu đều được hàm chứa ở trong biển A-lại-da thức này.

Cho nên, chúng ta tiếp xúc với biển cả là tiếp xúc từ cạn đến sâu và với tâm thức của chúng ta cũng từ cạn đến sâu, từ xấu đến tốt. Trong biển tâm của chúng ta hàm dung tất cả thiện, ác, tốt, xấu. Nếu thông minh, ta sẽ nuôi dưỡng và biểu hiện những hạt giống tốt để tạo ra vô lượng phước đức. Còn không thông minh ta sẽ nuôi dưỡng và biểu hiện những hạt giống xấu, rồi sẽ tạo ra vô số nghiệp xấu ác, khổ đau cho ta.

 

-Tính động và tịnh :

Biển động ở trên bề mặt, nhưng càng xuống sâu bao nhiêu lại càng yên tịnh bấy nhiêu. Nên cái động của sóng chỉ là cái động của hiện tượng bên ngoài.

Nhìn vào tâm thức chúng ta cũng vậy. Trong A-lại-da thức luôn luôn biến động, nhưng đó là cái động của nghiệp lực. Chiều sâu của nó là bất động, vì trong chiều sâu là Phật tính, là bản tính giác ngộ. Chúng ta phải biết tu tập để quay về với bản tính chân thường tự tại, với tự tính giác ngộ trong mỗi chúng ta.

Qua cái động của biển, mà ta tiếp xúc được cái động của tâm. Qua cái tịnh của biển mà ta tiếp xúc được cái tịnh của tâm. Tự tính vô ngã là bản thể thường trú của tâm, mà ta chỉ tiếp xúc được qua con mắt thiền quán.

 

- Tính dung và bất dung :

Biển dung hết tất cả xấu uế của bao nhiêu sông ngòi ao rãnh đổ về. Dung mà vô hại, vì biển vừa có tính bao dung vừa có tính chuyển hóa.

A-lại-da thức của ta cũng dung hết tất cả những chủng tử thiện, ác, tốt, xấu. Ví dụ, ta ngồi nghe hay đứng nhìn bất cứ một đối tượng nào đó, trong một khoảnh khắc nào đó, trong một không gian nào đó, thì hình ảnh tất cả chúng sẽ đi vào tiềm thức, vào A-lại-da thức của ta. Khi không nhớ, ta tưởng là quên, nhưng không bao giờ quên cả, chỉ là ẩn tàng. Đủ điều kiện, đủ duyên thì mọi chuyện sẽ hiện ra trước mắt. Nhờ đó mà những lời pháp ta học được sẽ không bao giờ quên. Quên, nhưng rồi sẽ nhớ, khi có một điều kiện nào xảy tới. Đó là tính dung nhiếp của A-lại-da thức.

Tính bất dung của biển là gì? Tính bất dung của biển là những rác bẩn thải ra biển đều trả lại cho bờ. Nên đặc tính của biển là không dung tử thi, không dung những ô nhiễm nhớp nhúa. Cũng vậy, A-lại-da thức, vùng Phật tính cũng không dung những ô nhiễm, phiền não của cuộc đời, nên tu là lướt sóng để chạm tới vùng thanh tịnh của tâm, tức là ta phải biết vượt qua những chướng ngại do phiền não và vô minh tạo ra.

Vậy, chúng ta phải thấy rõ như vậy, để ứng dụng vào đời sống hằng ngày của chúng ta.

 

Tính đồng nhất :

Sông ngòi, ao rãnh, hồ khi về biển đều mang tính chất riêng của nó. Nhưng khi tới biển rồi thì chỉ còn một mùi vị duy nhất là vị mặn. Đó là tính đồng nhất của biển. Cũng vậy, mỗi chúng ta khi đến thế giới này đều mang theo một nghiệp lực, một tâm thức khác nhau. Chúng ta đến với đạo Phật do nhiều nguyên nhân khác nhau. Có người vì cha mẹ mất, có người vì thất tình lục dục, vì những hoàn cảnh éo le ngang trái mà đến, nhưng cũng có người đến với đạo Phật là do khát vọng của tri thức, có người do tâm nguyện rộng lớn… Mỗi người một hoàn cảnh, nhưng khi đã hòa nhập và đạt tới chánh quả của đạo rồi, thì tất cả đều gặp nhau trong mùi vị duy nhất là mùi vị giải thoát, giác ngộ. Có người không hiểu sẽ cho đạo Phật là bi quan, yếm thế. Nhưng dù thực hành theo pháp môn nào, thiền, tịnh hay mật tông, đạo Phật cũng đều dẫn đến một cứu cánh là niết bàn giải thoát.

Do vậy, thấy được tính đồng nhất của biển để thấy được tính đồng nhất của các pháp môn. Thấy được điều đó, tâm ta sẽ bao dung hơn, cuộc đời tu hành sẽ thong dong tự tại, không còn phân biệt hơn thua phải trái, không đối đãi kỳ thị bên này bên kia. Mọi người khác nhau trong nghiệp lực, nhưng đồng nhất nhau trong Phật tánh.

"Nơi gặp gỡ là lời thơ chưa biến động

Là chỗ tận cùng suối vắng của tâm linh."

Khi thấy được sự đồng nhất của biển và của tâm thức như vậy, ta phải có pháp hành như thế nào? Đó là pháp hành “lướt sóng mà đi”.

Mỗi chúng ta khi tu học, ai cũng có khó khăn, trở ngại nhưng ta phải biết vượt qua chướng ngại đó, nên gọi là lướt sóng mà đi. Nếu không, ta sẽ bị sóng nhấn chìm hoặc đẩy chúng ta vào bờ. Lướt sóng ở đây là lướt sóng đời và cả sóng đạo để đi tới bờ giác. Chúng ta phải biết lướt sóng nơi nhãn thức mà đi, lướt sóng nơi nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức để về với tâm thức thanh tịnh vốn có trong tự tánh của mình. Nếu không, ta sẽ bị chìm đắm trong biển cả sinh tử, gió dập sóng vùi và trôi lăn mãi trong vòng sinh tử. Lướt sóng thức mà đi, để ta không còn bị mắc kẹt nơi nhân, nơi ngã, nơi pháp và phi pháp. Và như vậy, ta sẽ đến bến bờ bên kia (paramita), đến bến bờ giải thoát, giác ngộ.

 

Thích Thái Hòa