Duyên khởi

http://muabanhangngay.com/images/TINH-DAU-HOA-SEN-NGUYEN-CHAT-L%60ATURELLE-1.jpg
Tất cả các pháp đều do duyên sinh, cũng do duyên mà diệt mất. Đây là một chân lý tối diệu rất khó nghĩ bàn. Bằng hình tượng cụ thể mà nói thì chúng ta thấy mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ sinh diệt, diệt sinh luôn đi theo một nguyên lý nhất định. Nguyên lý ấy chính là Duyên khởi. Đây là điểm khởi nguyên cho tiến trình giải thoát, nếu ai chứng ngộ được nó thì người ấy đồng với Phật không khác. Bởi vậy, lúc sắp thành đạo, khi sao Mai vừa mọc, thái tử Tất-đạt-đa ngồi dưới cội Bồ-đề đã chứng ngộ quả vị Phật từ chân lý này; và từ đó mười hiệu Như lai, Ứng cúng,… được trời người tôn xưng trong thế gian.
Không những nguyên lý ấy chỉ là đặc điểm cá biệt của sự chứng ngộ của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, mà còn là điểm chung về sự chứng ngộ của lịch sử bảy đức Phật trong quá khứ. Thế nên, trong kinh có đoạn: “Thế Tôn Tỳ-bà-thi(Vipassi) và sáu Thế Tôn tiếp theo Thế Tôn Tỳ-bà-thi đến Thích-ca Mâu-ni và cả chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Bồ-đề bằng giáo lý Duyên khởi”[1].
Vậy tại sao giác ngộ duyên khởi là giác ngộ tối thượng, nếu không muốn nói là giác ngộ “pháp nhĩ như thị” (pháp vốn như vậy)? Câu trả lời đơn giản nhất là Duyên khởi nói lên thực tính của các pháp. Thực tính ấy chính là duyên sanh tính hay vô ngã tính. Từ đó, chúng ta có thể khẳng định rằng: “Ai thấy duyên khởi là thấy pháp, ai thấy pháp là thấy Phật (ta)”[2], tức thấy Phật là chứng ngộ quả vị tối thượng. Đây chính là nền tảng thành lập hệ thống giáo lý Phật giáo Bắc tạng cũng như Nam tạng.
Đi vào phân tích giáo lý duyên khởi, chúng ta thấy rõ vô ngã tính của các pháp là giáo lý độc đáo nhất của Phật giáo, độc đáo nhất của lịch sử tôn giáo và cả tư tưởng nhân loại.
Vậy duyên khởi là gì? Đức Thế Tôn định nghĩa: “Do vô minh có hành sinh, do hành có thức sinh, do thức có danh sắc sinh, do danh sắc có lục nhập sinh, do lục nhập có xúc sinh, do xúc có thọ sinh, do thọ có ái sinh, do ái có thủ sinh, do thủ có hữu sinh, do hữu có sinh sinh, do sinh có lão sầu bi khổ não sinh, hay toàn bộ khổ uẩn sinh. Đây gọi là duyên khởi (duyên sinh)”.
Do đoạn diệt tham ái vô minh một cách hoàn toàn nên hành diệt, do hành diệt nên thức diệt,… lão tử sầu bi khổ não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn diệt.”[3]
Khi mười hai nhân duyên sinh khởi thì đồng nghĩa với toàn bộ khổ uẩn khởi; ngược lại khi mười hai nhân duyên diệt thì gọi là sự đoạn diệt, tức đồng nghĩa với toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt. Nguyên lý sinh diệt thuận nghịch ấy gọi là duyên khởi, là sự thật về sự có mặt của các pháp đã được Thế Tôn xác nhận: pháp duyên khởi ấy dù có Như Lai xuất hiện hay không xuất hiện thì nó vẫn có sẵn; vì thế khi an trú vào giới tịnh ấy, pháp quyết định tính ấy, y duyên tính ấy, Như Lai hoàn toàn chứng ngộ, chứng đạt chân lý ấy. Sau khi hoàn toàn chứng ngộ, Như Lai đã tuyên thuyết, khai triển, khai thị phân biệt, minh hiển minh thị cho chúng sinh, Ngài dạy: “Duyên vô minh, này các Tỳ-kheo có các hành, v.v… Như vậy, này các Tỳ-kheo, đây là như tánh, bất hư vọng tính, bất dị như tánh y duyên tính, này các Tỳ-kheo đây gọi là duyên khởi”.
Bằng một phương diện khác, đức Thế Tôn đã khai thị:
“Do cái này có mặt nên cái kia có mặt
Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt
Do cái này sinh nên cái kia sinh
Do cái này diệt nên cái kia diệt.”[4]
Có thể nói, giáo lý Duyên khởi được trình bày một cách có hệ thống mà chúng ta thường gặp chính là pháp “thập nhị nhân duyên”. Vậy thập nhị nhân duyên gồm những gì? Chúng ta hãy bắt đầu từ:
- Lão tử: là sự già yếu, suy nhược, răng rụng, tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ lớn, các căn chín muồi gọi chung ta “già”. Và cái gì thuộc bị chúng sanh từ bỏ, thủy loại tiêu mất, các uẩn tàn lụi, thân thể vứt bỏ, tử vong thì gọi là “tử”.
- Sinh: Cái gì thuộc các loài chúng sinh bị sinh, xuất sinh, giáng sinh, đản sinh, xuất hiện các uẩn, thành tựu các xứ thì gọi là “sinh”[5].
- Hữu: dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu gọi là “hữu”.
- Thủ có 4 đặc tính: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, và ngã luận thủ.
- Ái: sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái và pháp ái; hay còn gọi là dục ái, sắc ái và vô sắc ái.
- Thọ: Có sáu thọ: thọ do nhãn xúc sanh, thọ do nhĩ xúc sanh, thọ do tỷ xúc sanh, thọ do thiệt xúc sanh, thọ do thân xúc sanh và thọ do ý xúc sanh.
- Lục nhập: Gồm có sáu nội xúc là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý; và sáu ngoại xúc gồm: sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp.
- Danh sắc: Danh gồm có xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư. Có kinh trình bày danh gồm có thọ, tưởng, hành, thức uẩn, sắc thì có tứ đại và pháp là do tứ đại sinh ra.
- Thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân và ý thức.
- Hành: gồm có thân hành, khẩu hành và ý hành.
- Vô minh: Tức là không hiểu rõ Tứ đế. Có thể phát biểu cách khác là: không hiểu duyên khởi, vô ngã.
Qua cách trình bày như trên về pháp thập nhị nhân duyên, chúng ta dễ dàng nhìn thấy từ một sự thật từ “lão tử” là điểm khởi nguyên của đời này và bắt đầu cho đời sau. Ngay cả mọi hình thái vật chất cho đến tinh thần cũng bắt đầu từ điểm đó mà quán xét thì chúng ta thấy rõ về duyên khởi hơn. Đặc biệt, đó chính là pháp quán hoàn diệt giúp chúng ta thoát ra khỏi sự trầm luân trong sanh tử.
Vấn đề này, ngoại đạo lõa thể đã từng đặt vấn đề với Thế Tôn rằng: “Có phải khổ do mình làm ra hay người khác làm ra?” Thế Tôn trả lời theo nghĩa trung đạo: “Khổ do duyên sanh (khổ do xúc sanh)”.
Tương tự như thế, đối với mười một chi nhân duyên còn lại cũng đều do nhân duyên sanh. Mà hễ cái gì do duyên sanh tức là pháp hữu vi, vô thường, đoạn diệt, biến hoại, không thật. Cho nên, Thế Tôn cắt nghĩa rằng: Ai không chấp thủ, vị ấy không có nghĩ đây là tự ngã của tôi; khi khổ sanh biết là sanh, khi khổ diệt thì biết là diệt, mà không xem có tôi khổ hay tôi hết khổ.
Do vậy, có thể nói tất cả các pháp hữu vi đều do duyên sanh. Sự có mặt của một pháp thực ra chỉ là sự có mặt của nhân duyên sanh ra nó; ngược lại sự hoại diệt của một pháp cũng chỉ là sự hoại diệt nhân duyên sanh ra nó. Các pháp không có thật sinh hay thật diệt. Nói ngắn gọn là tất cả mọi sự vật hiện tượng đều do duyên sanh, nên bản chất của nó là vô ngã pháp. Và trong một chi phần của mười hai nhân duyên luôn có mặt của mười một chi phần kia mà khi chi phần ái thủ hay vô minh tồn tại, tập khởi tức con đường tập khởi của sanh tử. Sự đoạn diệt của một chi phần là sự đoạn diệt của mười một chi phần còn lại. Đây là con đường chánh đạo mà chúng ta cần dụng công tu tập. Cho nên, trong mười hai chi phần nhân duyên, chúng ta không thể tách ra riêng biệt một chi phần nào, vì trong nó luôn hiện hữu tính nhất thể nguyên lưu.
Duyên khởi trong thực tại là một hiện tượng trùng trùng, khi một hiện tượng này có mặt là tất cả các nhân duyên trùng trùng ấy có mặt. Cho đến sự hiện hữu của cả pháp giới cũng không ngoài pháp giới duyên khởi. Một pháp tập khởi chính là pháp giới tập khởi; đây là ý nghĩa “một là tất cả, tất cả là một”. Tất cả pháp giới chính là một chính là pháp giới. Một là tất cả, đó là nguyên lý duyên sanh vô ngã.
Vì tự tính duyên sanh vô ngã vốn không sanh không diệt, nên tự nó có ý nghĩa thường hay vô thường, có hay không, khứ hay lai v.v… nó thoát ly mọi tướng trạng. Do đó, cái gọi là duy tâm, duy vật, duy thức, duy linh, v.v… không có ỷ lai khác biệt nào cả, nếu chúng ta biết nhìn chúng là duyên sanh, là vô ngã. Cho nên nói:
“Bất sanh diệc bất diệt
Bất thường diệc bất đoạn
Bất nhất diệc bất nhị
Bất khứ diệc bất lai
Năng thuyết nhất thiết duyên
Thiện diệt chư hý luận”.[6]
Bài kệ cho chúng ta thấy, thực tại là duyên khởi vô ngã. Đây chính là thật pháp, như pháp, là thật tánh bất hư vọng tác, là “pháp giới trùng trùng duyên khởi, không có một sự cao thấp nào được đức Thế Tôn chứng ngộ trình bày dưới 12 chi phần nhân duyên”[7].
“Hết thảy các pháp là vô ngã”[8], có nghĩa là hữu vi và vô vi đều vô ngã, hay hữu vi cũng chính là vô vi ở mặt tự thể, hay ở mặt chân nghĩa của duyên khởi. Đây cũng là ý nghĩa của kinh Kim Cang: “Nhứt thiết pháp giai thị Phật pháp”, Hoa Nghiêm cũng dạy: “Nhứt thiết pháp vô phi Phật pháp”. Và các tư tưởng Bắc tạng thường nói “phiền não tức bồ-đề”, sanh tử tức là Niết-bàn, hoặc chúng ta hãy thiết lập nhân gian Tịnh độ.
Qua đó, chúng ta có thể tạm thời kết luận rằng: Duyên khởi là giáo lý nền tảng nhất của Phật giáo, dù duyên khởi được nhìn dưới quan điểm bộ phái nào cũng đều được trình bày dưới định thức tổng quát: “cái này có cái kia có”, hay dưới mười hai chi phần nhân duyên nó vẫn chuyên chở đầy đủ ý nghĩa thậm thâm nhất. Nếu chúng ta nhìn nhận duyên khởi là giáo lý thuộc duyên giác thừa thì đó chỉ là một thiên chấp hay ngộ nhận mà thôi.
Chúng ta không nên xem duyên khởi vô ngã được Thế Tôn phương tiện diễn thuyết để đối trị chấp đau khổ do ngã ái gây ra, mà thực sự khổ đau là do vô minh - không hiểu rõ duyên khởi. Nếu chúng ta chứng ngộ duyên sanh vô ngã của các pháp, tức là đồng nghĩa với việc đoạn tận khổ đau.
Vấn đề duyên sanh tuy có thể diễn tả theo nhiều cách, xong điểm phát xuất của nó không ngoài tâm. Nếu lìa tâm ra thì lý duyên sanh sẽ vô căn cứ. Cho nên một học giả Nhật Bản, ông Kimurataiken xem tâm làm gốc của duyên sanh, và trong khi thực tế tâm chính là do duyên sanh; tự thân nó là đã phù hợp với duyên sanh rồi. Tự điều phục tâm, là đi đến giải thoát và tri kiến giải thoát. Kết quả của sự điều phục chính là chứng ngộ phi tâm, phi vật, là chân như vô ngã.
Sự thắc mắc lớn nhất về lý duyên sanh, vô ngã của người học Phật là làm sao hình dung được một pháp giới hoàn toàn vô ngã; làm sao mà có thể tồn tại, nếu là vô ngã? Nếu vô ngã thì ai sanh tử, ai luân hồi, ai tu chứng, ai giải thoát? Cũng như sự lo âu của Kimurataiken rằng, phải chăng tâm làm gốc từ duyên khởi mới đứng vững, và như chính Tôn giả A-nan trong Thủ Lăng Nghiêm cũng sửng sốt khi nghe Thế Tôn dạy chân tâm là vô ngã. Nguồn gốc của các thắc mắc ấy chính là tập khí tham ái, chấp thủ của chúng sanh do nhiều kiến chấp ngã ái đúc kết trong quá trình trôi lăn trong sanh tử.
Theo Phật giáo, gốc của sanh tử là vô minh, là nhận lầm thực tại vô ngã thành có ngã. Thực tại vô ngã, thì không trống rỗng, không có thế giới ngã tướng. Không phải vì ngã tướng mắt thường chúng ta nhìn thấy là gốc của sự tồn tại thế giới, mà thế giới tồn tại y cứ vô ngã.
Cho nên sự kết hợp của hư không và vô ngã tính, nên chúng ta mới nhận biết không gian vừa tối vừa sáng, có nắng có mưa, có bốn mùa vận hành; chứ không thuần nhất cố định bằng một hình thái. Nếu con người có ngã tính thì sẽ hoặc dốt hoặc thông, hoặc khỏe hoặc bệnh mà không thể chuyển đổi từ dốt sang thông, từ bệnh sang khỏe, từ buồn sang vui, từ thất vọng sang hy vọng, từ ghét hận sang yêu thương… Vì vô ngã nên các pháp dung nhiếp nhau mới có lý sự và sự sự vô ngại pháp giới… Tức là vì vô ngã tính nên các tính được thành lập.
Khi chúng ta thấy rõ vô ngã tính thì tham ái, và chấp thủ sẽ tan dần đến hủy diệt, khổ não sẽ tan đi và giải thoát sẽ đến. Bấy giờ thực tại duyên sinh trở về với chính tự thể của nó. Nó mãi mãi là như thế. Kinh  Pháp Hoa gọi đây là thế gian thường trú, nó không có bị nhân quả hay duyên sanh. Nhân quả và duyên sanh là chính nó, đây là tánh không của Bát-nhã, tánh như thị của Pháp Hoa và là tánh diệu hữu của Hoa Nghiêm và Niết-bàn.
Trong Bát Thức Qui Củ do pháp sư Huyền Trang sáng tác, đã lý giải các pháp tồn tại là do có thức, không có sự vật nào ngoài thức mà có được. Do tất cả sự vật đều nhờ duyên của thức mà thành sự vật nên gọi là “duy thức”. Duyên khởi cho tất cả sự vật đều nhờ cái duyên của thức mới có tướng, có danh nên gọi là duy thức biến hiện, là bản tính của tính, là pháp giới tính duyên khởi ra tất cả sự vật. Thức ở đây rõ là một trong 12 chi phần nhân duyên của duyên khởi, nó là duyên khởi pháp, duyên sanh pháp hay vô ngã pháp.
“Thị chư thức chuyển biến
Phân biệt sở phân biệt
Vô thử bỉ giai vô
Cố Nhứt thiết duy thức”[9].
(Các pháp ấy chuyển biến
Thành phân biệt và sở phân biệt
Vì hai thức ấy đều không
Nên hết thảy đều là duy thức).
Nói tất cả là duy thức tức là nói tất cả do duyên sanh và vô ngã vậy. Cho nên chúng  ta hãy nhận thức: “Nhứt thiết pháp vô tánh”[10], để “rời khỏi chấp thủ tướng[11]” mới thật đúng với giáo lý duy thức. Vì chính thật tính duy thức là duyên sanh tính hay vô ngã tánh. Cho nên nói:
“Nhược thời vô sở y
Trí đô vô sở đắc
Nhĩ thời trụ duy thức
Ly nhị thủ tướng cố”.
(Nếu không có cái để làm duyên
Trí đều không ở đắc
Bấy giờ trú vào duy thức
Rời hai tướng chấp vậy).
Trong giáo lý tinh yếu của Lăng-già cũng diễn đạt rõ về lý duyên sinh, vô ngã được chứa đựng trong 6 bài kệ mở đầu của kinh:
“Thế gian ly sanh diệt
Do như hư không hoa
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm”[12].
(Thế gian rời sanh diệt
Cũng như hoa đốm giữa hư không
Trí chẳng đắc hữu vô
Mà hưng khởi tâm đại bi).
Như thế thực pháp là vô tánh, vô sanh, vô thường, vô đoạn, phi hữu, phi vô, phi tâm, phi thức,… nếu chúng ta rời hết mọi ngã tướng, tức là chứng được tánh duyên sanh vô ngã. Cho nên, Thế Tôn dạy: “Ta nói vọng tưởng thức diệt là Niết-bàn”[13]. Vọng tưởng thức ấy là vọng niệm phân biệt do chấp thủ tướng sanh và là vọng tâm tham ái. Con đường giải thoát rõ ràng là con đường đoạn diệt thức, hay đoạn diệt ái, thủ của mười hai chi phần nhân duyên.
Các nhà nghiên cứu Phật học cũng thường cho rằng Bát-nhã là yếu lý của Đại thừa, là nền tảng của các kinh Bắc tạng. Nó là chân không diệu hữu, mà không phải chỉ là “chân không” như tư duy phân biệt. Cho nên, khi chúng ta “thấy năm uẩn là không (vô ngã) thì liền thoát ly hết khỏi khổ ách[14]”. Ngũ uẩn ấy là con người và pháp giới. Thấy pháp giới là vô ngã thì sẽ lìa xa mọi chấp thủ mà đoạn tận khổ đau. Và đây cũng là nội dung của Kim-cang tạng Bát-nhã. Kim cang chỉ bày trí Bát-nhã rời hẳn cả ngã tướng. Chấp thủ các ngã tướng là gốc của vọng tưởng phân biệt và của vô minh, nên khi rời hẳn các ngã tướng là chúng ta đoạn diệt vô minh. Ý nghĩa này giống với những gì trình bày ở duyên khởi.
Tóm lại, duyên khởi được liệt vào giáo lý căn bản, là nền tảng cho người tu tập đi đến quả vị Bồ-đề. Cho nên, dù duyên khởi được trình ở Bắc tạng hay Nam tạng thì nó cũng chỉ là một, thực sự không có cao thấp khác nhau. Với các nhận định này đã giúp cho chúng ta xóa tan được thái độ chỉ trích và mở ra tính “nhất quán” và nghĩa nhất thừa của giáo lý Phật giáo xuyên qua các bộ phái, điều chỉnh được cái nhìn đầy màu sắc thiên chấp bộ phái.
Vì thực tính của các pháp là duyên khởi tánh nên chúng ta không thể hỏi thực tính ấy là gì, bởi khi khởi niệm “là gì?”, tức là không phải duyên khởi. Vì y vào duyên khởi tánh nên các giáo lý Phật giáo trở thành bấ[15]t định tánh; tùy theo khả năng nhận thức và tu tập của chúng ta mà tính của pháp biểu hiện khác nhau. Chẳng hạn khi chúng ta nỗ lực tinh cần mà không đúng pháp thì sẽ không mang lại tính giải thoát. Vì nếu nỗ lực yếu thì hành giả có thể rơi vào tính thụ động hoặc hôn trầm, còn nếu nỗ lực quá mức thì sẽ rơi vào tính trạo cử, tán loạn. Hơn nữa, nhận thức về ý nghĩa sự nỗ lực cần và đủ của từng giai đoạn chứng ngộ trong chúng cũng khác nhau.
Khi chúng ta thấy duyên khởi tánh là thấy thật pháp, còn chỉ thấy các tướng riêng của nó thì chỉ là thấy giả tướng của các pháp. Do đó toàn thể pháp giới này là thực tại như thật.   Chứng ngộ chân lý này tức là chúng ta đã liễu tri ý nghĩa “phiền não tức Bồ-đề”, “sanh tử tức Niết-bàn” cũng là “hồi đầu thị ngạn”. Do vậy, giáo lý duyên khởi đã phơi bày toàn thể thực tại, toàn thể pháp giới là vô ngã, là cửa ngõ đầu tiên mà lịch sử chư Phật đã đi qua để trở thành bậc toàn giác - Chánh biến tri. Nếu còn mê mờ về vô ngã tính này thì đó là điều bí mật nằm ở phía chúng ta. Bí mật của cuộc đời cùng xuất hiện với ái và thủ của chính mình. Chúng ta quyết tâm đốt cháy hết ái, thủ thì pháp giới không còn gì là sự bí mật nữa.
Triều Châu

Chú thích:
[1] Kinh Tương Ưng Nhơn Duyên, Tương Ưng Bộ II
[2] Trung Bộ I, kinh số 28
[3] Kinh Trung Bộ
[4] Kinh Phật Tự Thuyết, Tiểu Bộ I
[5] Tương Ưng II
[6] Trung Quán Luận của Bồ-tát Long Thọ
[7] Tương Ưng II và duyên khởi của kinh Hoa Nghiêm
[8] Kinh Pháp Cú số 279
[9] Bài tụng thứ 17 trong Duy thức tam thập tụng của Thế Thân
[10] Kệ 25, sđd
[11] Kệ 28, sđd
[12] Kệ số 1, kinh Lăng-già
[13] Kinh Lăng-già, chương Kiến Lập Niết-bàn
[14] Bát-nhã tâm kinh