Tức tâm tức Phật

http://files.myopera.com/*Nhi_Evy*/albums/415176/HinhPhatThichCa41_jpg.jpg
Lúc ban sơ, sư Pháp Thường đến tham vấn Mã Tổ Đạo Nhất.
Sư hỏi : - Thế nào là Phật ?
Tổ đáp : - Tức tâm tức Phật.
Chợt nghe, Pháp-Thường đại ngộ.
(Truyền Đăng-lục)

Chỉ một câu đáp ngắn của Mã Tổ, vỏn vẹn có bốn từ "tức tâm tức Phật" mà ngay đây sư Pháp Thường đại ngộ. Thật là hy hữu!

Thế nhưng nói sư ấy ngộ, như vậy là ngộ làm sao, ngộ cái gì ?

"Tức tâm tức Phật", theo sự hiểu biết thông thường mà hầu như ai ai trong chúng ta, những người đang tu Phật, dù theo Tông phái nào, Pháp môn nào, chỉ cần vừa chợt nghe qua những lời đối thoại đó, câu nói xuất phát từ miệng ai đó vừa lọt vào tai mình một cách rành rọt, hay câu chữ vừa thoáng qua rõ ràng trước mắt, thì mọi người đều tức khắc nhận ra được ý nghĩa của câu đáp, liền có thể hiểu ngay rằng "tâm là Phật", "Phật là tâm"  hoặc  "tâm này là Phật" hay "tâm ấy là Phật", "tâm kia là Phật"  v.v… và  v.v…

Tuy nhiên, nếu ai ai trong chúng ta cũng đều có chỗ hiểu như thế thì dẫu hiểu mọi lời, mọi sự đến cùng kiếp cũng chẳng thể nào tỏ rõ được "như thật" ý nghĩa câu đáp mà cũng là lời khai thị của Mã Tổ, nghĩa là đồng "một" cùng với cách hiểu, sự hiểu như Pháp Thường không khác, tức "vừa chợt nghe thì hốt nhiên đại ngộ", "vừa chợt nghe thì bất giác bừng tỏ Phật tâm", "vừa chợt nghe thì diệu nhập Phật tánh". v.v… và  v.v…

Nói một cách rõ ràng hơn, y như Pháp Thường đã lãnh thọ được ý chỉ của Mã-Tổ, thì câu đáp "tức tâm tức Phật" vừa lìa miệng Tổ, cũng ngay sát-na đó chợt lọt vào tai mình, thì người thính pháp liền tự chuyển não, tự vượt thoát khỏi bản ngã, tự vượt thoát khỏi cái nghe, cái biết của tâm ý thức để ngay đó thấy nghe hay biết bằng cái tánh nghe vốn dĩ tự sẵn có, thường hằng, tự tại, để tự đồng "một" cùng chỗ Pháp Thường ngay ấy "đang-là" không khác. Cũng có nghĩa là người thính pháp tức thời bừng tỏ tánh Phật chúng sanh, cũng là hốt nhiên khám phá hình hài chơn thật vốn tự sẵn có xưa nay chưa từng sanh diệt của mình, cũng là tự bừng tỉnh cơn mê từ muôn thuở, là giác bổn tánh, là hốt nhiên biết như thật rằng từ lúc cha mẹ sinh ra cho đến giờ, một sát na trở về trước mình đã lầm, không tự chủ tự tại, đã sống trong huyễn ảo mộng mị của vọng thức biến hiện hư dối, lừa phỉnh mà cứ tưởng là "thật có" vì chấp ngã; một sát na sau thì  tự bừng tỏ tánh thấy biết sáng suốt tuyệt đối, tự chủ tự tại, vô ngại đến đi, vạn pháp tự "như" truớc mắt, biết như thật nên "không lầm nhơn quả", vô ngã chơn thường, thông tỏ nhứt thiết pháp tánh không tự tánh.

Bằng ngược lại, nếu căn cơ, trí tuệ, duyên phước của những người đang hành trì pháp Trực-chỉ của Đạt-ma Tổ-sư (cũng là Chánh-pháp Nhãn-tạng của Thế-tôn) không được như Pháp Thường, nghĩa là ngay khi câu nói"Tức tâm tức Phật" hoặc những lời khai thị  tương tợ vừa lìa miệng Tổ, tai chúng ta vẫn có nghe đó, nhưng trực giác (kém cỏi, yếu ớt) không bắt nhịp theo kịp để diệu nhập vào cảnh giới chơn như không gốc gác, vô tâm, phi tác ý mà Tổ đã thể hiện bằng lời, cũng là dụng của diệu tánh, để được cùng Tổ "đang-là", cũng là tự "một" trong chánh niệm, tức đương niệm chơn thường, sáng suốt, không một vật, thì mỗi người trong chúng ta chỉ còn một cách là đợi dịp khác để thử thách thêm nữa, hoặc nên chọn một pháp môn khác thích hợp hơn với căn cơ của mình để tu là thượng sách. Bằng vận dụng tri thức sanh diệt để nghĩ suy, lý giải, biện biệt đúng sai bằng cái tâm phân biệt thường tình trong lẽ tương đối của nhơn quả, thì liền cùng với cái chỗ "biết - giác" tuyệt đối không sở, không năng, vô tướng, vô tác kia của chư Tổ, thì liền là hai, là khác, là cùng nó bị cách chia, bị che chắn bởi chính cái tâm ý thức khởi niệm phân biệt, suy lý, nghĩ ngợi của mình. Cũng như khi ấy dẫu ai đó có đem miệng mồm, chữ nghĩa ra để mà giảng giải cho người khác có thể hiểu được cái nghĩa đích thật của "tức tâm tức Phật" kia (nghĩa đích thực còn có thể gọi là đệ nhất nghĩa) thì dẫu có nói đến trọn đời, cùng kiếp cũng vẫn cùng "nó" xa rời, chia cách, là khác là hai, là gãi ngứa ngoài giày, nếu không muốn nói là ngàn trùng xa thẳm, dấu tích mịt mờ, khó cùng được như PhápThường hốt nhiên "đang-là" một chỗ.


Tại sao cũng cùng một câu đáp có bốn chữ "Tức Tâm Tức Phật", ấy thế mà Pháp Thường chợt nghe thì liền đại ngộ, liền sáng tỏ Phật tâm, thấu suốt bổn tánh, cũng là tánh thấy biết tuyệt đối hiển hiện, còn tôi đây cũng được nghe câu đáp ấy, cũng hiểu ý nghĩa của câu nói "tâm kia là Phật", mà sao đến cùng kiếp cũng khó ngộ ra để được cùng một chỗ như Pháp Thường hốt nhiên sáng suốt không lầm nhơn quả?  Tại sao?  Tại sao?

Cũng đều gọi là Phật pháp, cũng cùng một giáo lý dạy người để cứu cánh thâm nhập Phật tri kiến, hầu không lầm nhơn quả để tu hành cho đến giải thoát sanh tử, thế nhưng tùy từng căn cơ, trí tuệ, phước đức, hạnh lành, nghiệp dữ của mỗi chúng sanh mà từng pháp dạy người của Thế Tôn tự có chỗ cao thấp khác nhau, khiến người tu hành cũng tự có chỗ giác ngộ Phật Đạo cách đốn tiệm, thấp cao, nên Thánh nên Hiền sai biệt .

Cho nên, phương tiện để người tu học cứu cánh diệu nhập Phật tâm, cũng là sáng tỏ Phật tánh, cũng là khám phá "đệ nhất nghĩa đế" mà chư Phật ba đời quá, hiện, vị lai muốn nói cùng thế gian, bằng một cách nào đó, mau chậm cao thấp có khác nhau, đã khiến cho sự khác biệt một trời một vực của ba thừa giáo và Chánh-pháp Nhãn-tạng càng thêm rõ nét vậy. Đó là điều chân thực mà không ai có thể phủ nhận.

Bởi vậy, cũng cùng một câu đáp đó mà khi cơ duyên chín mùi, nghĩa là phải thời thì PhápThường đại ngộ, mà trước đó không lâu, cũng một câu đáp đó mà chính tự thân PhápThường vẫn phải bị mờ mịt, còn không ngộ ra Phật tánh, huống là người khác chưa hội đủ được các duyên lành.

a) Thông thường, gần như mỗi người trong chúng ta đều hiểu câu đáp đó của Mã Tổ Đạo Nhất như thế này : Tâm  ta là Phật, Phật cũng chính là tâm ta đó. Hoặc cũng có thể nói và hiểu như là Phật là tâm, tâm là Phật, hay Phật tức tâm, tâm tức Phật, Phật tâm chỉ một, không khác, không hai, vv… và vv… chỗ hiểu đó không khác nhau mấy vậy.

Tuy nhiên, nếu chúng ta hiểu như thế, thì chỗ hiểu đó có hợp với cái bụng của ThiềnTổ khi Ngài đáp câu hỏi của Pháp Thường không, khi mà câu đáp đó cũng là lời khai thị, là nhát búa nặng ngàn cân đánh trực diện vào cái "trí hiểu biết nhỏ nhoi có hạn lượng" của tâm ý thức con người, được bao phủ bởi lớp vỏ cứng ngàn đời của ngã chấp vô minh?

Nếu hiểu như thế là không có chút khế hợp gì với tâm ý của Thiền Tổ, nghĩa là đối với Tông-môn của Bồ-đề Đạt-Ma Tổ-sư, thì người hiểu như thế là hoàn toàn không hiểu gì hết, là chỉ ngấp nghé ngoài sân, ngoài thềm, còn lâu xa mới lọt vào được cửa Tổ.

Nghĩa là sao ? Nghĩa là chỗ hiểu biết đó là cái hiểu biết của tâm ý thức phân biệt, còn kết buộc trong vọng nghiệp vô minh nhơn quả, còn đủ cả tứ tướng sanh diệt tương quan vướng mắc, ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Nghĩa là còn có người hiểu là Ta, còn có cái được hiểu là Tâm kia, còn có cái để so sánh, phân biệt với cái được ta hiểu là Phật.  Chỗ hiểu đó là chủ thể "Ta" hiểu, có tương tác để được hiểu là "tâm" kia, là "Phật", là cùng với Phật với Tâm với Ta là hai là khác, là tất thảy tướng sanh diệt trói buộc trong nhơn quả sanh diệt.  Thế thì chỗ hiểu này đối với Tông Thiền của Bồ-đề Đạt-ma, cũng là Chánh-pháp Nhãn-Tạng của Đức Phật là cái hiểu lạc đề, là hoàn toàn không hiểu gì hết. Bởi đối với Tông môn này, nói hiểu, nói hội tức cũng có nghĩa là ngộ, là giác cái tánh biết bổn lai, là bừng tỏ tánh biết sáng suốt tuyệt đối, tự tại, là sáng tỏ tánh Phật chúng sanh, là khám phá Thể và Dụng của thường đạo huyền đồng, Tánh cùng Tướng dung thông, là cùng Phật, cùng Tâm, cùng Đạo "đang-là" nhứt như không năng không sở, tự "một" tuyệt đối, không hai không khác.

Cái tánh biết bổn lai thì linh diệu, huyền mầu, sáng suốt tuyệt đối, mà chỗ dụng lại cứ tự nhiên như nhiên, như nước chảy mây trôi, nắng nóng giá lạnh, như nhật nguyệt vần xoay, khiến có bốn mùa luân chuyển nuôi sống muôn vật mà tự nó không thấy làm, hay nói một cách chính xác hơn là làm một cách vô tâm, bình đẳng, phi tác ý.   Nhờ tánh "diệu" nên dù không khởi vọng niệm phân biệt mà mọi thứ trước "mắt tâm như" vẫn tự biện biệt rõ ràng, vì tất thảy pháp đều từ chơn tánh, cũng có nghĩa là từ một pháp duy nhất, độc hữu, diệu mầu (tạm gọi là một pháp duy nhất) mà hiện hữu các pháp tướng như thật như hư, như không như có, nối tiếp nhau sanh diệt trùng trùng, vô biên bất tận.   Nói vô phân biệt là nói không dụng tri thức phân biệt kết buộc trong nhơn quả tương đối để thấy nghe hay biết, cũng là tự tánh "biết" vẫn thường biện biệt rõ ràng mọi thứ trước mắt. Vì đó là diệu dụng của Phật tánh. Chỉ vì do chúng sanh chấp ngã, vọng tưởng chấp lầm huyễn pháp làm thật có, niệm niệm vọng sanh vọng diệt trùng trùng trong từng mỗi sát na không dứt nên cái tánh biết tự nhiên như nhiên theo vọng ngã  mà trở thành trí thuật, ưa suy nghĩ thiệt hơn, ưa phân biệt phải trái, lợi hại, lành dữ, tốt xấu theo hai đàng (nhị nguyên) khiến chúng sanh ấy tự quên mất cái tánh sáng thường sáng bổn lai, chơn như tự tại, vô phân biệt vốn tự sẵn có của mình.

b) Vậy thì phải hiểu làm sao để được gọi là hợp với bụng của Mã-Tổ, cũng là cùng chư Tổ tâm tâm khế hợp, là không ra ngoài Chánh-pháp Nhãn-tạng của Như-lai, cũng là cái hiểu vượt cách, nhanh chóng, chơn thật, không ra ngoài Tông môn của Đạt-ma Tổ-sư. Trước hết, người cầu học pháp môn này như Pháp-Thường phải là người đa căn lành, nhiều phước đức, thông minh, linh lợi, lanh cơ, giàu trực giác, chợt nghe liền nhận ra cách dùng từ ngữ độc đáo của Mã-Tổ trong lời đáp này nói riêng, cũng như của chư Tổ Thiền Tông và các Thiền-sư nói chung, và đó cũng chính là cái ổ khóa bí hiểm, vô hình, vi nhiệm để người cầu học nương đó mà tự vượt thoát chính mình, cũng là  lách tọt vào cửa Tổ. Hễ một khi đã thật sự chợt vào thì không còn có lối để ra, vì rằng ngay đó vô minh chợt tan biến, triệt tiêu, trước mắt tất thảy thênh thang, rỗng hoát, tâm thể sáng trong, như nhứt, vô biên, vô hạn lượng, không còn cửa nẻo, chẳng chỗ đến đi, không lầm nhơn quả, tất thảy pháp biến hiện mất còn không chỗ dính dấp, như hoa đốm trong không. Chỗ thấy nghe hay biết này là giác trí vậy.

Cho nên, nếu hiểu câu đáp ấy của Tổ như mọi người trong chúng ta thường hiểu, thì tại sao Mã-Tổ đã không trả lời bằng những câu đáp đại loại cùng một ý nghĩa như : "Kỳ tâm tức Phật  - Tâm kia là Phật" hoặc "Phật tức tâm" hay "Tâm Tức Phật" vv… và vv…  mà lại là "Tức tâm tức Phật".

Bởi "Tức" của "Tức-tâm", "Tức-Phật" chỉ trực tiếp vào hiện thực tuyệt đối ngay tâm, trước mắt, khiến trực giác của người đối diện ngay lúc  ấy khám phá bổn tâm thực sự "đang là" cùng hiện thực tuyệt đối, cũng là "Tức" trong nhứt niệm đương niệm, tròn đầy sáng trong vô nhất vật. Người căn trí vào bậc thượng, phát huy trực giác tối đa nương đây mà tự ngoảnh đầu khám phá chính mình. "Tức" trong khoảng một phần "sát-na", mà trước niệm không sanh, sau niệm không dứt, hiện tiền là nhứt niệm, cũng vô niệm sáng suốt tuyệt đối, là chơn ngã, chơn tâm, Niết-bàn thanh tịnh. Nhận ra hiện thực tuyệt đối trước mắt, cũng là chơn tâm hiển lộ thì cũng tức ngay ấy, ngộ ra thể tánh chơn thật của bổn tâm, thì liền sáng suốt, để tự trả lời Phật là gì  một cách chơn thật, mà trong đây vừa chợt khám phá, biết như thật Tánh-Tướng viên dung, Phật-Tâm-Đạo huyền đồng nhứt như, Thể và Tánh chẳng phải một, chẳng phải hai cũng không phải khác, mà như sóng với nước. Biết như thật từ một pháp duy nhất chơn như, thường hằng, bất biến mà thường tùy duyên, thông lưu diệu mầu, khởi sanh vạn pháp. Vạn pháp sanh khởi trùng trùng vô lượng vô biên mà từng mỗi pháp không mất tánh "diệu" chơn như tự tại, tùy duyên mà vẫn bất biến.

Tánh biết sáng suốt tuyệt đối không sở không năng, không chung không thỉ, như như tự tại, là đệ nhất nghĩa, là tuyệt đối mà không miệng mồm, trí giải nào có thể với tới được vậy. Bởi cái gì có thể với tới được "nó" thì tự nó chẳng còn là tuyệt đối nữa, chẳng còn là đệ nhất nghĩa đối với chỗ độc hữu diệu mầu, phi sanh diệt của tự nó, chẳng còn là thường đạo chơn thật nữa, mà khiến cùng nó chia lìa, là hai là khác, là có chỗ tương tác, vướng mắc trong  nhơn quả rồi.

Một vị Thiền Tổ đã nói : " Nhược tâm hữu trụ tức vi phi trụ -  Bằng Tâm có chỗ trụ, tức chẳng phải trụ" tức có nghĩa là, hoặc nếu trụ tâm vào sắc, hoặc thinh, hay hương, vị, xúc, pháp  thì đó tức chẳng phải là thường trụ, chẳng phải là "trụ vô sở trụ - trụ không chỗ trụ, tức chơn trụ" trong tính cách vượt thoát nhơn quả; có chỗ trụ tức chẳng phải tự "một" cùng đệ nhất nghĩa.

Tức tâm tức Phật cũng là "Pháp tánh NhưThị", cũng là "Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc", là Sắc, Không, Không, Sắc huyền đồng, viên dung như nhứt, là tất thảy pháp vô ngã chơn thường, là chơn không diệu hữu, mà trong đây chỉ có tự chứng tự tri, tự biết rõ như thật mà nói không thể tới được nữa vậy.

Cho nên, ở đây sư Pháp Thường đã hốt nhiên trực ngộ câu đáp của Mã Tổ "Tức tâm tức Phật", cũng tức là căn trí cao vời nương cái phương tiện chỉ thẳng kia mà trực giác tỏ ngộ thể tánh tuyệt đối của chính mình ngay ấy "đang-là", cũng là Phật tâm, chơn tâm hiển lộ, khám phá tự thể chơn như, thường hằng, vô ngã, sáng suốt tuyệt đối, không lầm nhơn quả.

Chánh pháp Nhãn-tạng của Như Lai đặc biệt riêng dành tiếp độ những người thượng căn, thượng trí, những người phước đức, duyên lành trọn đủ, là một pháp môn vi nhiệm vô cùng, từ xưa tới nay được tôn xưng là tối thượng thừa pháp của Phật giáo vậy. Tuy nhiên, trong thời nào cũng có những chúng sanh nghiệp chướng nặng nề, phước đức kém cỏi, trí tuệ không bằng một đốm lửa cỏn con, tự thân không sao vuợt nổi sự trói buộc của bản ngã vì danh lợi hồng trần, vì vô minh vọng nghiệp nhơn quả kết dệt quá sâu dày, khiến ma tâm lừng lẫy, ngã mạn cao ngạo, chẳng những căn cơ không đủ để tiếp nhận nổi pháp môn này của Thế-tôn thì thôi, lại còn đem lòng đố kỵ, dùng miệng lưỡi tri thức phàm tình chê pháp, báng Tổ, phủ nhận Chánh Pháp Nhãn Tạng thậm vi thậm diệu của đức Phật.

Thật tội nghiệp cho những chúng sanh đang tự tạo nghiệp dữ mà không hề hay biết ! 

Cư-Sĩ Nhuận-Bảo