Cha ông ta từng xây chùa to, tượng lớn

Chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh) từ xưa đã nổi tiếng với tượng Phật Di Lặc khổng lồ cao 20m... đọc lại sử sách và thấy rằng chuyện xây những chùa to, tượng lớn của người Việt đã có từ nghìn xưa.

Gần đây trên các phương tiện thông tin đại chúng, thi thoảng lại ồn ào về việc ở nơi này nơi kia vừa hoàn thành ngôi chùa lớn, đúc được những cái chuông, bức tượng khi thì “lớn nhất Việt Nam”, khi thì “lớn nhất khu vực”, thậm chí “lớn nhất thế giới”.

Người viết những dòng này cũng cũng đã hân hạnh ghé thăm một vài công trình “kỷ lục” kiểu đó. Mừng thì cũng mừng, nhưng vẫn cảm thấy có chút gì đó gờn gợn, thấy trăn trở một điều: Hình như khách thập phương tới những nơi này chỉ để thỏa mãn sự tò mò, để “xem chùa”, “xem tượng” chứ không phải để tâm hướng Phật. Đứng trước những công trình ấy, ta cảm thấy choáng ngợp, chứ không cảm thấy gần gũi, ta thấy dường như Phật ở xa hơn.

Gác chùa Quỳnh Lâm.

Bèn về đọc lại sử sách và thấy rằng chuyện xây những chùa to, tượng lớn đã có từ nghìn xưa.

Chùa Quỳnh Lâm, huyện Đông Triều (Quảng Ninh) là một trong những ngôi chùa nổi tiếng vùng Đông Bắc. Nơi đây có pho tượng Phật Di Lặc khổng lồ, đứng đầu trong Thiên Nam tứ đại khí hay An Nam tứ đại khí, tức bốn thứ kim khí bằng đồng, có kích thước và trọng lượng lớn, những tài sản quý giá của nước Đại Việt thời Lý, Trần. Chùa Quỳnh Lâm được xây dựng thời Lý, năm Long Thụy Thái Bình thứ tư (1057) đời vua Lý Thánh Tông. Trong Thiên Nam tứ đại khí thì tượng Phật Di Lặc chùa Quỳnh Lâm  đứng hàng đầu, sau đó là tháp Báo Thiên (chùa Sùng Khánh, Hà Nội), chuông Quy Điền (chùa Diên Hựu, tức chùa Một Cột, Hà Nội), vạc Phổ Minh (chùa Phổ Minh, Nam Định). Thực ra, chùa Quỳnh Lâm có hai pho tượng lớn được đúc vào hai thời kỳ khác nhau. Một pho thời Lý do thiền sư Nguyễn Minh Không cho đúc, và pho thứ hai thời Trần do thiền sư Pháp Loa tạo dựng. Pho tượng được liệt trong Thiên Nam tứ đại khí theo nhiều ý kiến có lẽ là pho được đúc vào thời Lý.

Nhà sư có công xây dựng Quỳnh Lâm đầu tiên là thiền sư Minh Không, người làng Đàm Xá, phủ Tràng An (Nam Định), tên thật là Nguyễn Chí Thành, sau theo học thầy Từ Đạo Hạnh, được thầy khen là người có chí nên truyền ấn quyết và đổi tên là Minh Không. Sư Minh Không cùng với sư Không Lộ là hai ông tổ nghề đúc đồng Việt Nam. Theo các tài liệu còn lại thì pho tượng Phật Di Lặc ở chùa Quỳnh Lâm thời Lý cao 6 trượng (một trượng xấp xỉ 3,3 m, tức là pho tượng cao khoảng 20 m). Các tượng đồng cổ ở Việt Nam được coi là lớn nhất hiện nay: Tượng thánh Trấn Vũ đền Quán Thánh, Hà Nội đúc năm 1667 cao 3,7 m nặng 4 tấn; tượng phật A Di Đà chùa Ngũ Xá, Hà Nội đúc năm 1949-1952 cao 3,95 m, nặng hơn 10 tấn; tượng A Di Đà lớn nhất còn lại ở Quảng Ninh ở chùa Nhuệ Hổ, Đông Triều cao 1,45 m, đúc thời Lê. Pho tượng lớn đến nỗi người ta phải xây dựng một tòa điện cao 7 trượng (khoảng 23,5 m) để đặt. Tục truyền rằng đứng ở phía nam huyện Đông Triều, cách chùa Quỳnh Lâm ước chừng 10 dặm, vẫn còn thấy nóc điện che sát đầu pho tượng.

Trong dân gian còn lưu truyền câu ca: "Nức tiếng Quỳnh Lâm cõi xứ Đông/Ai qua đứng lại mà trông/Tháp cao chín đợt màu mây ám/Chùa rộng trăm gian gác ngựa hồng/Trước điện thông reo cùng trúc hóa/Trong am khánh đá với chuông đồng/Vua tu Phật hóa vui vui nhỉ”.

Chắc hẳn trong câu ca này hàm ý đến tòa điện đặt pho tượng nói trên. Sau đó không rõ tượng mất khi nào, có thể tượng bị mất cùng với ba thứ kim khí lớn khác khi quân Minh sang xâm lược. Ý kiến khác cho rằng tượng bị mất từ khi quân Nguyên Mông sang xâm chiếm nước ta, bởi vì sau đó sư Pháp Loa cho đúc một pho tượng lớn tương tự.

Pho tượng Phật lớn thứ hai của Quỳnh Lâm cũng là tượng Di Lặc được thiền sư Pháp Loa - ông tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm cho đúc. Tượng được đúc xong từ năm 1327 nhưng lớn đến nỗi năm 1328 nhân dịp vua Trần Minh Tông đến thăm chùa, sư Pháp Loa đã tâu xin cho cấm quân kéo tượng từ nền điện lên bảo tọa để dát vàng. Văn Huệ Vương Trần Quang Triều, chủ soái của Bích Động thi xã và người chị ruột, công chúa Thượng Trân, vợ vua Trần Anh Tông đã cúng chùa 900 lượng vàng để đúc tượng. Tượng bị mất vào thế kỷ 15 khi quân Minh sang xâm chiếm nước ta, chúng đã phá tượng để đúc súng đạn. Truyền thuyết dân gian nói rằng bọn giặc mang tới 24 bễ đến định thổi đồng đúc đạn nhưng thổi không được, còn bia chùa thì ghi tượng trầm trầm tại hạ (chìm dần xuống đất). Hy vọng báu vật này vẫn còn nằm dưới lòng đất Việt Nam?

Hai pho tượng đồng lớn thời Lý, Trần không những chứng tỏ trình độ đúc đồng đạt đến đỉnh cao mà còn nói lên những hoài bão to lớn của cha ông  trong việc xây dựng những công trình vĩ đại. Như vậy, rõ ràng cha ông ta đã từng biết  huy động tâm sức của nhân dân để xây dựng những công trình tôn giáo to lớn uy nghiêm nhưng có lẽ không bao giờ nhằm tới việc lập các loại  kỉ lục hay quảng bá du lịch nên không để lại những dấu vết ồn ào trong lịch sử. Nhưng có một điều đáng phải suy ngẫm: việc tạo dựng nên những giá trị văn hóa là sự nghiệp lớn đối với mỗi quốc gia, nhưng bảo vệ, gìn giữ nó mới là điều quan trọng để những giá trị đó mãi mãi trường tồn.

Tố Loan (datviet)