NGŨ GIỚI: Nền tảng căn bản cho đời sống hạnh phúc


altCon người là đối tượng của Đạo Phật, bao nhiêu luật, bao nhiêu pháp môn, Đức Phật đều vì con người lập bày. Đem lại sự an vui hạnh phúc cho con người, là mục tiêu chính yếu của Đạo Phật. Song quan niệm của Đạo Phật, không phải được nhiều của cải, nhiều tình yêu v.v... là con người có hạnh phúc.

Hạnh phúc là người sống biết tiết chế, biết tôn trọng hạnh phúc của mọi người, biết thành thật thương mến nhau. Một dân tộc văn minh là một dân tộc biết tôn trọng sinh mạng của nhau, tôn trọng những quyền tự do căn bản của con người. Vì thế, ngũ giới là nền tảng căn bản đem lại hạnh phúc cho con người, xây dựng con người sống đúng ý nghĩa văn minh của nhơn loại. Ngũ giới là cơ bản đạo đức của người Phật tử, khi bắt đầu bước chân trên con đường giác ngộ giải thoát. Thiếu căn bản đạo đức nầy, dù chúng ta có nói đạo đức cao siêu đến đâu cũng là lối nói rỗng. Sự tu hành thiết thực phải gầy dựng cơ bản trước, sau mới tiến lên những bậc cao siêu. Đối với việc chuyển hóa tâm hồn, làm mới lại đời sống hướng đến chân trời an lạc giải thoát thì cũng phải có những luật tắc cố định. Gọi là giới luật, tức là những hạn chế, cần ngăn không cho người ấy hành động theo hướng cũ, làm trở lại trong tù hãm bình thường. Giới luật có tính chất khắt khe, là hàng rào ngăn cấm được ví như người tài xế lái xe mà vượt lệ giao thông thì chắc chắn gây ra thảm khốc cho bao nhiêu người và cho chính y nữa. Người tu tập cũng vậy, sau khi nhận lãnh Tam quy thì đương nhiên phải tuân giữ Ngũ giới làm nền tảng cho đời sống mới.

Ngũ giới là bộ luật đơn giản nhất nhưng là sâu sắc nhất mở đầu cho đường lên thánh hạnh ngay đây.

A - Ngũ Giới Trong Đạo Phật Nhằm Mục Đích Gì?

Ngũ giới là 5 điều răn cấm có tính chất hướng dẫn mọi hoạt động đời sống của người tin theo đạo phật. Chữ giới có một nghĩa rất rộng là răn cấm đừng là, từ bỏ buộc lấy mình, phòng bị như đắp đê ngăn lụt, xây bờ đê cho chắc để giữ lại. Ngũ giới là năm điều ngăn cấm do Đức Phật bảo các Phật tử phải tuân theo. Sau khi quy y người ấy đã tự nhận là đệ tử Phật, để đủ tư cách một Phật tử cần phải gìn giữ năm giới. Phật vì thương xót chúng sanh mà tạo ra năm điều răn cấm này, cốt khiến đời sống họ được an lành hạnh phúc. Giới cũng còn tạo cho chúng ta trạng thái an ổn tâm hồn. Trong Kinh Di Giáo là kinh để lại lời dặn dò sau cùng của giáo tổ Thích Ca Mâu Ni, có nói rằng giới luật là chỗ an ổn số một cho tâm hồn hạnh động người tu tập giải thoát. Cũng trong kinh nói trên bằng hình ảnh khả xúc khác, bảo giới là con thuyền vững chắc nhất để ta chèo qua sông sinh tử, nghĩa là giới luật giúp chúng ta phương tiện tối yếu để tu tập chấm dứt vòng tái sinh từ vô số đời sống, chịu lầm than khổ lụy bời bời. Trong Đạo Phật có hai con đường giải thoát lớn nhất là giới luật giải thoát và trí tuệ giải thoát, nghĩa là ta ra khỏi  mọi ngu tối trói buộc mê muội đau khổ bằng hai biện pháp là giữ giới và nhận thức với ánh sáng của hiểu biết bực thánh. Tu  tập mà không đắp đê Giới Luật thì nguồn nước trí tuệ bị thấm lọt qua khe hở, chảy đi hết. Cho nên, trong kinh nói từ buổi rạng đông của chánh pháp được lưu truyền là nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ, nghĩa là từ chỗ giữ chắc giới luật mà tâm hồn được yên tịnh lắng sâu. Từ chổ thiền định lắng sâu mà trí sáng phát sinh lên. Từ đó nó củng cố thêm, soi sáng thêm cho động tác giữ giới. Cứ như thế trong thế liên chuyền tác động an ổn để đạt tới cõi miền giải thoát thảnh thơi. Năm giới là nền tảng chung nhất, lớn nhất, là mẫu số cho toàn bộ giới luật tại gia cũng như xuất gia.

Thành phần của ngũ giới:

Giới luật là nền tảng cho sự chuyển hóa nội tâm và an lạc giải thoát cho chính mình và tha nhân. Giới luật không phải là giáo điều ràng buộc mà sự ngăn cấm hành vi tạo tội của chúng ta. Năm giới là nền tảng căn bản nhất cho hành giả tu tập với giáo lý đạo phật. Vậy năm giới cấm là gì?

Không được giết hại chúng sanh.

Không được trộm, cắp.

Không được tà dâm.

Không được nói dối.

Không được uống rượu.

Giới thứ nhứt không được giết hại sinh mạng, sự sống:

Sự sống cụ thể là đời sống của con người, đời sống của động vật. Quan trọng là đời sống con người, vì chính con người là linh thức cao hơn hết mọi động vật khác trong trời đất này. Con người là động vật có khả năng cao nhất để hoàn thành giác ngộ, con người còn cao hơn chư thiên vì đời sống chư thiên hiếm lắm mới có người tu giác ngộ vì họ mãi lo hưởng vui, mất ý chí. Con người mới là có ý chí, ý chí quyết định hành động thành Phật. Thế nên sự sát hại mạng người là tội nặng nhất, trong các sinh vật ở đời này, kế tiếp là phải cố tránh đi sự sát hại mạng sống của các loài động vật vì sự sống của chúng như gia cầm, gia súc, dã thú là sự sống mang tính chất tiền hóa hơn là loại thực vật thảo mộc. Mầm sống của động vật có chất hướng lên đời sống  con người, dù vẫn còn xa, nhưng mầm sống đó mang Phật chất, là chất tiến hóa đến chổ tốt đẹp, thiện nghiêp. Dù chúng sống gần như trọn vẹn với bản năng, phần trí có lãng vãng đôi chút liên tưởng (khả năng này chúng ta thấy ở loài chó, khỉ, voi v.v… phát triển) nhưng chúng cũng biết  bảo vệ mạng sống, có cảm giác biết đau đớn, như thế giết chúng cũng mắc quả báo. Cho nên mạng sống con người là rất quan trọng chúng ta không được giết hay bảo người khác giết và thấy người ta giết người khác mà sanh lòng vui mừng. Đối với các loài chúng sanh khác chúng ta cũng nên tôn trọng sự sống của chúng  và không nên giết hại một cách bừa bãi. Tất cả các việc giết hại đều phải mắc quả báo. Tất cả phật tử chúng ta nếu giữ được giới thứ nhất của chư Phật thì chiến tranh sẽ không có, các nghiệp sanh tử luân hồi cũng được giải thoát. Cho nên Tổ xưa có dạy rằng:

Nhứt thiết chúng sanh vô sát nghiệp

Thập phương hà xứ động đao binh

Gia gia, hộ hộ đồng tu thiên

Thiên hạ hà sầu bất thái bình.

Dịch nghĩa:

Hết thảy chúng sanh không nghiệp sát

Mười phương nào có nổi binh đao

Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu thiên

Lo gì thiên hạ chẳng thái bình

Giới thứ hai không được lấy cắp, ăn trộm, ăn cướp:

Con người sống trên đời này có hai sinh mạng là mạng sống tự bản thân với hô hấp này và ngoại mạng của cải vật chất tiền bạc, ruộng vười, tài sản đủ thứ. Nếu chúng ta ăn cắp, ăn cướp, lấy trộm của cải người khác là sát hại ngoại mạng của họ, làm cho họ điêu đứng, khổ não, mất chổ dựa căn bản. Của cải tài sản của chúng ta, không muốn ai xâm phạm đến, của cải tài sản của người, chúng ta cũng không được giựt lấy hay lén lấy. Bởi cướp giựt hay lén lấy của người là hành động trái nhơn đạo, phạm luật pháp chánh quyền, phải bị trừng phạt. Trộm cướp là do lòng tham lam ác độc, chỉ nghĩ lợi cho mình, quên nỗi đau khổ của người, mất cả công bằng và nhơn đạo, người Phật tử nhất định không được làm. Tội ăn cắp, ăn cướp, ăn trộm nặng là vì thế. Nói theo cách khác thì hạnh động ăn cắp, ăn cướp, ăn trộm là gây một nhân quả xấu mà hậu quả phải trả đôi khi gấp bội vì ai nấy đều ghét kẻ lừa đảo cướp đoạt, bất công. Có nhiều kẻ ăn trộm gà hàng xóm, bị chủ nhân gài điện và kẻ trộm bỏ mạng. Bao nhiêu hậu quả dội xuống gấp bội cho hành động ăn cướp, vì nó đi theovới lẽ công bằng. Về hành vi ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp thì hành động đó biến hóa không lường, qua mọi hình thức lừa đảo, giết chóc, hãm hại, đong non cân thiếu, trốn thuế, trốn đò và hành vạn mánh khóe khác. Kẻ ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp thì không  phải là con người có giá trị tối thiểu, họ sống đời bấp bênh, lo sợ. Đó là, một tội lỗi nhơ nhuốc đối với xã hội văn minh. Người phật tử giữ giới không ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp là tự tạo niềm tin an ổn cho mình và xã hội, đó là cái chắc tạo nên nguồn an lạc bền bỉ, nhân cách được củng cố phát sáng lên. Ở đời người ta không ai có chút thiện cảm với kẻ một lần bội tín. Chúng ta phải tập cho mình thói quen là không lấy của cải của người khác. Cho dù lớn như vàng bạc hay nhỏ như cây kim, ngọn cỏ nếu bạn mình không cho thì cũng khống nên lấy. Hành vi người ta không cho mà lấy như vậy là phạm giới và làm mất tư cách đạo đức của mình. Nhà nho có câu: “nhơn phi nghĩa bất giao, vật phai nghĩa bất thủ”. Huống gì chúng ta là phật tử mà lại đi trôm cướp sao.

Giới thứ ba không được tà hạnh:

Có nghĩa là không quan hệ bất chính với người khác ngoài vợ, chồng chính thức. Bốn vấn đề tối quan trọng của nhân loại từ kim chí cổ là: bệnh tật, chiến tranh, tình dục, tôn giáo. Nói đến quan hệ bất chính là nói đến đời sống tình dục nam nữ. Vấn đề này mãi mãi đi theo con người, tình dục là sức mạnh ghê khiếp, là một loại lửa nguy hiểm, nó giục con người phạm biết bao tội ác, gieo bao thảm họa cho ai nấy. Vì thế, giới bất tà dâm là nhằm bảo vệ nhân cách, bảo vệ sự yên ấm trong gia đình. Đối với người xuất gia tu đạo giải thoát thì đoạn lìa hành động dâm dục, đối với người phật tử tại gia thì giới bất tà dâm tạo cho ai nấy một tư cách đáng tôn kính, có quyền uy giá trị lớn. Sự tuân giữ giới này vững mạnh, tạo nên đời sống an ổn về tinh thần rất lớn cho cá nhân, không còn tản mác sinh lực, hoang phí tuổi đời ngắn ngủi vào mọi đam mê nguy hại: Vì thế những kẻ ưa tánh lang chạ, thì họ làm nảy sinh bao rắc rối về nhiều thứ, không có được sự tinh khiết của tâm hồn, không có sự lương thiện phẩm giá đáng tôn kính. Người Phật tử có vợ chồng đôi bạn như mọi người thế gian khác. Khi có đôi bạn rồi tuyệt đối không phạm đến sự trinh bạch của kẻ khác. Nếu phạm thì mắc tội tà dâm. Bởi vì đây là hành động làm đau khổ cho gia đình mình và gia đình người, tạo thành nguy cơ tán gia bại sản. Do một chút tình cảm riêng tư của mình, khiến nhiều người khổ đau liên lụy, quả là thiếu lòng nhân. Để bảo đảm sự an ổn của gia đình mình và hạnh phúc của gia đình người, Phật tử nhất định không phạm tà dâm. Phật dạy: Người Phật Tử tại gia giữ năm giới, duy cấm tà dâm, là cấm chồng hay vợ không được lén lút làm việc tà bậy, tham tâm tà bậy có hại cho mình, gia đình và xã hội.

1. Làm cho chồng hay vợ buồn khổ, ghen tương.

2. Làm cho mất lòng tin cậy nhau.

3. Thân mạng gởi trên dao gươm.

4. Gia đình dần dần suy sụp.

5. Mắc phải quả báo xấu về sau, là chồng hay vợ con sanh lòng lang chạ.

Vì thế nếu muốn gia đình đầm ấm, vui vẻ, muốn được tin cậy, muốn mạng sống vững, muốn cho thành tựu gia nghiệp, muốn cho được tiếng thơm sạch ở đời này và khỏi bị quả báo xấu đời sau, thì nên đoạn hẳn tà đâm. Phật tử không nên tà dâm, vì tà dâm là hạnh dơ xấu. Người phật tử mà giữ được giới này thì có sự lợi ích mà trong Kinh Thập Thiên nói rằng: “ Người thế gian không tà hạnh thì được hưởng bốn điều lợi như sau:

Sáu căn đều được vẹn toàn

Tron đời được người kính trọng

Đoạn trừ hết cả phiền lụy khuấy nhiễu

Cuộc tình duyên trọn đời không ai dám xâm phạm”.

Giới thứ tư không được nói dối:

Nói lời trái với sự thật để mưu cầu lợi mình, hoặc hại người là nói dối. Do động cơ tham lam ác độc, sự kiện sảy ra như thế này lại nói thế khác, sửa trái làm mặt, đổi phải thành quấy, khiến người mắc họa. Người nói như thế trái với đạo đức, mất cả lòng nhân, không xứng đáng là một Phật tử. Phật tử là người đạo đức nên ăn nói có mẫu mực, thấy biết thế nào nói thẳng thế ấy, không điêu xảo dối trá. Trừ trường hợp vì lợi người lợi vật, không nỡ nói thật để người bị hại hoặc khổ đau, do lòng nhân cứu người cứu vật nói sai sự thật mà không phạm. Không nói dối là giữ lòng tin với mọi người chung quanh. Lời nói là ngôn ngữ giao tiếp, là sản phẩm đặc biệt, là mục đích trao đổi và cảm thông của con người. Lời nói là vũ khí lợi hại cũng không kém bất cứ thứ vũ khí vật chất nào hiện có. Có khi bỏ mạng cũng vì một lời nói, có khi vào tù ra tội cũng vì lời nói, có khi an ổn lâu dài cũng vì một lời nói. Lời nói như con dao hai lưỡi, như con rắn hai đầu vậy, cho nên chúng ta phải cẩn thận lời nói. Ông bà ta dạy là trước khi nói phải uốn lưỡi bảy lần rồi mới nói. Nói láo là nhằm chiếm đoạt quyền lợi vật chất, là nhằm phô bày bản ngã thánh thiện rỗng, là nhằm đè nén kẻ khác để tưng bốc mình lên, là che đậy bản ngã bẩn thỉu, cũng như mọi ý đồ đen tối khác. Nói láo là một hành động ăn trộm, ăn cướp, ăn cắp. Kẻ nói láo thường lo sợ, không được ai tin cẩn vì sợ bị phát giác bề mặt. Nói láo quen thói thì càng đi sâu vào muôn ma lối quỉ, tráo trở bất chính, vô sỉ. Nói láo cũng gieo tai họa không lường nổi, tác hại đến nhiều nhiều thế hệ con cháu. Trong ca dao, tục ngữ việt nam chúng ta có câu “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời má nói cho vừa lòng nhau”. Nói láo là một điều rất xấu và nó được phô diễn bằng bốn cách như sau:

1.  Nói không chân thật: Là lấy phải làm quấy, cho nên thấy mà nói không thấy; lấy quấy làm phải, cho nên việc không thấy mà nói là thấy. Việc không có tự dựng lên là có và trái lại, trước mặt khen sau lưng chê, vu khống đặt điều, bày mưu gian xảo. Tất cả đều nhằm gom về tiền bạc một cách bất chính, đầy tội lỗi. Cũng như là một tội trộm cướp bằng ngôn  ngữ, gieo thảm họa đau khổ cho người khác.

2.  Nói lưỡi đôi chiều: Là đến người này nói chuyện xấu người khia, đến người kia nói chuyện xấu người này, khêu gợi đấu tranh nhau, làm cho ân ái chia lìa.

3.  Nói lời độc ác: Là lời thô ác, mắng nhiếc, hủy nhục người, làm cho người lửa giận tức bốc lên; cho đến có mặt thì khen, vắng mặt thì chê; ở trước mặt cho là phải, sau lưng cho là trái; hoặc nói ra những chuyện dơ xấu của người, đều thuộc về loại nói dối cả. Lới nói này thật là đáng sợ là cuộc chiến bằng binh khí miệng lưỡi thật ác liệt và khủng khiếp.

4.  Nói thêu dệt: Là trau sửa lời hoa nguyệt, tiếng hay khéo, xúi người buông lung tâm trí, để làm việc tà bậy. Chuyện ít mà phóng đại ra, con ếch bằng con bò. Thêm mắm thêm muối làm cho câu chuyện bi thảm, ức đoán nói càng, vu oan giá họa. Nói lời không chân thật, độc ác, hai lưỡi, thêu dệt, láo khoét với toàn bộ triển khai của bốn nhóm ấy là trực tiếp biểu lộ một tâm hồn đầy sân hận, tham đắm, ghét bỏ, hung ác. Trái lại lời nói nhu hào từ ái, xây dựng là hợp chiều tiến lên của tâm hồn. Chứng tỏ một con người hoàn lương có giá trị dù mới bước đầu, nhưng qua vang vọng câu lời chân thật nó cũng khiến ta tỉnh thức, tự sửa chữa thêm mọi lối ăn nói không hợp sự thanh tịnh cần có của người tu học phật đạo.

Giới thứ năm không uống rượu:

Đạo Phật chủ trương giác ngộ muốn được giác ngộ trước phải điềm đạm tỉnh sáng, uống rượu vào gan ruột nóng bức, tâm trí quay cuồng, mất hết bình tĩnh không còn sáng suốt, trái hẵn mục đích giác ngộ. Chính vì nóng bức cuồng loạn, có những người khi say sưa tội lỗi họ cũng dám làm, xấu xa gì họ cũng không sợ, mất hết lương tri. Vì thế người biết đạo đức phải tránh xa không uống rượu. Uống rượu chẵng những làm mất trí khôn, lại gây nên bịnh hoạn cho thân thể, còn di hại cho con cái sau này đần độn. Quả là một tai họa cho cá nhân và xã hội. Người Phật tử vì nghiệp giác ngộ, vì lợi ích cho mình cho người quyết hẳn không uống rượu. Trừ trường hợp mắc bệnh y sỹ bảo phải dùng rượu hòa thuốc mới lành, Phật tử được uống thuốc rượu đến khi lành bệnh thì chấm dứt, cần phải trình cho chư Tăng biết trước khi uống. Hiện nay, sự ăn nhậu với rượu đã trở thành một thảm trạng xã hội, tử vong vì rượu, tật bệnh nguy hiểm vì rượu nói không xiết. Người say sưa tự làm mất tư cách con người cao quý.

Những hạnh ấy trở thành bợm rượu chuyên nghiệp. Tai hại của rượu đối với bản thân, gia đình, xã hội là cụ thể, đắng cay, và nhiều nỗi bất hạnh. Người uống rượu gây ra rất nhiều tội lỗi và mất giống trí tuệ. Đây là 10 tai hại của rượu mà trong kinh đã nói đến:

Của cải rơi mất

Tăng trưởng lòng giết hại

Trí tuệ kém dần

Sự nghiệp chẳng thành

Thân tâm nhiều khổ

Thân hay tật bệnh

Tâm sân hận bồng bột, ưa cãi lẫy

Phước đức tiêu mòn

Tuổi thọ giảm bớt

Mạng chung đọa vào địa ngục

B - Giá Trị Nhân Bản Của Ngũ Giới:

1.  Người phật tử thực hành sâu sắc năm giới tạo an ổn cho mình, cho xã hội và bắt đầu làm 10 nghiệp làm, tạo quả phúc an lạc, đời sống có ý nghĩa cho bấy giờ và đời sau. Không làm trái 5 điều mà còn tích cực hơn là làm 10 điều lành căn bản, đó là pháp hành sát sườn. 10 điều lành bao gồm: Thân có 3 là: bất sát, bất đạo, bất tà dâm. Miệng có 4 là: không nói láo, hai lưỡi, ác độc, thêu dệt. Ý có 3 là: không tham, không sân, không si. Năm giới là nền tảng của địa vị con người, tư cách con người. Đây là những giới căn bản, và luật pháp ở đời cũng xây dựng nền tảng từ 5 giới ấy. Thế nên 5 giới là nguyên tắc sống của chính thật mọi con người có trí thức, có lương tri. Con người là chủ nhân ông, làm tài sản số 1 của xã hội nếu con người biết tự chế và giữ 5 giới ấy dù phân nữa thôi thì xã hội cũng đã có những tiến bộ văn minh, đời sống có những tin cậy an lạc. Năm giới này mang giá trị nhân bản là ở chỗ không ai có thể phủ nhận được khi thẩm định đâu là giá trị cao khiết của con người. Không xã hội nào, không người nào chối bỏ 5 giới ấy mà kiến tạo xã hội tốt đẹp được.

2.  Sự hỗ tương tác động giữa 5 giới và không giữ 5 giới ấy thì thành tác cũng liên huyển tác động gây nguy hại. Người không sát sanh thì có lòng nhân từ, không lừa gạt, không nói dối, không ăn trộm, không tà hạnh lăng chạ, và không uống rượu say sưa hư đời. Trái lại một người chuyên lừa đảo gian dối thì liền phát sinh nói đủ thứ dối gạt. Ăn trộm và nói dối như chị em sinh đôi. Từ đó mọi việc khác chắc chắn đi theo định thức ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Say sưa rượu chè, bài bạc thì chuyện lăng chạ này nọ phát sinh. Thiếu, túng tiền thì đưa đến lừa gạt, gian dối để kiếm tiền chi vào cơn nghiện rượu, bài bạc. Người tu Phật có trí nguyện thanh tịnh hóa thân tâm thì phải có ý trí gỡ mình ra khỏi hư đốn của 5 phạm vi ấy là nhờ biết được nguy hại và luôn luôn thắp sáng ngọn đèn thề nguyện giữ giới trước chư Phật Pháp Tăng.

C – Lợi ích của việc giữ năm giới:

1.  Những hiền nhân minh triết là người đã giữ trọn được 5 giới cấm ấy, mà hiền nhân đâu phải thời xưa mới có, mà chính ngay đây cũng hiển hiện khối người, nếu họ tự nguyện giữ được từ 2 giới trở lên. Còn đối với người nhập đạo Quy y Tam Bảo, trở thành Phật tử, tu giữ được 5 giới thì họ là những bậc minh triết trong đời này, 5 giới là phát lộ nơi họ cái tư cách khả kính, vì công việc lợi tha giúp đỡ cho người khác chí tình. Chân thật chính là hoa trái của tâm hồn thuần hậu là hoa trái của tuân giữ 5 giới.

2.  Tu tập mà giữ chắc 5 giới là đạt kết quả hiện tiền về giải thoát giác ngộ. Giác ngộ chính là biết tai hại của không giữ 5 giới, biết mà tránh xa ra, tạo dựng đời sống an lạc, đó là bước đầu thấy ánh sáng huy hoàng của đạo ở ngay chỗ chuyển tâm. Tối quan trọng là giữ tâm tỉnh sáng cho kiên cố thì giới tự có, sức mạnh của tỉnh sáng ấy là nhờ ở suy tư điềm đạm quán chiếu, có trí huệ hiểu biết soi thấu.

Như vừa trình bày trên về tính chất nhân bản cao quý của 5 giới, ta thấy 5 giới quả là nên tảng cho mọi thứ tu tập, cho các thức giới của hàng xuất gia. Bài học làm người có tư cách phát sinh từ 5 giới, ta phải làm mãi, giữ mãi suốt đời. Năm giới trong đạo Phật được thực hiện song song với 3 đức bi, trí, dũng của Bồ tát hạnh để tự mình và kẻ khác đều có an lạc, lợi ích. Bi, Trí, Dũng bổ sung thêm phần thực hiện tràn đầy tích cực của 5 giới. Giới phải đặt trên nền tảng thực hành kiên quyết mới phát lộ lên tư cách chói sáng của người Phật tử. Từ đó chính họ là người tiêu biểu cho nền văn minh thanh khiết tinh thần của Đạo Phật. Thánh nhân cho chính mình mới là quan trọng. Vì mình đã chế ngự, dẫn dắt tâm mình theo đời sống thánh hạnh mà 5 giới là nền tảng tối yếu. Giữ giới bắt đầu ở chỗ tỉnh sáng tâm hồn.

Thích Nguyên Chính