Cổ kính cụm di tích làng Sủi

image

Phú Thị (xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội) là một làng cổ nằm trong địa bàn cư trú sớm của người Việt cổ thời Hùng Vương, trên trục đường lớn từ Thăng Long về Luy Lâu, trung tâm đất nước thời thuộc Hán, trung tâm Phật giáo lớn của nước ta trong những thế kỷ đầu công nguyên.

Phú Thị cũng là nơi sinh hoạt văn hoá đã được mở mang từ hàng nghìn năm, đã trở thành đất học, đất khoa bảng. Người làng Sủi vẫn truyền nhau câu nói “Nhất môn tam tiến sĩ/ Đồng triều tứ thượng thư” để cùng khuyến học, noi theo.

Và người làng Sủi còn tự hào với cụm di tích chùa, đình, đền nổi tiếng - một danh thắng ý nghĩa đất Thăng Long.

Chùa Sủi có tên là Đại Dương Sùng Phúc tự là một ngôi chùa cổ, có từ trước thời Lý. Tương truyền, thời Lý - Trần, các vua thường qua đây ngủ đêm để ngóng mộng, chờ thông điệp của thần linh.

Đây cũng là nơi nguyên phi Ỷ Lan đời vua Lý Thánh Tông về cầu tự, sinh được thái tử Càn Đức – sau là vua Lý Nhân Tông. Thỏa nguyện, bà cho xây dựng lại chùa và hoàn thành vào năm 1115.

Hiện trước tam bảo chùa còn đôi câu đối cổ, viết theo kiểu chữ Triện, ca ngợi việc nguyên phi Ỷ Lan xây chùa.

Chùa được xây dựng theo hướng phía trước có hình chim Chu Tước, có đường thiên lý thẳng xuống phía nam, phía sau có hình chim huyền vũ, bên trái có hình rồng xanh hướng về, bên ngoài có hình hổ cuồn cuộn chầu tới.

Chùa xây theo kiểu chữ đinh, gồm bảy gian tiền đường, ba gian hậu cung và hai dãy hành lang, đầu hai hành lang giáp với tiền đường là hai lầu tám mái treo chuông đồng, khánh đá.

Chùa Sủi còn lưu giữ được một số lượng lớn tượng cổ, co thể khẳng định đây là bộ sưu tập cổ vật quý hiếm, những tư liệu quý để tìm hiểu lịch sử mỹ thuât nước nhà và Phật giáo Việt Nam.

Hệ thống tượng trong chùa có niên đại tạo tác từ thế kỷ 17, 18 và 19. Trong số 73 pho tượng cổ có nhiều tượng có giá trị thẩm mỹ cao, tiêu biểu cho nền nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lê, Nguyễn.

Phong cách tạc tượng mang nhiều nét dân gian, có vẻ đẹp dung dị của nền nghệ thuật dân gian cực thịnh vào thế kỷ 17, 18. Chùa có khánh đá lớn từ thời Vĩnh Thịnh thứ 21 (1725), chuông đồng lớn treo trên lầu tám mái phía tây mang niên hiệu Cảnh Thịnh bát niên (1800) thời Tây Sơn, do tri huyện Nguyễn Huy Quynh, người làng, tổ chức đúc.

Trang trí trên chuông khá độc đáo, khắc nhiều bài ký bằng chữ Hán, miêu tả cảnh đẹp của chùa và ý nghĩa của việc đúc chuông cùng những tấm lòng công đức.

Chùa Sủi, tự bản thân đã là một danh lam chứa đựng nhiều yếu tố lịch sử, nghệ thuật lại nằm liền với ngôi đình và đền cổ kính, tạo thành một khu di tích liên hoàn hiếm có.

Đình có nguyên gốc từ một ngôi đền cổ thờ nhân vật lịch sử Đào Hoa Liên – người đã theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Phú Thị đã từng là nơi lập trại bản doanh của Đào Hoa Liên khi ông đi dẹp loạn ở Vũ Minh, dân làng Sủi đã lập đền thờ ngay sau khi vua ban chiếu chỉ.

Sau này ngôi đền đã trở thành đình và vị thần Đào tướng quân được tôn làm Thành hoàng. Đình Phú Thị phía trước xây tường thẳng và những cửa cuốn mở tiếp nhau chạy suốt năm gian, trên đắp nổi hai rồng chầu mặt trời lửa, dưới đắp hình hổ phù.

Đại đình gồm năm gian, xây kiểu bít đốc, trang trí rồng thời Nguyễn.

Trong hậu cung xây bệ cao đặt long ngai, bài vị Thành hoàng làng.

Sát với đình là ngôi đền thờ Lý Thái Hậu đệ tam Hoàng Đế (nguyên phi Ỷ Lan), được suy tôn là mẫu nghi thiên hạ, Phật bà Quan âm.

Đền gồm nhà tiền tế, phương đình và hậu cung. Mặt trước nhà xây tường thẳng đứng, gian giữa của đền xây hai tầng, tám mái, qua hiên là nhà tiền tế làm kiểu bán mái.

Trên các cốn mê chạm lộng rồng lá. Khu cung cấm gồm ba gian ngoài và hậu cung. Trong có bức hoành phi lớn “Mẫu nghi thiên hạ”.

Hiện trong đền còn hai mũ Hoàng đế, một to, một nhỏ bằng đồng là kỷ vật quý hiếm.

Đình, đền, chùa Phú Thị được xây dựng trên một khu đất cao, rộng rãi và bằng phẳng. Chúng được liên kết với nhau bằng các ngách nhỏ bên trong. Kiến trúc được bắt đầu bằng hai trụ biểu làm lối vào, qua cổng là sân chạy suốt mười gian của đình và đền.

Trong quần thể cụm di tích còn dựng một nhà văn bia để tôn vinh những người con ưu tú khác của quê hương như nhà thơ xuất chúng Cao Bá Quát, mười vị tiến sĩ Nho học qua các đời, 4 vị là Thượng thư và một vị là thầy học của quan đại thần Nguyễn Nghiễm - thân phụ thi hào dân tộc Nguyễn Du, rồi các nhà thơ tài danh Nguyễn Huy Lượng và Cao Bá Nhạ, các liệt sĩ...

Trước cách mạng tháng 8/1945 cũng như trong hai cuộc kháng chiến, khu di tích này từng là nơi tụ họp của các cán bộ cách mạng.

Khu di tích Phú Thị đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia từ năm 1989. Năm 2005, cụm di tích đã được tiến hành đại trùng tu với kinh phí khoảng 5 tỷ đồng, trong đó phục chế mới toàn bộ chùa và nhà nội tự, coi đây là một trong những công trình tu bổ di tích văn hoá của Thủ đô, nằm trong chương trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long.

Hà Bình