HOẰNG PHÁP VIÊN TRONG THỜI HỘI NHẬP


Đối với mỗi người con Phật thì "Hoằng Pháp vi gia vụ, lợi sinh vi bổn hoài" là một trong những sứ mạng thiêng liêng cao quý. Là một tu sĩ Phật giáo, con rất tâm đắc và luôn nguyện tiến bước theo hầu làm tròn bổn phận của một sứ giả Như Lai.

http://www.vuonlam.us/00_NAM2008/1_TrongSongGio/hoa%20sen.jpg

1. Có nhiều cơ hội học hỏi kinh nghiệm Hoằng pháp của các quốc gia, vùng miền.

Qua quá trình giao lưu, thâm nhập với các tổ chức Phật giáo nước bạn trên cơ sở các cuộc gặp gỡ, diễn đàn và viếng thăm, chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm Hoằng pháp của bạn. Mỗi hoa mỗi hương, mỗi cây mỗi sắc, kinh nghiệm đó sẽ trợ duyên cho Hoằng pháp viên rất nhiều, đặc biệt sau này muốn Hoằng pháp ở hải ngoại.

2. Đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau giữa Phật giáo các nước trong sự nghiệp Hoằng pháp.

"Pháp là Pháp của Pháp Vương

Hoằng pháp là trách nhiệm Tăng già mười phương".

Việc Hoằng pháp không phải là việc riêng của Ban Hoằng pháp hay của một vị tu sĩ nào đó (dù nổi tiếng) mà là trách nhiệm của tất cả các bậc xuất gia tu theo Phật. Do đó, việc đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa Phật giáo các nước đã và đang trở thành một việc quan yếu. Đặc biệt, trong thời kỳ hội nhập thì việc làm này càng trở nên cấp thiết.

3. Theo sự phát triển đa phương hóa, đa dạng hóa của quan hệ nhà nước giữa Việt Nam và các quốc gia, Phật giáo Việt Nam có thể Hoằng pháp ra nước ngoài, đặc biệt những nước có nhiều Việt kiều làm ăn, sinh sống.

Điều này góp phần tăng cường tình đoàn kết giữa các dân tộc, khuyến khích bà con Việt kiều hướng về quê hương, phát huy các truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

4. Khai thác được các kênh thông tin để quảng bá Phật giáo.

Cùng với xu thế hội nhập, các kênh thông tin phát triển như vũ bão, nhất là mạng Internet… Chúng ta có thể khai thác mạng Internet để quảng bá Phật giáo Việt Nam ra khắp năm châu.

Bên cạnh những thuận duyên cơ bản này Hoằng pháp viên còn phải đối mặt với các thử thách sau:

1. Hạn chế về trình độ Ngoại Ngữ và tin học.

Đây là tình trạng chung của phần lớn quý Tăng Ni hiện nay.

2. Những thử thách và cám dỗ của cuộc sống vật chất đang trở nên xí thịnh.

Môi trường Hoằng pháp càng rộng, đối tượng Hoằng pháp càng đa dạng thì thử thách càng lớn. Nếu chư Tăng ni không trang bị cho mình kiến thức Phật học, Giới luật Phật, luật pháp nhà nước, thì việc Hoằng pháp sẽ bị trở ngại. Hơn nữa, nếu không có nền tảng tu tập Giới - Định - Tuệ thì chư Tăng ni càng khó đứng vững trong môi trường Hoằng pháp đặc thù như vậy.

Trước những thuận lợi và thử thách ấy, theo thiển ý của con, các Hoằng pháp viên cần phải chuẩn bị cho mình hành trang sau đây:

1. Nâng cao trình độ ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh.

Một vị Sứ giả Như Lai, tuyên bày chánh Pháp cần phải sử dụng thành thạo một vài ngôn ngữ thông dụng ngoài tiếng bản địa. Đây cũng là yêu cầu của việc hoàn thiện "Thanh minh" trong Ngũ Minh của bậc hoằng truyền giáo pháp Phật Đà. Có như vậy mới dễ tạo được sự cảm thông, dễ thuyết pháp thành tựu và thâm nhập được vào các môi trường hoằng pháp khác nhau, đặc biệt ở hải ngoại.

2. Nâng cao trình độ tin học.

Thông qua mạng Internet, các máy tính cá nhân được kết nối trên khắp thế giới. Thông tin được truyền tải nhanh chóng, kịp thời và tương đối chính xác. Hơn nữa, bộ nhớ của các máy vi tính, đĩa Mp3, Mp4, Usb, … Có dung lượng khá lớn, có thể ghi nhận và lưu trữ rất nhiều thông tin. Do đó, thay vì phải cung thỉnh một lượng đồ sộ các cuốn kinh trong bộ Đại Tạng, chúng ta chỉ cần trang bị cho mình một máy tính xách tay, một vài đĩa nén, … Là có thể mang theo người cả tam tạng Kinh điển đi khắp thế giới.

3. Cập nhật thông tin thời sự và các tiến bộ khoa học kỹ thuật.

Giáo lý Phật Đà tuy rất cao sâu, vi diệu và có giá trị thực tiễn cao nhưng việc hoằng truyền không phải lúc nào cũng thuận lợi và không phải đối tượng nào cũng sẵn lòng đón nhận. Ngoài ra, với đầu óc quen tư duy khoa học, thực tế và thậm chí "Thực dụng" hiện nay thì việc thuyết trình những bài giáo lý mà không có sự linh hoạt vận dụng các phương tiện, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và uyển chuyển để phù hợp với tình hình thực tế thì khó mà Hoằng pháp thành công được. Chắc hẳn, những lời nói mang tính từ chương khô cứng sẽ ít đi vào lòng người hơn, đặc biệt là tầng lớp trí thức, thanh niên, …

Do vậy, các Hoằng pháp viên phải tự cập nhật thông tin,… Kỹ thuật trong việc Hoằng pháp. Đây cũng là sự vận dụng khéo léo tinh thần khế lý, khế cơ, khế thời, khế xứ hay " Tùy duyên bất biến" của Đạo Phật.

4. Nỗ lực tu tập chuyển hoá nội tâm - Tự mình phải thể hiện tính ưu việt của Pháp.

Bậc Cổ Đức có dạy: "Muốn dạy người, trước phải tự dạy mình; muốn hướng dẫn người, trước mình phải tự làm được". Điều này quả là chí lý, đặc biệt đối với hành giả tu theo giáo lý giác ngộ - giải thoát của Phật Đà. Một vị giảng sư không thể chỉ thuyết thao thao bất tuyệt trên pháp tòa mà cuộc sống tu tập thì lại không hề áp dụng như lời nói giảng sư càng không thể chỉ học nói cho hay, cho lôi cuốn, cho có vẻ uyên bác còn chính mình chẳng chịu thực tập hoặc chẳng thể thực hiện được.

Điều nguy hại hơn nữa là, nếu cuộc sống phạm hạnh của vị giảng sư có khiếm khuyết thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực vô cùng đến tín tâm của Phật tử và uy tín của Tăng Đoàn. Một sự phản cảm trong ấn tượng ban đầu của một Phật tử mới đối với một vị giảng sư là rất sâu nặng, khó phai mờ. Đặc biệt, có nhiều bậc giảng sư nổi tiếng, có uy tín và sức lôi cuốn lớn đối với thính chúng, được nhiều Phật tử sùng mộ, ái kính mà trở nên chủ quan, dễ duôi thậm chí buông lung Giới Luật căn bản thì hậu quả thật khó suy lường. Một sự "Sụp đổ thần tượng" sẽ kéo theo sự thất vọng, thoái tâm, thậm chí bất mãn của các Phật tử, tín đồ.

Chính vì vậy các bậc trưởng lão thượng túc thường cảnh tỉnh các thế hệ Hoằng pháp viên về điều này.

- Ở Hải ngoại có: Ngài Tuyên Hoá, Ngài Quảng Khâm, Ngài Ấn Quang, …

- Ở Việt Nam có: cố HT Thích Khánh Anh, cố HT Thích Thiền Tâm, cố HT Thích Đức Nhuận, …Và đặc biệt hiện nay có HT Thích Trí Quảng, nguyên Trưởng ban HPTWGHPGVN.

Hòa Thượng nguyên Trưởng ban luôn tha thiết khuyến phát, sách tấn hàng hậu học về tâm nguyện Hoằng pháp và những cạm bẫy có thể xảy ra. Bản thân chúng con có độ cảm rất sâu tới những lời dạy bảo của HT. Chính nhờ được đọc sách, và trực tiếp nghe pháp âm từ băng đĩa của HT mà chúng con đã vượt qua được nhiều thử thách trong quá trình tu học, Hoằng pháp của mình.

Đối với một Hoằng pháp viên trước thế cuộc đang thác loạn trong đời sống hưởng thụ vật chất thì hạnh “Thiểu dục tri túc” và hạnh “Viễn ly” là vô cùng thiết yếu. Không những Phật tử Miền Nam mà đặc biệt Phật tử Miền Bắc, không những Phật tử Việt Nam mà cả Phật tử mang quốc tịch các nước đều trở nên phản cảm tới một vị Giảng Sư xa hoa và kiểu cách. Tuy nhiên, “Thiểu dục tri túc” không đồng nghĩa với khổ hạnh phi lý, viễn ly không đồng nghĩa với thoái tâm độ tận hàm linh. Thiểu dục - tri túc và viễn ly luôn được đặt trên nền tảng của Bát Chánh Đạo, của Giới - Định - Tuệ. Đây là biểu hiện của cuộc sống tu hành theo Trung Đạo, một phong thái tự tại, giải thoát của một hành giả có trí tuệ Bát Nhã.

Điều quan trọng nữa là bậc Giảng Sư phải là người thể nghiệm Pháp. Hay nói một cách khác, bậc Giảng Sư phải tự mình thể hiện tính ưu việt của Pháp thông qua nỗ lực tu tập Giới - Định - Tuệ để chuyển hóa nội tâm, thông qua cách ứng xử Từ - Bi - Hỷ - Xả và đầy trí tuệ siêu thoát.

Các bậc Tôn Túc có dạy rằng: “mình phải thực tu, lời nói mới chân thật, mình phải thực hành thì lời nói mới có sức thuyết phục”. Theo đó, tâm của vị Giảng Sư càng rộng mở, tuệ vô lậu càng sáng thì thuyết pháp càng có độ rung cảm, càng có khả năng khơi dậy mầm thiện căn Phật tánh nơi các thính chúng.

Hơn nữa, mình có thực hiện được mới hướng dẫn người khác thực hiện được. Nếu không, lời nói trên mây, trên gió sẽ không có tính ứng dụng cứu đời và làm sai lệch tôn chỉ của giáo lý Giác Ngộ - Giải Thoát.

Nói tóm lại, việc Hoằng pháp, học pháp và hành pháp luôn phải đồng hành như Giới - Định - Tuệ, như ba chân của một chiếc đỉnh không thể thiếu một vậy./.

 

TK. Thích Đạo Ngộ

Phó Ban Tăng Sự

Thư ký Ban Hoằng Pháp Phật giáo tỉnh Phú Thọ

(Trích tham luận Hội thảo Hoằng pháp toàn quốc năm 2010 tại Kiên Giang)