Thiền Phật giáo và Tâm Thức học

http://www.rungthiendatma.org/images/Website%20Arts/Hinh%20Phat%20(Index).jpg

Jack Kornfield là một trong những sáng lập viên của Insight Meditation Society tại Barre, Massachusetts. Ông là vị thầy sáng lập trung tâm Spirit Rock tại Woodacre, California. Hiện giờ ông đang sống và giảng dạy ở nơi đây. Ông Kornfield cũng đã viết nhiều quyển sách về thiền tập như là: Seeking the Heart of Wisdom, A Still Forest Pool, Stories of the Spirit, Stories of the Heart, trong đó có quyển National Bestseller: A Path with Heart và After the Ecstasy the Laundry.
Dưới đây là bài nghiên cứu và nói chuyện của ông về đề tài Thiền Phật giáo và Tâm thức học (Buddhist Meditation and Consciousness Research) mà ông đã trình bày tại Institute of Noetic Sciences, tại Sausalito, CA.

Nhận thấy bài nghiên cứu của ông có trình bày những nhận xét và chia sẻ một số kinh nghiệm thiền tập rất sâu sắc, nên tôi xin được gửi đến các anh chị. Hy vọng những kinh nghiệm thực tập của ông sẽ mang lại cho ta một niềm tin và soi sáng được một số vấn đề trong sự thực tập của chính mình.

Nguyễn Duy Nhiên

Lời Giới Thiệu

Tôi xin được phép trình bày qua một chút về quá khứ và kinh nghiệm của tôi. Tôi tốt nghiệp đại học Dartmouth College với chứng chỉ chuyên môn về nghiên cứu Trung Hoa và Á châu, cùng với ngành triết học Phật giáo. Sau đại học, tôi gia nhập Peace Corps vào giữa thập niên 1960. Tôi xin được đi đến những quốc gia Phật giáo vì tôi muốn học hỏi thêm về Phật học. Tôi đến Thái Lan, và rồi xuất gia, tu học tại nhiều tu viện khác nhau ở Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ và Tích Lan. Sau khi trả y và trở lại Mỹ, tôi lái taxi ở Boston, đi làm trong một bệnh viện tâm thần, và vừa đi học thêm môn tâm lý học. Tôi tốt nghiệp bằng cao học ở đại học Antioch College, và bằng tiến sĩ chuyên môn về Tâm lý học Thực hành (Clinical Psychology). Luận án tiến sĩ của tôi có liên quan về những hiện tượng của thiền quán.

Tôi đã có dịp sống trong một tu viện ở giữa rừng sâu, mà sự tu tập được đặt trên ba yếu tố chủ yếu sau đây:

Yếu tố thứ nhất là một sự đơn giản tuyệt đối. Ta chỉ có một chiếc y và một bình bát. Mỗi sáng, bạn ôm bình bát xuống làng và mang về ăn bất cứ những gì mà người ta cúng dường bạn. Bạn sống trong một chòi nhỏ thô sơ ở giữa rừng, với vài quyển sách. Một phần của sự tu tập là giữ cho mình tĩnh lặng, và ý thức rằng ta không cần đến những thứ bình thường vây quanh ta hằng ngày, mà ta nghĩ rằng chúng sẽ mang đến cho mình hạnh phúc. Yếu tố thứ hai là một hình thức từ bỏ. Chúng tôi có 227 giới lớn và 500 luật nhỏ phải giữ. Có những giới luật dường như không còn thích hợp và có ý nghĩa nữa sau hơn hai ngàn năm, nhưng chủ đích là giữ cho ta thực tập chánh niệm. Ta phải ôm bình bát như thế này, ta phải đắp y như thế kia, mỗi hành động đều là một sự thực tập để phát triển chánh niệm. Và yếu tố thứ ba là thực tập thiền quán. Ta thực tập giữ cho mình tĩnh lặng rồi bắt đầu quan sát những hoạt động của tâm ý, nhất là những tâm ý nào mang ta ra khỏi giây phút hiện tại và giữ cho ta không có mặt trọn vẹn được với sự sống này.

Sau thời gian tu tập trong rừng, tôi đi đến một tu viện và học với một thiền sư Miến Điện nổi tiếng, Ngài tên là Mahasi Sayadaw. Trong tu viện này, đặc biệt là các thiền sinh chỉ chú tâm duy nhất vào sự thiền tập đơn độc cá nhân. Ngoài những chuyện lặt vặt khác, phần lớn tôi đã sống khoảng 13 hay 14 tháng trời một mình trong một căn phòng, thực tập ngồi thiền và đi kinh hành.

Mỗi sáng, tôi im lặng đi lấy thực phẩm chỉ một lần. Vào mỗi một hay hai ngày, tôi rời phòng đi gặp vị thầy của tôi khoảng 15 phút để trình pháp, nói về sự thực tập của mình. Ngoài những việc ấy thì tôi lại ngồi thiền một tiếng, đi kinh hành một tiếng, ngồi một tiếng, đi một tiếng, từ 18 đến 20 tiếng mỗi ngày. Nói chung thì sự thực tập chính là làm cho mình an tĩnh lại, chú ý đến bất cứ việc gì khởi lên và đặt tên cho nó. Sợ hãi, ham muốn, run sợ, toàn thân tan rã, cô đơn, hơi thở thanh nhẹ - ta chỉ đơn giản nhận diện và gọi tên nó, mỗi lúc một rõ rệt và chính xác hơn, khi chúng vừa mới khởi lên. Những tháng đầu thực tập sẽ là những cơn bão lớn của cảm xúc, lẽ dĩ nhiên là vậy, nhưng mục đích của sự thực tập là làm sao ta có thể bắt đầu nhìn vượt qua khỏi những hình tướng bên ngoài của những kinh nghiệm thuộc giác quan, để thấy được chân tướng của mọi hiện tượng trong cuộc đời.

Có thời gian tôi tu tập với một vị tu sĩ trong một tu viện, thực tập theo phương pháp thiền định tập trung vào bộ tim, như là tụng niệm, trì chú, quán tưởng, quán tâm từ… mỗi ngày từ sáng cho đến khuya. Tôi sẽ trình bày thêm về kinh nghiệm này sau.

Ở một tu viện khác, tôi thực tập về một phương pháp quán chiếu, có nghĩa là thay đổi tiến trình nhận thức và suy nghĩ của mình, như là cứ tự hỏi mình, lặp đi lặp lại câu hỏi ấy để quán chiếu. Nói chung thì tôi đã có dịp thực tập qua nhiều pháp môn khác nhau, và tôi trình bày tuy ngắn gọn, nhưng tôi nghĩ nó có thể giúp quý vị hiểu hơn về những gì tôi sắp chia sẻ.

Kinh Nghiệm Trong Một Khóa Tu Thiền Quán

Tôi xin được trình bày đến quý vị về kinh nghiệm của ba tháng thiền quán Vipassana, cũng như nêu lên một số vấn đề cho những bạn nào thích tìm hiểu, nghiên cứu về thiền quán. Thường thì mỗi khóa tu ba tháng như vậy có khoảng chừng một trăm người tham dự. Tất cả cùng phát nguyện giữ thinh lặng trong vòng ba tháng – chỉ được phép nói chuyện với vị thầy mỗi ngày khoảng 10 – 15 phút trong giờ trình Pháp. Các thiền sinh tinh tấn thực hành thiền tập: ngồi thiền một tiếng, đi kinh hành một tiếng, ngồi một tiếng, lại đi một tiếng, và cứ tiếp tục như vậy, mỗi ngày từ khi thức dậy lúc 5 giờ sáng, cho đến khi đi ngủ vào lúc 10 giờ tối, hoặc có khi là nửa đêm.

Thiền sinh chỉ nghỉ vào giờ ăn trong chánh niệm, cũng như lúc tắm rửa, mọi công việc đều được làm với một ý thức rõ ràng suốt trong ngày. Và việc gì sẽ xảy ra khi người ta thực tập như thế? Đầu tiên sẽ có đủ những kinh nghiệm rất sâu sắc xảy ra trong thân, và đôi khi, là những trường hợp chữa lành bệnh rất kỳ diệu.

Khi ta ngồi giờ này sang giờ khác và thật sự chú ý đến những gì xảy ra trong cơ thể của mình, thân ta sẽ bắt đầu thư giãn và mở ra. Và những chuyển hóa sâu sắc nhất sẽ tự nhiên xảy ra mà không cần ta phải làm gì hết, chỉ đơn giản chú ý đến tiến trình của nó. Tôi đã từng thực hành nhiều phương pháp, cách thức trị liệu cơ thể khác nhau, nhưng chưa có phương cách nào lại có thể so sánh với cái năng lượng chuyển hóa của thiền quán, phát xuất từ bên trong, khi ta ngồi trong chánh niệm liên tục nhiều ngày như vậy. Sẽ có một sự tháo gỡ những gút mắt trong thân xảy ra. Sẽ có những động tác cơ thể tự nhiên phát khởi, có những trường hợp thiền sinh tự nhiên uốn thân vào những tư thế du già đặc biệt. Có người cảm thấy như có lửa hay sự lạnh buốt di chuyển trong thân. Những trạng thái ấy thường được các thiền sinh diễn tả như là những luồng năng lượng của các luân-xa theo Ấn độ giáo, hoặc như là những đường kim châm cứu. Và chính những phương pháp của các vị như Jon Kabat-Zinn, Joan Borysenko và Stephen Levine cũng đã đặt nền tảng trên nguyên lý rằng thiền chánh niệm có thể làm khơi động một năng lượng trị liệu rất sâu sắc. Giáo sư Herbert Benson của đại học Harvard cũng đã thử nghiệm trên các vị sư Tây Tạng, cho thấy rằng các vị ấy có thể dùng thiền định để khiến cơ thể phát ra một nhiệt lực rất mạnh, điều này cho ta thấy chúng có thể kiểm chứng được.

Và cũng có một sự bùng vỡ trong lãnh vực cảm xúc xảy ra. Chúng có thể là những cơn bão của hạnh phúc, ưu sầu, cô đơn, sợ hãi, hoặc hỷ lạc… trôi ngang qua ta biến đổi như thời tiết, và cũng có thể chúng ở lại ngay trong thân ta một thời gian. Có một phương pháp giúp ta nhận diện và tiếp xúc với những cảm giác ấy, những ký ức và cảm xúc trong thân, danh từ Phật học gọi là các tâm hành (samskaras), ở những nơi khác nhau trong thân mình. Trong thiền quán, ta có thể chọn một nơi nào có nhiều vấn đề trong thân, và đặt sự chú ý của mình vào nơi đó trong một thời gian.

Khi sự chú ý của ta kiên trì đúng mức, nó sẽ dần dà khai mở được hết những ký ức, hình ảnh và ý niệm mà nó hằng ôm giữ chặt ở đó. Và cuối cùng, tất cả những gút mắt ấy trong thân sẽ được tháo gỡ và cởi mở ra hết. Chúng có thể là những gì mà bạn đã hằng mang giữ trong bạn suốt đời mình, nếu không nói là nhiều kiếp trước nữa. Và sự thực tập này cũng khơi lên một số vấn đề khá thú vị khác nữa.

Một Vài Vấn Đề Thú Vị

Trong những khóa tu, một điều kiện giúp cho những sự khai mở này có thể xảy ra được là một môi trường nghiêm túc và thích hợp. Môi trường ấy giúp tạo nên một hoàn cảnh, một không gian an toàn cho một sự khai mở sâu thẳm. Điều ấy rất quan trọng, những không gian nghiêm túc trong những khóa tu nhất thiết cần phải được ghi nhận và duy trì.

Và thường thường, các thiền sinh cũng có thêm những kinh nghiệm kế tiếp sau đây, mà tôi gọi là lịch sử cá nhân (personal history). Nhiều người có những kinh nghiệm về quá khứ của mình rất là sâu xa. Ví dụ, có người khi vào gặp tôi để trình pháp họ nói rằng, “Hôm nay, đến giờ ăn trưa tôi đi xuống phòng ăn. Trong khi nhai đột nhiên tôi thấy mình trở lại thành một đứa bé một tuổi.

Tôi thấy mình đang ngồi đó cầm chiếc muỗng và đập mạnh xuống bàn.” Trong thiền quán, những hình ảnh hoặc ý niệm quan trọng về những cảm nhận của ta đối với chính mình hoặc người khác, chúng sẽ khởi lên. Như tôi đã trình bày, các thiền sinh thường hay có những kinh nghiệm về ký ức thời ấu thơ của mình, ngay cả trước khi biết nói, họ thấy rất rõ được cơ thể của mình cảm xúc như thế nào trong những tháng đầu đời, những bước chân chập chững tập đi có cảm giác ra sao, những mùi vị của món ăn đầu tiên. Và trong thời gian trở về quá khứ này, sẽ có những vấn đề khó khăn, những nội kết mà chúng ta đã vô ý thức ôm giữ nó trong thân, trong tâm và tình cảm của mình từ bấy lâu nay. Chúng sẽ tự nhiên sàng lọc lại, khởi lên và muốn được ghi nhận. Và có một câu hỏi được đặt ra ở đây mà tôi nghĩ chúng ta cần nên tìm hiểu thêm. Chúng ta có thể tin tưởng rằng mọi việc sẽ được khai mở một cách có lớp lang và thứ tự chăng? Chúng ta có cần phải trực tiếp hướng dẫn những cảm xúc ấy, hay ta để cho chúng khai mở tự nhiên và chỉ cần tạo một không gian và điều kiện thích hợp thôi là đủ rồi?

Sơ Định, Cánh Cửa Hạnh Phúc

Và cuối cùng, thiền sinh sẽ đi đến một kinh nghiệm gọi là sơ định hay là định cận hành (access concentration). Sơ định là một cánh cửa mở rộng ra cho ta bước vào con đường giải thoát và hạnh phúc. Tâm ta lúc này đã được yên. Đến giai đoạn này, trong thân ta không còn một gút mắt hoặc đau đớn nào nữa hết, những cảm xúc mãnh liệt cũng giảm bớt đi, những tư tưởng thương, ghét, quá khứ, tương lai cũng từ từ chậm lại. Không còn những dính mắc nữa, tâm ta sẽ cảm thấy thật yên và hạnh phúc. Những tư tưởng vẫn sẽ tiếp tục khởi lên, nhưng ta không còn bị dính mắc và bị chúng lôi kéo nữa. Ta sẽ có khả năng theo dõi được những tư tưởng của mình khởi lên và rồi qua đi. Thật ra, bạn sẽ có thể cảm nhận được một cảm giác nhẹ trong thân trước khi có một tư tưởng khởi lên, cũng giống như một bong bóng nước trồi lên mặt. Bạn có thể biết rằng có một tiến trình tư tưởng đang phát khởi từ phần tiềm thức (unconsciousness) và đi qua phần ý thức (consciousness). Lúc này, bạn có đủ sự tĩnh lặng để thấy được tiến trình của nó, thay vì bị dính mắc vào phần nội dung của nó.

Giai đoạn này gọi là sơ định, hay là cận hành định. Đến giai đoạn này bạn sẽ có được một niềm tin rất lớn trên con đường tu tập, vì bạn có thể nhìn và tiếp xúc được với mọi sự việc một cách mới mẻ, như chưa từng có bao giờ.


Minh Tánh xin được gửi đến các anh chị phần tiếp của bài nói chuyện của ông Jack Kornfield, với đề tài Thiền Phật Giáo và Tâm Thức Học (Buddhist Meditation and Consciousness Research) tại Institute of Noetic Sciences, tại Sausalito, CA.

Trong phần này, ông chia sẻ về những giai đoạn mà ông đã trải qua trong thời gian hành thiền ở Á châu, và ông đã trình bày lại như một tấm bản đồ của tâm thức, lấy từ kinh điển và kinh nghiệm của chính mình. Và dĩ nhiên, chúng ta cũng còn nhiều những tấm bản đồ khác nữa.

Ông diễn tả những trạng thái tâm thức an lạc, hạnh phúc, cũng như những kinh nghiệm khó khăn và đôi khi là sợ hãi. Minh Tánh nghĩ đến một đoạn trong phim Little Buddha, khi đức Phật ngồi thiền dưới cội Bồ-đề, Ngài đã đối diện với mọi trạng thái biến đổi của tâm thức, và vượt qua tất cả.
Trong những năm tháng qua, chúng ta đã vun trồng biết bao nhiêu những hạt giống tốt lành cũng như nguy hại vào vườn tâm mình. Sẽ có lúc ta cũng phải đối diện và tiếp xúc với hoa trái của chúng. Nhưng với năng lượng của Tăng thân, của thầy và bạn, trên con đường tu học chắc chắn chúng ta sẽ tiếp xúc được với những tuệ giác hạnh phúc, an lạc, và dễ dàng chuyển hóa được những tâm thức khó khăn hơn.

--oOo--

Những Tầng Lớp Thiền Quán

Định là điều kiện đầu tiên

Định, hay tập trung, là một cây chìa khóa quan trọng trong thiền tập. Khi ta có định, nó có nghĩa là tâm ta đã được vững vàng, tự chủ và có mặt, và nhờ vậy mà tâm ta cũng trở nên mềm mỏng hơn. Ta có thể hướng dẫn nó hoặc uốn nắn nó theo ý muốn. Ta có thể đặt tâm mình ở nơi này thì nó nằm yên ở nơi này, hoặc đặt ở nơi kia và nó cũng sẽ nằm yên ở nơi kia. Ta cũng có thể mở rộng nó ra hoặc thu gom nó lại. Nói một cách khác, tâm ta lúc ấy cũng giống như một lăng kính của máy chụp hình xa, ta có thể điều khiển nó để nhìn gần hoặc xa tùy theo ý muốn. Và cũng có một vấn đề thú vị khởi lên, có liên quan đến những phương cách mà có thể giúp ta đạt đến một trạng thái tâm thức mềm dẻo này.

Những cảm nhận giác quan biến đổi

Bây giờ, khi tâm ta được an tĩnh và tập trung, thường thường ta sẽ cảm nhận có một sự hỷ lạc và ánh sáng. Có năm trạng thái hỷ lạc. Từ những cảm giác lâng lâng nhẹ, thấy một màn ánh sáng mờ, cho đến những vầng sáng chói chang (như có ai dọi đèn pha vào mắt bạn), hoặc cảm thấy thân mình hòa vào ánh sáng. Đôi khi trạng thái hoan hỷ ấy mãnh liệt đến mức có thể làm bạn cảm thấy đau đớn, khó chịu, cũng như một cảm giác sung sướng quá độ và kéo dài quá lâu. Nếu quý vị muốn tìm hiểu thêm về những trạng thái này, chúng ta cũng có những tài liệu trình bày rất rõ.

Những giác quan của bạn cũng bắt đầu biến đổi khi bạn đạt đến một trạng thái định này. Khứu giác của bạn trở nên tinh tế hơn. Tôi còn nhớ thời gian tu tập trong một tu viện, lúc ấy tâm tôi được rất an tĩnh. Một buổi sáng ôm bình bát xuống làng khất thực, tôi chợt thấy mình có khứu giác rất bén nhạy như một con chó. Thường ngày khứu giác của tôi rất tệ, nhưng buổi sáng hôm ấy, trong mỗi một hay hai bước chân, tôi ngửi được một mùi mới khác nhau. Họ nấu món này ở phía bên đây, họ đang nấu món nọ ở phía bên kia. Có mùi khai ở chỗ này, có con vật gì chết ở nơi kia. Tôi hoàn toàn sống trong một thế giới tâm thức của thần kinh khứu giác.

Thị giác hoặc thính giác của bạn cũng biến đổi, bạn có thể lắng nghe được những âm thanh, tiếng động hết sức vi tế mà bạn chưa từng nghe bao giờ, hoặc nhìn thấy những vật rất nhỏ li ti. Tôi tin rằng những sự khai mở này của giác quan có thể đo lường được, vì vậy chúng ta có thể nghiên cứu và tìm hiểu thêm về chúng.

Một sự ngẫu nhiên là luận án tiến sĩ của tôi cho đại học Saybrook Institute, một phần là trình bày những kinh nghiệm mà hành giả có được trong thiền tập - chúng có thể là những cử động tự nhiên vô ý thức, hoặc cảm nhận về cơ thể biến đổi hay nhận thức thay đổi. Tôi ví dụ, nếu bạn bước đi trong khi mình đang ở trong một trạng thái định sâu, căn phòng này có thể cảm thấy như một chiếc tàu lắc lư hay là bốn bức tường như ngả nghiêng. Bạn có thể cảm thấy không biết mình nên đặt chân xuống nơi nào. Thế cho nên, những nhận thức giác quan của ta cũng bị thay đổi, nhiều khi là song song với cảm nhận biến đổi của cơ thể. Thường thường, người ta hay có những nhận xét như là: “Tôi có cảm giác như mình đang bay bổng”, “Tôi cảm thấy như một tảng đá”, “Thân tôi như hóa thành mặt trời và sức nóng”, “Thân tôi lạnh cóng như băng và tôi cảm thấy như tuyết giá.”

Con Đường của Định

Ở thời điểm này, có một vấn đề khởi lên là ta sẽ chọn để tiếp tục con đường thiền tập của mình như thế nào? Và đây cũng chính là một tuệ giác quan trọng của đức Phật. Một sự lựa chọn là ta cứ tiếp tục tập trung vào một đối tượng duy nhất, có thể là hơi thở của mình, ánh sáng của một ngọn nến, hay là một hình quán tưởng nào đó. Và nếu bạn tiếp tục tập trung vào một đối tượng duy nhất, bạn có thể đi sâu hơn vào trạng thái định an tĩnh, hay an chỉ định, và nơi đây cũng vậy, cũng có những tầng lớp thiền và trạng thái tâm thức khác nhau, khi ta trở thành là một với đối tượng mà mình quán tưởng.

Đây là những trạng thái rất là huyền diệu và hấp dẫn, chúng tràn ngập niềm vui, hạnh phúc, nhẹ nhàng, hỷ lạc, của một bầu không gian và một trời tâm thức vô biên. Chúng đôi khi còn được gọi là cõi thiên trú, tức là những nơi cư ngụ của các vị trời. Nhưng trạng thái này cũng vẫn còn có một giới hạn. Vì tuy rằng ta có một kinh nghiệm về mình như là một không gian hoặc một tâm thức vô biên, nhưng vẫn còn có một người, một cá nhân nào đó làm chủ thể. Vì vậy cho nên, tuy một vị trời có thể sống hằng tỷ năm - điều này cũng có nghĩa là những trạng thái tâm thức này hiện hữu trên một bình diện thời gian khác - nhưng cuối cùng rồi thì nó cũng sẽ chấm dứt. Và rồi ta trở lại với thế giới của sanh tử, sau khi hết thời hạn ở cõi trời, ta lại trở về với thế giới của ngạ quỷ hay một nơi nào đó, tùy theo nghiệp quả hoặc sự ham muốn của mình dẫn dắt.

Tôi sẽ nói thêm về những tầng định sau.

Con đường của Quán

Và một con đường khác mà ta có thể chọn vào lúc này, giai đoạn đầu của sơ thiền, là ta không cần phải trở thành làm một với đối tượng thiền tập của mình. Đây là những con đường của thiền quán vipassana, zen và những pháp môn tương tự, mà tôi nghĩ có lẽ một vài phương pháp chú tâm của Gurdjeff cũng thuộc vào loại này. Theo phương pháp của thiền quán, ta chỉ cần quan sát và theo dõi sự phát sinh và mất đi của mọi hiện tượng, mà không tập trung hoặc trói buộc sự chú ý của mình vào bất cứ một đối tượng nào duy nhất hết.

Những tầng lớp của tuệ giác trong Thiền Quán

Khi tâm mình được tĩnh lặng và khi bạn thật sự chú ý đến tiến trình của thân và tâm, sẽ có một chuỗi sự kiện rất thú vị xảy ra. Chuỗi sự kiện ấy xảy ra không theo thứ tự của một đường thẳng, nhưng tôi nghĩ cách dễ nhất là ta hãy diễn tả chúng như một đường thẳng. Trước hết, ta sẽ có một tuệ giác về danh sắc, hay thân-tâm (body and mind). Khi bạn có chánh niệm và chú ý thật kỹ, bạn sẽ nhận thấy rằng trong mỗi giây phút, sẽ có một kinh nghiệm vật lý của nó (sắc) - ví dụ như ta cảm nhận hơi thở của mình - và tiếp theo là một ý nghĩ, ý tưởng hay là đặt tên cho nó (danh) - “Ồ, đó là hơi thở vào”.

Bạn sẽ bắt đầu có thể tách rời, và phân biệt được giữa những sự kiện nơi tâm (danh) và những sự kiện nơi thân (sắc). Những sự kiện danh-sắc hay thân-tâm ấy, chúng liên hệ rất mật thiết với nhau, nhưng chúng vẫn có thể phân biệt được. Và từ đó, một thế giới dường như rất rắn đặc của những giác quan và của một cái tôi sẽ bắt đầu tan rã. Lúc ấy, bạn sẽ thấy được rằng, cái tôi của mình đơn giản chỉ là những giây phút của một kinh nghiệm vật lý cùng với những phản ứng tâm thức đối với kinh nghiệm ấy. Và tất cả chỉ giản dị là có vậy thôi. Một sự khởi lên của một cặp đôi. Trong kinh đôi khi còn gọi đây là tuệ giác về phân biệt danh sắc. Giai đoạn thứ hai của tuệ giác sẽ khai mở trong khoảng thời gian vài ngày, vài tuần hay vài tháng, khi sự chú ý của ta trở nên sâu sắc và tinh tế hơn. Đây là một tuệ giác về duyên sinh, khi bạn thấy được rõ rằng giây phút này khởi lên là tùy thuộc vào điều kiện của một giây phút khác. Bạn nghe một tiếng chim hót, kế tiếp là hình ảnh một con chim hiện lên trong đầu, rồi bạn nhớ đến một con chim bạn thấy hồi còn nhỏ, tiếp theo đó có thể bạn ý thức rằng mình đang ngồi thiền và ghi nhận được những kinh nghiệm ấy khởi lên, và rồi có thể là một cảm giác tự hào nổi lên – “Mình cũng ghi nhận được khá đó chứ” – hoặc là một ý nghĩ tự trách móc nào đó. Dầu gì đi nữa, ở giai đoạn này, bạn có thể nhận thấy và kinh nghiệm được rất rõ rằng mỗi một sự kiện là một điều kiện, nhân duyên cho sự kiện kế tiếp xảy ra. Luật điều kiện và nhân duyên, thống trị hết mọi trạng thái tâm thức, sẽ tự biểu hiện ra rất rõ rệt trong giai đoạn này.

Vào giai đoạn kế tiếp, những kinh nghiệm về các ảo tượng sẽ xuất hiện. Ta sẽ bàn thêm về chúng trong phần nói về các biến chứng phụ (side effects) của thiền quán. Những kinh nghiệm này sẽ mang lại cho ta một cảm nhận rằng, tất cả chỉ là một tiến trình tâm thức lưu chuyển từ giây phút này sang giây phút kế, vô thường, biến đổi liên tục, không thể nắm bắt được. Nó không có dính dáng gì đến cái tôi hoặc của tôi. Nó hoàn toàn theo những quy luật riêng của nó. Ở giai đoạn này, bạn chỉ cần ngồi yên và theo dõi sự việc tự chúng đến và đi, mà không hề can thiệp hay xen vào. Bạn an trú trong tâm ý mình. Khi tâm thức của ta trở nên sâu sắc hơn, những ảo tượng và cám dỗ này sẽ đến và rồi tự động qua đi.

Nhận thức về sinh diệt có thể mang lại hạnh phúc

Khi sự chú ý của ta trở nên thâm sâu hơn nữa, ta sẽ kinh nghiệm được cái mà trong sách gọi là kinh nghiệm về sinh diệt. Giai đoạn này, ta có cảm tưởng như thân-tâm mình trở nên một thác nước, hay một cơn mưa, mà ta không còn có thể đặt tên cho những kinh nghiệm của mình nữa. Bạn kinh nghiệm thân và tâm mình như những chấm nhỏ của cảm giác, tư tưởng và ký ức, chúng hoàn toàn rời rạc với nhau, tất cả khởi lên rồi mất đi như những hạt mưa rơi tan biến trên một vũng nước. Cảm nhận về một cái gì kiên cố và rắn chắc của ta hoàn toàn tan rã.

Ở thời điểm này, sẽ có cái mà Daniel Goleman, trong quyển The Varieties of Meditative Experience, gọi là một Niết-bàn giả tạo khởi lên. Trong một khóa tu ba tháng, có độ chừng 20 thiền sinh trong số 100 thiền sinh sẽ có một kinh nghiệm này. Tâm ta rực sáng. Nơi nào ta nhìn cũng sáng chói. Ta tràn ngập ánh sáng và cảm thấy một niềm hạnh phúc, sáng tỏ và vui sướng mãnh liệt. Nói một cách khác, tất cả những gì huyền diệu mà bạn nghe diễn tả về con đường tâm linh đều xảy ra trong trạng thái Niết-bàn giả tạo này!

Và giai đoạn này cũng có một vấn đề. Thiền sinh dễ ưa thích và bị kẹt vào đấy. Họ nói, “Tôi đã đạt được rồi và tôi rất là thích!” Bạn ôm giữ những trạng thái này như chúng thật sự là của mình, mặc dù đó hoàn toàn là một tuệ giác sai lầm. Vì vậy mà ta gọi nó là một Niết-bàn giả tạo là vậy.

Trong thời điểm này, ta cần phải mạnh dạn và có một cái nhìn thật sâu sắc để nhận diện được nó. Trong giai đoạn này sẽ có một tuệ giác phát khởi, mà nó cũng là một trong những tuệ giác quan trọng và chủ yếu nhất của đạo Phật. Nó xảy ra một cách rất tự nhiên, cũng giống như ta đang ngồi trong một căn phòng tối và đột nhiên có một người nào đó bật đèn lên vậy. Ta nhận thức được rằng, khi ta ở trong trạng thái hạnh phúc này lâu đủ rồi, là sẽ không có một trạng thái tâm thức nào, và cũng không có một quyền lực hoặc một kiến thức nào, thật sự có khả năng giúp cho sự giải thoát của mình.

Trên con đường tu tập, quyền lực và kiến thức rất là rẻ rúng, chúng chẳng có một giá trị nào hết. Chúng hoàn toàn khác biệt với sự giải thoát. Vì vậy, chỉ khi nào bạn thật sự kinh nghiệm và nhận thức trực tiếp rằng, ta phải buông bỏ hết tất cả mọi việc, thì mới có thể nói chuyện vượt thoát sanh tử và bước đi thong dong được. Và đây là một khám phá rất lớn và chủ yếu.

Nhận thức về sinh diệt có thể mang lại một sự sợ hãi

Tiếp theo tuệ giác ấy là một nhận thức về sự tiếp nối liên tục của tiến trình sinh-tử, nó cũng tương tự giống như những bản đồ về cái chết của Stanislav Grof vậy. Đến giai đoạn này, nhờ bạn đã có khả năng buông bỏ hết những dính mắc về hạnh phúc, quyền lực, chói sáng, những vẻ đẹp mà đã đến với bạn, chánh niệm của bạn cũng được trở nên tinh tế hơn, và bạn có thể nhìn thấy sâu sắc ngay vào cái tiến trình của chính nó. Lúc ấy, thay vì nhìn thấy mọi vật sinh lên rồi diệt đi, bạn bắt đầu nhận thức rằng chỉ có mỗi một sự tan rã mà thôi. Bất cứ nơi nào bạn nhìn chỉ có sự tan rã. Nghe một tiếng động, bạn kinh nghiệm sự chấm dứt của nó. Có một tư tưởng, bạn kinh nghiệm sự chấm dứt của nó. Bạn có một cảm xúc, nó chấm dứt. Tâm thức bạn lúc này cũng giống như một vùng cát sa lầy vậy, tất cả biến mất. Ở trạng thái tâm thức này, tất cả mọi hiện tượng đều tan hủy.
Và kinh nghiệm về sự tan rã này sẽ làm phát sinh trong ta một nỗi sợ, đôi khi có thể là một sự kinh hãi lớn. Vì lúc này, bạn ý thức được rằng không có một nơi nào, một căn cứ nào, mà con người có thể đứng vững được. Không có một căn cứ nào hết, và đó là sự thật tuyệt đối. Tất cả những kinh nghiệm của ta đều là sản phẩm của tâm thức mình, và không có một trạng thái tâm thức nào lại có một bản thể thực chất hết. Ý niệm đặt cái tôi của mình trên bất cứ một nền tảng nào đều hoàn toàn sai lầm.

Và từ trạng thái sợ hãi đó, thiền sinh có thể sẽ bước sang những trạng thái buồn khổ, ghê sợ và đè nén. Bạn có cảm tưởng như thế giới này đang áp bức bạn, bạn có kinh nghiệm như thân mình đang hủy hoại. Tôi ví dụ, bạn có thể nhìn xuống thân và thấy như có những mảnh thịt của mình rớt ra còn đeo lủng lẳng trên người, bạn có thể thấy mình đã chết hằng trăm ngàn lần qua trăm ngàn lối khác nhau, hay là bạn cảm thấy một sức nặng đè nát mình, như là ta đang đội cả trái đất này trên đầu vậy.

Những kinh nghiệm về các ảo tượng khác cũng khởi lên, đủ hết mọi hình ảnh về các nguyên mẫu (archetype). Bạn có thể chứng kiến những cuộc chiến tranh đã xảy ra hằng ngàn năm trước hiện ra ngay trước mắt bạn. Và như tôi đã trình bày, có rất nhiều tài liệu nói về những vấn đề này, rất chi tiết, nếu bạn muốn biết.

Buông xả và Chấp nhận là hạnh phúc chân thật

Rồi sẽ có một trạng thái khác phát sinh lên, một tuệ giác về “buông xả hết những mong cầu giải thoát”. Thật ra, đây là giai đoạn mà cái tôi của mình bị bóc gở ra xuống đến cùng tận bình diện tế bào của nó. Cũng vì tiến trình này mà Jack Engler, trong luận án của ông tại đại học Harvard, đã diễn tả thiền quán (insight meditation) cũng giống như là một tiến trình vượt qua những nỗi thống khổ của mình (grieving proccess) vậy. Trước hết, bạn thấy rằng mình cần phải buông bỏ hết mọi việc bên ngoài - rằng ta không thể nào nắm giữ được vợ hay chồng mình, hay xe hơi, nhà cửa, chức vị... chúng là một phần của cát bụi. Và rồi, sâu sắc hơn nữa, bạn cũng thấy rằng mình không thể nào bám víu vào bất cứ một trạng thái tâm thức nào bên trong, hoặc một cảm nhận nào về cái tôi của mình, cũng thế, không có gì là một thực chất hết.

Như tôi đã trình bày, có một tiến trình sinh-tử mà trong giai đoạn này bạn có cảm tưởng như mình phải chết cả trăm ngàn lần. Sẽ đến một lúc mà bạn chỉ muốn được giải thoát thôi. Như là bạn muốn nói lên rằng, “Thôi, như vậy là quá đủ rồi!” Đến chừng ấy, nếu bạn không đối xử nó bằng một sự chống đối, nhưng bằng một chánh niệm sâu sắc và một thái độ chấp nhận, bạn sẽ tiếp xúc được với một trạng thái thanh thản rất sâu sắc, mà các nhà thần học Thiên chúa giáo gọi là sự vô-tình-thần-thánh (divine apathy). Sự vô tình ấy không phải là một thái độ dững dưng hay nhàm chán, mà nó là một trạng thái quân bình trọn vẹn trong tâm, một sự cân bằng rất hoàn hảo. Trong trạng thái này, bạn có thể ngồi yên hằng giờ mà không cử động hay nhúc nhích, và không có một sự khó chịu nào trong thân. Nó thật vô cùng an lạc.

Vào lúc này, tâm của ta trở nên vô cùng tươi mới. Tôi còn nhớ, khi ngồi thiền trong một tu viện ở gần một ngôi làng nhỏ. Người dân ở đây thường hay sử dụng những chiếc xe lôi máy ba bánh, mà mỗi lần tiếng máy nổ kêu “phụt-phụt-phụt-phụt.” Một chiếc xe lôi máy chạy ngang tu viện trong khi tôi ngồi thiền và đang ở trong trạng thái rất tĩnh lặng và an lạc này. Tiếng máy nổ “phụt-phụt-phụt-phụt” như mọi ngày. Nhưng tôi nghe mỗi tiếng “phụt” là một cái gì rất mới và đầy kinh ngạc! Trong tôi không có một sự mong đợi hay kỳ vọng nào hết. Chỉ vì tiếng máy nổ đều “phụt-phụt”, đâu có nghĩa là tiếng “phụt” kế tiếp sẽ xảy ra đâu! Trong tôi không hề có việc mang lịch sử, quá khứ của một giây phút này sang tiếp giây phút kế. Trong trạng thái tâm thức này, chỉ có sự phát khởi lên của một kinh nghiệm trong một giây phút, và rồi sự chấm dứt của nó. Có những lúc bạn cảm nhận được sự sanh diệt của mọi hiện tượng trong cuộc sống này như một giấc mơ, nhưng dù vậy bạn vẫn giữ được sự thanh thản và tỉnh táo của mình.

Chỉ là một tấm bản đồ

Thường thì trong một khóa tu ba tháng, với một trăm thiền sinh, thì có độ chừng năm hay sáu người sẽ đạt đến giai đoạn này, nếu họ tinh tấn. Đây là một trạng thái tâm thức rất siêu việt.

Quý vị cũng nên nhớ rằng, tấm bản đồ tâm thức mà tôi trình bày ở đây chỉ là một trong số những bản đồ khác. Mười bức tranh chăn trâu của Thiền tông cũng trình bày hành trình tâm thức này qua một lối khác, nhưng cũng rất tương tợ. Còn truyền thống đại-viên-mãn (dzogchen) và đại-thủ-ấn (mahamudra) của Phật giáo Tây Tạng, họ bắt đầu trước bằng một trạng thái tâm thức tĩnh lặng và bao la nhất. Thay vì bắt hành giả thực tập để đi lần lần vào những trạng thái tâm thức vi tế hơn, thì họ lại bắt đầu với những trạng thái cao tột này, và rồi từ đó nhìn lại những kinh nghiệm bên dưới - như là: danh sắc, nhân duyên, sanh tử, đau đớn - từ một phối cảnh rộng lớn ấy. Nói tóm lại, còn có những tấm bản đồ tâm thức khác nữa, nhưng tôi không thể trình bày ở đây.
(còn tiếp)

 

Nguyễn Duy Nhiên

 Tập San Pháp Luân 27