Xã hội hóa giáo dục Phật giáo

Xã hội hóa giáo dục Phật giáo là nhằm thực hiện đưa đạo Phật vào đời, thực hiện thông điệp cứu khổ của Đức Phật đến với từng cá nhân, từng nhóm người, từng tập thể, tiến đến việc phổ biến cho quảng đại quần chúng.

Xã hội hóa ở đây được hiểu theo nguyên nghĩa từ nguyên và ý nghĩa mở rộng theo các quá trình sinh hoạt xã hội. Lâu nay, chủ trương xã hội hóa nhiều ngành sinh hoạt như chính trị, kinh tế, giáo dục, kịch nghệ v.v… khiến chúng ta hiểu rằng xã hội hóa có nghĩa chung chung là đưa một ngành hoạt động nào đó vào xã hội, để cho quần chúng nhân dân, hoặc một nhóm, một tập đoàn tư nhân tự lo liệu thực hiện, chịu trách nhiệm về quá trình hoạt động và về kết quả, đặc biệt là tự lo liệu về tài chính. Trong ý nghĩa này, xã hội hóa là xóa bỏ dần sự bao cấp của Nhà nước, chia sẻ gánh nặng cho Nhà nước, góp phần dân chủ hóa đất nước.

Hiểu như vậy là không sai, nhưng chưa đủ. Vấn đề ở đây là nghiên cứu ý nghĩa nội dung và cách thực hiện xã hội hóa để phát triển đúng hướng và có hiệu quả các hoạt động xã hội. Bài viết này đặc biệt chú trọng về vấn đề xã hội hóa giáo dục Phật giáo. Phật giáo là một tôn giáo mang tính xã hội cao, do đó, nền giáo dục Phật giáo cần được xã hội hóa để phát triển và có những đóng góp to lớn hơn nữa cho cộng đồng và xã hội.

alt

Ý nghĩa của xã hội hóa

1. Xã hội hóa là một chức năng của giáo dục

Xã hội hóa là từ được các nhà xã hội học, tâm tý học và giáo dục học sử dụng, nhằm chỉ quá trình học tập văn hóa của một người và phong cách sống trong nền văn hóa đó. Đối với cá nhân, xã hội hóa mang lại những động lực cần thiết cho hoạt động và tham gia xã hội. Đối với xã hội, xã hội hóa là phương tiện để đạt sự tương tục văn hóa của xã hội thông qua việc đưa các thành viên cá nhân vào các luật tắc, cách cư xử, giá trị, động lực của xã hội. Đây là ý tưởng tập hợp của Clausen (1968) khi ông tuyên bố rằng các lý thuyết xã hội hóa vốn đã có từ Platon, Montaigne và Rousseau. Từ đó, Clausen định nghĩa: Xã hội hóa là khiến cho con người có tính xã hội, thích hợp với xã hội.

Ely Chinoy (1961) xác định xã hội hóa gồm hai chức năng chủ yếu:

- Chuẩn bị cho cá nhân những vai trò mà người ấy sẽ thực hiện, cung cấp nội dung cần thiết về thói quen tín ngưỡng, các giá trị, mẫu thức đúng về sự ứng dụng tình cảm, thể cách cảm nhận, kỹ năng và kiến thức cơ bản.

- Truyền thông những nội dung văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác để duy trì sự bền vững và tương tục về văn hóa.

Tự điển American Heritage đã định nghĩa xã hội hóa một cách tổng quát. Xã hội hóa là:

Một quá trình tương tục, nhờ đó một cá nhân đạt được sự nhận biết mình và các chuẩn tắc, giá trị, cách cư xử và các kỹ năng xã hội thích hợp với vị trí xã hội của mình.

Một hành động hoặc một quá trình hành động tạo tính xã hội.

Toàn bộ các định nghĩa về xã hội hóa trên rõ ràng liên quan rất lớn đến những chức năng và mục tiêu của một nền giáo dục hiệu quả.

2. Các hình thức xã hội hóa

Về mặt xã hội, tâm lý và giáo dục, các nhà nghiên cứu đã phân chia ra nhiều hình thức xã hội hóa. Đại khái, ta có thể phân biệt các hình thức sau:

a. Xã hội hóa đầu tiên: Sự bắt chước, tiêm nhiễm các đức tính của người lớn khi đứa bé chưa tiếp xúc với xã hội bên ngoài. Ví dụ, nếu người mẹ hay la mắng thì đứa bé học theo tính nóng nảy và ngược lại.

b. Xã hội hóa thứ hai: Đứa bé lớn lên, chịu ảnh hưởng của môi trường bên ngoài gia đình mà nó tiếp xúc. Bạn bè hàng xóm hay trong lớp.

c. Xã hội hóa phát triển: Khi đã lớn, người ta học cách cư xử trong một cơ quan hoặc học tập, phát triển các kỹ năng xã hội.

d. Xã hội hóa luyện tập: Quá trình xã hội hóa mà một người học luyện tập, làm quen với chức vụ nghề nghiệp, với các giao tiếp xã hội.

e. Xã hội hóa tái lập: Quá trình loại bỏ những nhận thức, cách cư xử lạc hậu, lỗi thời và tiếp nhận cái mới để tiến bộ, phát triển.

Nhận định được các hình thức xã hội hóa như trên, nhà giáo dục cần xác lập môi trường hoạt động, thực hiện tại gia đình, trường học, các nhóm nhỏ (cùng lứa tuổi, sinh viên, học sinh, đại chúng (quốc gia, dân chúng), và nhiều thành tố khác như tôn giáo, hội đoàn, cơ quan làm việc v.v… Đây là những đề xuất mang tính gợi ý cho sự chuẩn bị, chương trình, kế hoạch, biện pháp đẩy mạnh việc xã hội hóa giáo dục Phật giáo trong thời đại mới.

alt

Xã hội hóa giáo dục Phật giáo

1. Giáo dục Phật giáo vốn mang tính xã hội và đã được xã hội hóa:

Đức Phật dạy: “Này các Tỳ-kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ”(1). Khổ là một thực tế mà mọi người đều phải gánh chịu và diệt khổ là mục tiêu của mọi hành động, là mong ước của mọi người. Giáo lý cứu khổ, giải thoát đã mang tính xã hội ngay trong nguyên nghĩa. Nhưng, xã hội hóa giáo dục là đưa giáo dục đến với xã hội, không phải chờ các thành viên xã hội đến với Phật giáo. Cho nên, khi Giáo đoàn mới được thành lập gồm 60 Tỳ-kheo, Đức Phật đã thúc giục: “Này các Tỳ-kheo, hãy đi đi, đi khắp nơi vì lợi lạc, vì hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của trời và người”(2). Do vậy mà Tôn giả Phú-lâu-na (Punna) đã xin đến xứ Du-lãn-na (Sranaparanta) để giáo hóa nhân ở đấy vốn còn sơ khai, hung bạo(3). Đức Phật là người chủ trương xóa bỏ sự phân biệt đẳng cấp. Ngài và chư Tỳ-kheo đến với mọi hạng người trong xã hội, Ngài thu nhận vào Giáo đoàn tất cả những ai mong cầu giải thoát, chứ không phân biệt sang hèn, đẳng cấp, tuổi tác, giới tính. Ngài khẳng định tất cả mọi người đều bình đẳng: “Không phải do sinh ra mà thành Bà-la-môn. Không phải do sinh ra mà thành tiện nhân. Trở thành tiện nhân là do hành vi của mình. Trở thành Bà-la-môn là do hành vi của mình”(4).

2. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục Phật giáo trong thời đại mới

Thế giới hiện nay có nguy cơ ngập chìm trong những tai biến trầm trọng, chiến tranh, bạo lực, hận thù, nghèo đói, cạn kiệt nguồn tài nguyên, môi trường sống bị ô nhiễm, suy thoái đạo đức, kỳ thị chủng tộc, tôn giáo. Chính vì thế, giáo lý từ bi và trí tuệ của Phật giáo cần phải được nêu cao, phổ biến để góp phần xây dựng hạnh phúc, an bình cho nhân loại.

Từ lâu, nền giáo dục Phật giáo chủ yếu được áp dụng cho chùa chiền, thiền môn, học viện và các trường Phật học dành riêng cho Tăng Ni. Đó là điều rất cần thiết để đào tạo những con người mẫu mực, những giảng sư tài năng. Nhưng nếu chỉ như vậy thì chưa đủ. Bởi nó chưa thể hiện được đặc tính xã hội khi chỉ quá chú trọng vào hàng xuất gia trong khi các khóa học, buổi giảng dành riêng cho cư sĩ Phật tử lại quá ngắn, quá ít, không đều đặn và thiếu tính thống nhất về nội dung. Đây là một thực trạng đang diễn ra hiện nay trong nền giáo dục của Phật giáo Việt Nam.

Hiện nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có nhiều lớp Sơ cấp Phật học, 28 Trường Trung cấp Phật học, 8 lớp Cao đẳng Phật học và 4 Học viện Phật giáo, tất cả đều dành riêng cho Tăng Ni. Tuy cách tổ chức và nội dung giảng dạy chưa đồng bộ, các cơ sở giáo dục trên cũng tạo được một không khí tu học đạt lợi lạc cho Tăng Ni sinh. Tuy nhiên, nếu không chú trọng hơn nữa cho sự tổ chức những khóa học, buổi giảng dành cho cư sĩ Phật tử thì nền giáo dục Phật giáo của chúng ta vẫn chưa đáp ứng yêu cầu và rõ ràng, đây chưa phải là một nền giáo dục mang tính xã hội hóa.

Tích cực đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục Phật giáo

1. Mở các lớp Phật học dài hạn dành cho cư sĩ Phật tử

Các lớp này nên mở ngoài giờ hành chánh, có chương trình giảng dạy cụ thể, có ấn định cấp học. Dần dần, nếu có đông học viên, số cấp học tăng lên thì mở trường Phật học. Trường, lớp Phật học này có thể thu nhận Tăng Ni nhưng chủ yếu là nhằm cho cư sĩ Phật tử. Các học viên này sẽ là những cán bộ giáo dục Phật giáo có hiệu năng trong việc phát triển Phật giáo và xã hội hóa giáo dục Phật giáo.

2. Tiến đến việc thành lập một hệ thống giáo dục Phật giáo hoàn chỉnh

Quả thật rất khó có thể thu hút các em nhỏ, các giới trẻ vào các trường học do Phật giáo tổ chức. Một trường học, dù là dân lập, tư thục cũng phải theo chương trình học do Nhà nước ấn định. Điều này là hợp lý và cần thiết cho các em, vì các em trước hết là những công dân, phải được đào tạo theo chương trình giáo dục và đào tạo của Nhà nước. Tuy vậy, kinh nghiệm về các Trường Bồ Đề ở phía Nam nước ta từ trước năm 1975 cho thấy các học sinh vẫn học rất tốt theo chương trình Nhà nước, lại được trang bị thêm mỗi tuần 1 hoặc 2 giờ giáo lý căn bản.

Tại Việt Nam, trước đây có Trường Đại học Vạn Hạnh với các phân khoa: Báo chí, Kinh tế, Khoa học, Xã hội, Phật học v.v… Phật giáo được phổ biến trong giới trẻ và không ít những người tốt nghiệp thời ấy đang giữ những chức vụ trọng yếu. Điều thiếu sót nhất là hiện nay, Phật giáo chưa có các nhà trẻ, các trường mẫu giáo. Các em nhỏ đầu đời cần gần gũi với hình ảnh nhân từ của Đức Phật, cần nghe kể những câu chuyện về sự hy sinh, hiếu thảo, khiêm nhường,… của tiền thân Đức Phật, thưởng thức các giá trị âm nhạc, nghệ thuật của Phật giáo, v.v… Các cơ sở nuôi dạy trẻ mồ côi, bụi đời, khuyết tật hiện nay của Giáo hội còn quá ít và chỉ mang tính từ thiện xã hội chứ chưa phải là những cơ sở giáo dục đúng nghĩa.

3. Thể hiện trách nhiệm của Giáo hội và của quần chúng Tăng Ni, Phật tử

a. Trách nhiệm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trước hết cần nhận định rõ việc xã hội hóa giáo dục Phật giáo là cần thiết, cấp bách trong thời đại mới để đáp ứng mục tiêu cứu khổ của Phật giáo. Giáo hội cần đẩy mạnh việc đào tạo cán bộ giáo dục, mở thêm các cơ sở giáo dục cho cư sĩ Phật tử. Công việc này cần được chuẩn bị kỹ càng bằng các hội nghị, hội thảo, các cuộc vận động tài chánh và sự giúp đỡ của Nhà nước, đồng thời, cần phải có sự thông tin, quảng bá về lợi ích thiết thực của việc xã hội hóa giáo dục Phật giáo đối với xã hội.

b. Trách nhiệm của Tăng Ni, Phật tử.

Xã hội hóa giáo dục Phật giáo là phổ biến giáo lý của Đức Phật, là trao trách nhiệm thực hiện cho toàn thể xã hội mà bước đầu chủ yếu là cho Tăng Ni, Phật tử. Chư Tăng Ni có quần chúng, có đối tượng giảng dạy đông, phải là người nắm vững lý thuyết và thực hành, là người có kiến thức và đạo hạnh thanh cao để thực hiện sự nghiệp quan trọng này. Nhưng điều quan trọng nhất chính là trách nhiệm của quần chúng Phật tử, vì đây là thành phần đông đảo và hoàn cảnh thực hiện phù hợp nhất, tự nguyện đóng góp nhiều nhất.

Hãy trở lại các hình thức xã hội hóa đã nêu trên (Phần II.2) để nhận rõ tầm quan trọng của vai trò xã hội hóa giáo dục Phật giáo của người Phật tử.

Trong hai hình thức xã hội hóa đầu tiên và xã hội hóa thứ hai, rõ ràng trách nhiệm giáo dục là thuộc về người mẹ, người cha và các thành viên khác trong gia đình bởi vì trong hai hình thức này, tuy có chịu ảnh hưởng của môi trường xã hội hóa sẵn có bên ngoài nhưng chưa sâu đậm. Một gia đình theo đạo Phật thì cha mẹ cần phải dạy dỗ con em mình theo tinh thần Phật giáo, nêu gương đạo đức Phật giáo để đào tạo con em trở thành người Phật tử, người công dân chân chính.

Về hình thức xã hội hóa phát triển và xã hội hóa tham dự thì mỗi cá nhân sẽ trực tiếp tham gia học hỏi, thực tập các cách ứng xử ở nơi làm việc, phát triển các kỹ năng xã hội. Nếu người ấy là một Phật tử và được gia đình giáo dục đúng đắn thì sự xã hội hóa phát triển của người ấy sẽ có định hướng rõ ràng và có cơ sở để phát triển tốt. Lại nữa, nếu trong một tập thể, đoàn thể hay cơ quan gồm nhiều Phật tử đều có ý thức trách nhiệm về việc xã hội hóa thì các thành viên trong cơ quan hay đoàn thể ấy sẽ trở nên tốt hơn về ý nghĩa xã hội và cả về mức độ thành công của tập thể. Sau cùng, về sự xã hội hóa tái lập, tức là sự loại bỏ dần những giá trị lạc hậu, lỗi thời để thâu nhận những giá trị mới trong một quy trình xã hội hóa mới. Chẳng hạn như trường hợp một người phải lìa bỏ môi trường sống và làm việc của mình để đi đến một môi trường mới. Ví dụ, thay đổi môi trường làm việc, đi sinh sống ở nước ngoài, chấp nhận một nền văn hóa mới du nhập v.v… Trong trường hợp này, nếu không nhờ một định hướng của xã hội hóa giáo dục Phật giáo mạnh mẽ thì người Phật tử sẽ bị tha hóa, sẽ từ bỏ những giá trị luân lý tốt đẹp của đạo Phật.

c. Trách nhiệm của những người thực hiện giáo dục Phật giáo.

Việc xã hội hóa giáo dục Phật giáo có thành công hay không là trách nhiệm của những người thực hiện giáo dục Phật giáo. Ở đây, đặt trọng tâm vào tính chuyên môn, tức là vào các kiến thức giáo dục, bao gồm các lý thuyết giáo dục, sư phạm và các kế hoạch hoạt động. Ngành giáo dục Phật giáo rất cần những chuyên gia giáo dục, biết thâu thập kinh nghiệm về những ưu khuyết điểm của giáo dục xưa nay; đặc biệt là giáo dục hiện đại và biết áp dụng, bổ sung sao cho phù hợp với giáo lý Phật giáo.

Kết luận

Xã hội hóa giáo dục Phật giáo là nhằm thực hiện đưa đạo Phật vào đời, thực hiện thông điệp cứu khổ của Đức Phật đến với từng cá nhân, từng nhóm người, từng tập thể, tiến đến việc phổ biến cho quảng đại quần chúng.

Trong thời gian qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam với những điều kiện và phương tiện có được đã làm hết sức mình vẫn chưa đạt được một nền giáo dục Phật giáo thực sự như mong muốn. Chúng tôi nghĩ rằng đây cũng là tình trạng chung của Phật giáo ở các nước khác. Nhân đây, chúng tôi rất mong đề tài này sẽ  được chư tôn đức, quý giáo sư, thiện hữu trí thức, các nhà nghiên cứu Xã hội học và Phật học đóng góp ý kiến. Đồng thời, rất mong chư tôn đức Phật giáo các nước sẽ cùng hợp tác qua các hội thảo, hội nghị về vấn đề này bằng những việc giúp đỡ cụ thể hỗ tương trong nỗ lực xã hội hóa giáo dục Phật giáo.

HT.Thích Giác Toàn

(1) Trung Bộ Kinh, Kinh Xà Dụ (2) Đại Phẩm (Mahavagga) I. (3) Trung Bộ Kinh, kinh số 145, Punnovada. (4) Kinh Tập (Sutta Nipata), kệ 136