An cư thời hiện tại

alt

 Truyền thống an cư thời đức Phật

Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển. Như vậy lịch sử an cư có từ năm đầu tiên sau khi đức Phật chứng đắc vô thượng Bồ Đề chứ không phải năm thứ 12 theo giả thuyết của các trường phái Luật học. Từ năm thứ hai đến năm thứ tư, đức Phật an cư ở thành Vương Xá. Mùa thứ năm ở thành Vệ Xá Li, thứ sáu ở Kosambi. Đến năm thứ bảy, đức Phật ở cõi trời Đao Lợi. Có rất nhiều tranh luận về giả thuyết năm này. Truyền thống Phật giáo Bắc tông phân tích thêm, đây là thời điểm đức Phật nói kinh Địa Tạng cho thánh mẫu Ma Ya. Còn trong truyền thống của Nam tông cho rằng mối liên hệ giữa chư thiên, tức là người ngoài hành tinh với con người chúng ta thông qua việc học hỏi giáo pháp đức Phật là điều không thể phủ định về phương diện lịch sử, đặc biệt trong mùa an cư thứ bảy. Mùa thứ tám, đức Phật nhập hạ tại rừng Bagaha, một khu rừng xinh đẹp, khí hậu ôn hòa thuận lợi cho việc phát triển tâm linh, không quá xa thành thị nhưng cũng không quá gần, để mỗi sáng khi vào kinh thành khất thực, người tại gia có cơ hội học hỏi dựa trên sự an lạc, tĩnh tại từng bước chân đi hành hóa của những vị xuất gia. Ngược lại, người xuất gia cũng có cơ hội giảng kinh thuyết pháp cho những người hữu duyên. Mùa an cư thứ chín, đức Phật có mặt ở tại Kosambi.

Chín mùa an cư đầu, chúng ta thấy địa điểm đóng vai trò khá quan trọng. Trong các nơi này không nơi nào không có cảnh trí an lành thuận lợi cho việc phát triển đời sống thiền quán. Khoảng ba mươi sáu mùa an cư còn lại, đức Phật dành hai mươi bốn mùa an cư tại Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên. Ai đã từng có cơ hội chiêm bái Phật tích tại Ấn Độ và NePal sẽ thấy rất rõ khu vườn tuy bây giờ chỉ còn khoảng trên dưới 40 mẫu, trong quá khứ nó có thể rộng trên 100 mẫu.

Hiện nay, mặt sau của khu vườn Kỳ Viên này có một ngôi đại tự của một nữ cư sĩ Phật tử Thái Lan xây dựng trên lô đất 100 mẫu. Công trình xây tháp đang gần hoàn tất với chiều cao trên 50m và nhiều công trình vĩ đại khác. Nó sẽ trở thành không gian hỗ trợ cho khu vực Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên.

Lý do tại sao đức Phật lại dành gần một nửa thời gian hoằng hóa của ngài ở tại Kỳ Viên mà không phải một nơi nào khác? Kỳ Viên thuộc về miền Bắc Ấn Độ, khí hậu từ tháng năm đến tháng chín thường nóng và ẩm thấp rất cao. Tuy nhiên cảnh trí tại đây rất đặc biệt. Hiện nay cảnh đẹp ở đây không còn như xưa nhưng nếu tham quan, chúng ta vẫn có thể có tầm nhìn bao quát rằng nó hẳn là một nơi lý tưởng để đức Phật chọn lựa suốt một nửa thời gian hoằng hóa của ngài.

Từ đó, chúng ta đặt vấn đề về tính chất hỗ trợ của không gian tâm linh đối với nội dung tâm linh mà các hành giả cần phải trải qua suốt ba tháng. Không gian đó là gì?

 

Tiêu chí không gian tâm linh

Trong các kinh điển Nam tông, đức Phật nêu ra ba tiêu chí để tất cả hành giả cần phải tự suy xét chọn lựa.

Tiêu chí một, những không gian giúp hành giả được nhiều tặng phẩm cúng dường của đàn na tín thí nhưng nếu nội dung tâm linh, sự tu tập, và những giá trị an lạc hạnh phúc không có mặt thì đức Phật vẫn khuyên các vị tỳ kheo không nên lưu trú tại đây. Vì như thế sẽ dẫn đến tình trạng rơi vào chủ nghĩa lợi dưỡng, nghĩa là hưởng thụ trên nền tảng niềm tin và sự phát tâm cúng kính của người tại gia. Từ lời chỉ dạy rất ngắn của đức Phật, chúng ta thấy người tại gia khi phát tâm cúng dường cho người xuất gia cũng phải hiểu rõ nên cúng cái gì, cúng như thế nào để người tiếp nhận đạt những giá trị hỗ trợ cần thiết, nhờ đó mà tinh tấn phát triển đời sống tâm linh tu tập một cách có kết quả. Chứ không phải hễ có phát tâm, có tấm lòng đem tới cúng là tốt. Đời sống tâm linh thường đi ngược với đời sống vật chất hưởng thụ. Trong thời hiện đại, cám dỗ của đời sống vật chất cao hơn rất nhiều so với thời đại ngày xưa của đức Phật.

Chẳng hạn, mỗi một thầy hay một sư cô sử dụng ba tháng mới hết một ống kem đánh răng. Nếu ngày nào cũng có người phát tâm cúng một ống kem loại lớn thì 89 ống kem của 89 ngày hạ sẽ dùng vào việc gì? Tương tự, nếu mỗi ngày, các Phật tử phát tâm cúng dường mỗi thầy hay mỗi sư cô một bộ y hậu bằng những loại vải xịn nhất thì số lượng y hậu sẽ rất nhiều. Trong khi đó, đức Phật khuyên mỗi người xuất gia không mặc quá ba bộ gồm y thượng (áo choàng toàn thân bên ngoài), y trung (áo ngắn bên trong), và y hạ (quần sà rong). Hiện nay, hiểu theo nghĩa thoáng rộng hơn, ba y tức là ba bộ y, ba cái hậu, chưa kể ba cái áo tràng đi đường, ba cái áo để tiếp khách đến chùa… Người ta có thể tạm chấp nhận vì nhu cầu xã hội ngày nay cộng với sự hâm nóng toàn cầu nên việc thay đổi y phục xuất gia là cần thiết. Nhưng liệu trong 90 ngày hạ với 90 bộ vải để chuẩn bị may cho 90 bộ y có cần thiết đối với người xuất gia hay không?

Trong cách thức đặt câu hỏi đã hàm ý câu trả lời. Tương tự, nếu ngày nào cũng có người phát tâm cúng mỗi thầy một bao thư giá trị từ 100 ngàn đến 500 ngàn thì sau ba tháng an cư, quý thầy sẽ có một khoản tiền khá lớn. Liệu số tiền khá lớn đó có hỗ trợ tích cực cho việc tu học của các vị xuất gia trong thời hiện đại hay không? Câu trả lời có thể là hai: Có hoặc không. Có, nếu quý thầy tận dụng số tiền đó để mua kinh sách và các phương tiện phục vụ cho sự tu học. Không, nếu quý thầy nghĩ rằng đây là cơ hội để có thêm nhiều tặng phẩm cúng dường của đàn na tín thí. Dĩ nhiên không mấy người có suy nghĩ tầm thường như thế nhưng đôi khi vẫn có. Vì có nhiều người khi vào đạo không phát khởi được lý tưởng chân chính nên theo, nên dễ dàng rơi vào các thói quen hưởng thụ như khi còn ở tại gia.

Tiêu chí hai, những nơi chốn mà sự có mặt của người xuất gia tu tập, đặc biệt trong ba tháng an cư, vừa mang lại giá trị lợi dưỡng tức là sự phát tâm cúng dường của đàn na tín thí và vừa được học kinh điển, luật luận từ những bậc tâm linh đi trước. Trong tình huống này, đức Phật vẫn khuyên người xuất gia nên đặt nặng vế thứ hai. Vế đầu không có cũng chẳng quan trọng, còn vế thứ hai nếu đạt được thì sau ba tháng an cư, người xuất gia sẽ tích tụ được rất nhiều kinh nghiệm tu học cho bản thân, hoằng pháp cho tha nhân. Đây chính là mối quan tâm hàng đầu của nhiều vị xuất gia.

Nhiều vị Tăng Ni ở tỉnh lẻ cứ ba tháng an cư lại phát nguyện đến các thành phố lớn để nhập hạ. Mùa an cư kiết hạ năm 2009 tại chùa Phổ Quang đón nhận vài trăm thầy vì phương tiện tại đây đầy đủ, hội trường lớn, các vị giảng sư giỏi, các bậc tôn đức có kinh nghiệm tu học và có thời gian chuyển hóa tâm linh lâu dài. Đến đây nhập hạ thì cơ hội lắng nghe sẽ nhiều hơn các trường hạ thuộc tỉnh lẻ. Điều đó tạo ra sự lưu động, và lưu lượng người xuất gia có mặt tại các trường hạ trong nước di chuyển tùy theo các địa điểm an cư. Tuy nhiên như thế có cung ứng được các nhu cầu trong mối quan tâm vế thứ hai mà đức Phật đã đặt ra hay không?

Nơi nào có giảng sư giỏi, có tôn đức tu tập tốt thì nơi đó sẽ quy tụ nhiều hành giả hơn. Và trên phương diện nào đó, một cách rất tự nhiên như một sự hỗ trợ, nơi nào có nhiều người phát tâm cúng kính như thành phố Hồ Chí Minh thì trường hạ nơi đó luôn luôn đón nhận hành giả xuất gia tham dự nhiều hơn. Tuy nhiên mục tiêu vẫn nằm ở vế thứ hai, bằng không, nếu rơi vào vế đầu thì toàn bộ mùa gian an cư đó chỉ phục vụ cho mục đích lợi dưỡng như tiêu chí thứ nhất mà đức Phật đã răn nhắc.

Tiêu chí ba, những không gian, tùng lâm mà việc nhập hạ của người xuất gia chân chính dù không có bất kỳ một tín chủ nào phát tâm cúng dường nhưng nếu tại đó tâm của hành giả được an tịnh, đời sống đạo đức được tăng trưởng, những giá trị phụng sự xã hội trở thành đại nguyện lực và sau ba tháng an cư, hành giả trở nên tích cực hơn, năng động hơn, hiệu quả hơn trong hoằng hoá thì đức Phật khuyên các hành giả phải cố gắng vượt qua những khó khăn để trở thành con người xứng đáng sau ba tháng an cư.

Nói như thế không có nghĩa đức Phật khích lệ chủ nghĩa lý tưởng mà bỏ rơi thế giới hiện thực. Ở đây đức Phật muốn nhấn mạnh tầm quan trọng và mục đích của an cư không phải đơn thuần là tránh mưa và tránh cơ hội dẫm đạp các loài côn trùng vi tế như một số học giả Kỳ Na giáo đã cố tình lý giải. Họ cho rằng truyền thống an cư của đạo Phật có nguồn gốc và chịu ảnh hưởng trực tiếp từ truyền thống an cư của họ.

 

Sao phải an cư mùa mưa?

Một trong các giả thuyết đã đặt ra trong tình huống này là vào khoảng năm thứ sáu, có nơi nói rằng năm thứ mười hai sau khi đức Phật thành đạo, tôn giả A-nan nhìn thấy cứ ba tháng mùa mưa, trung bình từ tháng 6 đến tháng 9 dương lịch, thì các tu sĩ của đạo Kỳ Na do sáng tổ Mahavira sáng lập, đều cấm túc một chỗ để tu hành. Điều đó đã trở thành thói quen văn hoá tâm linh tại đất nước Ấn Độ và được quan niệm như điểm tựa tinh thần cho những người tại gia cúng dường. Lúc đó ngài A Nan nghĩ rằng, sẽ rất hay nếu Như lai đồng thuận và quy định bằng luật hẳn hòi rằng ba tháng mùa mưa, các tu sĩ Phật giáo cần phải ở yên một chỗ như truyền thống Kỳ Na giáo.

Lý giải đó xem ra có logic về lịch sử nhưng lại phi logic trong những giá trị chân lý. Đức Phật được gọi là bậc Vô Sư Trí tức là toàn bộ giá trị tâm linh ngài đạt được không phải do học từ các vị thầy ở trường lớp mà là do ngài phát minh. Hay nói cách khác, chân lý có giá trị muôn đời, quá khứ cũng thế, hiện tại không có gì thay đổi và tương lai vẫn là những chỉ số bất di bất dịch. Do đó, cách tiếp cận từ góc độ lịch sử này sẽ cho chúng ta thấy được tầm nhìn xa trông rộng về những giá trị tâm linh mà đức Phật quy định cho những vị xuất gia chân chính.

Trong một mùa an cư, đức Phật đã tuyên bố “Phụng sự chúng sinh tức là cúng dường chư Phật”, như vậy chúng ta không có lý do gì để hiểu một cách vật chất hóa rằng việc cấm túc an cư của người xuất gia nhằm tạo cơ hội cho đàn na tín chủ cúng dường. Mỗi ngày, những vị xuất gia vẫn đi thiền hành vào các ngõ ngách của xã hội, không đi hai ngày cùng một hướng, không dừng lại một cách cố ý để các tín chủ phát tâm và để có cơ hội tiếp nhận nhiều hơn mà chỉ phát xuất từ một tâm niệm rằng, mỗi bước chân đi an lạc, tĩnh tại, nhẹ nhàng và thảnh thơi của người xuất gia sẽ là bài học thiết thực về đời sống chuyển hoá tâm thức mà cốt lõi của nó là thiền quán. Trong sự bôn ba với sức ép của đời sống kinh tế vật chất, người tại gia có thể nương tựa vào những bóng dáng tu tập này để xử lý được cảm xúc thăng trầm, vinh nhục xuất hiện trong cuộc đời như là những thách đố. Rõ ràng trong sự tương tác như thế thì người xuất gia bỗng dưng trở thành một ruộng phước cho người tại gia gieo trồng và người tại gia xem đó là cơ hội hỗ trợ đời sống tâm linh cho người xuất gia, chứ không phải vì mục đích tiếp nhận cúng dường mà người xuất gia đi hành khất như đã nói trên.

Lại càng sai lầm hơn nếu chúng ta hiểu rằng ba tháng mùa mưa không đi ra khỏi chùa là để tránh đạp côn trùng nhỏ nhít phát sinh do ẩm thấp. Không ngôi chùa nào ở thời đại của đức Phật lại không có cây, cũng hiếm có ngôi chùa có diện tích quá nhỏ. Nơi đâu cũng là rừng cây, và đã là rừng cây thì chỗ nào cũng có côn trùng vi tế. Tránh dẫm đạp côn trùng vi tế ở bên ngoài chùa thì đồng thời chúng ta cũng phải dẫm đạp côn trùng vi tế ở trong chùa, điều đó có gì khác nhau? Cho nên lý giải “nhập hạ lè để tránh đạp côn trùng” là hạ thấp tầm nhìn tâm linh của đức Phật và cũng là cách biến học thuyết nhập hạ Phật giáo như một bản photocopy của Kỳ Na giáo, mà vốn các nhà truyền đạo Kỳ Na giáo luôn cổ suý tầm ảnh hưởng của Mahavira lớn hơn nhiều so với đức Phật. Bên cạnh đó, cách lý giải này cũng có thể rơi hoàn toàn vào cái bẫy của những người theo Bà La Môn giáo rằng, học thuyết của sa môn Cồ Đàm (tức đức Phật) chỉ là sự tích hợp tâm linh của Ấn Độ giáo chứ không có gì hay hơn, đặc biệt hơn như người ta đã tán dương ngài.

Dĩ nhiên những người con Phật không tranh luận với cuộc đời, không nhất thiết phải chứng minh rằng đức Phật hơn các vị lãnh tụ tôn giáo khác, ở đây nó thuộc về vấn đề lịch sử mà chúng ta cần tôn trọng, để thấy rất rõ những đóng góp về giá trị tâm linh mà đức Phật đã khai sáng cho con người.

Ai dám khẳng định rằng ngoài ba tháng mùa mưa, những tháng còn lại không có côn trùng vi tế? Mùa nắng có côn trùng vi tế của mùa nắng, mùa xuân, mùa thu cũng có côn trùng vi tế của mùa xuân, mùa thu. Mỗi mùa có mỗi loại chủng vật với những sự sống khác nhau và mỗi bước chân đi của chúng ta đều phải dẫm đạp lên chúng, làm cho chúng chết. Đây chính là lý do mà phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm đã khuyên rằng mỗi buổi sáng, các vị xuất gia khi đặt chân xuống giường là phải phát nguyện chuyển năng lượng của lòng từ bi đến tất cả mọi loài chúng sanh. Hãy quán tưởng rằng mình hoàn toàn vô tình tạo ra cái chết không toàn thây của các loài côn trùng vi tế và mong cho chúng được siêu sinh thoát hoá.

Mùa mưa, mùa nắng, sáng hay ngày, bất cứ nơi đâu, tất cả người xuất gia đều làm như thế cả. Do đó, không nên giới hạn giá trị của an cư mùa mưa vào mục đích hạn chế nghiệp sát đối với các côn trùng mà chủng loại chúng thường được sinh trưởng vào mùa mưa ẩm thấp này. Từ đó, khắp nơi trên thế giới ngày nay đã chọn tháng an cư không nhất thiết là mùa hè. Ví dụ ở Úc, các thầy chọn mùa đông làm mùa an cư, tức là tháng sáu, tháng bảy, tháng tám vì rất lạnh giá, mọi hoạt động Phật sự khó có thể được thực hiện. Các Phật tử đến chùa cũng khó khăn do lái xe trên đường tuyết phủ sẽ không an toàn và gặp nhiều trở ngại. Năng lượng xăng dầu tiêu phí vào mùa đó cũng rất cao, cho nên nếu đến chùa tu học thì khá tổn thất về kinh tế. Ba tháng đó, ở chùa phần lớn chỉ có tu sĩ, còn người tại gia đến chẳng là bao. Đối với những vùng như Bắc Mỹ thì tháng mười một, mười hai và tháng giêng dương lịch là mùa cực lạnh, có nơi âm đến 30 độ, nên việc nhập hạ vào ba tháng đó trở thành nhập đông chứ không còn là nhập hạ nữa. Do đó giá trị của nó sẽ được lý giải khác hoàn toàn với việc tránh dẫm đạp các côn trùng.

Nói cách khác, dưới tầm nhìn và kinh nghiệm tâm linh của đức Phật, dù chư tăng có phụng sự xã hội cỡ nào đi chăng nữa cũng đừng bao giờ trải nghiẹm những giá trị an lạc, tĩnh tại của bản thân, như kinh Pháp Cú đã nói:

Lợi người bao nhiêu,

Đừng quên phần tự lợi,

Người trí tự chuyên chế,

Hạnh phúc sẽ lâu dài”.

Ở đây, đức Phật nói rất rõ về tính khả thể trong vấn đề đóng góp của mỗi con người là có giới hạn và đừng lao theo tính khả thể đó đến độ quên mất bản thân trong thất niệm. Phụng sự cho tha nhân mà bản thân mình bệnh tật rồi khổ đau, không an lạc hạnh phúc thì giá trị phụng sự đó có giới hạn và không bền. Cho nên cần phải bồi dưỡng đời sống nội tâm để dấu ấn đóng góp trở thành cái gì đó khó quên ở mọi người, và sự tiếp nhận chắc chắn phải an lạc, hạnh phúc một cách lâu dài, chứ không chỉ đơn thuần là kinh nghiệm chứng đắc hay trải nghiệm. Người xuất gia chân chính dưới sự hướng dẫn của đức Phật và thực tập một cách có hiệu quả sẽ đạt được cùng lúc cả hai nội dung: kiến thức Phật pháp và kinh nghiệm tâm linh. Hai nội dung này truyền đạt lại cho thế gian thì người tiếp nhận sẽ cảm nhận một cách rất sống động và thực hiện theo dễ dàng.

 

An cư bao nhiêu là đủ?

Truyền thống Phật giáo Nam tông có nơi khích lệ đến bốn tháng và thời điểm bắt đầu cũng có phần khác nhau, chia ra làm hai: an cư sớm và an cư muộn.

An cư sớm là nhập hạ từ nửa tháng đến một tháng trước mùa an cư chính thức mà các chùa thường tiến hành. Trong truyền thống Nam tông, an cư sớm được hiểu là ngày mùng 01 tháng 06, trong khi ngày 15 tháng 06 mới là thời điểm chính thức an cư. Còn an cư muộn thì thay vì bắt đầu từ ngày 15 tháng 06, có nơi lại bắt đầu từ ngày 15 tháng 07 hoặc mùng 01 tháng 07. Tuỳ theo điều kiện không gian, thời gian và phương tiện thuận lợi hay không mà việc an cư sớm hay muộn vẫn được cho phép.

Điều đó cho phép chúng ta thêm một lần nữa lý giải rằng, truyền thống an cư của đức Phật không phải vì mục đích tránh mưa. Nếu tránh mùa mưa thì phải diễn ra ngay đúng thời điểm mùa mưa chứ không được trước cũng không được sau.

Đối với truyền thống Bắc tông, thời điểm bắt đầu an cư từ ngày Rằm tháng 04 và kết thúc vào ngày 14 tháng 07 âm lịch để chuẩn bị lễ Tự Tứ lớn nhất trong năm. An cư sớm có thể trước mười lăm ngày, và an cư muộn có thể kết thúc vào mùng 01 tháng 08.

Trong thời hiện đại, khoảng thời gian từ chín mươi đến một trăm hai mươi ngày an cư rất khó có thể thực hiện được, đặc biệt các chùa ở phương Tây. Khi các cộng đồng châu Á sang truyền đạo và giới thiệu những hình thái tâm linh cho người phương Tây chọn lựa một cách phong phú và có lợi lạc thì mùa an cư phần lớn ở hải ngoại chỉ mười ngày, có nơi chỉ bảy ngày. Bỏ ngôi chùa đi nhập hạ mười ngày là một thách đố lớn mà những người xuất gia thời hiện đại khó có thể vượt qua. Phật tử chỉ đến chùa vào ngày thứ bảy, chủ nhật, nếu cả ba tháng tức mười hai tuần lễ không có thầy/ sư cô trụ trì thì có lẽ Phật tử sẽ không đến chùa nữa. Tình trạng này đồng nghĩa ngôi chùa sẽ bị đóng cửa vì hiếm có ngôi chùa nào ở hải ngoại sau khi cất xong có thể trả hết nợ như các ngôi chùa tại Việt Nam. Có chùa thiếu nợ đến 90% tiền xây dựng, chùa nhẹ nhất cũng 20%, và phải trả từ năm năm đến hai mươi năm mới dứt. Do đó các thầy trụ trì buộc phải ở ngay chùa của mình để sinh hoạt đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng quần chúng, nhờ đó quần chúng bá tánh mới phát tâm.

Nhiều người phát tâm có điều kiện, nghĩa là khi các dịch vụ yêu cầu về đời sống tâm linh như khoá lễ cầu an, cầu siêu, cầu phước, cầu thọ, cầu tài được thực hiện thì họ mới phát tâm cúng dường. Còn nếu không có những điều đó thì hiếm ai phát tâm cúng dường mặc dù dư thừa về tài sản và tiền bạc. Là Phật tử chân chính, chúng ta nên phát tâm vô điều kiện vì thấy rất rõ việc phát tâm cúng kính là nhu cầu cần thiết cho sự tiến triển đời sống tâm linh của những người xuất gia.

Thử hình dung nếu một nhà sư hay sư cô cứ mười tiếng trong một ngày lo kinh tế hay đồng áng thì cái đầu của vị thầy hay sư cô này sẽ bị bê tông hoá, tài chính hoá hay thế tục hoá. Đó là chuyện hiển nhiên phải diễn ra. Còn nếu các thầy, các sư cô không phải bận tâm về những chuyện kinh tế thì toàn bộ thời gian còn lại sẽ dành cho việc tu tập, giá trị tâm linh cũng theo đó mà phát triển.

Thấy được như thế, người tại gia nên phát tâm cúng dường, không cần chờ đến khi có nhu cầu nào đó cần đáp ứng thì mới đền tạ công đức. Việc đền tạ công đức trong tình huống này cũng giống như “tiền trao cháo múc”, hết việc Phật sự thì vẫy tay chào với ngôi chùa luôn.

Do đó, chúng ta phải thông cảm đồng thời có cái nhìn thấu rõ bản chất văn hoá và đời sống tự do kinh tế ở hải ngoại để không lấy những quy định truyền thống để bắt nạt các vị xuất gia trong thời cận hiện đại rằng “Tại sao không thể nhập hạ hơn mười ngày?” Vấn đề đặt ra là trong thời gian dù bảy hay mười ngày, thậm chí ba tháng hay bốn tháng, tất cả những vị xuất gia có mặt trong giới trường cần phải làm gì?

 

An cư là để truyền trao kinh nghiệm hoá độ

Nhiều bản kinh thuộc truyền thống Pali đặc biệt là kinh Trường Bộ và Trung Bộ cho thấy các giả thuyết của Kỳ Na giáo và Bà La Môn giáo về mục đích tránh mùa mưa là không đứng vững. Đối với rất nhiều vị xuất gia trẻ với tâm nguyện lớn muốn đóng góp tài mọn của mình nhưng không đủ năng lực thuyết phục và hướng dẫn cặn kẽ cho những người đang thắc mắc hay có nhu cầu tìm đến đạo Phật, thì mùa an cư kiết hạ là cơ hội quý báu để tăng chúng khắp nơi hội tụ về nhằm chia sẻ những khó khăn trong vấn đề truyền bá, vấn đề đối thoại liên tôn giáo, liên triết học và muốn lắng nghe kinh nghiệm giải quyết vấn đề của những bậc cao túc.

Chẳng hạn thời đức Phật, có lần một vị tỳ kheo với năng lực lý luận rất vững, nhưng khi bị một người Bà La Môn đặt vấn đề rằng: “Nhân quả mà sa môn Cồ Đàm thuyết giảng là bản sao của học thuyết Bà La Môn chúng tôi. Nếu không phải như vậy thì xin ông hãy trình bày một đặc điểm gì trong học thuyết nhân quả là của đức Phật. Còn không trình bày được thì đức Phật của ông cũng chỉ là người ăn cắp học thuyết của chúng tôi thôi.” Vị tỳ kheo này nghe cảm thấy khó chịu nhưng không đủ sức biện minh. Sau đó ông về tường trình lại với đức Phật và được ngài giải thích. Ba nội dung khác biệt mà đức Phật nêu ra như sau.

Thứ nhất, nhân quả của đạo Phật không dựa hoàn toàn trên nền tảng quá khứ. Đức Phật nói: “Ai lý giải mọi sự diễn ra trong hiện tại có dây mơ rễ má với quá khứ thì người đó sẽ đánh mất cơ hội làm mới cuộc đời và cơ hội an vui hạnh phúc ngay trong hiện tại”. Mặc dù không giải thích thêm nhưng chúng ta phải hiểu đức Phật ngầm ám chỉ rằng, người như thế dễ dàng chấp nhận có một định mệnh an bày như một số phận và mọi nỗ lực thay đổi nó chỉ là trò đùa đành hanh trước thượng đế quyền uy tối thượng. Nếu nói theo Nho giáo: “Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt”, ai có nỗ lực cỡ nào chăng nữa cũng bị dính trong lưới trời đã được phủ trùm mà thôi. Cho nên đức Phật nói, hãy phân tích mọi thứ chính yếu trên nền tảng nhân quả hiện tại. Dĩ nhiên việc liên hệ nó với quá khứ không hoàn toàn bị tước bỏ.

Thứ hai, nghiệp đã được gieo trồng sẽ không nhất thiết trở thành cái quả cố định. Từ lúc nghiệp được gieo cho tới lúc nó trổ quả, nó vẫn có thể thay đổi tùy theo tình huống và hoàn cảnh khác nhau.

Thứ ba, có những loại hành động được gọi là vô hiệu nghiệp với hai nguyên nhân. Trước là, năng lực của hành động đó mạnh hơn gấp nhiều lần so với năng lực nghiệp đã được gieo trồng trước đó. Tự thân của hai loại nghiệp đối lập này sẽ diễn ra theo cách thế loại trừ lẫn nhau. Cái nào mạnh sẽ khống chế, do vậy những nghiệp trước đó yếu hơn sẽ bị hòa tan và mất đi hiệu lực trổ quả. Kế tiếp là, có rất nhiều các loại nghiệp hay hành động của con người không có cơ hội trổ quả vì hoàn toàn không có điều kiện thuận lợi về môi trường. Cũng như một hạt đậu bỏ trên nền xi măng thì sau một trăm năm nó vẫn là hạt đậu khô thậm chí bị mối mọt ăn nếu dưới nhiệt độ ẩm thấp. Sẽ không bao giờ có cây vì hạt đậu không có ngòi nảy mầm.

Trong khi đó, học thuyết nghiệp của Bà La Môn giáo là chủ nghĩa an bày. Nói theo Nguyễn Du là:

Bắt phong trần, phải phong trần.

Cho thanh cao mới đặng phần thanh cao”.

Nếu chịu khó phân tích thêm, nghiên cứu thêm những bài kinh khác mà đức Phật dạy về nghiệp trong Pali, A Hàm và đại thừa, chúng ta sẽ thấy còn hàng trăm vấn đề rất khác so với truyền thống nghiệp của các tôn giáo bạn.

Cho nên, ba tháng an cư là cơ hội rất quý để những người xuất gia trẻ học được độ sâu trong học thuyết mà đức Phật đã khám phá và truyền bá; học sâu được những cách thức giải quyết vấn đề trong các cuộc đối thoại liên tôn giáo, đối thoại liên triết học mà không phải hễ ai hiểu đạo Phật là có thể làm công việc đó thành công.

Có rất nhiều cuộc đối thoại lắt léo mà chỉ cần một mẹo vặt nhỏ là có thể khai thông, hoặc điểm tâm được người đang bị bế tắc, hoài nghi, khống chế và có thái độ ngang tàng nghĩ rằng mình là số một trên cuộc đời. Do đó nó đòi hỏi chủ nghĩa kinh nghiệm và nghệ thuật phân tích vấn đề mà đức Phật và các bậc thánh tăng xưa đã từng làm.

 

An cư để trưởng dưỡng đạo tâm

An cư dẫn đến trạng thái an tâm khi chúng ta bớt tiếp xúc với thế giới tại ngoại, hạn chế giao tiếp với xã hội xung quanh khi không thật sự cần thiết. Các hành giả có điều kiện tăng trưởng đời sống nội tâm của mình lớn hơn mức bình thường. Vì khi dấn thân ra xã hội, thời gian dành cho sự tu tập sẽ ít hơn thời gian chúng ta ẩn tu một mình, đó là điều hiển nhiên. Tuy nhiên việc các tu sĩ Phật giáo phải đóng cốc trên núi rừng và tu một mình là điều không được Phật khích lệ. Vì tu như thế, dù một trăm năm cũng không lợi ích gì cho ai ngoài lợi ích cho bản thân. Cùng lắm là được thiên hạ cung kính và phát tâm vì nghĩ rằng đây là bậc chân tu thật học. Chỉ chừng đó thôi. Cho nên, trong ba tháng an cư, đức Phật vẫn cho phép người xuất gia đi giảng kinh, thuyết pháp, làm Phật sự, thăm viếng người thân bị bệnh tật hoặc những nhu cầu xã hội vốn không thể thiếu vắng sự đóng góp của họ.

Có sáu truyền thống Luật học, mỗi truyền thống có những quy định khác nhau về tính gia giảm thời gian cho phép đi ra ngoài trong ba tháng an cư. Theo truyền thống Nam tông ở một số nước hiện nay, thời gian tối đa vắng chùa về ban đêm là bảy ngày, có nơi cho phép mười bốn ngày. Còn đối với truyền thống luật học Bắc tông, có nơi cho phép đến một tháng, do công tác Phật sự giúp người cứu đời. Trong cuộc đối thoại đặc biệt với một hòa thượng Thích Trí Quảng, cố hòa thượng Thích Trí Thủ đã nói rằng: “Nếu không đi thuyết giảng trong ba tháng an cư, nơi tất cả chư tăng ở nhiều tỉnh thành hội tụ thì sau này có muốn thuyết giảng để chia sẻ và truyền đạt cũng khó có cơ hội”.

Ngày xưa, đức Phật cho phép thời gian trung bình là nửa tháng, còn một số tình huống đặc biệt thì có thể vượt hơn nửa tháng. Như vậy, tính bắt buộc người xuất gia phải ở một chỗ không phải là tiêu chí tiên quyết. Chúng ta thấy rõ việc ở yên một chỗ nhằm tạo cơ hội phát triển nội tâm chứ đâu phải là phương tiện duy nhất của vấn đề. Khi nhận ra được điều đó thì chúng ta vẫn có thể tu trong lúc đang ở trên xe.

Mỗi khi hòa thượng Thích Trí Quảng đi đâu, có quần chúng Phật tử đi cùng trên chuyến xe thì trên xe thường tụng kinh chứ không ngồi nói chuyện hay ngủ gật. Hòa thượng rất khích lệ việc cùng tụng kinh trên xe. Đó là tâm niệm an cư mặc dù không phải mùa an cư nhưng toàn bộ chiếc xe vẫn được xem là đang an cư trong lúc nó di chuyển với tốc độ 60Km/giờ. Thậm chí nếu sau này chúng ta cùng đi trên một chuyên cơ, toàn bộ hành giả có mặt trên đó cũng tụng niệm, hành trì như thế thì dù tốc độ bay là 1000Km/giờ, chúng ta vẫn được gọi là đang an cư, tức là ngồi yên một chỗ về phương diện tâm.

Như vậy, an cư nằm ở chuyển hóa tâm, làm cho tâm an lạc, hạnh phúc, bình an, nỗi khổ niềm đau được giải phóng ở cách thức trọn vẹn nhất chứ không đơn thuần ở yên một chỗ. Trạo cử là khái niệm tâm lý học Phật giáo cho thấy sự dao động của tâm chứ không đơn thuần là sự lóc chóc của thân, như đi đánh đòng đưa, ngồi rung đùi, vừa cười vừa nói, dáng dấp thiếu sự đĩnh đạt trang nghiêm. Trạo cử thực chất chỉ sự dao động trong tâm, đang ngồi chỗ này mà tâm nghĩ chỗ khác, không có hiện tại lạc trú, không có chánh niệm tỉnh thức, không có nhất tâm bất loạn, không có thân, khẩu, ý nghiệp giao cảm nhau trong sự giao cảm tâm linh với đức Phật. Tất cả những người như thế đều được gọi là đang bấn loạn tâm. Lúc đó, dù có mặt trong ba tháng an cư, ở một nơi lý tưởng cỡ nào đi nữa, người đó vẫn được xem là thất bại vì tâm an chưa được thiết lập.

Ngày 20 tháng 5 năm 2009 vừa qua, được sự chỉ dạy của HT. Thích Trí Quảng, chúng tôi đã cùng phái đoàn Thượng Đỉnh Phật giáo thế giới và Ban tôn giáo của chính phủ đến tham quan hai địa điểm Quảng Ninh và Ninh Bình nhằm khảo sát chuẩn bị tổ chức Hội nghị Thượng Đỉnh Phật giáo thế giới lần thứ 6 từ ngày 20 đến 25 tháng 11 năm 2010, kết hợp sự kiện chào mừng 1000 năm Thăng Long. Tại đây, chúng tôi đã gặp ban giám đốc công ty xây dựng Xuân Trường tại chùa Bái Đính. Ban giám đốc có sở nguyện lớn mong rằng sau khi hoàn tất ngôi chùa ở giai đoạn hai, tức khoảng tháng 11 năm 2010 trở đi thì nơi đây sẽ là nơi tu học lớn nhất dành cho chư tăng vì ở tại tỉnh này, số lượng tăng chúng không nhiều.

Lúc đó có thầy tổng thư ký Ban trị sự tỉnh, chúng tôi đã đề xuất như sau: Còn đến mấy tuần nữa thì mùa an cư mới bắt đầu. Nếu chúng ta biết cách tổ chức và vận động thì đây là địa điểm vô cùng lý tưởng để mời gọi chư tăng ở năm mươi lăm tỉnh thành đang có Ban trị sự Phật giáo hoạt động Phật sự, về an cư. Nếu mỗi tỉnh mời từ hai đến bốn vị thì chúng ta có được trên dưới hai trăm vị về an cư. Làm được điều đó thì chùa Bái Đính sẽ là nơi có số lượng chư tăng toàn quốc an cư nhiều nhất. Dĩ nhiên chúng ta không nhắm tới mục đích đạt kỷ lục nhưng đó là dấu ấn lịch sử rất quan trọng.

Tại sao cần có nhiều thành phần khác nhau cùng đến an cư? Vì nội dung an cư là điều chúng ta phải quan tâm. Nếu mỗi thầy, mỗi sư cô an cư tại các tỉnh thành hoặc các huyện của mình, không có sự giao lưu giữa nhiều vùng khác nhau thì sự thông cảm về phương diện Phật sự sẽ gặp khó khăn. Nhờ ba tháng sống chung, chư tăng ở vùng A, vùng B có điều kiện hiểu rõ thêm phong tục tập quán, có thể truyền giao những kinh nghiệm giảng kinh, thuyết pháp và làm Phật sự. Miền Bắc hiện nay đã được nhà nước ủng hộ bằng tâm chân thành. Đây là thời điểm chưa từng có trong lịch sử Phật giáo Việt Nam ngoài triều đại nhà Trần và nhà Lý.

Chẳng hạn cuộc triển lãm Phật ngọc tại chùa Phật Tích vừa qua, chủ tịch nước, thủ tướng, phó thủ tướng, các uỷ viên bộ chính trị v.v... gần như toàn bộ các bộ trưởng, toàn bộ lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh và rất nhiều Phật tử miền Bắc đã trở về chiêm bái. Trung bình mỗi ngày đón khoảng hơn hai trăm ngàn lượt khách. Như vậy, việc triển lãm Phật ngọc không chỉ đơn thuần mang giá trị văn hoá mà đó là đại hoằng pháp. Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc năm 2008 vẫn chưa có cơ hội mời toàn bộ lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng, nhưng những vị chủ tịch nước, nguyên tổng bí thư Đảng và nhiều lãnh đạo cao cấp khác cũng đã về tham dự.

Nếu trong mùa an cư, nếu ta có cơ hội triển lãm tương tự như thế thì đại an cư trong trường hợp này sẽ rất mầu nhiệm. Do đó, tổ chức tốt không chỉ có lợi trong nội bộ Phật giáo mà còn là cơ hội để mọi thành phần khác nhau trong xã hội biết đến đạo Phật một cách khéo léo và tinh vi hơn. Từ đó họ sẽ tự động trở thành Phật tử. Đến chiêm bái Phật thì phải thắp hương, thắp hương xong phải lễ bái. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nêu rõ: bất cứ người nào, dù không mang tâm trạng tôn kính thật sự mà chỉ như một sự xã giao, thậm chí có thể phỉ nhổ, phê phán, nhưng nếu chỉ cần viết một chữ Phật trên cát, người đó cũng đã gieo hạt giống Phật và có thể trở thành Phật trong tương lai. Huống hồ những vị lãnh đạo này đến với một tấm lòng. Triển lãm vừa qua tại Phật tích cũng trùng ngày với cuộc họp Quốc Hội. Ấy thế mà, họ còn tranh thủ được thời gian vào buổi tối để đến dự thì chắc hẳn không vì lý do ngoại giao hay những lý do thông thường mà vì tôn kính Phật thật sự. Như vậy hạt giống Phật đã bắt đầu nảy nở trong rất nhiều tâm và trong ngôi nhà của các vị lãnh đạo quốc gia hiện nay.

Do đó, khi nhập hạ chung, chúng ta có thể chia sẻ những kinh nghiệm như thế. Tại miền Bắc, số lượng nhân sự làm Phật sự giảng kinh, thuyết pháp, giáo dục và lĩnh vực văn hoá từ thiện hầu như là nắng hạn. Trong khi đó, tại Sài Gòn và nhiều tỉnh thành khác lại dư thừa nguồn nhân sự cho các Phật sự này. Nếu trong lúc nhập hạ, chúng ta có thể chia sẻ và thiết lập được mối cộng thông với nhau, kết hợp việc thỉnh mời chư tăng ở miền Nam ra miền Bắc và thỉnh mời chư tăng ở miền Bắc vào miền Nam để giao lưu, thì chúng tôi tin chắc rằng lợi lạc của nó rất cao. Không có những mùa an cư như thế, chúng ta khó có thể thiết lập nhịp cầu cảm thông về Phật sự và hỗ trợ lẫn nhau.

Giáo Hội Phật giáo Việt Nam hiện nay có một ưu điểm lớn mà các giáo hội quốc tế không thể so bì kịp, tuy một số người cho rằng đây là giáo hội chỉ thống nhất trên phương diện hình thức nhưng dù sao nó vẫn có cái hay. Phật giáo ở Thái Lan là quốc giáo nhưng có hai giáo hội. Tích Lan có Phật giáo Nam tông truyền thống được xem gần như quốc giáo lại có đến bốn giáo hội. Miến Điện cũng có nhiều giáo hội. Lào có một tổ chức thống nhất nhưng sự thống nhất đó không mạnh bằng chúng ta về phương diện hoạt động Phật sự. Campuchia cũng có hai giáo hội khác nhau.

Khi có một giáo hội thống nhất, ít nhất chủ trương chung của giáo hội được các vị lãnh đạo giáo hội tiếp nhận và truyền bá. Lúc đó, tiếng nói ở phương diện hành chính và tính thống nhất ở mức độ toàn quốc sẽ đạt hiệu quả hơn. Nơi nào có tính thống nhất về phương diện hành chính thì một chủ trương hay, một chính sách giỏi sẽ làm cho mọi nơi cùng hưởng được những giá trị lớn, dù nhân sự ở các tỉnh thành này có thể kém phần hơn những tỉnh thành phát triển như Sài Gòn, Huế, Hàet Nội, Đà Nẵng vv… Chính sách phổ cập giúp mỗi người nâng tầm nhìn và hoạt động Phật sự của mình ở mức độ tiên tiến trở lên, đó là những lợi ích và giá trị. Thông qua các mùa an cư tập thể, thay đổi các địa vực khác nhau trong toàn nước, chúng ta sẽ có được rất nhiều bài học lịch sử to lớn.

 

Về các trường hạ hiện nay

Thứ nhất, an cư là cơ hội để tăng, ni có sáu thời tịnh niệm tu học giá trị. Sáu thời tu học trong mùa an cư chủ yếu bao gồm: buổi sáng đối với truyền thống Tịnh độ tông là thời kinh Thủ Lăng Nghiêm; giữa sáng và trưa có thời tụng kinh sám hối như lễ Vạn Phật, Ngũ Bách Danh, Tam Thiên… hoặc thời học Phật pháp. Chiều lúc hai giờ, học Phật pháp, hoặc thực tập diễn giảng, có nơi tiếp tục thực hiện các khoá lạy sám hối. Bốn giờ công phu chiều, bảy giờ tối là khóa kinh Tịnh độ và chín giờ tối là khóa thiền.

Nếu chúng ta chịu khó phân tích nội dung của những nghi thức được sử dụng trong phần lớn các trường hạ thì sẽ thấy chủ tâm của nó vẫn là “tu rục, tu rị” để giải thoát. Trong khi đó rất nhiều tín đồ Phật tử cùng tháp tùng ăn ké nội dung tâm linh, và do vậy họ cũng trở thành những người “tu rục, tu rị” toát mồ hôi. Chúng tôi cũng đã kính kiến nghị đến chư tôn đức lãnh đạo các cấp giáo hội rằng, các khoá lễ mà chúng ta tụng niệm nên mang tính thời sự nhằm đáp ứng nhu cầu toàn bộ thế giới đang quan tâm.

Những khoá lễ hành trì thường ngày dành cho người xuất gia như bữa khuya và bữa tối hiện nay ở một số nơi đã bắt đầu có người tại gia tham dự. Chẳng hạn chùa Ấn Quang, bữa sáng có đến năm trăm người, bữa tối cũng khoảng năm bảy trăm người. Như vậy, những thời kinh đó đừng nên là gu tâm linh dành riêng cho người xuất gia nữa, mà phải chọn những bài kinh để người tại gia cũng có thể cảm nhận được chất liệu lợi lạc cho bản thân mình. Sau những ngày tham dự an cư, người tại gia có thể cảm thấy đạo Phật đáp ứng xã hội, là đạo nhập thế chứ không xuất thế chỉ dành riêng cho người xuất gia.

Truyền thống mùa an cư ở Trung Hoa đã ảnh hưởng rất nhiều đến Việt Nam và Thủ Lăng Nghiêm được xem là bài kinh bắt buộc. Nếu chúng ta thay đổi thời kinh Thủ Lăng Nghiêm bằng bài kinh Di Giáo thì chúng tôi tin chắc giá trị lợi lạc về phương diện nhập thế sẽ cao hơn rất nhiều. Trọng tâm của kinh Thủ Lăng Nghiêm là những câu thần chú giúp hành giả thiết lập sự tĩnh tại của tâm về phương diện thiền quán, đi sâu vào định ở mức độ nhanh chóng hơn. Như vậy nó dành cho gu tâm linh của người xuất gia. Rất nhiều người tại gia đã sử dụng nghi thức này tại tư gia của mình, đôi lúc không cần thiết. Tại sao người xuất gia cần phải thiết lập định tâm hằng ngày, là vì nếu thiếu nó thì sự giao tiếp với xã hội sẽ khiến người đó rơi rớt vào thế tục, tuy nhiên nó không phải là phương tiện duy nhất.

Các truyền thống tâm linh khác đâu sử dụng thần chú mà vẫn có thể thiết lập được sự an tịnh và an định của tâm. Cũng có rất nhiều người tu trong chùa mấy chục năm, cũng tụng thành kính thần chú Thủ Lăng Nghiêm nhưng đến lúc hết duyên vẫn ra đời như thường. Cho nên thần chú chỉ là một trong các phương tiện thiết lập an định của tâm chứ không phải là tất cả. Câu danh hiệu “Nam mô A Di Đà Phật” cũng là một phương tiện; chánh niệm tỉnh thức, pháp hoa tâm, tam luận tông và nhiều pháp môn khác cũng là phương tiện. Cho nên nếu chúng ta thay kinh Di Giáo vào thời kinh buổi sáng thì giá trị lợi lạc sẽ cao gấp nhiều lần, vì đây là những tinh hoa đối với người tu mà đức Phật đã đúc kết và di chúc trước lúc qua đời. Rất tiếc lịch sử Phật giáo Việt Nam chưa từng đọc tụng kinh Di Giáo trong các thời kinh chính. Kinh này chỉ được giảng dạy trong các trường lớp Phật học dành cho tu sĩ.

Buổi chiều, chúng ta có một thời khóa công phu chiều để thể hiện lòng từ bi cứu độ hộ trì cho các hương linh trong thế giới của ngạ quỷ chưa siêu sinh thoát hóa. Nếu thay thế bằng bài kinh Sám Hối Sáu Căn thì bên cạnh việc giữ nguyên giá trị thể hiện lòng từ bi hộ trì cho các hương linh, chúng ta còn có thể gột bỏ những tội lỗi do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tạo ra mà trọng tâm nhất vẫn ở ý. Nội dung bài Sám hối sáu căn của Việt Nam sâu sắc hơn nhiều so với nghi thức Sám hối Hồng danh, Ngũ bách danh, Tam Thiên hay Vạn Phật của Trung Quốc. Mặc dù chúng ta không cố tình so sánh độ cao thấp giữa mình và người để tạo niềm hãnh diện tự hào cho Phật giáo Việt Nam nhưng chúng tôi tin chắc nội dung tâm linh ở từng bài kinh chúng ta đọc tụng có giá trị trị liệu rất lớn mà việc chọn lựa đúng sẽ mang lại kết quả cao.

Còn các khóa kinh buổi tối, thay vì chỉ đơn thuần tụng kinh Di đà, Phổ môn, Địa tạng như đã tụng quanh năm thì ba tháng an cư, chúng ta nên tạo cơ hội cho người xuất gia đọc những bài kinh xã hội để người tại gia cùng được hưởng ứng. Khi đọc những bài kinh đức Phật dạy cho xã hội, thanh niên, hay mọi thành phần, lúc đó chủ nghĩa nhập thế của Phật giáo sẽ trở thành tông chỉ của tất cả tầng lớp những người xuất gia chân chính. Sau ba tháng an cư, việc dấn thân sẽ mạnh hơn, lợi lạc sẽ đạt được nhiều, hơn là chỉ đơn thuần đặt nặng vào các nghi thức sám hối của người Trung Hoa biên soạn.

Các trường hạ tại Việt Nam có nghi thức ngồi thiền sau thời kinh, trung bình thời lượng từ mười lăm đến ba mươi phút và hầu như không có sự hướng dẫn cặn kẽ ngồi thiền như thế nào. Phần lớn chỉ xướng lên một bài xướng về thế giới vô thường, khổ não và do đó việc chữa trị nỗi khổ niềm đau này giống như chữa lửa cháy đầu. Cho nên, cần phải tu niệm thật tốt, lúc đó hãy nghe tiếng chuông, thư lắng tâm, nhập vào thiền quán để phiền não rơi rụng. Thế nhưng việc thực tập và kỹ năng thực tập như thế nào thì phần lớn các trường hạ không hề giải thích. Hành giả cứ hiểu mặc nhiên vào nơi đó ta có thể niệm Phật cũng được, trì chú cũng được, hít thở hay thực hiện ngũ định tâm quán cũng được và việc hướng dẫn cặn kẽ chưa phải là mối quan tâm hàng đầu. Do đó, cần phải cân bằng thời gian giữa tụng niệm và thiền quán.

 

Cách nhìn nhận về thiền quán

Thiền quán là cốt lõi của Phật giáo. Dù theo Tịnh độ tông hay Mật tông thì thiền quán vẫn là yếu tố không thể thiếu. “Niệm Phật nhất tâm bất loạn” cũng là thiền quán. Đức Phật đã nói rất rõ: “Nếu tâm chưa bất loạn, ái dục vẫn chưa được chuyển hóa thì không thể vãng sanh Tây Phương”. Mặc dù không dùng ngôn ngữ thiền, thuật ngữ thiền nhưng cốt lõi của thiền là cốt lõi của Tịnh độ tông. Trong Mật tông thì thân mật, khẩu mật, và ý mật cũng là thiền. Thân mật là khi thân tâm mình không làm việc xấu, thân tâm không bị dao động, lúc nào cũng giao cảm với các tần sóng tâm linh, thể hiện được sự an tịnh thì lúc đó phiền não, nghiệp chướng, tham, sân, si bị rơi rụng hết, đó cũng là cốt lõi của thiền.

Đừng hiểu thiền là sản phẩm của thiền tông Trung Hoa. Thiền chính là trọng tâm của đạo Phật. Ngồi tụng kinh mà không có sự an tĩnh của thiền, nghĩa là tâm còn lang thang du lịch, miệng “Nam mô A Di Đà Phật” trở thành “Nam mô A Di Đà Lạt”. Do đó, cốt lõi vẫn phải là thiền. Đức Phật chứng đắc đạo quả giác ngộ giải thoát từ thiền, các vị A la hán, Bồ tát chứng đắc đạo quả giác ngộ cũng từ thiền. Khái niệm “thiền” chúng tôi nói ở đây không phải là thiền tông của Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam mà là thiền như con đường chuyển hóa tâm thức.

Do đó, chúng ta nên lấy Tứ Niệm Xứ làm nền tảng. Không có phương pháp thiền nào hơn được thiền Tứ Niệm Xứ. Dù có ca ngợi thiền chỉ và thiền quán cỡ nào thì đó cũng từ Tứ Niệm Xứ mà ra. Cũng không có một pháp môn tu tập nào của Đại thừa mà không có sẵn trong kinh tạng Nikaya và A Hàm tương đương. Vấn đề ở chỗ, ngôn ngữ kinh điển đại thừa là ngôn ngữ phân tích có chiều sâu để chúng ta hiểu cặn kẽ hơn. Trong khi đó, ngôn ngữ kinh điển A Hàm và Nikaya là ngôn ngữ mô tả ngắn gọn để chúng ta đi vào sự thực tập và hành trì. Một bên là hỗ trợ kiến thức, một bên là đi sâu vào nội dung hành trì, hai bên bổ sung cho nhau. Do đó không nên kháng cự và cho rằng bên này đại, bên kia tiểu.

 

Thi thuyết pháp trong giới trường

Ở một số trường hạ, cơ hội thực tập diễn giảng được xem là mối quan tâm hàng đầu. Ngoài sáu thời tụng niệm để “Trú dạ lục thời hằng kiết tường”, hồi hướng cho thế giới hòa bình, quốc gia an lạc, phát triển, thịnh vượng và mọi gia đình được cơm no, áo ấm, bình an thì việc thực tập diễn giảng trở thành một cuộc thi. Các trường hạ thường tổ chức thi một cách rất bài bản. Chẳng hạn vòng loại với những đề tài tâm đắc tự chọn, thời lượng từ mười lăm đến hai mươi phút, chấm trên bốn phương diện: phong thái diễn giảng, nội dung diễn đạt có phù hợp với đạo Phật hay không, ngữ điệu lên xuống, và thái độ tâm lý trong vấn đề triển khai ứng dụng. Ai đạt cả bốn phương diện này được xem là một vị giảng sư có triển vọng và được chấm đậu thủ khoa, á khoa. Cuộc thi như một chất xúc tác khích lệ cho giới trẻ, những vị mới bắt đầu tham gia vào các trường hạ nhận thấy tầm quan trọng của hoằng pháp, để sau ba tháng an cư, họ phải dấn thân phục vụ nhiều hơn.

Nhưng rất tiếc lại có nhiều người học tủ. Một bài giảng nào đó được xào nấu từ ba bốn quyển sách khác nhau để trở thành văn chương hết sức phong phú. Sau đó họ học thuộc lòng, học khoảng sáu bài để vượt qua vòng loại, vòng một, vòng hai cho đến vòng cuối cùng và trở thành thủ khoa, nhưng nếu bỏ sáu bài đó ra thì nói không được lưu loát. Trong khi đó, giảng kinh thuyết pháp phải đặt trên nền tảng hiểu tới nơi, tới chốn mà không cần sử dụng ngôn ngữ của những quyển sách hay ngôn ngữ của các băng giảng có sẵn. Chúng ta phải sử dụng kinh nghiệm và sự tiêu hóa của bản thân mặc dù thời gian đầu, nó có thể khô khan, chưa hấp dẫn.

Một điều mà các vị giảng sư trẻ cần quan tâm trong quá trình thực tập diễn giảng ở các trường hạ, như lời của hòa tượng Thích Huệ Hưng từng dạy: “Một vị giảng sư được quyền giảng không hay nhưng không được quyền giảng sai tinh thần của đức Phật”. Vì giảng sai, dù có hay và hấp dẫn thì tác hại của nó lại càng nguy hiểm hơn. Do hấp dẫn quá nên người ta tưởng đó là chân lý, nghe theo và hành trì theo, rốt cuộc biết bao nhiêu người mất đi sự lợi lạc. Cho nên, tiêu chí quan trọng đầu tiên, cũng được xem như điều kiện cần và đủ là “giảng đúng với chánh pháp”. Ai giảng đúng với chánh pháp mới được gọi là giảng hay.

Giảng đường không phải là gala cười, và pháp sư không phải là người chọc cười. Chính yếu là làm sao giúp người khác chuyển hóa được thân tâm để đạt an vui hạnh phúc. Trên nền tảng đó, quý Phật tử cũng phải đặt mục đích đến nghe thuyết giảng là cái gì. Có những người khi đang buồn ngủ, bỗng được phá lên cười, hết buồn ngủ là cảm thấy thích vị pháp sư đó. Chúng ta đang mang những mối quan hoài về đời sống tâm linh, đọc các sách mà vẫn chưa tìm ra được, nghe giảng cũng chưa thể khai tâm thì hãy đặt những câu hỏi cho các vị pháp sư giúp mình phá vỡ nó. Hoặc có những nỗi đau không dám tâm sự, giải bày với ai, chúng ta đặt câu hỏi để các vị pháp sư mổ xẻ vấn đề, giúp chúng ta vượt qua gút mắc.

Nếu mục đích an vui, hạnh phúc là mối quan tâm của những người đi nghe pháp thì quá trình thực tập diễn giảng, chấm điểm diễn giảng cũng phải làm sao đặt vào mục tiêu hoằng pháp là chính chứ không chỉ ở ngữ điệu, phong thái thuyết giảng, ngoại hình, hoặc những cái gì thuộc về hình thức mà vị pháp sư đó có thể có. Người chấm diễn giảng phải có kinh nghiệm đời sống tâm linh, có những mục tiêu hoằng pháp thì mới có thể chọn lựa được những vị giảng sư giỏi.

Nhiều vị đỗ thủ khoa từ các trường trung cấp, cao cấp giảng sư nhưng khi ra thuyết giảng lại không ăn khách. Bởi vì trong lúc học, có người chỉ học tủ hoặc có thể rất giỏi nhưng giảng lại không đi vào những vấn đề xã hội đang quan tâm. Hoặc chúng ta bị chi phối bởi quan niệm truyền thống rằng: pháp lỏi là pháp nói nguyên văn lời kinh, không thêm, không bớt; còn pháp giác cây là pháp đưa những chuyện thế tục vào. Giảng kinh thuyết pháp nếu không gắn liền với đời thường thì làm sao người ta chịu lắng nghe. Tuy nhiên cũng có rất nhiều người vì quá nhiệt tình nên đem gu giải thoát của người xuất gia tặng cho người tại gia. Người tại gia có quý thì cũng chỉ đặt lên bàn thờ là hết, đâu thể sống được. Do đó chúng ta phải hiểu, giảng kinh thuyết pháp cho người tại gia cần đặt nặng vấn đề nhân thừa chứ đừng quá đặt nặng vấn đề giải thoát thừa từ Thanh văn, A la hán, Bồ Tát, Phật quả. Việc đó, tu sĩ thực hành nhiều chục kiếp còn chưa xong làm sao rốt ráo hướng dẫn tất cả người tại gia đều được giải thoát.

 

Người tại gia cần nhân thừa

Rất nhiều thế kỷ trôi qua, có lúc đạo Phật đại thừa lên đến đỉnh cao như quốc giáo nhưng có lúc rơi xuống vực thẳm tưởng chừng không ai biết đạo Phật là gì nữa. Đó là bởi vì chúng ta đưa toàn những bài kinh cao siêu còn những bài kinh gần gũi với đời sống thì không ai quan tâm. Nếu làm một thống kê xã hội học nhỏ những bài thuyết giảng của chùa Hoằng Pháp với đề tài khoá tu Một ngày an lạc, qua hàng loạt băng giảng đã được phổ cập rộng rãi trong xã hội, trên các phương tiện truyền thông thì chúng ta thấy những đề tài bình dân gần gũi với đời sống vẫn là những đề tài phát hành số lượng nhiều nhất, có khi lên đến vài trăm ngàn bản. Ví dụ “Tình người” của thầy Viên Trí, “Bến yêu thương” của thầy Trí Chơn, “Bóng mây” của thầy Thiện Thuận hay “Ngoại cảm” của Phan Thị Bích Hằng. Những đề tài đó thuộc về nhân thừa nên số lượng người nghe rất đáng kể.

Trong ba tháng trở lại đây, trang web tusachphathoc.com, chúng tôi có mục thống kê lượt nghe cho từng bài giảng. Có những đề tài chúng tôi đầu tư đến ba tháng, tham khảo, đọc sách, tư duy, không lúc nào quên, chẳng hạn bài “Chân dung tâm linh” nhưng lượt nghe chỉ vài trăm người. Trong khi đó, những đề tài nhân thừa như “Trị vết thương lòng” hay “Ngoại cảm cõi âm”, chúng tôi không chuẩn bị gì cả, chỉ cần đến giờ là lên giảng, ấy thế mà có đến mười mấy hai chục ngàn lượt nghe. Từ đó, chúng tôi rút ra một bài học rằng: gu tâm linh cao chỉ dành cho người tu giải thoát chứ hiếm khi dành cho người tại gia. Người tại gia có những nỗi khổ niềm đau của làm ăn kinh tế, tình yêu, đời sống gia đình, và những sức ép trong cộng đồng. Chúng ta phải cung ứng cho họ cái gu tương ứng thì họ mới cảm thấy lợi lạc. Số lượng bài kinh đức Phật giảng về các đề tài bình dân trong đời sống rất nhiều, đủ để đáp ứng. Còn những đề tài giảng quá cao không đáp ứng được nhu cầu thực tế, người ta có bái vọng cỡ nào đi nữa cũng khó thực tiễn được.

Cho nên, thực tập diễn giảng trong trường hạ là làm sao gắn liền với nhân thừa nhiều hơn giải thoát thừa. Đây là suy nghĩ riêng của chúng tôi, có thể đúng hoặc có thể sai nhưng nó cho thấy, chúng ta đáp ứng được nhu cầu thì quần chúng mới đến với đạo Phật, bằng không thì cho dù đạo Phật có cao siêu, huyền diệu, quần chúng vẫn chỉ đứng trước cổng chùa ngắm nhìn như ngắm nhìn các báu vật triển lãm trong viện bảo tàng, và rồi báu vật đó là của viện bảo tàng chứ không phải của những người đi chiêm bái,

Làm sao khi nghe một thời giảng kinh, người ta biến chất liệu của bài giảng đó trở thành phương diện sống trong thực tế thì việc diễn giảng mới có lợi ích. Đó là lý do trong các khoá tu Một ngày an lạc tại chùa Phổ Quang, HT. Thích Trí Quảng luôn chỉ đạo những đề tài hướng đến người tại gia. Nhiều Phật tử than vãn: “Đi đến khoá tu ở chùa Phổ Quang, tưởng được học kinh điển Đại thừa cao siêu huyền diệu, không ngờ tới đây, nghe toàn nói chuyện nhân thừa, tôi biết hết rồi, cần gì học nữa”. Biết là một lẽ mà hành được lại là chuyện khác. Có những vấn đề chúng ta nghe một lần chưa thẩm thấu, nghe lần thứ hai, thứ ba, nghe tới, nghe lui, mới vỡ lẽ và hành trì được.

***

Tóm lại, mùa an cư kiết hạ là một phương tiện cộng tu, là không gian tâm linh để các hành giả cộng tu được an lạc hạnh phúc. Đó cũng là nơi trao đổi kinh nghiệm hoằng pháp, và là phương tiện rất tốt để người tại gia được phát tâm cúng dường vào ruộng phước, người xuất gia tiếp nhận nó, nêu cao tâm nguyện tu tập và truyền bá.

Các tổ Trung Hoa trong phương diện này đã dạy người xuất gia những câu tâm niệm rất sâu sắc: “Kiếp này tu tập không đạt kết quả thì kiếp sau phải mang lông đội sừng để đền trả nợ của đàn na”. Tức là người xuất gia khi tiếp nhận phẩm vật cúng dường của người tại gia không nên hãnh diện tự hào mà lúc nào cũng phải nghĩ mình có đủ công đức, phước báu để tiếp nhận nó hay không. Tiếp nhận như việc vay nợ ngân hàng, người tại gia rộng lượng cho vay nợ mà không lấy lãi, người xuất gia khi tiếp nhận nó phải có Phật sự xứng đáng hơn để đền bù. Tài thí, pháp thí lưỡng toàn mới là các Phật sự tốt đẹp. Khi tiếp nhận, người xuất gia phải làm sao ban bố những bài pháp thiết thực, lợi ích cho người tại gia để đền trả sự vay nợ này.

Một vị tổ khác cũng đã khuyên những người xuất gia chúng tôi là, mỗi lần tiếp nhận phẩm vật cúng dường thì phải quan niệm rằng: người xuất gia giống như viên đá mài, người tại gia như là cây kéo, con dao, cái búa… Cứ sau mỗi khi cúng, con dao, cái kéo, cái rựa của người tại gia bén hơn, đồng thời viên đá mài của người xuất gia chúng tôi mòn đi chút ít.

Nếu không tinh tấn tu hành thì viên đá mài này, sau mấy mươi năm nhận cúng dường sẽ chỉ còn con số 0. Nếu tu tốt thì từ một viên đá mài sẽ sinh sôi thành hàng trăm, hàng ngàn viên đá, có mài thoải mái, mài vô cùng cũng không bao giờ tận hết. Đó là ý nghĩa vô tận tạng trong đạo Phật. Như vậy, việc tu tập trong mùa an cư là cơ hội cho tất cả chúng ta cùng thăng tiến, nhờ đó xã hội được an vui và hạnh phúc.

ĐĐ. THÍCH NHẬT TỪ

(Giảng tại chùa Phổ Quang, ngày 24-05- 2009)

(Vi tính và biên tập: Subin – Giác Minh Duyên)